A.PHẦN MỞ ĐẦU
Từ thập niên 80 của thế kỷ XX đến nay, do tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu nền kinh tế thế giới đang biến đổi sâu sắc, nhanh chóng về cơ cấu, chức năng và phương thức hoạt động. đây là một bước ngoặt lịch sử có ý nghĩa đặc biệt: lực lượng sản xuất( LLSX) xã hội đang chuyển từ kinh tế tài nguyên sang kinh tế tri thức ( KTTT), nền văn minh loài người chuyển từ văn minh công nghiệp sang văn minh trí tuệ. Vào thời điểm này, một cơ hội lớn cho nước ta để làm một cuộc cách mạng phát triển, đi tắt, đón đầu tiến thẳng sang nền kinh tế tri thức, liệu chúng ta có bỏ lỡ cơ hội?
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X cũnh nhấn mạnh:”Tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển KTTT. Coi KTTT là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Vì thế nên em viết đề tài “Xây dựng và phát triển KTTT ở Việt Nam. Lý luận, nhận thức và giải pháp thực hiện.”
23 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2848 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Xây dựng và phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam - Lý luận, nhận thức và giải pháp thực hiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A.PHẦN MỞ ĐẦU
Từ thập niên 80 của thế kỷ XX đến nay, do tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu…nền kinh tế thế giới đang biến đổi sâu sắc, nhanh chóng về cơ cấu, chức năng và phương thức hoạt động. đây là một bước ngoặt lịch sử có ý nghĩa đặc biệt: lực lượng sản xuất( LLSX) xã hội đang chuyển từ kinh tế tài nguyên sang kinh tế tri thức ( KTTT), nền văn minh loài người chuyển từ văn minh công nghiệp sang văn minh trí tuệ. Vào thời điểm này, một cơ hội lớn cho nước ta để làm một cuộc cách mạng phát triển, đi tắt, đón đầu tiến thẳng sang nền kinh tế tri thức, liệu chúng ta có bỏ lỡ cơ hội?
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X cũnh nhấn mạnh:”Tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển KTTT. Coi KTTT là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Vì thế nên em viết đề tài “Xây dựng và phát triển KTTT ở Việt Nam. Lý luận, nhận thức và giải pháp thực hiện.”
B.NỘI DUNG
I. SƠ LƯỢC VỀ NỀN KTTT.
1. Sự hình thành nền KTTT
Sự tác động của cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại tất yếu dẫn đến sự hình thành nền KTTT. Kinh tế tri thức, lúc đầu thường gọi là kinh tế thông tin, đã ra đời lúc đầu ở Mỹ vào đầu những năm 1970 và rồi ở nhiều nước công nghiệp phát triển và ngày nay cả các nước công nghiệp mới (Nics).
2.Tên gọi
"Kinh tế thông tin - infomation economy"(nói lên tài nguyên quan trọng nhất không phải là tài nguyên vât thể mà là thông tin-tri thức)
"Kinh tế mạng - network economy", "kinh tế số - digital economy" (nói lên vai trò quyết định của công nghệ thông tin trong phát triển kinh tế).
"Kinh tế học hỏi - learning economy" (nói lên động lực chủ yếu của nền kinh tế là sự tự học hỏi suốt đời, tự đổi mới liên tục của từng cá nhân, tổ chức và từng quốc gia)
"Kinh tế dựa vào tri thức - knowledge based economy", "kinh tế tri thức - knowledge economy" (nói lên vai trò quyết định của tri thức và công nghệ đối với phát triển kinh tế).
3. Khái niệm nền KTTT
Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế(OECD)đưa ra khái niệm năm 1995:”KTTT là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống”.
Thực chất KTTT là trình độ phát triển cao của LLSX xã hội.Kinh tế tri thức là một giai đoạn phát triển mới của các nền kinh tế với vai trò của sản xuất, phân phối và sử dụng kiến thức trong tăng trưởng kinh tế ngày càng trở nên quan trọng; đặc biệt tri thức đã trở thành nhân tố hàng đầu của sản xuất, vượt lên trên các nhân tố sản xuất cổ truyền vốn và lao động.
Tiêu chí để nhận diện ngành KTTT là khi giá trị do tri thức tạo ra chiếm tỉ lệ áp đảo, khoảng 70% trong tổng giá trị sản xuất của ngành đó. Một nền kinh tế được coi là đã phát triển đến trình độ KTTT khi tổng sản phẩm các ngành KTTT chiếm khoảng 70% tổng sản phẩm trong nước(GDP).
4. Những đặc điểm chủ yếu của nền KTTT.
Tri thức khoa học và công nghệ, trí tuệ con người cùng với lao động kỹ năng cao là LLSX trực tiếp, là vốn quý nhất, là nguồn lực quan trọng hàng đầu, quyết định sự tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động kinh tế có những biến đổi sâu sắc và tốc độ biến đổi cực kỳ nhanh chóng. Các ngành kinh tế dựa vào tri thức và những thành tựu khoa học công nghệ ngày càng tăng và chiếm đa số.
Vai trò quan trọng của công nghệ cao, đặc biệt là công nghệ thông tin. Công nghệ thông tin được ứng dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực; thiết lậpđược cấu trúc mạng toàn cầu. thông tin trở thành tài nguyên quan trọng nhất của nền kinh tế.
