Xây dựng và phát triển thương hiệu giáo dục đại học ở Việt Nam

TÓM TẮT ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU Đề tài nghiên cứu gồm có 3 phần chính: Chương I: Khái quát chung Chương II: Tình hình xây dựng thương hiệu giáo dục đại học ở Việt Nam Chương III: Giải pháp phát triển thương hiệu giáo dục đại học ở Việt Nam

pdf96 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5017 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Xây dựng và phát triển thương hiệu giáo dục đại học ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ụ cán bộ phòng quản lý đào tạo nhằm đảm bảo cho việc dạy và học các trường diễn ra trôi chảy và có sự gắn kết chặt chẽ với nhau trong việc trao đổi sinh viên cũng như giảng viên giữa các ngành học cần phải được chú trọng mạnh mẽ. Nhìn chung, những thực tế còn tồn tại trong hệ thống giáo dục đại học nói chung và nhóm các trường đại học trọng điểm nói riêng không phải là vấn đề một sớm một chiều có thể giải quyết được. Việc nghiên cứu và đề xuất các giải pháp cụ thể như trên chỉ thuần túy dựa vào những phân tích từ thực trạng, mức độ ứng dụng thực tiễn đến đâu và liệu có được ứng dụng thực tiễn hay không phụ thuộc lớn vào chủ trương đường lối của Nhà nước. 62 CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THƯƠNG HIỆU GIÁO DỤC ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM Nếu như trên thế giới, việc quảng bá hình ảnh thương hiệu giáo dục đại học đã được quan tâm từ nhiều thập kỷ trước thì ở Việt Nam, phải đến đầu những năm 1990, cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường thì các trường đại học Việt Nam mới quan tâm đến thương hiệu của mình. Những viên gạch đầu tiên cho quá trình truyền thông thương hiệu mới chỉ là việc thiết kế những website sơ sài mang tính thông tin hơn là quảng bá, thiết kế logo, slogan, tổ chức các cuộc thi, hoạt động về thể thao văn hóa giữa các trường đại học… Những yếu tố đó phần lớn mang tính hình thức và giá trị thông tin tối thiểu hơn là quảng bá thương hiệu thực sự. Nguyên nhân chính là do sinh viên Việt Nam chưa thực sự là “khách hàng” của dịch vụ giáo dục đại học và quan hệ cung – cầu trong giáo dục đại học ở Việt Nam có nhiều điểm khác xa so với một dịch vụ thông thường được cung cấp thể hiện ở: + Tình trạng cầu vượt cung trong thời gian dài, các đơn vị cung cấp dịch vụ không cần bỏ tiền ra cho khâu quảng bá, PR (quan hệ công chúng) mà vẫn đảm bảo lượng khách hàng sử dụng dịch vụ. + Hiện tượng cầu tìm cung trong việc cung cấp và sử dụng dịch vụ giáo dục đại học. Ở các quốc gia có lượng du học sinh đông đảo như Mỹ, Singapore, hàng năm đến mùa tuyển sinh, những chính sách xúc tiến quảng bá đều được thực hiện qua các phương tiện thông tin đại chúng, những chiêu thức tuyển sinh bằng các ưu đãi, học bổng, hỗ trợ… được thực hiện không chỉ ở các trường đại học danh tiếng mà cả những trường top trung bình, thậm chí là hệ dưới đại học. Xây dựng được hệ thống trường đại học thực sự có chất lượng thông qua việc hoàn thiện 4 yếu tố như những gì đã trình bày trong phần thực trạng và giải pháp chương II mới chỉ là bước đầu để hình thành thương hiệu. Thương hiệu chưa thể hình thành nếu chất lượng mới chỉ dừng lại ở góc độ “chuyên gia công nhận” mà chưa đến được mức độ “người tiêu dùng công nhận” và marketing truyền miệng. 63 Trong khuôn khổ đề tài, xin được đưa ra 5 nhóm giải pháp áp dụng trong cả ngắn hạn và dài hạn để phát triển và duy trì thương hiệu giáo dục đại học ở Việt Nam với hai mục đích chính: + Tăng cường nhận thức của người dân và chiếm được lòng tin của người dân trong nước về thương hiệu giáo dục đại học nước nhà. + Tạo ấn tượng về thương hiệu giáo dục đại học Việt Nam trong con mắt cộng đồng quốc tế với chất lượng được thế giới công nhận nhằm thay đổi tâm lý và nhận thức của người sử dụng dịch vụ giáo dục. 1. Tạo dựng hình ảnh và truyền thông thương hiệu Trong lĩnh vực thương mại hàng hóa hữu hình, muốn bán một sản phẩm (dù chất lượng tốt đến mấy) thì phải làm quảng cáo đề người tiêu dùng biết đến sản phẩm và dùng thử. Một trường đại học cũng vậy. Danh tiếng và uy tín rất quan trọng để sinh viên biết và lựa chọn vào học, nhất là trong thời kỳ giáo dục đại học đang phải đối mặt với cuộc cạnh tranh thực sự về chất lượng và dịch vụ đi kèm. Đánh giá của sinh viên hay người dân về chất lượng đào tạo của một trường đại học nào đó không chính xác bằng những chuyên gia do hiện tượng thiếu thông tin trên thị trường. Tuy nhiên, người quyết định sử dụng dịch vụ, ảnh hưởng trực tiếp đến sự sống còn của thương hiệu lại là sinh viên và gia đình chứ không phải các chuyên gia trong ngành. Vì vậy, việc tạo dựng hình ảnh và truyền thông thương hiệu là quá trình làm sao để một trường đại học có chất lượng đào tạo thực sự được công nhận bởi không chỉ chuyên gia trong ngành mà những thông tin cung cấp phong phú và đến được với người sử dụng dịch vụ cuối cùng trong nước cũng như quốc tế trong một thị trường thông tin thiếu hụt. 1.1.Tạo dựng hình ảnh Đây là bước đầu tiên trong công cuộc xúc tiến quảng bá truyền thông thương hiệu. Theo đó, cũng như dịch vụ vô hình khác, các trường đại học trọng điểm cũng 64 cần tạo dựng hình ảnh riêng bắt đầu từ việc nâng cấp website, thiết kế logo và tạo thông điệp riêng của trường. Trong đó logo và thông điệp riêng là yếu tố quan trọng mà nhìn vào đó, sinh viên lựa chọn nhập học biết được định hướng đào tạo của trường, phương châm hoạt động và cũng có thể là cả lời hứa của trường đại học đối với sinh viên nhập học. Tâm lý chung người tiêu dùng bao giờ cũng có ấn tượng tốt đẹp với một website sáng sủa, rõ ràng với một thông điệp gây xúc cảm mạnh mẽ hơn là một website nhạt nhòa, thông tin hỗn độn. Mặt khác, cách thiết kế trình bày website cũng dễ dẫn đến sự liên hệ trong tâm trí người tiêu dùng về đẳng cấp thương hiệu. Về điều này thì website các trường đại học công lập thuộc nhóm trọng điểm và nhiều trường khác thuộc nhóm đại học đại chúng có đặc điểm chung là thiết kế chưa bắt mắt, logo nhàm chán và không ấn tượng. Điểm qua logo các trường đại học được coi là trọng điểm và cả những trường đang xem xét liệt vào danh sách trường trọng điểm, logo không ấn tượng và được thiết kế trùng lặp nhiều với những hình ảnh quen thuộc như quyển vở, ngọn