Khi nhắc đến dioxin không ai không kinh hoàng về hậu quả của nó đối với đất nước Việt Nam. Nó đã phá hủy toàn bộ từ hệ sinh thái đến con người Việt Nam. Trong bài này tôi xin đề cập đế một số nét sơ lược về dioxin, hậu quả của nó đối với môi trường đất và những biện pháp xử lý những vùng đất, bùn bị phá hủy bởi dioxin. Tình trạng ô nhiễm môi trường sinh thái bởi dioxin và các chất tương tự dioxin không còn nằm trong phạm vi một quốc gia mà đã trở thành vấn đề có tính toàn cầu, là mối quan tâm của nhiều nước, nhiều tổ chức quốc gia và quốc tế, của giới lãnh đạo cấp cao và của người dân. Vì vậy, những năm gần đây, nhiều nước, đặc biệt là các nước công nghiệp phát triển đã chi hàng trăm triệu USD mỗi năm cho các chương trình nghiên cứu vấn đề chống ô nhiễm và tiêu huỷ dioxin.
Sau đây là phần trình bày sơ lược về dioxin và biện pháp xử lý đất, bùn nhiễm dioxin
30 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5217 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Xử lý đất bùn nhiễm dioxin, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Khi nhắc đến dioxin không ai không kinh hoàng về hậu quả của nó đối với đất nước Việt Nam. Nó đã phá hủy toàn bộ từ hệ sinh thái đến con người Việt Nam. Trong bài này tôi xin đề cập đế một số nét sơ lược về dioxin, hậu quả của nó đối với môi trường đất và những biện pháp xử lý những vùng đất, bùn bị phá hủy bởi dioxin. Tình trạng ô nhiễm môi trường sinh thái bởi dioxin và các chất tương tự dioxin không còn nằm trong phạm vi một quốc gia mà đã trở thành vấn đề có tính toàn cầu, là mối quan tâm của nhiều nước, nhiều tổ chức quốc gia và quốc tế, của giới lãnh đạo cấp cao và của người dân. Vì vậy, những năm gần đây, nhiều nước, đặc biệt là các nước công nghiệp phát triển đã chi hàng trăm triệu USD mỗi năm cho các chương trình nghiên cứu vấn đề chống ô nhiễm và tiêu huỷ dioxin.Sau đây là phần trình bày sơ lược về dioxin và biện pháp xử lý đất, bùn nhiễm dioxin
I. SƠ LƯỢC VỀ DIOXIN
1.Cấu tạo
Dioxin hiện được dùng để chỉ hàng trăm chất hóa học có mặt trong môi trường. Các hợp chất xếp trong lớp các chất tương tự dioxin (dioxin-like compounds) được xếp vào ba nhóm: nhóm 1 bao gồm các polychlorinated dibenzo-p-dioxin (PCDDs) Một số chất trong nhóm PCDD, nhóm 2 gồm các polychlorinated dibenzofuran (PCCDs) và nhóm 3 gồm các polychlorinated biphenyls (PCBs). Nhóm 1 và 2 thường là sản phẩm biến đổi các chất khi con người đốt chất thải công nghiệp hay nông nghiệp, cháy rừng, sử dụng khí đốt...
Trong khi nhóm 3 (các PCB và các PCB giống dioxin) lại thường được sản xuất có chủ định, sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau. Để so sánh mức độ gây độc của các chất, tổ chức Y tế thế giới (WHO) dùng chỉ số TEFs (toxic equivalance factors) để đánh giá. Hiện tại 2,3,7,8-tetrachlorodibenzo-p-dioxin (tên gọi tắt là TCCD) được đánh giá có mức độ gây độc cao nhất trong tất cả các chất trên.
2,3,7,8-tetrachlorodibenzo-p-dioxin
2.Tính chất
Điôxin là tên gọi chung cho một nhóm gồm hàng trăm hoá chất tồn lưu trong môi trường. Chúng là các hợp chất thơm polychlorin có đặc tính vật lý, hoá học và cấu trúc tương tự, được hình thành như một phụ phẩm của các quá trình hoá học, từ những hiện tượng tự nhiên như núi lửa phun, cháy rừng đến các quá trình nhân tạo như sản xuất hoá chất, thuốc trừ sâu, thép, sơn, giấy, quá trình thiêu và toả khói... Điôxin là hợp chất hữu cơ không mùi, không màu, chứa cácbon, hyđrô, ôxy và chlorin. Trong số 210 hợp chất điôxin khác nhau, chỉ có 17 hợp chất là độc. Dạng điôxin độc hại nhất và được nghiên cứu rộng nhất là điôxin 2,3,7,8 - tetra- chlorodibenzo-p-điôxin, viết tắt là 2,3,7,8-TCDD, được đo bằng phần nghìn tỉ (ppt). Điôxin không hoà tan trong nước nhưng hoà tan trong chất béo chúng gắn với chất hữu cơ và chất cặn trong môi trường và hấp thụ vào mô mỡ động vật hoặc người. Ngoài ra, do không bị vi khuẩn làm thối rữa nên chúng tồn lưu và tích tụ sinh học trong dây chuyền thực phẩm. Một khi điôxin lọt vào môi trường, chúng sẽ thu gom trong mô mỡ của người và động vật. PCBs (polychlorin biphenyl ) là một nhóm hoá chất khác. Chúng là hyđrôcacbon thơm clo hoá, được tổng hợp bằng cách clo hoá trực tiếp biphenyl. Các hỗn hợp PCBs kỹ thuật vẫn còn phổ biến và có mặt đến ngày nay như trong vật liệu xây dựng, dầu bôi trơn, sơn phủ, chất làm dẻo và mự. Có một số hợp chất PCBs có độc tính tương tự điôxin và do đó thường gọi là PCBs "giống điôxin".