Nguồn nhân lực nhanh chóng được tri thức hóa; sự sáng tạo, đổi mới, học hỏi suốt đời trở thành yêu cầu thường xuyên của mỗi người, phát triển con người trở thành nhiệm vụ trung tâm của xã hội.
Mọi hoạt động đều có liên quan đến vấn đề toàn cầu hóa kinh tế, có tác động tích cực hoặc tiêu cực sâu rộng tới nhiều mặt của đời sống xã hội trong mỗi quốc gia và trên toàn thế giới.
II. XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN KTTT Ở VIỆT NAM.
1. Lý luận về việc xây dựng và phát triển KTTT ở Việt Nam.
a. Khái quát về lộ trình phát triển KTTT ở Việt Nam.
Phát triển kinh tế thị trường chính là chặng đường quyết định đầu tiên để tiến lên KTTT. So với các hình thái kinh tế trước đó, cấu trúc thị trường là phù hợp hơn để tạo lập và phát triển nền kinh tế tri thức. Do vậy, phát triển kinh tế thị trường, cả các điều kiện vật chất - kỹ thuật lẫn các cấu trúc thể chế của nó chính là cách thức tạo điều kiện tốt nhất, hợp logic nhất để thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển nền kinh tế tri thức.
Phối hợp nguyên lý tuần tự và nguyên lý nhảy vọt chính là logic bước đi tất yếu để đạt tới nền KTTT của tất cả các nước đi sau. Trong chiến lược phát triển theo mô hình CNH, HĐH rút ngắn, nhiệm vụ giải quyết các vấn đề xây dựng và phát triển nền kinh tế tri thức đã trở thành một nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Trong bối cảnh hiện đại, tốc độ cao đã trở thành thuộc tính số một của tiến trình vận động và phát triển thì đó chỉ mới là "cần" mà chưa "đủ". Để sự ưu tiên này trở thành một lựa chọn có nội dung thực tiễn,phải thiết kế toàn bộ chiến lược phát triển dài hạn của mình xoay xung quanh trục phát triển kinh tế tri thức. Để đạt được cần có sự nghiên cứu hệ thống và cẩn thận các vấn đề đặt ra. Tính phức tạp của quá trình phát triển, thực chất của thời cơ hay thách thức nằm trong sự giao thoa - hỗn hợp của các hình thái, các thể chế có trình độ khác nhau, cùng với sự níu kéo của các lực lượng đại diện cho các làn sóng trước gây ra các “cú sốc” và xung đột lợi ích, xung đột văn hoá - xã hội giữa các lực lượng, làm hạn chế khả năng tiếp cận đến các nguyên lý phát triển mới của cả xã hội, v.v. Trong khung cảnh đó, phối hợp nguyên lý tuần tự và nguyên lý nhảy vọt chính là logic bước đi tất yếu để đạt tới nền kinh tế tri thức của tất cả các nước đi sau.
Cấu trúc logic của nền KTTT bắt buộc phải đưa ra 1 quan niệm hoàn toàn mới về kết cấu hạ tầng của nền kinh tế. Trong nền kinh tế nông nghiệp và công nghiệp - đại cơ khí, các kết cấu hạ tầng chủ yếu và quan trọng nhất là hệ thống giao thông vận tải, hệ thống thuỷ lợi, cung cấp điện, nước, v.v. thì trong kinh tế tri thức, bên cạnh những thứ đó, vai trò của các yếu tố kết cấu hạ tầng kỹ thuật mới như dịch vụ tài chính - ngân hàng dựa trên công nghệ hiện đại, thông tin viễn thông, mạng internet, v.v. - những yếu tố cấu thành kết cấu hạ tầng “mềm” ngày càng gia tăng và đóng vai trò quyết định không kém kết cấu hạ tầng truyền thống.
b. Mục tiêu phát triển KTTT.
Đạt tới nền kinh tế theo nghĩa hoàn chỉnh của nó hay thậm chí, chỉ theo tiêu chuẩn “nhập cuộc” của các nước OECD hiện tại, từ điểm xuất phát rất thấp của nước ta chắc chắn là một quá trình lâu dài. Chí ít, nó cũng phải vượt qua mốc 2020 - thời điểm mà mục tiêu phát triển của nền kinh tế nước ta mới là “nước công nghiệp phát triển”.Xét trên tổng thể, mục tiêu phát triển của nền kinh tế trong 10 năm tới trước hết phải là nền kinh tế thị trường có hệ thống thể chế hoàn chỉnh về cấu trúc và đạt trình độ phát triển cao. Cốt lõi vật chất của hệ thống thể chế đó là hệ thống công nghiệp và dịch vụ phát triển, có năng lực hội nhập và cạnh tranh quốc tế cao.Về thực chất, những nội dung mục tiêu này chứa đựng các yếu tố hạt nhân xuất phát của nền kinh tế tri thức. Chúng bảo đảm cho kinh tế phát triển theo định hướng kinh tế tri thức.
Để xác định mục tiêu phát triển kinh tế tri thức cụ thể hơn, cần phải làm rõ định hướng kinh tế tri thức thông qua việc xác định một khuôn dạng chi tiết cho cơ cấu kinh tế tổng thể trong giai đoạn tới.Căn cứ vào điều kiện thực tiễn, vào vị thế phát triển phải có trong một nền kinh tế hội nhập toàn cầu mạnh mẽ, có thể đề xuất khuôn hình cơ cấu kinh tế mục tiêu tổng quát như sau: sản xuất tri thức - dịch vụ - công nghiệp.