đuốc… Ảnh: Logo của nhiều trường đại học trọng điểm có sự trùng hợp về thiết kế. 65 Đặc biệt một điểm chung khác có thể nhận thấy là thông điệp truyền tải (trong thương mại quen gọi là slogan thương hiệu) chưa được chú trọng. Trong các trường đại học top đầu như Y, Dược, Đại học Kinh tế quốc dân, và thậm chí cả đại học Quốc Gia Hà Nội, khó có thể tìm thấy thông điệp hay phương châm nào của trường đại học muốn gửi gắm đến khách hàng trực tiếp là những sinh viên. Đây là vấn đề mà khi xây dựng thương hiệu, các trường đại học dù có uy tín đến mấy cũng không thể bỏ qua khi mà những trường đại học vùng, đại học dân lập và một số trường thành lập sau, non trẻ điển hình như FPT cũng có slogan rất rõ ràng và ấn tượng. Ảnh: Thiết kế bắt mắt của đại học FPT và đại học Đại Nam – những ngôi trường chưa đủ 5 năm tuổi đời cùng slogan ấn tượng 66 Ảnh: Website thiết kế chằng chịt của đại học quốc gia Hà Nội  Giải pháp để tạo dựng hình ảnh cho trường đại học tránh đi vào lối mòn và nhàm chán thực chất không hề khó và các trường có nguồn lực rất dồi dào cho vấn đề này, đó chính là việc hỗ trợ sinh viên tạo dựng hình ảnh cho nhà trường thông qua hình thức tổ chức các cuộc thi thiết kế website, logo cho nhà trường và tổ chức bình chọn nghiêm ngặt. Sinh viên có vai trò đóng góp ý tưởng, còn kinh phí thực hiện thì nhà trường phải bỏ ra đầu tư một cách cẩn thận, thuê các công ty chuyên nghiệp thực hiện. Việc này không chỉ khuyến khích sáng tạo mà còn tạo sợi dây liên kết giữa nhà trường và sinh viên, mang lại cảm nhận rõ rệt mỗi sinh viên đều có đóng góp cho sự phát triển của uy tín, hình ảnh trường đại học.  Bên cạnh đó, việc đưa thông tin lên các trang mạng của trường đại học cần được chọn lọc kỹ càng sao cho thỏa mãn yêu cầu về đúng, đủ và quảng bá được hình ảnh nhà trường một cách khéo léo. Một trong những thông tin quan trọng mà các trường đại học cần chú trọng đưa lên website của trường là thống kê các cựu sinh viên danh tiếng và tỷ lệ cử nhân tìm được việc làm (đúng ngành) của nhà trường vốn là vấn đề rất được dư luận quan tâm chú ý. Hiện nay, do kinh phí hạn hẹp và việc thống kê khó khăn nên các trường đại học chưa thể chú trọng đến vấn đề này. Tuy nhiên trong 67 tương lai, việc tạo dựng hình ảnh dựa vào việc quảng bá những thành quả trong quá khứ cũng là một cách làm hữu hiệu. 1.2. Quảng bá thương hiệu dưới nhiều hình thức 1.2.1. Đa dạng hóa phương tiện truyền thông Hiện nay, các phương tiện truyền thông như ti vi, mạng Internet, báo chí... phát triển rất mạnh và thu hút đông đảo khán giả hàng ngày. Phần đông trong số đó là tầng lớp học sinh, sinh viên. Các trường có thể tận dụng những phương tiện truyền thông làm phương tiện quảng cáo hữu hiệu cho thương hiệu của trường mình. Tuy nhiên giáo dục là mặt hàng tương đối nhạy cảm nên việc quảng bá cần thận trọng và tiến hành dưới những hình thức khéo léo. Điều này các trường đại học có thể tham khảo chính những thành công của các trường cấp 3 ngay tại Việt Nam qua việc khuyến khích học sinh tham gia các chương trình truyền hình mang tính trí tuệ cao như Đường lên đỉnh Olympia, Vượt qua thử thách, Rồng vàng…Có thể kể đến thành công và uy tín được đẩy mạnh của trường chuyên Nguyễn Bỉnh Khiêm của tỉnh Vĩnh Long sau khi có học sinh tham gia và thành công tại cuộc thi Đường lên đỉnh Olympia. Các cuộc thi cho sinh viên đại học cũng được tổ chức đông đảo như Rung chuông vàng, Làm giàu không khó… tuy nhiên chất lượng kiến thức sinh viên chưa đủ thuyết phục khán giả về uy tín của nhà trường. Ngoài ra, việc quảng bá hình ảnh giáo dục đại học thông qua các phương tiện truyền thông quốc tế cần được chú trọng. Điều này đã được ngành du lịch áp dụng khá rầm rộ như việc cho phát sóng 30 giây hình ảnh về Việt Nam trên kênh CNN vào ngày 10/10/2007. Các trường đại học nên đầu tư kinh phí vào việc tung hình ảnh trường mình lên các phương tiện truyền thông quốc tế nhằm mục đích quảng bá về thương hiệu. 1.2.2. Quảng cáo nơi công cộng Mục đích cuối cùng của khâu quảng bá hình ảnh là thu hút được nhiều lượt xem và ghi nhớ nhất. 68  Trong ngắn hạn, khi năng lực cạnh tranh chưa cao, mục tiêu hướng tới của các trường đại học Việt Nam là thu hút không chỉ nhân tài trong nước mà còn cả chất xám ở các quốc gia khác. Đại học Việt Nam có thể áp dụng phương pháp mà các trường quốc tế và các trung tâm ngoại ngữ do người nước ngoài giảng dạy xâm nhập Việt Nam đã áp dụng, đó là hình thức quảng bá ngoài trời. Đông người biết đến sẽ làm tăng cơ hội lựa chọn sinh viên theo mong muốn của nhà trường. Ảnh: Ví dụ về biển quảng cáo ngoài trời (ảnh mang tính minh họa)  Trong dài hạn, việc quảng bá hình ảnh nơi công cộng cần được thực hiện khéo léo hơn do mục tiêu và vị thế đã thay đổi. Cụ thể: mục tiêu hướng tới không phải là càng nhiều sinh viên nộp đơn càng tốt mà là những sinh viên có trình độ phù hợp với sự đào tạo của nhà trường. Vị thế trường trong dài hạn cần được xác định là trường đại học đã có đôi chút danh tiếng và uy tín nên việc quảng cáo ngoài trời tỏ ra không còn phù hợp nữa (cách thức quảng cáo bằng các biển quảng cáo ngoài trời áp dụng nhiều cho sản phẩm mang tính bình dân). Lúc này, nhiệm vụ của các trường trong việc phát triển và duy trì thương hiệu là gắn tên tuổi của trường đối với những nhân vật, sự kiện danh giá bằng các sự kiện sau: + Đầu tư cho các công trình nghiên cứu khoa học hướng tới các giải thưởng danh giá của thế giới như giải Nobel, Field…Khi đó sẽ có các chương trình truyền hình, các bài báo nói về trường, lăng xê cho trường một cách tự nhiên. 69 + Tổ chức các hội nghị, hội thảo khoa học, mời các tên tuổi nổi tiếng như các chính trị gia, doanh nhân, nhà khoa học…tham gia tọa đàm. Trường gắn liền với các sự kiện, tên tuổi tầm cỡ đương nhiên sẽ càng thêm danh giá. + Tham gia các triển lãm giáo dục quốc tế giới thiệu về nhà trường và trao các suất học bổng hoặc tổ chức các chương trình có đông khách hàng tiềm năng tham dự. Ví dụ trường Doanh nhân PACE (Thành phố HCM) vào tháng 5/2009 đã mời được giáo sư Paul Krugman – chủ nhân giải Nobel Kinh tế năm 2008 đến chủ trì hội thảo quốc tế với chủ đề “Tìm kiếm cơ hội và giải pháp trong khó khăn và khủng hoảng”. 