II. ẢNH HƯỞNG CỦA DIOXIN
1.Ảnh hưởng của dioxin đối với hệ sinh thái rừng
Sự phá hủy cảnh quan tự nhiên trong chiến tranh là điều không mới mẻ, nhưng phạm vi của sự phá hủy tự nhiên trong chiến tranh Việt Nam là điều chưa từng xảy ra trong lịch sử con người. Thiệt hại đối với môi trường là quá lớn và khắc nghiệt đến mức các nhà khoa học đã phải sáng tạo ra một thuật ngữ mới “hủy diệt sinh thái” (ecoside). Quân đội Mỹ đã công phá môi trường trên quy mô rộng lớn và kéo dài trong nhiều năm, một cách đồng bộ đã làm cho nhiều hệ sinh thái tự nhiên với diện tích rộng lớn ở Việt Nam bị phá hủy. Các phương tiện được sử dụng là vật liệu nổ (bom nổ, bom cháy, mìn các loại), xe ủi cỡ lớn và đặc biệt là các hóa chất độc diệt cỏ. Tất cả những vật liệu đó không những đã gây ra hậu quả nghiêm trọng đối với sức khỏe con người mà còn gây ra những hậu quả trước mắt và lâu dài lên đất, sự cân bằng dinh dưỡng, chế độ thủy văn, cây cối, động vật, và có thể còn gây tác động lên cả khí hậu Việt Nam và các vùng xung quanh.
Hậu quả về sinh thái quan trọng nhất của chất độc hóa học là các hệ sinh thái rừng. Trước chiến tranh, rừng miền Nam Việt Nam có diện tích bao phủ là 10,3 triệu ha. Trong suốt thời gian chiến tranh, từ năm 1961 tới năm 1971, đã có trên 77 triệu lít chất độc hóa học được sử dụng (Stellman, 2003), hầu hết là chất da cam, trong đó có chứa dioxin (TCDD) với nồng độ độc cao từ 3 – 4 mg/l, nhưng còn cao hơn nhiều trong trường hợp sản xuất với quy mô lớn và khẩn cấp. Diện tích các khu vực bị phun rải chiếm 24% diện tích Nam Việt Nam (FIDI 2007), 86% lượng chất độc hóa học được trực tiếp rải lên đất rừng, 14% còn lại được rải trực tiếp lên đất nông nghiệp mà chủ yếu là đất trồng lúa. Sự tấn công của quân đội Mỹ đã làm cho hơn 2 triệu ha đất rừng bị phá hủy. Tác động của chất độc hóa học rất đa dạng, nhưng cuối cùng đã phá hủy trên 150.000 ha rừng ngập mặn và khoảng 130.000 ha rừng tràm của vùng châu thổ sông Mekong và hàng trăm nghìn ha đất rừng nội địa. K. Graham, một nhà báo và nhà văn Mỹ đã phải nhận xét: “Không ở đâu sử phá hủy môi trường lại tàn bạo như ở Việt Nam trong cuộc chiến tranh vừa qua, chiến tranh đánh vào các khu rừng nhiệt đới Đông Nam Á. Bom đạn thiêu hủy cây cối và làm tắc nghẽn dòng chảy. Chất diệt cỏ phá hủy cây rừng. Các loại máy móc khác của chiến tranh lại giáng tai họa nhiều hơn vào các hệ sinh thái trong lúc đi tìm kiếm mục tiêu con người”. Các chất độc hóa học đã được rải từ vĩ tuyến 17 tới tận mũi Cà Mau. Rất nhiều loại rừng và tài nguyên thiên nhiên Nam Việt Nam bị tác động. Cuộc chiến tranh hóa học ở Việt Nam là một cuộc chiến tranh chưa từng xảy ra trong lịch sử, nó đã phá hủy nhiều vùng rừng rộng lớn, là cơ sở rất quan trọng của sự phát triển bền vững của đất nước Việt Nam. Một lượng lớn chất độc hóa học với nồng độ cao đã được rải lặp đi lặp lại nhiều lần, và trong thời gian dài trên một diện tích rộng lớn ở miền Nam Việt Nam. Ước tính khoảng 34% các khu vực mục tiêu đã bị phun rải nhiều lần và một vài khu vực, đặc biệt là đất rừng nội địa bị rải trên 4 lần. Chất độc hóa học đã giết chết cây cối, các loài động vật, gây ô nhiễm môi trường, và làm đảo lộn các hệ sinh thái tự nhiên, làm thiệt hại lớn tới tài nguyên rừng. Chất diệt cỏ rải với nồng độ cao không chỉ phá hủy thành phần dinh dưỡng trong đất, làm cho đất bị cằn cỗi, mà với điều kiện khí hậu nhiệt đới gió mùa như ở Nam Trung Bộ Việt Nam, các khu rừng không thể tự phục hồi được. Chất độc hóa học do Mỹ sử dụng đã làm thay đổi hệ sinh thái của cả một vùng