- Sản xuất tri thức:Ưu tiên phát triển các ngành kinh tế dựa chủ yếu vào trí tuệ và công nghệ cao phải đóng vai trò là trục quyết định tiến trình cơ cấu kinh tế trong giai đoạn tới. Trục này sẽ chi phối hướng phát triển của tất cả các lĩnh vực khác: mọi ngành đều phát triển dựa trên cơ sở chủ yếu là công nghệ hiện đại.
- Dịch vụ:Việc nâng cao trình độ, chất lượng các ngành dịch vụ cao cấp để dịch vụ trở thành một ngành kinh tế trọng điểm trong tương lai đang là một yêu cầu cấp thiết đặt ra
- Công nghiệp: cần đột phá vào những ngành hàng, sản phẩm sử dụng công nghệ hiện đại, kỹ thuật tiên tiến, có hàm lượng chất xám cao. Đồng thời, phải đẩy mạnh việc sắp xếp lại các cơ sở công nghiệp hiện có; cải tạo, chuyển hướng sản xuất đối với các cơ sở gây ô nhiễm, kỹ thuật giản đơn.
c. Những quan điểm phát triển KTTT
Những quan điểm theo hướng đồng thuận bền vững:
/Quan điểm hệ thống trong vận dụng và phát triển kinh tế tri thức trực tiếp thể hiện ở mục tiêu: Chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển bền vững. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế không chỉ vì mục tiêu tăng trưởng, mà còn kéo theo các vấn đề xã hội và những vấn đề môi trường ở nông thôn và đô thị. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển bền vững đòi hỏi chất lượng cao của công tác quy hoạch. Công tác này đòi hỏi tầm nhìn về các quan hệ kinh tế, xã hội hình thành trong giai đoạn kinh tế tri thức, đòi hỏi phải vận dụng trí thức liên ngành trong phân tích thực trạng địa bàn và trong soạn thảo quy hoạch. Muốn vận dụng quan điểm trong phát triển kinh tế tri thức phải thể hiện trực tiếp ở chất lượng quy hoạch.
/ Quan điểm cân đối mới
Trên cơ sở quy hoạch đã được thông qua, cần phải xây dựng các kế hoạch thực hiện quy hoạch ấy. Vấn đề mới trong công tác kế hoạch thời kỳ vận dụng kinh tế tri thức là quan điểm cân đối mới. Đó là quan điểm cân đối dựa trên tri thức trong vận động phát triển chứ không phải cân đối chỉ dựa trên nguồn vốn đầu tư.
/ Quan điểm tăng trưởng mới.
Quan điểm tăng trưởng mới là quan điểm tăng trưởng theo hướng đồng thuận giữa ba mặt kinh tế, xã hội, môi trường. Hơn nữa còn tạo ra tương tác tích cực giữa ba mặt đó thúc đẩy kiểu phát triển gắn bó giữa quy mô và chất lượng, giữa ổn định và phát triển.? thời kỳ đầu vận dụng quan điểm tăng trưởng mới có thể tỷ lệ tăng trưởng hàng năm chưa cao. Nhưng khi ba mặt kinh tế, xã hội, môi trường đã phát huy tác dụng tích cực trong tương tác lẫn nhau, biến những tiến bộ xã hội và môi trường thành động lực tăng trưởng kinh tế, thì lúc đó không những đạt được nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao mà còn đạt được sự phát triển trong ổn định xã hội và chính trị. Đó thật sự là môi trường lý tưởng để thu hút đầu tư nước ngoài, để huy động ngày càng nhiều các nguồn lực trong nước.
/ Quan điểm công bằng mới
Công bằng theo quan niệm duy vật lịch sử thì nó là kết quả tổng hợp của sự phát triển kinh tế, xã hội, văn hoá và chính trị. Một kết quả tổng hợp như vậy chỉ có thể có trong thời đại kinh tế tri thức và chủ nghĩa xã hội chân chính. Trong nấc thang phát triển công bằng ở giai đoạn hiện nay, sự phát triển xã hội, văn hoá, chính trị phải tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế phát triển bền vững, tạo ra cơ sở cho quá trình thực hiện công bằng trong kinh tế, từ đó tiến tới thực hiện công bằng xã hội, dân chủ đầy đủ hơn.
Các quan điểm xây dựng tiềm lực tri thức và sử dụng lực lượng lao động tri thức.
/. Quan điểm mới về nguồn lực chủ yếu của lực lượng sản xuất xã hội-nguồn lực tri thức.
Sự ra đời nguồn lực tri thức ở vị trí số một trong kinh tế thị trường hiện nay là một cuộc đảo lộn tận gốc lực lượng sản xuất xã hội. Nó đặt nhân tố sức lao động có tri thức lên hàng đầu trong cơ cấu lực lượng sản xuất. Mặt khác, nó nâng cao chất lượng các nguồn lực khác và sử dụng các nguồn lực ấy một cách tiết kiệm, hiệu quả cao.
Thông qua lực lượng lao động tri thức mà khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, tạo ra những ưu thế của nền kinh tế: chất lượng sản phẩm ngày càng cao, thời gian sản xuất ngắn lại, nhu cầu được đáp ứng tốt hơn, rẻ hơn.