1.3. Đẩy mạnh quan hệ công chúng Trong khi các trường đại học lâu năm và có uy tín giảng dạy không chú tâm đến khâu “chăm sóc khách hàng” thì bản thân các trường quốc tế hay các trường đại học dân lập, ra đời sau và không có nguồn kinh phí hỗ trợ từ phía nhà nước lại đi tiên phong trong việc xây dựng TT&QHCC (Truyền thông và quan hệ công chúng). Trường FPT không chỉ xây dựng nội san cho sinh viên mà còn có cả nội san cho cha mẹ sinh viên trong đó tóm lược tất cả các hoạt động của sinh viên trong tháng từ thời gian biểu, lịch thi, đến các sự kiện vui chơi giải trí….RMIT áp dụng chiến lược bán hàng cá nhân bằng việc thu thập hồ sơ học sinh trong địa bàn nhiều thành phố, hứa hẹn những ưu đãi, gọi điện giới thiệu nhằm thu hút sinh viên nhập học. Hội thảo giới thiệu về trường RMIT cùng nhiều suất học bổng trị giá 500.000đ/suất cho các sinh viên khá giỏi nhiều trường THPT trên địa bàn Hà Nội được trường tổ chức khá quy mô tại khách sạn Daewoo vào tháng 8/2007. Các trường đại học ở khắp các quốc gia trên thế giới hàng năm đều có những hội thảo tổ chức ở nhiều nơi tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Để phát triển được thương hiệu sau khi đã hoàn tất phần xây dựng, các trường đại học cần thực hiện hai nhiệm vụ cơ bản: + Xúc tiến quan hệ công chúng trong nước. Cụ thể cần đẩy mạnh mối liên kết giữa nhà trường và sinh viên.Việc thu thập ý kiến phản hồi của sinh viên về chất lượng đào 70 tạo, cơ sở vật chất và giảng viên của nhà trường được thực hiện rất tốt trong thời gian tháng 10, 11/2009 khi nhà nước thực hiện chiến dịch kiểm định chất lượng thương hiệu của 20 trường đại học hàng đầu trong cả nước và cần được thực hiện thường xuyên, trung bình khoảng 2 lần một kỳ học. + Đẩy mạnh chiến dịch PR hình ảnh của trường ra nước ngoài. Cụ thể - Phát động những cuộc thi khuyến khích du học sinh các nước viết bài cho nội san của trường hoặc phát biểu cảm tưởng về trường và đăng những bài có chất lượng, những câu trích dẫn hay vào trong những tập san nhỏ giới thiệu về trường, mô hình đào tạo và chính sách ưu đãi…Về việc này các trường đại học có thể liên kết với nhau cho ra đời những tập san nhỏ giới thiệu về giáo dục đại học Việt Nam và đưa đến những hội thảo, triển lãm giáo dục nước ngoài như điều nhiều quốc gia đang thực hiện vào mỗi mùa tuyển sinh. 2. Từng bước giành ưu thế trong các mô hình liên kết đào tạo. Liên kết đào tạo giữa các trường đại học trong và ngoài nước ngày nay không còn là một khái niệm xa lạ với nhiều người. Thông thường, liên kết đào tạo được chia làm hai loại hình: liên kết trong nước và liên kết với nước ngoài. Trong đó, hình thức chuẩn xác nhất để đo lường sự thành công của Việt Nam trong việc xây dựng thương hiệu giáo dục là liên kết với nước ngoài. Liên kết với nước ngoài hay còn được biết đến với tên gọi là chương trình tiên tiến không chỉ được áp dụng với bậc đại học mà còn phổ biến ở bậc sau đại học. Thuộc cùng loại hình liên kết này lại có một số hình thức khác nhau: đào tạo tại Việt Nam và cấp bằng hoặc chứng chỉ nước ngoài; đào tạo tại Việt Nam và cả hai nước tham gia liên kết cùng cấp bằng hoặc chương trình hai giai đoạn, mỗi giai đoạn đào tạo được tiến hành ở một quốc gia với thời lượng như nhau hoặc khác nhau. Những năm gần đây, số lượng các trường đại học Việt Nam tiến hành liên kết với trường đại học nước ngoài đang gia tăng rõ rệt ví dụ như trường Đại học Ngoại Thương với trường La Trobe (Úc), Bedfordshire (Anh) và trường Quản lý BI (Na 71 Uy)14. Trong đó, liên kết với trường Quản lý BI là hình thức học toàn bộ tại Việt Nam. Hay trong năm 2010, Đại học Quốc Gia Hà Nội đã liên kết với nhiều trường đại học trên thế giới như Southern New Hampshire, Đại học Tổng Hợp Quốc Gia Moscow hay Đại học Troy (Hoa Kì)15. Tuy nhiên các phương thức liên kết vẫn còn phụ thuộc nhiều vào các trưởng đối tác của nước ngoài, chủ yếu thể hiện qua hình thức 2 + 2 – 2 năm cơ sở học tại đại học trong nước, 2 năm chuyên ngành học tại đại học nước ngoài. Ví dụ như chương trình tiên tiến của trường Đại học Ngoại Thương: 2 năm đầu học tại trường, 2 năm sau sang học tại Đại học Tổng Hợp bang Colorado (Hoa Kì)16. Chương trình liên kết đào tạo kỹ sư công nghệ thông tin giữa Đại học Bách Khoa Hà Nội với Nhật Bản cũng tiến hành theo hình thức 2,5 năm đầu học tại Việt Nam, những năm sau tiến hành học tập tại nước bạn. Hoặc có những chưong trình liên kết, đại học Việt Nam chỉ đóng vai trò như một nhà tuyển dụng, còn hầu hết thời gian học tập đều là ở nước ngoài. Một ví dụ là chương trình hợp tác đào tạo ngành cử nhân giữa Đại học Quốc Gia Hà Nội với Đại học Troy (Hòa Kì). Mục đích của liên kết đào tạo hiện nay đang dừng ở việc tạo điều kiện cho sinh viên có cơ hội thụ hưởng nền giáo dục tiên tiến của phía đối tác do vậy thời gian học ở nước ngoài càng nhiều càng tốt. Tuy nhiên, một khi đã tạo dựng được thương hiệu riêng cho nền giáo dục đại học với môi trường đào tạo có chất lượng, Việt Nam cần tiến hành chuyển hướng các hình thức liên kết đào tạo, đưa bản thân từ chỗ bị động sang vị thế chủ động hơn. Quá trình giành ưu thế trong các mô hình liên kết đào tạo cần tiến hành qua các bước:  Trong ngắn hạn: Tiến hành sàng lọc đối tác và liên kết với các trường đại học có chất lượng trên thế giới để tăng danh tiếng cho các trường đại học Việt Nam. Ví dụ 14 mitstart=5 15 %C4%91hqghn.htm 16 72 như các chương trình giảng dạy kinh tế fulbright17, chương trình đào tạo kỹ sư chất lượng cao tại Việt Nam18 đều liên kết được trường đại học của Việt Nam với các trường danh tiếng của nước ngoài.  Trong dài hạn, thực hiện mục tiêu liên kết ngang hàng, tức là xây dựng các chương trình trao đổi sinh viên hai chiều, phía đối tác tiếp nhận sinh viên VN sang để đào tạo trong thời gian cuối trong một số lĩnh vực và ngược lại, các trường Việt Nam tiếp nhận sinh viên nước ngoài sang đào tạo trong một số lĩnh vực khác. Khi đó, trình độ giảng dạy cũng như kiến thức của nước ta đã phải được đảm bảo vững chắc, sâu rộng như các nước khác trên thế giới đồng thời vẫn có nét đặc trưng riêng của mình. Việc liên kết ngang hàng này sẽ nâng tầm vị thế của đại học Việt Nam ngang hàng với phía đối tác.  