rộng lớn dẫn đến thoái hóa nghiêm trọng, chuyển những hệ sinh thái phong phú thành một vùng cằn cỗi, xơ xác và cuối cùng đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sông con người. Trong thời gian tiếp xúc với các chất độc hóa học, hàng trăm loài cây bị rụng lá. Nhiều loài cây gỗ lớn trong rừng bị chết dẫn đến suy giảm nguồn gen của một số loài quý hiếm. Hậu quả là tán rừng bị phá hủy và môi trường rừng xấu đi nhanh chóng. Tại những vùng rộng lớn bị phun rải liên tục nhiều lần, cây rừng hoàn toàn bị phá hủy (nhiều vùng rộng hàng trăm km2), điều kiện sinh thái cũng bị thay đổi hoàn toàn. Mỗi khi không còn rừng che phủ, đất mặt bị xói mòn do mưa gió. Điều kiện thuận lợi cho cây rừng sinh trưởng, như độ ẩm của đất, ánh sáng, và nhiệt độ cũng thay đổi, vì thế mà cây rừng không sinh trưởng bình thường. Ngoài ra, cây con và hạt giống cây rừng cũng không thể chuyển đến đây từ các khu rừng lân cận vì quá xa. Ngoài ra, mỗi khi cỏ dại xâm lấn, vào mùa khô lại rất dễ bị cháy, cho nên cây rừng rất khó mọc lại và phát triển một cách tự nhiên. Tại rất nhiều khu vực rừng bị rải chất độc hóa học nhiều lần, cùng với sự tàn phá của bom đạn, xe ủi đất, bom cháy thiêu trụi những cây non vừa mọc lại đã làm giảm khả năng sinh sản tự nhiên của các loài trong rừng. Khi rừng cây bị chết, chỉ ít lâu sau, các loài cỏ dại như Pennisetum polystachyum (được nhân dân Việt Nam gọi là cỏ Mỹ), cỏ tranh (Imperata cylindrica) lại xuất hiện (Võ Quý, 1983). Các hình ảnh chụp vệ tinh trong các thời gian khác nhau đã chứng tỏ rằng nhiều vùng bị rải chất độc hóa học vẫn chưa được phục hồi, nhiều dải rừng bị rải chất độc hóa học vẫn là những trảng cỏ trơ trụi, không có bóng cây rừng và đang bị xói mòn. Trong thời gian chiến tranh Việt Nam, rừng nội địa và rừng ngập mặn đã bị đánh phá ác liệt. Chất độc hóa học đã trực tiếp giết chết nhiều loài thú và chim, nhưng tác động nghiêm trọng nhất là các hệ sinh thái bị phá hủy, làm mất nơi cư trú của các loài động vật đặc hữu của Đông Nam Á. Hầu hết các loài này hiện nay rất hiếm và một vài loài đang có nguy cơ bị tuyệt chủng (Võ Quý, 1983). 2.Ảnh hưởng của dioxin đến môi trường đất
Trong môi trường sinh thái, dioxin ít hoà tan trong nước nhưng khả năng hấp thụ vào đất lại khá cao. Khi xâm nhập vào đất, dioxin kết hợp với các chất hữu cơ biến thành các phức chất không hoà tan trong nước và ít bị rửa trôi, do vậy, những lớp đất có lượng mùn cao ở khu vực nhiễm độc dioxin có khả năng tích tụ dioxin nhiều nhất. Dioxin có thể chuyển rời ra khỏi những nơi tích tụ ban đầu nếu khu vực đất nhiễm dioxin bị sạt lở, và theo dòng nước cuốn đi xa, tạo thành những khu vực nhiễm độc mới.
Đầu những năm 1970, một số nhà khoa học cho rằng chu kỳ bán phân huỷ của dioxin trong đất là 1 năm. Tuy nhiên, sau khi nghiên cứu thực nghiệm ở những khu vực bị nhiễm dioxin do sự cố hoá chất, nhiều nhà khoa học cho rằng chu kỳ bán phân huỷ của dioxin phải tới hàng chục năm.
Hồ nhiễm chất dioxin cao, nơi gần kho cất trữ chất diệt cỏ cũ của Mỹ. (Ảnh: Kuni Takahashi / Chicago Tribune, 1/7/2009
Những nghiên cứu của các nhà khoa học trên thế giới đã khẳng định tính khó tiêu huỷ của dioxin trong môi trường với chu kỳ bán huỷ lên tới hàng chục năm. Thực tế ở nước ta cho thấy chu kỳ bán huỷ của dioxin có khả năng còn hơn thế nữa. Gần 30 năm sau chiến tranh, di chứng của dioxin vẫn hiển hiện trên nhiều vùng lãnh thổ. Có những khu rừng rậm nhiệt đới vốn giàu có về đa dạng sinh học, sau khi bị phun rải chất độc da cam, cho đến nay vẫn chưa thể tự hồi phục.