Sự kết hợp khoa học tự nhiên với khoa học xã hội trở thành một tất yếu và mang tính chất nội sinh của lực lượng sản xuất. Nhờ đó tạo ra khả năng cho quan hệ sản xuất tự giác điều chỉnh cho phù hợp với lực lượng sản xuất, tạo ra khả năng phát triển bền vững giữa kinh tế, xã hội và môi trường. Sự kết hợp ấy sẽ mở ra khả năng thay đổi có tính chất cách mạng về mối quan hệ giữa con người với nhau và con người với tự nhiên.
Nét nổi bật của lao động tri thức là tính sáng tạo, đổi mới, khác hẳn lao động máy móc, nghiệp vụ thuần tuý hay lao động giản đơn. Do tính sáng tạo này mà con người lao động phát huy được năng khiếu, bản lĩnh, tư chất của cá nhân. Sự hiểu biết và tầm nhìn của người lao động không bị bó hẹp trong khuôn khổ chuyên môn hẹp, nhờ đó nhân cách con người ngày càng hoàn thiện hơn.
/Quan điểm mới về vận dụng quan hệ sản xuất trong xây dựng tiềm lực phát triển kinh tế tri thức.
Về sở hữu: Nét nổi bật nhất trong phát triển kinh tế tri thức là sở hữu trí tuệ. Về cơ bản, quyền sở hữu trí tuệ là quyền kinh tế. Bởi vì tài sản trí lực sẽ chẳng có giá trị gì nếu như không được luật pháp quy định nó có giá trị và có những quy định để bảo vệ. Nhờ có luật về quyền sở hữu trí tuệ làm cho những phát minh sáng tạo của con người trở thành hàng hoá có thể mua bán và thu lợi.
Các doanh nghiệp, các cơ sở nghiên cứu phải coi việc đăng ký sở hữu trí tuệ là việc làm trước khi đưa sản phẩm mới trung ra thị trường, nhằm tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động trong cạnh tranh.
Về tổ chức, quản lý : Phù hợp với yêu cầu của lực lượng sản xuất mới thì hoạt động tổ chức, quản lý tất yếu phải chuyển sang thời kỳ hoạt động dựa trên tri thức, nếu không thì chính tổ chức và cơ chế hoạt động quản lý doanh nghiệp và quản lý Nhà nước trở thành nhân tố kìm hãm tăng trưởng kinh tế theo hướng bền vững.
Về phân phối:
- Phân phối cho đầu tư phát triển kinh tế tri thức phải đi đôi với phân phối cho tiêu dùng theo nhu cầu của lao động tri thức về vật chất và văn hoá.
- Do kinh tế tri thức luôn luôn đổi mới, nên phân phối hướng mạnh vào khuyến khích sáng tạo cá nhân và tập thể.
- Chế độ phân phối mới được vận dụng cùng với yêu cầu nâng cao vai trò của văn hóa, thông tin trong hoạt động kinh tế nhằm tạo ra sự hài hoà giữa mức sống với lối sống.
Các quan điểm xây dựng thể chế tổ chức quản lý theo yêu cầu xã hội.
/Quan điểm về phát huy đầy đủ mối quan hệ giữa chính trị với kinh tế.
Đây là quan điểm hàng đầu trong xây dựng thể chế và tổ chức quản lý, cần được vận dụng sát sao trong điều kiện nước ta.
Trong điều kiện nước ta, mối quan hệ chính trị với kinh tế là mối quan hệ giữa thể chế, tổ chức Nhà nước pháp quyền do Đảng lãnh đạo với sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Theo yêu cầu của Đại hội X: về chính trị, chúng ta xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, về kinh tế, xây dựng kinh tế thị trường định hướng XHCN, có vận dụng kinh tế tri thức.
/Quan điểm phát huy tương tác tích cực giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất trong vận dụng phát triển kinh tế tri thức.
Tất cả các khâu từ xây dựng đường lối, chính sách, xây dựng tổ chức và hoạt động quản lý cho đến khâu đánh giá, tổng kết tình phù hợp thúc đẩy lực lượng sản xuất đều cần dựa trên khoa học có tính chất liên ngành và tài năng của các nhà lãnh đạo, quản lý. Cho nên, việc phát huy, khai thác tương tác tích cực giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất trong vận dụng, phát triển kinh tế tri thức đều phải dựa trên sự kết hợp giữa lực lượng khoa học với lực lượng lãnh đạo, quản lý. Đó còn là sự kết hợp giữa khoa học với nghệ thuật nhằm hướng dẫn tiến trình phát triển có hiệu quả và bền vững.
/Quan điểm kết hợp có hiệu quả cao giữa nội lực với ngoại lực trong vận dụng, phát triển kinh tế tri thức.
Có thể hình dung quá trình phát triển kinh tế tri thức ở nước ta có hai giai đoạn chính: Giai đoạn đầu là vận dụng các thành tựu kinh tế tri thức của bên ngoài. Nhờ chủ động vận dụng các thành tựu ấy, chúng ta sẽ rút ra những đặc điểm phát triển kinh tế tri thức ở nước ta, những lợi thế cần phát huy và những nhược điểm và những cản trở cần khắc phục. Từ đó xây dựng chiến lược toàn diện về phát triển kinh tế tri thức. Giai đoạn tiếp theo là thực hiện chiến lược và lộ trình đi đến kinh tế tri thức.