Đối với các trường liên kết không thuộc nhóm các trường danh giá ở nước bạn, các trường đại học Việt Nam nên tìm cách kéo dài thời gian và số lượng các môn chuyên ngành đào tạo tại Việt Nam. Nói cách khác là thay vì gửi sinh viên “nhờ” nước bạn đào tạo hộ những môn quan trọng như hiện nay, các trường đại học Việt Nam sẽ tìm cách tiếp nhận sinh viên nước ngoài về đào tạo hộ nước bạn. 3. Chính sách ưu đãi cho giáo dục đại học Mỗi thương hiệu đều có đặc trưng riêng về dòng sản phẩm. Điều đó tạo nên bản sắc thương hiệu. Bản sắc thương hiệu giúp nhận diện thương hiệu và quyết định phần nào sự hấp dẫn đối với khách hàng khi lựa chọn. Giáo dục đại học cũng không nằm ngoài quy luật đó. Việc thu hút du học sinh cơ bản dựa trên hai yếu tố: uy tín chất lượng và ưu đãi. + Việc thu hút bằng uy tín chất lượng và môi trường học tập nhiều thử thách được thực hiện ở các quốc gia có nền giáo dục lâu năm và cực kỳ phát triển như Mỹ, Anh. 17 : 18 73 Vì uy tín thương hiệu, du học sinh sẵn sàng bỏ ra một số tiền lớn để được học tập trong môi trường tốt, có tấm bằng danh giá và nâng cao cơ hội việc làm. Cạnh tranh bằng chất lượng là điều mà trong thời gian dài sắp tới Việt Nam không thể thực hiện được do bất lợi của người đi sau. + Thu hút du học sinh bằng các ưu đãi. Đây là yếu tố phổ biến hơn cả và được thực hiện ở nhiều quốc gia với nhiều hình thức khác nhau, Việt Nam có thể tham khảo. Ví dụ sinh viên du học hệ đại học và sau đại học ở Pháp bằng tiếng Pháp được hưởng chế độ miễn giảm 90% học phí như học sinh Pháp bình thường, ngoài ra còn nhiều chế độ khác như trợ cấp gần 50% tiền nhà, chi phí đi lại…Singapore trong nhiều năm gần đây là điểm đến hấp dẫn của nhiều du học sinh và nhân tài từ khắp các nơi trên thế giới thông qua 4 chính sách: Chào đón người tài ngoại vào bộ máy của nhà nước, mức lương tương xứng với giá trị của chất xám, đầu tư trợ cấp giáo dục và tạo niềm tin người tài luôn đứng ở vị trí cao19. Australia thu hút lượng du học sinh đông đảo bởi những cơ hội nhập cư Australia dễ dàng…. Việt Nam cũng nên tìm chính sách ưu đãi nhất định cho giáo dục đại học nhất là cho bộ phận du học sinh nhằm thu hút nhân tài, củng cố thương hiệu. Về giá cả thì học phí đại học ở Việt Nam là mềm, do vậy trong khuôn khổ đề tài nghiên cứu, xin được đề xuất 1 biện pháp ưu đãi giáo dục, đó là việc nâng cao chất lượng dịch vụ tư vấn hỗ trợ. Cụ thể: Nhà nước cần đầu tư hỗ trợ các trường thành lập những trung tâm tư vấn du học, tư vấn đào tạo thạc sĩ nước ngoài cho các sinh viên cả trong nước và du học sinh có nhu cầu. Trước mắt có thể tận dụng những trường liên kết đào tạo có uy tín lâu năm với các trường đại học ở Việt Nam đồng thời mở rộng liên kết với nhiều trường khác, qua đó sinh viên học đại học xong có thể được tư vấn du học sau đại học nếu có nhu cầu do tâm lý ưa chuộng du học ngoại vẫn còn cao. Trong tương lai, khi đào tạo 19 nghiep.htm 74 sau đại học ở Việt Nam đã phát triển và có uy tín, có thể áp dụng chính sách đào tạo thẳng sau đại học với những sinh viên có nhu cầu và đủ trình độ. Mặt khác, nên có chính sách hỗ trợ thành lập mạng du học Việt Nam tư vấn những điều kiện học tập, tư vấn nhà ở, ký túc và các thủ tục khi học tập ở Việt Nam. Chính sách đãi ngộ hoàn thiện và chuyên nghiệp cũng là một trong những động lực khiến sinh viên lựa chọn nơi nhập học. Đối với sinh viên trong nước hoặc sinh viên nước ngoài có nhu cầu làm việc trong nước, cần xúc tiến mạnh sự liên kết giữa nhà trường và các doanh nghiệp theo chuyên ngành đào tạo và có dịch vụ tư vấn hỗ trợ việc làm do chính nhà trường mở ra, như vậy sẽ thiết thực hơn là việc sinh viên phải tìm đến các trung tâm tuyển dụng hiện nay. 4. Quản lý và đa dạng hóa giáo dục phù hợp với yêu cầu của thực tiễn: Quản lý và đa dạng hóa giáo dục vốn là những vấn đề vĩ mô khó khăn để hoàn thành cho tốt đối với mọi quốc gia nhưng cũng là những vấn đề sống còn đối với nền giáo dục của một đất nước. Vì trên thực tế, nếu nền giáo dục có đầy đủ nhân tài, vật lực nhưng không có người đầu tàu lãnh đạo, thâu tóm, nắm bắt thì sẽ không thể phát huy hết được những điểm mạnh thuộc tính cá thể trên. Bên cạnh đó, nếu các nguồn lực đầy đủ thậm chí dư thừa mà nền giáo dục không linh hoạt, chậm đổi mới, lạc hậu thì cũng sẽ lãng phí nguồn lực đó. Do vậy, ổn định và phát triển quản lý và đa dạng hóa giáo dục là một vấn đề cần được quan tâm một cách cẩn trọng và thường xuyên. Ngay cả khi đã xây dựng được thương hiệu cho nền giáo dục đại học nước nhà, Việt Nam vẫn cần luôn luôn đặt cho mình câu hỏi: liệu khâu quản lý như hiện giờ đã được chưa? Đã thích hợp với hoàn cảnh của đất nước và thế giới chưa? Và những gì mình dạy đã đáp ứng được nhu cầu phát sinh của xã hội chưa? Phải quản lý và đa dạng hóa như thế nào để phát triển được thương hiệu đã phải khổ công xây dựng bao lâu nay? Đầu tiên là khâu quản lý và thứ yếu nhất là phải quản lý nhân lực. Từ trước đến giờ, quản lý dù chỉ là một nhóm người chưa bao giờ là điều đơn giản. Trong khi đó, quản lý trong giáo dục đại học luôn là một thách thức ở tầm vĩ mô. Một cán bộ quản 75 lý ngành giáo dục không chỉ quản các cán bộ công chức khác mà còn phải có trách nhiệm với một số lượng lớn học sinh, sinh viên. Đây mới là những thành phần khó kiểm soát do tính chất không đồng đều về trình độ, nhận thức cũng như hoàn cảnh. Muốn duy trì và phát triển thành công thương hiệu giáo dục đại học Việt Nam, các cán bộ quản lý cần thiết phải đi sâu đi sát vào những chi tiết đó, từ đó mới bao quát, tổng hợp và tìm ra đường hướng tốt nhất cho tập thể mà mình lãnh đạo. Thực tế này đòi hỏi các cán bộ quản lý phải thật sự là những người được đào tạo bài bản, chuyên nghiệp để ứng phó với mọi tình huống có thể xảy ra trong quá trình điều hành một tập thể lãnh đạo. Hiện nay, ở Việt Nam, còn rất nhiều cán bộ quản lý giáo dục đi lên từ giáo viên lâu năm, có lí lịch và thành tích tốt. Tuy nhiên, trong bối cảnh phức tạp của nền kinh tế thị trường, chỉ kinh nghiệm thôi chưa đủ. Vì vậy, thiết nghĩ Việt Nam cần tiến hành đào tạo cán bộ quản lý một cách toàn diện hơn đặc biệt là để phát triển thương hiệu bền vững. Trong thời điểm hiện tại, Việt Nam chưa có nhiều trường chuyên đào tạo giảng viên hay cán bộ quản lý giáo dục. Tuy nhiên, trong tương lai, khi thương hiệu giáo dục đại học Việt đã được xác lập, ta cần quan tâm hơn đến khối trường này. Chỉ có như vậy, cán bộ quản lý giáo dục mới có thể đủ kĩ năng, linh hoạt để đối phó với mọi