Những nghiên cứu trên cơ thể thực vật cho thấy, khi bị phun rải chất độc da cam, cơ thể thực vật sẽ có những phản ứng sinh lý, như xuất hiện nhiều u nổi trên lá, một số thay đổi khá rõ nét về hình dáng thân, cành, lá, hoa và quả, nhiều trường hợp dẫn tới rụng lá. Nếu cây không mọc lá trở lại, có nghĩa là chấm dứt sự quang hợp, dẫn đến chết cây. Chất độc da cam cũng gây tiêu huỷ các chất hữu cơ trong đất, dẫn đến sự giảm sút các hoạt động của vi sinh vật trong đất, gây hậu quả phá huỷ cơ cấu thành phần thổ nhưỡng và xói mòn đất. Hệ động vật cũng chịu tổn thất rất nặng nề. Sau mỗi đợt máy bay phun rải chất độc hoá học, trên mặt đất la liệt xác động vật chết. Những cá thể loài sống sót vẫn có thể tiếp tục chết nếu ăn phải thức ăn hoặc uống phải nguồn nước bị nhiễm độc.
Những nghiên cứu trên cơ thể thực vật cho thấy, khi bị phun rải chất độc da cam, cơ thể thực vật sẽ có những phản ứng sinh lý, như xuất hiện nhiều u nổi trên lá, một số thay đổi khá rõ nét về hình dáng thân, cành, lá, hoa và quả, nhiều trường hợp dẫn tới rụng lá. Nếu cây không mọc lá trở lại, có nghĩa là chấm dứt sự quang hợp, dẫn đến chết cây. Chất độc da cam cũng gây tiêu huỷ các chất hữu cơ trong đất, dẫn đến sự giảm sút các hoạt động của vi sinh vật trong đất, gây hậu quả phá huỷ cơ cấu thành phần thổ nhưỡng và xói mòn đất. Hệ động vật cũng chịu tổn thất rất nặng nề. Sau mỗi đợt máy bay phun rải chất độc hoá học, trên mặt đất la liệt xác động vật chết. Những cá thể loài sống sót vẫn có thể tiếp tục chết nếu ăn phải thức ăn hoặc uống phải nguồn nước bị nhiễm độc.
Có khoảng 366 kg dioxin (Stellman 2003) được phun rải xuống miền Nam Việt Nam, chủ yếu là vùng nông thôn. Cho đến nay, dấu vết của dioxin vẫn được tìm thấy trong đất ở hầu hết các vùng bị nhiễm nặng - khoảng 25 “điểm nóng”, như một vài căn cứ quân sự của Mỹ và một số chỗ mà máy bay Mỹ phải trút bỏ chất độc da cam lúc khẩn cấp. Chất dioxin đã gây tác động nặng nề tới môi trường và dân cư địa phương. Các nghiên cứu thực hiện tại một vài điểm nóng như sân bay A So (Thừa Thiên – Huế), Đà Nẵng, Biên Hòa chỉ ra rằng chất dioxin vẫn tiếp tục ảnh hưởng tới sức khỏe người dân sống tại các vùng này. Dioxin từ đất xâm nhập vào cơ thể con người thông qua chuỗi thức ăn. Dioxin còn có thể xâm nhập vào cơ thể con người theo con đường hô hấp như hít phải bụi có bám dioxin, thấm qua da hoặc khi trẻ nhỏ nuốt phải các vật thể nhỏ có bám dioxin (Dwerchk vaf cs. 2002). Hầu hết dioxin tìm thấy đều có liên quan tới hợp chất 2,3,7,8-TCDD có trong chất da cam, không phải là nguồn dioxin trong công nghiệp.
Hình ảnh 1 vùng đất ở Đà Nẵng trước vf sau khi nhiễm dioxin
BIỆN PHÁP XỬ LÝ ĐẤT BỊ NHIỄM DIOXIN
Cải tạo đất rừng bị nhiễm dioxin
Để phục hồi độ che phủ của rừng tại các vùng bị phun rải chất độc hóa học, cần thiết phải trồng cây gây rừng vì chúng ta không thể trông đợi vào sự phục hồi tự nhiên của các khu rừng bị ảnh hưởng, và chúng ta cũng không biết phải mất bao nhiêu thời gian, rừng mới tự phục hồi. Phục hồi rừng bi phá hủy do chất độc hóa học là công việc khó khăn, khẩn cấp và là một quá trình tiêu tốn công sức và tiền của. Hiểu rõ việc mất rừng là một nhân tố quan trọng đe dọa đến năng suất lâu dài của các nguồn tài nguyên, chúng tôi đã bắt đầu một chương trình trồng rừng với quy mô rộng để xanh hóa những vùng đất bị rải trong chiến tranh, đồng thời sửa chữa những sai lầm trong quá trình phát triển nhanh chóng, và ngăn chặn ảnh hưởng của biến đổi khí hậu. Mục đích là phục hồi 40 – 50% diện tích đất nước vào thế kỷ 21. Với cách làm như vậy, chúng tôi hy vọng sẽ tái thiết lập cân bằng sinh thái ở Việt Nam, bảo tồn đa dạng sinh học, và góp phần ngăn chặn sự nóng lên toàn cầu và quan trọng nhất là giảm bớt cuộc sống khó khăn, nghèo nàn mà người dân ở những khu vực này đang phải gánh chịu. Để trồng 1 hoặc 2 cây thì dễ, nhưng để trồng hàng ngàn ha rừng thì không đơn giản, đặc biệt là tại các vùng đất đang ngày càng cằn cỗi. Sau chiến tranh, các nhà khoa học Việt Nam đã cố gắng trồng lại một số loài cây bản địa tại các vùng đất bị phá hủy do chất độc hóa học của Mỹ sử dụng trong chiến tranh. Tuy nhiên sự thử nghiệm đã thất bại, những cây non bị chết do sức nóng của vùng