Trong hai giai đoạn ấy có những vấn đề thuộc quan điểm, nhận thức phải giải quyết:
- Muốn xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phải vận dụng các quy luật kinh tế thị trường phát triển bền vững. Do đó, tất yếu phải sớm vận dụng và phát triển kinh tế tri thức. Không vận dụng, phát triển kinh tế tri thức sẽ không có sự phát triển bền vững, do đó không có cơ sở cho vấn đề định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó mới là quan điểm duy vật biện chứng về kinh tế và chính trị hiện nay.
- Trong giai đoạn vận dụng kinh tế tri thức vào nước ta, việc khai thác ngoại lực thể hiện việc tập trung ở chính sách đối ngoại của Nhà nước. Trong đó cần phải chú ý tầm quan trọng đặc biệt của lĩnh vực đầu tư nước ngoài và kinh tế đối ngoại nói chung. Vì ở đó ngoại lực sẽ đem lại thành tựu khoa học công nghệ, kinh nghiệm tổ chức quản lý và cả tiềm năng phát triển quan hệ quốc tế. Muốn biến khu vực đầu tư nước ngoài thành những cơ sở ban đầu xây dựng nền kinh tế tri thức Việt Nam thì cần có chính sách và nghệ thuật thu hút những công ty, tập đoàn, những nước đang tiến nhanh vào kinh tế tri thức, tức là những nơi có lực lượng sản xuất tiên tiến trên thế giới.
- Để nguồn ngoại lực góp phần xây dựng nền kinh tế tri thức nước ta, cần phải bằng mọi cách khôn khéo để nội sinh hoá các nguồn ngoại lực , làm sao để sau một thời gian, cán bộ ta nắm vững được những thành tựu khoa học công nghệ và quản lý, vươn lên địa vị đối tác bình đẳng về những mặt này.
- Dựa trên những khả năng hiện nay, khéo léo kết hợp ngoại lực với nội lực, nhằm thông qua quá trình kết hợp mà đạt đến hiện đại hoá nguồn nội lực về trình độ khoa học, công nghệ, trình độ tổ chức quản lý, thể chế kinh tế, giáo dục và văn hoá.
2. Thực tiễn của việc xây dựng và phát triển KTTT ở Việt Nam.
Những việc đã làm được.
a. Tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Liên tục trong nhiều năm Việt Nam duy trì được tốc độ tăng trưởng kint tế cao và ổn định, đạt trung bình khoảng 8%/năm trong giai đoạn 1996-2000 và hơn 7%/năm từ năm 2001-2004. GDP trên đầu người đạt trung bình khoảng 5.9%/năm trong giai đoạn 1990-2002.
Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch, với tỷ trọng các lĩnh vực kinh tế có giá trị gia tăng cao, trong đó có những lĩnh vực dựa nhiều vào tri thức ngày càng tăng. Một số lĩnh vực công nghệ thông tin, công nghiệp công nghệ cao, các lĩnh vực dịch vụ dựa vào xử lý thông tin, tài chính-ngân hàng, giáo dục đào tạo, nghiên cứu phát triển công nghệ…đã dần hình thành và có bước phát triển đáng kể. Những lĩnh vực này đang trở thành đầu tầu thúc đẩy phát triển, đổi mới nền kinh tế.
b. Xây dựng thể chế kinh tế thị trường, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân.
Nước ta đã đạt được những kết quả quan trọng trong xây dựng hệ thống pháp luật kinh tế thị trường, cải cách tổ chức và hệ thống bộ máy nhà nước. Chú trọng hỗ trợ cho các doanh nghiệp mới và tạo cuộc sống tốt hơn cho người dân. Cơ cấu lao động thay đổi với sự từng bước gia tăng của lực lượng lao động trí thức.ư
Với sự ra đời của Luật Doanh Nghiệp, khu vực kinh tư nhân đã có bước phát triển mạnh. Trong giai đoạn 2000-2003, trung bình hàng năm có khoảng 20,000 doanh nghiệp dân doanh thành lập mới, số vốn đăng ký đầu tư hơn 40,000 tỷ đồng, giải quyết việc làm cho hơn 1 triệu lao động. Các doanh nghiệp dân doanh tham gia vào hầu hết các ngành các, các lĩnh vực của nền kinh tế, với tốc độ sản xuất kinh doanh linh hoạt, nỗ lực cải tiến công nghệ, tăng năng suất, thâm nhập thị trường.
c. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Các quan hệ song phương và đa phương của Việt Nam không ngừng được mở rộng thông qua việc ký kết và tham gia vào các hiệp định và diễn đàn như: ký hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ(2000), tham gia vào tổ chức WTO(2007). Thiết lập dược mối quan hệ bình thường với tất cả các nước. Tiếp nhận mộy khối lượng lớn vốn FDI, ODA, tiếp nhận chuyển giao công nghệ, tăng năng suất lao động, có nguồn vốn xóa đói giảm nghèo, mở rộng thị trường tiêu thụ, tăng kium ngạch xuất khẩu, tăng vị thế của nước ta trên trường quốc tế…Nước ta đang từng bước trở thành một khâu trong mạng lưới sản xuất-kinh doanh toàn cầu, trong đó có hoạt động liên quan đến sự sản sinh truyền bá và sử dụng tri thức.
d. Từng bước hình thành kết cấu hạ tầng then chốt cho KTTT
Mạng thông tin ở nước ta đã được hình thành và mở rộng nhanh chóng. Viễn thông là lĩnh vực có tốc độ phát triển và đuổi kịp nhanh nhất của nền kinh tế.