tình huống trong công việc. Bên cạnh đó, những người thuộc thành phần quản lý đặc biệt là hiệu trưởng cần giữ vững được định hướng giáo dục của trường mình. Ví dụ như ban đầu đã xác định trường mình là trường chuyên đào tạo về ngôn ngữ thì không nên đào tạo sinh viên về kinh tế hay quản trị kinh doanh kể cả liên kết với các trường khác để đào tạo. Lí do là vì mỗi ngành yêu cầu đào tạo mỗi khác, kể cả các môn cơ sở; vì vậy, nếu chỉ gói gọn trong vòng 4 năm thì các đơn vị kiến thức của sinh viên không thể đảm bảo được như các trường chuyên trách. Nói cách khác, việc các trường hiện nay mải chạy theo xu thế xã hội, hướng theo các ngành nghề đang nổi mà quên mất nhiệm vụ chuyên trách của mình sẽ làm loãng nền giáo dục đại học Việt Nam đồng thời sẽ đưa vào xã hội một số lượng không ít sinh viên có bằng cấp nhưng không đảm bảo về nghiệp vụ. 76 Ngoài ra, công tác quản lý hiện nay không thể chỉ dựng lại ở quản lý nhân lực và công tác giảng dạy mà còn phải tiến tới quán triệt ý thức giáo dục đến từng cá nhân bao gồm giáo viên và đặc biệt là sinh viên. Cần loại bỏ những tư tưởng gian lận, học tủ, học gạo của sinh viên và khiến sinh viên hợp tác vì một môi trường đào tạo trong sạch, hiệu quả hơn. Muốn như vậy thì từng giáo viên phải thắt chặt kỉ luật trong lớp, trong thi cử cũng như giảng dạy nhiệt tình, sáng tạo hơn. Có như thế thương hiệu giáo dục đại học Việt Nam mới không rơi vào cảnh “đánh trống bỏ dùi”, qua giai đoạn hô hào, khẩu hiệu là mọi việc lại quay trở lại vị trí ban đầu. Tuy nhiên, song hành với việc giữ vững định hướng giáo dục của từng trường đại học, Việt Nam lại cần đến sự đa dạng hóa của cả nền giáo dục. Thế nào là đa dạng hóa? Đa dạng hóa là khi nền giáo dục đại học có thể bắt kịp với đà tiến của nhân loại. Cụ thể hơn là, khi xã hội đã trở nên văn minh hơn, nhiều thành tựu khoa học công nghệ được áp dụng vào cuộc sống thì giáo dục cũng phải được hiện đại hóa. Rất nhiều quốc gia ở các khu vực khác nhau đã thành công trong việc áp dụng công nghệ cao trong giảng dạy. Trong khi chủ yếu ở Việt Nam mới chỉ dùng đến bảng đen, phấn trắng để giảng bài thì ở các nước khác, máy tính, máy chiếu đã là những giáo cụ thông thường. Đồng thời, đa dạng hóa giáo dục cũng có nghĩa là giáo dục phải bắt kịp được với nhu cầu thực tiễn của nhân loại mà nói một cách nôm na là, khi xã hội phát sinh ra nghề nghiệp gì mới, nền giáo dục phải kịp thời nghiên cứu và đào tạo ngành nghề đó. Tuy nhiên, đa dạng hóa không có nghĩa là đi ngược lại với giữ vững định hướng giáo dục mà hai yếu tố còn bổ sung lẫn nhau. Giữ vững định hướng giáo dục sẽ khiến công tác đa dạng hóa trở nên có trật tự hơn khi quy hoạch, ràng buộc các khối trường vào nhiệm vụ đào tạo chuyên trách của mình. Cần nhớ rằng, đa dạng hóa cũng đòi hỏi nền giáo dục một sự đào tạo đồng đều, có sự phân bổ rõ ràng và hợp lý giữa các ngành nghề khác nhau. Thương hiệu giáo dục đại học Việt Nam thực sự phát triển khi và chỉ khi chất lượng đầu ra của sinh viên được đảm bảo và thể hiện cụ thể thông qua các ngành nghề của Việt Nam có thể tăng trưởng nhờ lực lượng nhân công chất lượng cao. Vì vậy, đa dạng hóa mà vẫn phải đào tạo đồng đều tất cả các ngành nghề, không thể vì 77 một ngành nghề đang nổi mà lơ là đào tạo các ngành nghề khác. Để thực hiện điều này cần đến sự hợp tác và “hi sinh” của các trường đại học toàn quốc để có thể duy trì công tác đào tạo các ngành nghề ít hoặc không sinh lời. Cả hai công tác quản lý và đa dạng hóa giáo dục nói trên phải được tiến hành song song để đảm bảo việc đa dạng hóa luôn được kiểm soát một cách đúng đắn. 5. Giữ vững nguyên tắc trung thực để duy trì thương hiệu Nếu không thật sự xem giáo dục là thị trường thì không thể tồn tại vì chỉ có thể xem giáo dục là thị trường thì dịch vụ giáo dục mới được đặt vào môi trường cạnh tranh từ đó loại bỏ đi những nhà cung cấp dịch vụ không đảm bảo chất lượng. Và khi đã xem giáo dục như một thị trường đúng nghĩa của nó và học sinh, sinh viên thực sự là những khách hàng thì thương hiệu giáo dục cũng phải tuân theo các nguyên tắc xây dựng và duy trì như bất cứ thương hiệu hàng hóa nào khác. Một trong những nguyên tắc cơ bản để duy trì thương hiệu của bất cứ sản phẩm gì là nguyên tắc trung thực. Trong thương mại hàng hóa, có một sai lầm vô cùng nghiêm trọng mà các hãng quảng cáo các sản phẩm ở Việt Nam hay mắc phải, đó chính là sự thiếu trung thực. Điều đáng tiếc là đa phần các thương hiệu của chúng ta lại đang được quảng cáo theo những cách thức tài tử, sáo mòn, thiếu sáng tạo, có khuynh hướng thổi phồng quá mức, dùng những thông điệp quá kêu, thậm chí những cách thức thiếu trung thực để “câu kéo” khách hàng. Việc làm này trong ngắn hạn có thể thu hút được nhiều khách hàng nhưng hậu quả của việc thiếu trung thực là vô cùng lớn khách hàng cảm thấy mình bị lừa và, hoặc ồn ào hoặc lẳng lặng, từ bỏ, quay lưng lại với sản phẩm. Quá trình này thường không diễn ra “tắp lự” mà từ từ khiến doanh nghiệp khó nhận ra ngay. Câu chuyện không chỉ dừng ở đây mà nó còn được ghi dấu trong tâm trí họ, nó được tổng kết thành một “bài học” - bài học này chính là liều thuốc độc tiêu diệt thương hiệu đã được quảng cáo kia đồng thời được dùng làm “nền” để khách hàng xem xét thương hiệu của đối thủ, nếu thương hiệu của đối thủ không mắc phải lỗi tương tự thì thương hiệu đó sẽ được nâng cao hơn, tô đậm hơn trong nhận thức khách 78 hàng mà không phải tốn một xu quảng cáo nào - đây chính là tình trạng của nhiều thương hiệu nội địa trong tương quan với các thương hiệu quốc tế có uy tín.20 Mặt khác, sự thiếu trung thực trong xây dựng thương hiệu còn để lại hậu quả mang tính ngoại ứng tiêu cực. Khi một sản phẩm trong cùng lĩnh vực được tung ra thị trường, do những kinh nghiệm vốn có, chất lượng dù tốt đến mấy cũng bị người tiêu dùng ngầm trừ hao đi phần trăm trong đó. Giáo dục là lĩnh vực nhạy cảm, sản phẩm đầu ra chính là con người và vì thế, nguyên tắc trung thực càng cần được duy trì. Tiếp thị giáo dục đại học chỉ được dựa trên những gì trường thực sự làm được, những dịch vụ và những hứa hẹn đối với sinh viên nhập học khi theo học chuyên ngành đào tạo nào đó của nhà trường phải được thực hiện đúng và nghiêm ngặt. Điều này cũng có nghĩa là việc phát triển khái niệm “thương hiệu” cho nhà