nhiệt đới trong mùa khô. Ngày nay, chúng tôi đã bước đầu thành công trong việc trồng hàng ngàn ha rừng nhiệt đới. Để bảo vệ các cây non khỏi cái nóng bức của vùng nhiệt đới, trước tiên các nhà khoa học Việt Nam đã trồng những lòai cây rừng mọc nhanh để tạo nên độ che phủ cần thiết cho các vùng đất trống. Sau khoảng 3 năm, khi cây đã có đủ chiều cao, chúng tôi trồng xen một vài loài cây bản địa ở phía dưới chúng. Đến nay, chúng tôi đã có những nỗ lực trong việc phủ xanh các vùng đất bị ảnh hưởng chất độc da cam/dioxin, nhưng vẫn còn nhiều việc phải làm, trong khi các nguồn tài nguyên lại có hạn. Để cải thiện chất lượng phục hồi tại các vùng bị phá hủy, nâng cao hiểu biết cho người dân địa phương và khắc phục cả những nguyên khác gây nên thất bại trong việc phục hồi các vùng đất bị hại, cần thiết phải nâng cao năng lực cho người dân. Việc cần làm đầu tiên là tổ chức các khóa đào tạo để trang bị những kiến thức về tác động của chất độc hóa học đối với môi trường và cuộc sống cho các nhà quản lý, nhân viên kỹ thuật, những người nông dân chủ chốt tại các khu vực bị ảnh hưởng, đồng thời cung cấp cho họ kiến thức, kỹ năng và kỹ thuật cần thiết cho việc phục hồi vùng đất bị suy thóai, để cải thiện cuộc sống của họ, phát triển một cơ chế và mạng lưới các nhà quản lý cùng với những người họat động thực tiễn về sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên để phục hồi đất bị thoái hóa. Trong năm 2008, với sự tài trợ tài chính của quỹ Ford, dự án “Đào tạo nguồn nhân lực cho địa phương nhằm phục hồi hệ sinh thái rừng và tái sử dụng đất bị suy thoái do ảnh hưởng chất độc hóa học trong chiến tranh” đã được thực hiện tại Quảng Trị, miền Trung Việt Nam với sự tham dự của 183 người. Trong đó có 92 nhà quản lý và nhân viên kỹ thuật, 91 nông dân từ 7 huyện của tỉnh đó. Nhận thức của những người tham gia thuộc cả 3 nhóm mục tiêu đã được nâng lên đáng kể. Cán bộ các sở, ban, ngành của tỉnh và các huyện đã hiểu được sự liên quan giữa phát triển bền vững và hồi phục các vùng đất bị thiệt hại do chất độc hóa học sử dụng trong chiến tranh, bằng các biện pháp thích hợp, đặc biệt là các biện pháp sản xuất nông nghiệp và lâm nghiệp. Nhân viên kỹ thuật các sở, ban, ngành và các huyên về môi trường, về nông nghiệp và phát triển nông thôn có thể tìm thấy các giải pháp cụ thể phù hợp với điều kiện của tỉnh nhà để nâng cao các loại sản phẩm, đồng thời bảo vệ môi trường theo hướng phục hồi các vùng đất bị suy thoái và ngăn chặn những suy thoái tiếp theo. Ở cấp độ gia đình, những người nông dân giỏi có thể đánh giá điểm mạnh và yếu của họ theo nguyên tắc bền vững và đề xuất các biện pháp thích hợp để giải quyết vấn đề. Rất nhiều người nông dân tham gia tập huấn đã bắt đầu áp dụng những kiến thức học được và chia sẻ kinh nghiệm với những người khác.
2.Các biện pháp cải tạo đất bị nhiễm dioxin
2.1.Biện pháp xử lý bằng hóa lý
Dùng công nghệ nhiệt độ thấp dưới 1700C thay thế cho công nghệ nhiệt độ cao trên 2200C trong quá trình sản xuất polychlorobenzen, polychlorophenol.
Đóng cửa hoặc cải tạo lại các nhà máy đốt phế thải công nghiệp và rác thải sinh hoạt nếu hàm lượng dioxin và furan clo hoá trong hơi - khói bụi của nhà máy vượt quá ngưỡng cho phép 0,1 ng/m3 (1 ng =10-9 g).
Trong năm 1985, nước Mỹ đã dỡ bỏ 300 lò đốt rác và không một lò đốt rác mới nào được phép xây dựng theo công nghệ cũ. Ở Pháp, 7.700 lò đốt rác đã thải ra lượng dioxin gấp 70-100 lần so với các nước Bắc Âu. Năm 2002, Pháp đã xây lại hơn 150 điểm xử lý rác thải sử dụng công nghệ mới. Nhật Bản đã liệt kê dioxin vào danh sách các chất độc hoá học từ lâu và tăng cường kiểm soát theo Luật Môi trường, cho phép các nhà chức trách cấp tỉnh được ra lệnh ngưng hoạt động các lò đốt rác đã xuống cấp nghiêm trọng. Năm 1988, Chính phủ Nhật Bản đã chi 23 triệu USD để cải tiến lò đốt nhằm giảm mức phát thải dioxin trong khói thải của gần 30 nhà máy. Một trong những cải tiến đó là lắp đặt các thiết bị lọc - hấp thụ khói bụi có chứa có chứa dioxin, furan clo hoá và phân huỷ chúng thành những chất ít hoặc không độc. Thay thế điện cực anốt làm bằng cacbon hoặc graphít trong quá trình sản xuất clo, xút (NaOH) bằng cách điện phân muối ăn (NaCl).