Hiện nay, mạng lưới viễn thồng của Việt Nam đã được tự động hóa hoàn toàn với 100% các hệ thống chuyển mạch số và truyền dẫn số trải rộng trên toàn quốc và kết nối với quốc tế. Một loạt các dịch vụ bưu chính, viễn thông và internet đã được tạo lập và mở rộng để đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
Nhiều doanh nghiệp đã áp dụng phương thức kinh doanh của thương mại điện tử. Nhiều cơ quan nhà nước cũng từng bước nghiên cứu áp dụng công nghệ thông tin vào hoạt động quản lý.
Những việc chưa làm được.
a. Chất lượng tăng trưởng kinh tế còn thấp và chưa được cải thiện nhiều.
Hiệu quả nền kinh tế còn thấp, năng lực cạnh tranh của các ngành kinh tế còn yếu, chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm và chênh lệch thu nhập giữa các bộ phận dân cư có xu hướng tăng. Môi trường đầu tư không ổn định và năng lực yếu kém của bộ máy hành chính làm tăng đáng kể chi phí giao dịch và chi phí đầu vào sản xuất-kinh doanh.
b. Nền kinh tế thị trường và thể chế kinh tế thị trường còn non yếu, thiếu sót, méo mó.
Hệ thống thể chế kinh tế thị trường chưa theo kịp diễn biến thực tế của các hoạt động kinh tế, chưa đầy đủ, chưa đồng bộ, mâu thuẫn, chồng chéo, không minh bạch và năng lực thực thi pháp luật còn yếu. cải cách hành chính diễn ra chậm chạp khiến năng lực hỗ trợ của nền hành chính cho phát triển kinh tế bị hạn chế, thậm chí các thủ tục lạc hậu, rườm rà còn cản trở công cuộc phát triển.
Một số thị trường mới hình thành mà đã méo mó. Ví dụ như thị trường khoa học và cônh nghệ. Hàng hóa nghèo nàn, lượng giao dịch trên thị trường còn ít và đơn điệu. Các yếu tố cấu thành của thị trường hàng hóa, các chủ thể cung, cầu và các dịch vụ hỗ trợ thị trườngg đều yếu. Thị trường khoa học và công nghệ chưa trở thành môi trường cần thiết để khuyến khích sự sáng tạo và đổi mới.
a. Quá trình chuẩn bị cho hội nhập kinh tế quốc tế chưa mạnh, chưa đồng đều.
Quá trình phát triển nhận thức về toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế còn chậm, thiếu thống nhất và quyết tâm cao. Việc chỉ đạo và phối hợp còn chệch choạc, thiếu nhất quán. Chưa hoàn thành được một kế hoạch tổng thể về hội nhập kinh tế quốc tế cũng như chưa có lộ trình hợp lý thực hiện các cam kết quốc tế, do đó chưa gắn kết được các lộ trình hội nhập ở các cấp độ và quy mô khác nhau.
Tính chủ động trong hội nhập chưa cao, thậm chí còn khá bị động, mong tiếp tục nhận sự bào hộ từ nhà nước. Sự bảo hộ này đã hạn chế cạnh tranh, tăng sức ì gánh nặng đối với nền kinh tế, đồng thời tác động bất lợi đến quá trình hoạch định chính sách.
b. Các lĩnh vực biểu hiện đặc trưng của KTTT chưa phát triển.
Các ngành công nghệ cao mới phát triển ở trình độ sơ khai. Số doanh nghiệp đầu tư cho nghiên cứu và phát triển(R&D) nhằm tạo ra công nghệ mới là không đáng kể, mà chủ yếu là doanh nghiệp có vốn đầu tư của nước ngoài, ngoài ra có một số doanh nghiệp nhà nước có hoạt động R&D nhưng lượng vốn đầu tư chỉ đạt 0.2% doanh thu, quá thấp so với tỷ trọng 5-10% của các doanh nghiệp tại các nươcvs phát triển. Tri thức chưa trở thành vốn quý, ý thức xã hội và thể chế pháp lý về sở hữu trí tuệ còn quá kém.
Ứng dụng công nghệ thông tin trong đời sống kinh tế xã hội còn rất hạn chế. Sự tiếp cận với mạng thông tin gặp nhiều ràng buộc liên quan đến các khía cạnh về cơ sở vạt chất kỹ thuật, giá cước…Các phương thức kinh doanh mới như thương mại điện tử, thị trường ảo, doanh nghiệp ảo, làm việc từ xa..còn ở trình độ manh nha.