trường phải dựa trên chất lượng thực sự của nhà trường, chất lượng đó phải đến mức có thể hình thành thương hiệu chứ không chỉ là sự ngộ nhận nội bộ. Các trường nên thành lập phòng ban phụ trách vấn đề marketing cho trường và phải tuyển những người có đạo đức làm công tác tiếp thị. Ví dụ, khi nhà trường quảng cáo về một ngành học được coi là trọng điểm và hứa hẹn chất lượng giảng dạy, trình độ giảng viên cũng như cơ hội việc làm đầu ra cho sinh viên thì phải thực hiện đúng như thế trong suốt quá trình học dài. Chỉ cần sinh viên thấy điều gì đó không hoàn hảo như những gì đã được quảng bá như chất lượng đội ngũ giảng viên không như kỳ vọng, giáo trình còn thiếu sót hoặc không có giáo trình chính thống hoặc có sai sót dù là nhỏ nhất trong giáo trình…kinh nghiệm sẽ lập tức hình thành trong sinh viên và thương hiệu sẽ bị tổn hại nghiêm trọng. Một điểm các trường đại học danh tiếng trên thế giới thường thực hiện là việc sử dụng chiến dịch PR thay cho quảng cáo. Việc này vừa làm giảm kinh phí vừa đảm bảo tính trung thực cho chất lượng nhà trường. Quảng cáo dù có trung thực đến mấy 20 79 đều tạo cảm giác khoa trương, không thật va thực tế cũng khó tránh khỏi việc khoa trương thổi phồng. Trong khi đó, sử dụng chiến dịch PR chỉ nhằm mục đích gây ấn tượng với cộng đồng và để cộng đồng tự kiểm nghiệm, đánh giá về chất lượng đào tạo của nhà trường. Đây là điểm mà các trường đại học nên tham khảo khi muốn duy trì thương hiệu. Ngoài ra, việc mở rộng các ngành đào tạo theo thị hiếu thị trường, thậm chí những trường đào tạo những ngành khác biệt hẳn cũng cố gắng níu kéo mở rộng ngành đào tạo điển hình như việc trường đại học Ngoại ngữ (Thanh Xuân), đổi tên thành đại học Hà Nội và đào tạo sang cả những lĩnh vực kinh tế của các trường Kinh tế quốc dân, ĐH Ngoại thương để thu hút sinh viên vào học. Nhiều trường lớn và có uy tín cũng không ngừng mở rộng các chuyên ngành đào tạo hàng năm mà trên thực tế không phải là mới hay có sự khác biệt gì so với những ngành đào tạo cũ nhằm mở rộng quy mô đào tạo thu lợi nhuận… Việc kinh doanh giáo dục như vậy đe dọa đến nguyên tắc trung thực trong cam kết về chất lượng mà hầu như trường nào cũng đề ra trong phần giới thiệu về nhà trường đăng tải trên các website. Nhìn chung, việc phát triển thương hiệu là quá trình cần phải được thực hiện thường xuyên, liên tục nhằm không ngừng nâng cao vị thế của giáo dục nước nhà. Việc đi sâu vào nhóm giải pháp nào phụ thuộc vào chiến lược phát triển của từng trường đại học cụ thể và từng thời kỳ riêng biệt. 80 KẾT LUẬN CHUNG Nhìn chung, đề tài nghiên cứu đề cập đến vấn đề không hề mới tuy nhiên đưa ra góc nhìn ở cả mức độ bao quát và cụ thể của sinh viên về thực trạng xây dựng và phát triển thương hiệu cho giáo dục đại học với góc độ người sử dụng trực tiếp dịch vụ với mong muốn hoàn thiện và nâng cao vị thế của giáo dục đại học của Việt Nam trong tương quan khu vực và trên thế giới. Trong Chương I, nhóm nghiên cứu đã trình bày khái niệm tổng quát và các yếu tố cấu thành thương hiệu, thương hiệu dịch vụ và cụ thể là thương hiệu giáo dục trên cơ sở kiến thức được học, tài liệu thu thập được và cả ý kiến chủ quan của bản thân nhóm làm đề tài. Trong chương II, thực trạng việc xây dựng thương hiệu giáo dục đại học được trình bày một cách tổng quát và đi vào những ví dụ tiêu biểu cụ thể thông qua 4 yếu tố cơ bản. Bên cạnh đó, với từng thực trạng, nhóm nghiên cứu đề xuất các nhóm giải pháp trên cơ sở tìm hiểu những mô hình, phương pháp của các quốc gia tiên tiến đã xây dựng thành công thương hiệu. Chương III đề cập một số nhóm giải pháp phát triển và duy trì thương hiệu giáo dục đại học nên được thực hiện sau khi đã hoàn tất việc xây dựng nhóm các trường đại học trọng điểm thực sự có chất lượng quốc tế. Mặc dù vậy, trong giới hạn về thời gian và dung lượng của đề tài, việc nghiên cứu chỉ hoàn tất ở việc đề ra lộ trình cụ thể áp dụng đối với bất kỳ trường đại học nào cấn xây dựng và phát triển thương hiệu. Viêc ứng dụng từ lý thuyết vào thực tiễn và đề ra lộ trình thời gian cụ thể cho từng giai đoạn cần có công trình nghiên cứu quy mô hơn và đòi hỏi sự chung tay góp sức của những bộ não hàng đầu của Tổ quốc. 1 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ tiêu chuẩn Việt Nam 3981: 1985 2. Quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục trường đại học (ban hành kèm Quyết định số 65/2007/QĐ – BGDĐT ngày 1/11/2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục đào tạo). 3. Website của Bộ Giáo dục Đào tạo, truy cập tháng 7/2010 từ 4. Website của báo vietnamnet, truy cập tháng 7/2010 từ 5. Website của báo Giáo dục thời đại, truy cập tháng 7/2010 từ 6. Website của Công ty xây dựng và phát triển thương hiệu Lantabrand, truy cập tháng 4, 5/2010 từ 7. Một số bài viết tiêu biểu - Hồ Bất Khuất (2009), Lợi ích nhóm khiến giáo dục đại học luẩn quẩn tầm nhìn?, truy cập tháng 6/2010 từ - Nhà báo Trường Giang (2008), Giáo dục là dịch vụ - Một quan điểm mang tính thời đại, truy cập tháng 6/2010 từ - Lương Gia Minh (2007), Làm thương hiệu đại học được không, truy cập tháng 7/2010 từ - Huy Hoàng (2010), PR trong trường đại học, truy cập tháng 7/2010 từ - Bài viết “Thử bàn về những yếu tố làm nên thương hiệu đại học”, truy cập tháng 5/2010 từ 2 - Bài viết “Kiểm định 20 trường đại học, sinh viên không hài lòng”, truy cập tháng 7/2010 từ - Bài viết “Tìm thương hiệu cho dịch vụ”, truy cập tháng 7/2010 từ 8. Một số website và bài báo nước ngoài: - Manoj Kothari, “How to build a brand”, truy cập tháng 5/2010 tại - Giáo sư David Jober, “What factors are important in building brand value?”, truy cập tháng 5/2010 tại - Website của các tổ chức kiểm định chất lượng 3 PHỤ LỤC I Đất cho các trường đại học ở Hà Nội: Quá hạn hẹp THứ TƯ, 09 THÁNG 9 2009 13:34 PHAN DƯƠNG / VNECONOMY Theo TS Trần Thanh Bình, Viện trưởng Viện Nghiên cứu thiết kế trường học, nhìn từ khía cạnh cơ sở vật chất và quy hoạch đất đai, các trường đại học, cao đẳng tại Hà Nội đang ở tình trạng yếu kém. Hầu hết các trường đều không đạt chuẩn về đất so với tiêu chuẩn hiện hành của Việt Nam. Đất dành cho các trường đại học, cao đẳng hạn hẹp chủ yếu là do sự bùng nổ về quy mô sinh viên và sự gia tăng về số lượng các trường trong cả nước, đặc biệt là ở Thủ đô. 2,04m2/sinh viên Trong mạng lưới các trường đại học, cao đẳng của cả nước, Hà Nội có mật độ tập trung cao nhất. Ông Nguyễn Quốc Tuấn, Phó giám đốc Sở Xây dựng Hà Nội cho biết: hiện nay, trên địa bàn thành phố có 126 cơ sở đào tạo cho học sinh, sinh viên, trong đó có 56 trường đại học (chiếm trên 37% trong tổng số 150 trường của cả nước), 28/226 trường cao đẳng, 39/81 trường trung học chuyên nghiệp. Về số lượng sinh viên, Hà Nội có khoảng 800.000 sinh viên, chiếm hơn 46% tổng số sinh viên trên cả nước (1.719.499 sinh viên). Đây cũng là nơi tập trung nhiều trường đại học trọng điểm có quy mô sinh viên lớn như đại học Quốc gia Hà Nội, đại học Kinh tế Quốc dân, đại học Bách khoa Hà Nội, đại học Nông nghiệp 1 và hàng loạt các trường đại học đầu ngành khác như Sư phạm 1, Y khoa, Nhạc viện, Thủy lợi, Học viện Kỹ thuật quân sự. Bên cạnh đó, các trường đại học dân lập có quy mô lớn, được thành lập sớm nhất cũng tập trung ở Hà Nội. Tuy nhiên, phần lớn các trường đại học có diện tích nhỏ hơn 10ha, thậm chí có đến 3 trường nhỏ hơn 1ha. Bình quân diện tích đất trên đầu 4 người ở các trường quá thấp, điển hình là trường đại học Ngoại thương 2,04m2/sinh viên, Đại học Xây dựng 2,32m2/sinh viên... Trong vòng 12 năm trở lại đây, số trường đại học ở nước ta đã tăng 2,4 lần. Trường cao đẳng tăng gấp 6 lần và số lượng sinh viên đã tăng gấp 13 lần. Hơn nữa, quỹ đất dành cho các trường vốn đã hạn hẹp lại bị chuyển đổi mục đích, lấn chiếm khá nghiêm trọng. Đơn cử, trường đại học Bách khoa Hà Nội theo quy hoạch vào những năm 1960 có diện tích 34 ha với khu Đông Dương học xá được thiết kế cho 2.000 sinh viên thì nay diện tích đất còn lại không đầy một nửa, trong khi quy mô sinh viên đã tăng gấp hơn 10 lần. Bên cạnh đó, một số trường mới thành lập đều bó buộc trong những diện tích vốn không được thiết kế dành cho đào tạo hoặc phải chung lưng với những cơ sở khác, nhất là các trường ngoài công lập. Ngoài ra, không ít trường được bố trí ở những khuôn viên không thích hợp. Cũng vì thiếu đất mà các khu chức năng cần có của một trường đại học, cao đẳng bị phá vỡ. Hầu hết diện tích khu học tập các trường có mật độ cao hơn tiêu chuẩn 20 - 25%. Ký túc xá dành cho sinh viên và khu thể dục thể thao gần như thiếu vắng. Hệ thống ký túc xá hiện có tại các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn Hà Nội có quy mô rất nhỏ, khả năng đáp ứng chỗ ở cho sinh viên chỉ khoảng 15-20% tổng số sinh viên có nhu cầu. Trong các ký túc xá lại thiếu cơ sở vật chất phục vụ nhu cầu hoạt động thể thao, văn hóa thiết yếu của học sinh. Không chỉ thiếu đất mà vị trí các trường thường không được đặt ở những khu vực thuận lợi. Có những dự án với số tiền đầu tư cả trăm tỷ đồng lại dồn vào cao ốc ở ngay nút giao thông lớn như dự án nhà ở cho 15.000 sinh viên của Trường đại học Kinh tế quốc dân. Ngược lại, không ít trường được bố trí ở những khu đất trong ngõ, không thuận tiện về giao thông. 5 Hướng ra các đô thị vệ tinh Dự kiến trong 5 năm tới, quy mô đào tạo, số lượng các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn Hà Nội sẽ tiếp tục tăng, các trường ngoài công lập, trường do nước ngoài đầu tư cũng sẽ tăng nhanh, trong khi nguồn đất ở nội thành rất hạn hẹp. Theo đồ án quy hoạch chung xây dựng Hà Nội do tư vấn quốc tế PPJ thực hiện, đến năm 2030, Hà Nội sẽ có 1 - 1,2 triệu sinh viên, diện tích đất dành cho hệ thống giáo dục 5.000 - 6.000 ha, chỉ tiêu 50 - 60m2/sinh viên. Hà Nội chủ trương dãn quy mô đào tạo ra các đô thị vệ tinh, đồng thời giới hạn phát triển tại khu vực trung tâm. Trên địa bàn sẽ hình thành 8 cụm trường gồm cụm trường Sơn Tây với các ngành văn hóa, nghệ thuật, du lịch, xã hội và các trường khối quân đội, quy mô 50.000 sinh viên, diện tích đất 500ha. Dự án đầu tư xây dựng Đại học Quốc gia Hà Nội Cụm trường Hòa Lạc với các ngành nghề cơ bản và công nghệ, quy mô 200.000 sinh viên/2.000ha. Cụm trường Xuân Mai gồm ngành nghề kinh tế, lâm nghiệp, quy mô 150.000 sinh viên/1.000ha. Cụm trường Chúc Sơn gồm các ngành kỹ 6 thuật, thủy lợi, giao thông, quy mô 50.000 sinh viên/300ha. Cụm trường Phú Xuyên gồm ngành kỹ thuật, nông nghiệp, đào tạo tổng hợp, quy mô 100.000 sinh viên/300ha. Cụm trường Gia Lâm gồm các ngành nông nghiệp, kỹ thuật, xây dựng, quy mô 100.000 sinh viên/ 500ha. Cụm trường Sóc Sơn gồm ngành kỹ thuật, công nghệ, dạy nghề, quy mô 100.000 sinh viên /500ha. Riêng khu vực trung tâm thành phố sẽ giữ lại các trung tâm nghiên cứu, các trường đại học đầu ngành và các trường truyền thống trọng điểm, quy mô 300.000 sinh viên/500ha. TS Trần Thanh Bình đề xuất: căn cứ quy hoạch xây dựng vùng Thủ đô đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, có thể định hướng quy hoạch xây dựng hệ thống các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp theo 3 cụm, tuyến. Tuyến Tây Nam lấy Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Khoa học công nghệ Hà Nội ở Hòa Lạc là trung tâm. Các cụm trường nhỏ quy mô 200 – 300 ha gắn với chuỗi đô thị Miếu Môn - Xuân Mai - Hòa Lạc - Sơn Tây. Tuyến theo khu vực đô thị phía Bắc sông Hồng gắn với việc mở rộng quy mô của đô thị Sóc Sơn - Mê Linh. Tuyến theo khu vực đô thị phía Đông sông Hồng - Nam sông Đuống phát triển từ trường Đại học Nông nghiệp 1 dọc theo QL5. Ngoài ra, xây dựng các khu đại học tập trung tại các đô thị vệ tinh trong vùng Thủ đô như tại Hưng Yên 1.000ha, tại Hà Nam, Hải Dương, Bắc Ninh, Vĩnh Yên mỗi đô thị xấp xỉ 500ha. Từ các trung tâm đã được hoạch định này có thể thu hút các vệ tinh cho các trường dãn ra từ nội thành cũng như thành lập mới các trường theo mạng lưới. Phan Dương 7 PHỤ LỤC 2 Các Trường Đại học trọng điểm quốc gia Việt Nam Nguồn: Công văn 1269//CP-KG ngày 06/09/2004 về việc phê duyệt danh mục 14 trường đại học trọng điểm. Công văn 177/TTg-KG ngày 31/1/2008 về việc quyết định Học viện Kỹ thuật quân sự là cơ sở giáo dục đại học trọng điểm. Đại học trọng điểm quốc gia Việt Nam là những đại học (cấp vùng và cấp quốc gia), trường đại học, và học viện hàng đầu của quốc gia, được chính phủ ưu tiên giao quyền tự chủ như: được tự in và cấp bằng tiến sỹ; được toàn quyền cử cán bộ đi học nước ngoài, trừ những trường hợp du học bằng ngân sách nhà nước; được chủ động mời và tiếp nhận giảng viên, sinh viên nước ngoài đến học và giảng dạy; được đề xuất mở những ngành đào tạo chưa có trong danh mục đào tạo. Hiện nay, ở Việt Nam có 15 cơ sở giáo dục đại học được chọn xây dựng thành đại học trọng điểm quốc gia bao gồm 2 đại học quốc gia, 3 đại học vùng theo lãnh thổ, và 9 trường đại học và học viện theo các lĩnh vực và ngành trọng điểm quốc gia (sư phạm, y - dược, kinh tế, nông - lâm - ngư nghiệp, công nghệ; kỹ thuật quân sự). 