Nghiên cứu thay thế khí clo bằng ôzon (O3) để khử khuẩn trong nước tại các nhà máy cấp nước. Nghiên cứu thay thế clo bằng các chất oxy hoá khác trong công đoạn tẩy trắng của các nhà máy giấy - xenluloza.
2.2. Biện pháp ngăn chặn dioxin và các chất tương tự dioxin phát tán ra môi trường
Trồng rừng ở những khu vực trước đây đã bị phun rải chất diệt cỏ da cam/dioxin nhằm tránh xói mòn đất mang theo dioxin ra khỏi nơi tích tụ ban đầu.
Sử dụng vật liệu lọc - hấp phụ (zeolít, than hoạt tính) đặt ở những vị trí thích hợp trên đường chuyển động của dòng khí, dòng chảy nhiễm dioxin - furan clo hoá để lọc và hấp thụ chúng. Kỹ thuật này đã được đưa vào áp dụng trong xử lý dioxin tại các sân bay “khai quang” Biên Hoà, Đà Nẵng và Phù Cát ở nước ta.
2.3.Phân huỷ dioxin, furan clo hoá thành các chất ít hoặc không độc
Phân huỷ nhiệt dioxin và furan clo hoá trong đó có đồng phân 2,3,7,8- tetrachlorodibenzo-p-dioxin (TCDD) - là chất bền nhiệt, chỉ ở nhiệt độ cao trên 7000C mới bị phân huỷ nhanh và phân huỷ hoàn toàn ở 1.2000C. Nội dung cơ bản của phương pháp này là: Đất bị nhiễm dioxin được nghiền thành hạt có kích cỡ thích hợp, rồi đưa vào lò thiêu ở nhiệt độ 8000C. Tại đây, dioxin bay hơi; hỗn hợp khí được chuyển sang một buồng kín khác ở nhiệt độ trên 1.2000C, dioxin bị phân huỷ hoàn toàn.
Mỹ đã dùng phương pháp này để thiêu huỷ 2 triệu ga-lông (1 ga-lông = 3,785 lít) chất diệt cỏ da cam tồn lại sau chiến tranh Việt Nam trên đảo Johnston. Để tiết kiệm năng lượng điện, người ta thiêu đốt dioxin với sự có mặt của chất xúc tác nên có thể hạ thấp nhiệt độ lò thiêu xuống dưới 3000C.
Italia đã tiến hành tẩy độc vùng đất nhiễm dioxin cao sau thảm hoạ Seveso năm 1976, với khối lượng lên tới 120.000 m3 đất có hàm lượng dioxin là 45 ppt và 200.000 m3 đất có hàm lượng dioxin là 7 ppt. Công suất lò thiêu 250 tấn/ngày đêm.
Phân huỷ hoá học: Ở nhiệt độ khoảng 2500C, dioxin và furan clo hoá bị các axit vô cơ có tính oxy hoá mạnh phân huỷ hoàn toàn thành những chất không độc. Dưới tác dụng của kiềm đặc, nhiệt độ và áp suất cao, các nguyên tử clo bị thay thế từng phần bằng các nhóm hydroxyl để trở hành chất ít độc.
Phân huỷ bằng ánh sáng mặt trời: Ánh sáng mặt trời và tia tử ngoại phân huỷ dioxin theo hướng “đề” clo hoá, sinh ra các sản phẩm thế clo thấp hơn hoặc không chứa clo. Sự quang phân TCDD, ngoài tác dụng trực tiếp của ánh sáng mặt trời còn cần phải có các chất cung cấp hydro. Tốc độ quang phân phụ thuộc vào sự hấp thụ ánh sáng mặt trời. Sản phẩm chủ yếu là 2,3,7- trichlorodibenzo-p-dioxin.
Phân huỷ bằng vi sinh vật: Vi sinh vật phân huỷ dioxin với tốc độ chậm. Người ta đã chọn được 5 dòng vi sinh vật có khả năng phân huỷ dioxin. Trong số các vi sinh vật có sẵn trong đất, nước, không khí; chỉ có dòng vi sinh vật nào sản sinh ra hydro mới có khả năng phân huỷ hết dioxin. Người ta đã tiến hành thí nghiệm với 3 liều lượng 1,78 - 3,56 - 17,80 ppm TCDD chứa cacbon đồng vị 14C trên hai lô đất ở Mỹ. Sau một năm, lượng dioxin trong đất còn lại 52,8%. Phương pháp này cũng được đưa vào áp dụng trong xử lý dioxin ở sân bay Đà Nẵng và Seveso.
Gần đây, các nhà khoa học thuộc Khoa Nông nghiệp, Trường Đại học tổng hợp Kyoto, Nhật Bản đã tạo ra được một loại vi khuẩn “ăn” dioxin. Đây là sản phẩm ghép gen của một sinh vật đơn bào khác có khả năng “nuốt” các phân tử vật chất bằng cách hút chúng qua một bộ phận đặc biệt giống như miệng. Trong quá trình thực nghiệm, các nhà khoa học đã đưa vào loại vi khuẩn phân rã dioxin 5 gen của vi khuẩn khác có thể “mở miệng” thêm tới 10% so với kích cỡ cũ. Vi khuẩn dùng các men (enzyme) để làm phân rã chất độc thành các phần tử nhỏ xíu rồi hút vào bên trong nó. Kết quả là chất độc được thủ tiêu nhanh hơn gấp 2 lần so với trước.
Phương pháp phóng xạ: Cơ quan bảo vệ môi trường (EPA), Mỹ đã sử dụng bức xạ gamma của coban 60 (60Co) để phân huỷ dioxin, khi cường độ chùm tia phóng xạ lớn hơn 800 KGy thì có tới 90% 2,3,7,8- tetrachlorodibenzo-p-dioxin bị phân huỷ. Những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu suất phân huỷ là độ ẩm của đất, hàm lượng chất hoạt động bề mặt trộn vào đất nhiễm dioxin. Thực chất đây cũng là phương pháp “đề” clo hoá.
2.4.Cô lập vùng đất nhiễm dioxin bằng cây bồ kết
Một biện pháp đơn giản mà tiến sĩ Bôi nghĩ đến là hạn chế việc di chuyển dioxin qua tiếp xúc và thức ăn bằng cách không cho họ vào khu vực nguy hiểm. Nhưng nếu xây hàng rào bê tông, dây thép gai..., vừa tốn kém vừa không hiệu quả bởi một ngày nào đó dân cũng lấy thép gai đem bán. Chỉ có cách trồng cây, vừa ít tốn kém, chỉ khoảng 30.000 đồng mỗi m2, lại cải thiện được môi trường. Cây bồ kết với nhiều gai nhọn, lại có thể cho quả, tạo thu nhập mà người dân cũng không thể chặt phá lấy củi vì củi bồ kết rất khói khi đốt là khả dĩ nhất.
Nghĩ thì đơn giản, nhưng để trồng được hàng rào cây xanh tại vùng đất được gọi là “đất chết” không hề đơn giản. Năm 2005, sau khi xây dựng dự án, tiến sĩ Bôi và nhóm nghiên cứu thuyết phục được các chuyên gia của Ngân hàng Thế giới và được tài trợ hai vạn cây bồ kết gai và cây keo gai làm hàng rào phụ bao quanh 1ha đất nhiễm dioxin. 3.Các phương pháp cải tạo bùn bị nhiễm dioxin
3.1. Các công đoạn xử lý
Các sáng chế hiện nay liên quan đến một quá trình để loại bỏ dioxin từ bùn trong các cơ sở điều trị lọc được trong các trang web xử lý rác thải chất thải nói chung và trong các cơ sở xử lý nước thải công nghiệp. Các tiến trình sau đây nói chung là làm cho xử lý nước thải có chứa dioxin, ví dụ, trong điều trị lọc được từ một trang web tổng hợp chất thải xử lý rác thải và xử lý nước thải công nghiệp như bột nước thải nhà máy. Quá trình điều trị lọc được từ bãi rác một bao gồm các bước: loại bỏ bụi bẩn, cát và các loại tương tự tại một nhà máy tiền xử lý; loại bỏ kim loại nặng như canxi và mangan do đông máu và trầm tích của chúng trong một nhà máy loại bỏ canxi; loại bỏ các chất BOD ( BOD) và nitơ có chứa chất (TN) của phân huỷ sinh học của chúng trong một nhà máy xử lý sinh học; loại bỏ các chất COD (COD), những vấn đề nổi, phốt pho, có chứa chất (TP) và các loại tương tự do đông máu và trầm tích của chúng trong một nhà máy đông máu trầm tích / ; loại bỏ những vấn đề mỹ nổi trong một tháp lọc cát; loại bỏ dioxin còn lại trong lọc được trong một cột hấp phụ than hoạt tính sau khi điều trị trong một lò phản ứng cực tím ozone; và phát hành lọc được kết quả. Bùn sản xuất tại nhà máy loại bỏ canxi, xử lý nhà máy sinh học, sự đông / trầm tích thực vật và như thế là dày trong một chất làm đặc bùn, và sau đó được lưu giữ trong một bồn chứa bùn. Sau đó, một promoter thoát nước được thêm vào trong bùn, đó là lần lượt dewatered bằng một máy ép bùn máy. The dewatered sludge cake is again disposed of in a landfill of the final disposal site. Các bánh bùn dewatered là một lần nữa xử lý trong một bãi rác của các trang web xử lý rác thải. Tuy nhiên, một tỷ lệ lớn của dioxin được kết hợp trong bùn sản xuất tại nhà máy loại bỏ calcium, điều trị các nhà máy sinh học, sự đông máu / lắng nhà máy và muốn. Do đó, nếu chiếc bánh bùn dewatered là xử lý tại bãi rác này, dioxin được tích lũy trong các bãi rác của các trang web xử lý rác thải, và một lần nữa leached ra vào lọc được Kết quả là, sự phân hủy và loại bỏ dioxin đòi hỏi một thời gian dài. Để giải quyết vấn đề nêu trên, nó là một đối tượng của sáng chế hiện tại để cung cấp một quá trình cho phân hủy và loại bỏ dioxin chứa trong bùn. Để đạt được các đối tượng nêu trên, quá trình này theo các sáng chế hiện nay bao gồm các bước: slurrying bùn được đối xử; ứng dụng bức xạ siêu âm để bùn để phân hủy chất dioxin chứa trong bùn trong một lĩnh vực phản ứng được phát triển bởi các ứng