Nền giáo dục đào tạo còn chứa đựng nhiều vấn dề bức xúc, bộc lộ nhiều yếu kém dai dẳng chưa khắc phục được, ảnh hưởng đến nguồn nhân lực của Viêt Nam. Trên thị trường lao động thiếu các chuyên gia về quản trị kinh doanh, các lập trình viên, kỹ thuật viên, các nhà quản lý trung gian hiểu biết về tài chính và tiếp thị với yêu cầu cơ bản là Tiếng Anh, những công nhân có tay nghề cao…
3.Giải pháp thực hiện xây dựng và phát triển KTTT ở Việt Nam
Để phát triển KTTT, con người phải là trung tâm, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ phải thật sự là quốc sách hàng đầu. Trong xu thế phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, các nước phát triển đều có nhu cầu đổi mới kinh tế, mở rộng thị trường, chuyển vốn đầu tư và xuất khẩu công nghệ sang các nước đang phát triển. Nên chính sách vĩ mô cho nền KTTT trước hết là mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế về kinh tế, khoa học và công nghệ. Để khởi đầu một nền KTTT hiệu quả, việc cần làm ngay là xây dựng các chính sách đặc biệt về thu hút đầu tư, đào tạo nguồn nhân lực cho phát triển công nghệ thông tin ở các khu công nghệ cao.
Xây dựng KTTT là phải tìm mọi biện pháp nhằm giải phóng sức sản xuất xã hội. Điều quan trọng là mọi người phải nhận thức được cơ hội kinh doanh và thực sự mong muốn được tham gia vào công cuộc xây dựng kinh tế. Mỗi thành viên phải có được những điều kiện cần thiết để phát huy được năng lực sáng tạo của mình. Hiện tại, thông tin về môi trường kinh doanh còn rất hạn chế. Các nhà đầu tư hầu như không có được một thông tin gì từ phía các cơ quan chính phủ về thị trường. Và như vậy thì rủi ro sẽ lớn dẫn tới mức lợi nhuận phải cao hay hàng hoá và dịch vụ sẽ càng đắt và mất đi khả năng cạnh tranh vốn có. Môi trường kinh doanh không chỉ thuận tiện mà còn phải đảm bảo sự an toàn đối với các nhà đầu tư. Môi trường kinh doanh hiện nay không đạt được cả hai tiêu chuẩn nói trên, hơn nữa vẫn còn sự phân biệt giữa các thành phần kinh tế. Tất cả những điều đó dẫn đến đầu tư của các tầng lớp dân cư vào sản xuất kinh doanh còn rất hạn chế so với tiềm năng, người lao động chưa thực sự gắn bó với công việc.
Mặt khác, động lực chủ yếu thúc đẩy phát triển kinh tế thành công là biết phá vỡ và cơ cấu lại các hoạt động sa sút và không sinh lời, tập trung mọi nỗ lực vào các hoạt động có triển vọng tốt. Người ta không thể sáng tạo mà không phá vỡ đi những cái cũ đang tồn tại một cách bất hợp lý. Sự tăng trưởng vượt bậc đòi hỏi phải có những đột phá.
Để thực hiện việc giải phóng sức sản xuất, cần có những chính sách và biện pháp thu hút và khuyến khích đầu tư, đơn giản hoá các thủ tục kinh doanh, nghiêm trị những hành vi gây khó dễ cho các nhà đầu tư. Cần cung cấp thông tin rộng rãi hơn và công khai hơn cho các thành phần kinh tế. Thành lập những quỹ hỗ trợ đầu tư, giúp đỡ các nhà đầu tư trong nước tiếp xúc với các thành tựu kỹ thuật công nghệ tiên tiến và các đối tác nước ngoài. Thực hiện tổ chức sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước, đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá. Khuyến khích phát triển thành phần kinh tế tư nhân. Thu hút mạnh mẽ hơn đầu tư nước ngoài, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ thông tin với những ưu đãi về thuế, về đất.
Tập trung uu tiên đầu tư phát triển các nghành công nghệ cao, đặc biệt là công nghệ thông tin trong một cơ cấu kinh tế hợp lý. Đã có khá nhiều kế hoạch chiến lược về phát triển kinh tế, nhưng cho đến nay những phương án cụ thể vẫn hầu như chưa được thực hiện. Cần tập trung vào một số ngành có thế mạnh như dịch vụ, sinh học, công nghệ thông tin. Cần có những hoạch định cụ thể về kế hoạch phát triển của của các khu vực này. Từ đó mạnh dạn đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng và những công nghệ tiên tiến. Đầu tư cho công nghệ thông tin, tập trung nâng cấp hệ thống đường truyền, cổng kết nối mạng Internet, tạo lập sự cạnh tranh lành mạnh trong hoạt động kinh doanh dịch vụ Internet, từ đó có những nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP) có chất lượng cao. Cần đẩy nhanh việc ứng dụng thương mại điện tử giữa các doanh nghiệp (Business to Business) bước đầu cho một sự bùng nổ về thương mại điện tử trên diện rộng. Sự có mặt của các công ty lớn là điều kiện thuận lợi cho quá trình này. Phương hướng phát triển của các ngành công nghệ thông tin cũng cần được khẳng định. Công nghiệp phần mềm nên hướng tới gia công hay xuất khẩu các thuơng phẩm hoàn chỉnh. Cũng cần phải tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin có hiệu quả ngay ở địa bàn trong nước, nhắm vào các hướng chính như nâng cao năng lực quản lý nhà nước, tập trung vào những lĩnh vực đòi hỏi phải hội nhập, và phục vụ CNH-HĐH. Bên cạnh ưu tiên phát triển phần mềm cũng phải quan tâm thích đáng phát triển công nghiệp phần cứng, hệ thống mạng.