1. Đại học Quốc gia Hà Nội: đại học quốc gia, đào tạo và nghiên cứu khoa học cơ bản & ứng dụng hàng đầu miền Bắc Việt Nam. 2. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh: đại học quốc gia, đào tạo và nghiên cứu khoa học cơ bản & công nghệ hàng đầu miền Nam Việt Nam. 3. Đại học Đà Nẵng: đại học vùng, lớn nhất khu vực miền Trung & Tây Nguyên Việt Nam. 4. Đại học Huế: đại học vùng, lớn nhất khu vực Bắc Trung bộ Việt Nam. 5. Đại học Thái Nguyên: đại học vùng, lớn nhất khu vực miền núi phía Bắc VN. 6. Trường Đại học Cần Thơ: trường đại học lớn nhất khu vực Tây Nam bộ VN. 7. Trường Đại học Kinh tế Quốc dân: trường đại học đầu ngành Kinh tế ở miền Bắc Việt Nam. 8 8. Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh: trường đại học đầu ngành Kinh tế ở miền Nam Việt Nam. 9. Trường Đại học Sư phạm Hà Nội: trường đại học đầu ngành Sư phạm ở miền Bắc Việt Nam. 10. Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh: trường đại học đầu ngành Sư phạm ở miền Nam Việt Nam. 11. Trường Đại học Y Hà Nội: trường đại học đầu ngành Y-Dược ở miền Bắc VN. 12. Trường Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh: trường đại học đầu ngành Y-Dược ở miền Nam Việt Nam. 13. Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội: trường đại học đầu ngành Nông-Lâm- Ngư nghiệp của Việt Nam. 14. Trường Đại học Bách khoa Hà Nội: trường đại học đầu ngành Kỹ thuật và Công nghệ ở miền Bắc Việt Nam. 15. Học viện Kỹ thuật Quân sự: học viện đầu ngành Kỹ thuật và Công nghệ Quân sự, Công nghiệp Quốc phòng của Việt Nam. Theo kế hoạch của chính phủ, sẽ xây dựng 20 trường đại học nghiên cứu trọng điểm quốc gia có trình độ đào tạo và nghiên cứu tiên tiến làm đầu tàu cho sự phát triển mạng lưới các trường đại học Việt Nam. Về đội ngũ giảng viên sẽ có trình độ tiến sĩ >75%. Những trường đại học đang phấn đầu và đề nghị chính phủ quy hoạch thành trường đại học trọng điểm quốc gia gồm: 1. Học viện Quân y Việt Nam: học viện đầu ngành Y-Dược học quân sự của VN. 2. Trường Đại học Xây dựng Hà Nội: trường đại học đầu ngành Xây dựng và Kiến trúc của Việt Nam. 3. Trường Đại học Vinh: trường đại học ở vùng Bắc Trung Bộ. 4. Trường Đại học Quy Nhơn: trường đại học ở vùng duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. 5. Trường Đại học Ngoại thương: trường đại học chuyên về kinh tế đối ngoại. 9 PHỤ LỤC 3 Phiếu điều tra nội dung: Xây dựng và phát triển thương hiệu giáo dục đại học ở Việt Nam. 1. Hình thức điều tra: Điều tra qua mạng surveymonkey.com. Đăng tải đường dẫn lên các forum, website của sinh viên các trường đại học trong địa bàn thành phố 2. Thời gian tiến hành: 7/6/2010 – 14/7/2010 Các đường dẫn: 3. Nội dung điều tra và kết quả thu được Lượt trả lời câu hỏi: 368 1. Anh chị vui lòng cho biết mình đã/đang là sinh viên nhóm trường đại học nào a. Một trường thuộc khối ngành kinh tế - tài chính (188 – số lượt chọn) b. Một trường thuộc khối kỹ thuật, mỏ (125) c. Một trường thuộc khối nông – lâm nghiệp (6) d. Một trường thuộc khối luật – chính trị (11) e. Trường khác: (42) ……………………………………………………………………………. 2. Anh/chị cho biết đánh giá chủ quan của anh chị về chất lượng giáo dục đại học ở Việt Nam trong tương quan các nước khác trên thế giới a. Rất tốt (1) b. Tốt (8) c. Bình thường (92) d. Còn hơi yếu (64) e. Kém (101) 10 1 8 92 64 101 Rat tot Tot Binh thuong Hoi yeu Kem 3. Theo anh/chị, việc xây dựng thương hiệu giáo dục đại học cho Việt Nam có khả quan và cần thiết không? a. Rất cần thiết và cũng khả quan. (48) b. Rất cần thiết tuy nhiên sẽ rất khó khăn. (230) c. Cần thiết nhưng không khả quan lắm. (72) d. Khả quan nhưng không cần thiết. (7) e. Không cần thiết và cũng không khả quan (8) 4. Anh/chị có tin tưởng vào việc xây dựng thành công thương hiệu không chỉ trong nước mà còn mang tầm quốc tế của trường mình hay không? a. Rất tin tưởng (26) b. Tin tưởng (125) c. Bình thường, tôi không quan tâm (34) d. Đó là điều khó làm (163) e. Điều này không thể xảy ra được (17) 5. Theo anh/chị, đâu là yếu tố hàng đầu làm nên thương hiệu giáo dục đại học? a. Nguồn nhân lực (88) b. Cơ sở vật chất (72) c. Chương trình giảng dạy (80) d. Vấn đề quản lý và định hướng giáo dục của từng trường (105) e. Ý kiến khác:(50) ……………………………………………………………………………………… 6. Đánh giá chủ quan của anh/chị về cơ sở vật chất nơi anh/chị đã/đang học tập: 11 a. Rất tốt, đầy đủ và tiện nghi (56) b. Mức trung bình (186) c. Chưa tốt (71) d. Chất lượng cơ sở vật chất còn kém, điều kiện học tập của sinh viên hạn chế (50) 56 186 71 50 Rat tot Muc trung binh Chua tot Kem 7. Anh/chị cho biết kỳ vọng của một sinh viên về giảng viên của mình: a. Phải có bằng cấp cao, chuyên môn vững (51) b. Khả năng truyền đạt kiến thức mới là yếu tố quan tâm hàng đầu (216) c. Giảng viên cần có cả bằng cấp cao và khả năng sư phạm tốt (136) d. Sinh viên có thể tự xoay sở trong giáo trình nên cở bản cần giảng viên thân thiện và thoải mái (47) e. Ý kiến khác:(21) ……………………………………………………………………………………… 8. Anh/chị nghĩ gì về chương trình giảng dạy ở các trường đại học VN hiện nay? a. Rất tốt (1) b. Tốt (15) c. Bình thường (160) d. Còn hơi yếu (119) e. Kém (68) f. Ý kiến khác: (11) 12 1 15 160 119 68 Rat tot Tot Binh thuong Con hoi yeu Kem Y kien khac 9. Nếu được, anh chị vui lòng cho biết yếu tố còn chưa tốt: a. Nặng lý thuyết và ít thực tiễn (251) b. Kiến thức chuyên môn chưa đủ đáp ứng yêu cầu của công việc sau này (148) c. Thời lượng các môn học chưa hợp lý (103) d. Kiến thức khó hiểu và chưa hoàn thiện (79) e. Ý kiến khác:(21) ………………………………………………………………………………………… 10. Nếu có điều kiện, anh/chị có mong muốn đi du học không? a. Có (347) b. Không (11) Nếu chọn có, anh/chị vui lòng cho biết lý do: …………………………………………………………………………………………..

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfXây dựng và phát triển thương hiệu giáo dục ĐH ở Việt Nam.pdf
Luận văn liên quan