Mặt khác, để công nghệ thông tin, đặc biệt là công nghiệp phần mềm phát triển, thì cách nhìn nhận, tiếp cận của bản thân các doanh nghiệp công nghệ thông tin, chuyên về sản xuất phần mềm cần phải có những bước đột phá, thay đổi. Để đạt được sự chuyển biến này thì một yếu tố đặc biệt quan trọng là khung pháp lý thuận lợi cho phát triển công nghệ thông tin bao gồm những chính sách, những qui định, chế độ kịp thời và đủ độ mềm dẻo thích ứng phát triển công nghệ thông tin. Nhiều doanh nghiệp cũng cho rằng việc thành lập các khu công nghệ cao là đúng và cần thiết nhưng nên có những bước chuẩn bị tốt hơn cả về cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Tăng cường đầu tư giáo dục là hướng đầu tư dài hạn và hiệu quả cho một nền KTTT. Thứ nhất, cải cách hệ thống giáo dục hướng tới máy tính hoá học đường. Học sinh sẽ làm quen và sống trong môi trường máy tính ngay ở những lứa tuổi thấp nhất. Phần lớn các trường phổ thông trung học phải được kết nối với Internet. Các sinh viên đại học phải được thực sự làm chủ những phương tiện công nghệ thông tin cơ bản, và có đủ năng lực giải quyết độc lập những vấn đề của nền kinh tế mạng.
Thứ hai là bố trí và sử dụng lao động đã được đào tạo. Cần có một chiến lược đào tạo dài hạn gắn liền với chiến lược phát triển kinh tế, đảm bảo đào tạo thoả mãn những nhu cầu lao động của nền kinh tế cả về số lượng và chất lượng. Việc xây dựng một môi trường làm việc, bao gồm cả môi trường pháp lý hoàn chỉnh có một ý nghĩa quyết định.
Phát triển KTTT đi đôi với CNH trong điều kiện hội nhập là sự khái quát đối với phương hướng phát triển kinh tế trong những năm đầu của thiên niên kỷ mới. Đây thực sự là nhiệm vụ nặng nề nhưng cũng là con đường duy nhất để tăng trưởng và khắc phục sự tụt hậu. Với những điều kiện thuận lợi cũng như những khó khăn hiện nay, thành công của sự nghiệp này phụ thuộc chủ yếu vào chính bản thân của mỗi người dân.
C. KẾT LUẬN
Chưa bao giờ thế giới bộc lộ tính hệ thống phức tạp cao như bây giờ. Không gian mở rộng, thời gian rút ngắn, thông tin dồn dập, các loại hiệu ứng dây chuyền, hiệu ứng phụ, hiệu ứng cộng năng, ngày càng tác động mạnh. Sự vật biến hóa theo những quy luật phi tuyến, với độ ngẫu nhiên và phức tạp không ngừng tăng lên. Đã bước sang kỷ nguyên KTTT, tư duy của từng người, từng cộng đồng trong xã hội Việt Nam phải kịp thời nhận thức những thay đổi và thích ứng mau lẹ với những thay đổi đó, bằng cách tự thay đổi và hoàn thiện bản thân.
Hiện nay, các nước phát triển đang có nhiều lợi thế về nắm bắt tri thức thế giới. Khoảng cách về thông tin tri thức, sự chênh lệch giàu nghèo và bất bình đẳng giữa các nước, thậm chí giữa các nhóm người trong cùng một nước đang gia tăng nhanh chóng. Nhưng chính KTTT là chiếc chìa khoá vàng để các nước đang phát triển vươn lên bằng trí tuệ của mình để tránh tụt hậu và bắt kịp xu hướng phát triển chung của toàn cầu. Như vậy, đối với chúng ta, thực hiện xây dựng phát triển KTTT là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu.
ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT
A.PHẦN MỞ ĐẦU.
B. NỘI DUNG.
I. Sơ lược về nền KTTT.
1. Sự hình thành nền KTTT.
2. Tên gọi.
3. Khái niệm nền KTTT.
4. Những đặc điểm chủ yếu của nền KTTT.
II. Xây dựng và phát triển KTTT ở Việt Nam.
Lý luận về việc xây dựng và phát triển KTTT ở Việt Nam.
Thực tiễn của việc xây dựng và phát triển KTTT ở Việt Nam
Những việc đã làm được.
Những việc chưa làm được.
3. Giải pháp thực hiện xây dựng và phát triển KTTT ở Việt Nam.
C. KẾT LUẬN.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình kinh tế chính trị Mác-LêNin.
2. Giáo trình triết học Mác-LêNin.
3. Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X.
4. Tạp chí cộng sản điện tử.
5. Chuyên đề " Phát huy năng lực sáng tạo, xây dựng hệ thống đổi mới quốc gia để hội nhập vào xu thế phát triển KTTT toàn cầu" - G.S Đặng Hữu.
6. "Nền KTTT một cơ hội mới cho nứớc ta sau hai thế kỷ " - GS.TS Chu Hảo.
7. "KTTT và những vấn đề đặt ra cho Việt Nam" - Trần Việt Phương - Văn phòng chính phủ.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Xây dựng và phát triển kinh tế thị trường ở VN Lý luận, nhận thức và giải pháp thực hiện.DOC