dụng của bức xạ và siêu âm chuyển các chất ô nhiễm bao gồm các sản phẩm phân hủy kết quả từ một pha rắn để một pha lỏng của bùn các; và tách bùn vào giai đoạn có chứa các chất gây ô nhiễm chất lỏng và pha rắn miễn phí từ dioxin do ly thân rắn có nghĩa là chất lỏng. Ví dụ về bùn được đối xử theo quy trình nói trên bao gồm bùn thô, bùn dày, dewatered bùn và hỗn hợp của chúng. Bùn này được truyền đạt với một lỏng thích hợp do slurrying biết. Việc áp dụng các tiến hóa siêu âm gây ra bức xạ, phân tán, mở rộng và lòng của bong bóng cavitation trong bùn, do đó phát triển một lĩnh vực phản ứng ở nhiệt độ C. vài ngàn độ và áp suất khí quyển của một số hàng trăm áp lực. Các lĩnh vực gây ra phản ứng phân hủy của dioxin có trong bùn. Trong lĩnh vực phản ứng, các gốc hydro, các gốc oxy, các gốc hydroxyl, các gốc nitơ và các loại tương tự được tạo ra từ các nước xung quanh sâu răng và oxy và nitơ hòa tan trong đó, theo đó các hợp chất oxy hóa như hydrogen peroxide, acid nitơ và axit nitric được tạo ra. Những gốc tự do và ôxi hóa các hợp chất bị phân hủy dioxin và các chất ô nhiễm chứa trong bùn. Các chất ô nhiễm khác gương mẫu bao gồm các chất COD (COD), chất BOD (BOD) và nitơ có chứa chất (TN). Mặt khác, dioxin và các chất ô nhiễm khác (COD, BOD, TN và các loại tương tự) đưa vào bề mặt và phần bên trong của bùn được chuyển từ pha rắn với pha lỏng bằng năng lượng rung động của bức xạ siêu âm. Kết quả là, dioxin và các chất ô nhiễm khác có hiệu quả hơn bị trường phản ứng do đó thường xuyên hơn để được đưa vào liên hệ với các gốc tự do và các hợp chất ôxi hóa. Như vậy, phân hủy của dioxin và các chất ô nhiễm được phát huy. Việc tách rắn chất lỏng của bùn được điều trị cung cấp cho bùn đó là miễn phí từ dioxin. Ngoài dioxin, các chất gây ô nhiễm khác có thể được gỡ bỏ từ bùn ban đầu. Đối với ứng dụng hiệu quả các bức xạ siêu âm, nồng độ hiệu quả trong bùn bùn là trong phạm vi một khoảng 0,1% và 10% trên tổng số chất rắn (TS) cơ sở. Nếu bùn được slurried ở một nồng độ 0,1% hoặc thấp hơn, tổng số tiền của slurry kết quả là quá lớn, do đó một số lượng lớn hơn năng lượng cần thiết cho điều trị. Nếu bùn được slurried ở một nồng độ 10% hoặc cao hơn, các slurry kết quả có độ nhớt cao hơn và do đó một lỏng nghèo, do đó hiệu quả phản ứng được giảm xuống. Các tần số hiệu quả của các bức xạ siêu âm là khoảng 20 kHz đến 500 kHz, tốt hơn 40 kHz đến 200 kHz, tùy thuộc vào loại chất gây ô nhiễm và các điều kiện điều trị. Nhiệt độ hiệu quả của bùn là khoảng 10 ° C. khoảng 50 ° C. Điều này làm tăng nhiệt độ phản ứng của trường phản ứng, các gốc tự do và các hợp chất ôxi hóa. Để điều trị hiệu quả hơn, một chất khí có chứa oxy được thổi vào bùn khi bùn là đối tượng của các bức xạ siêu âm. Do đó, một trường giàu ôxy phản ứng được phát triển, do đó sự phát triển của sâu răng và thế hệ của các gốc tự do và các hợp chất ôxi hóa có thể được tăng cường để thúc đẩy sự phân hủy của dioxin. Hình. 1 là một sơ đồ khối minh họa việc xây dựng một bộ máy để loại bỏ dioxin thông qua phân hủy của chúng theo một trong những hiện thân của những sáng chế hiện nay; Hình.2 là một đồ thị cho thấy một mối quan hệ giữa tỷ lệ loại bỏ dioxin và thời gian sonication theo quy định hiện thân của; Hình.3 là một tấm dòng hiển thị một quá trình để loại bỏ dioxin thông qua phân hủy của chúng theo một hiện thân của những sáng chế hiện nay; Hình. 4 là sơ đồ minh họa ablock một bộ máy để thực hiện một quá trình xử lý hình ảnh hóa học sử dụng bức xạ tia cực tím và ozone kết hợp theo quy định hiện thân Hình. 5 là một tấm dòng hiển thị một quá trình để loại bỏ dioxin thông qua đó phân hủy theo quy định hiện thân khác của sáng chế hiện nay nữa. Một trong những hiện thân của những sáng chế hiện tại sau đây sẽ được mô tả với tham chiếu đến các bản vẽ. Căn cứ theo hình. 1 một tàu phản ứng 1 bao gồm các yếu tố dao động siêu âm 2 xử lý trên dưới cùng của chúng, và một đầu dò 3 kết nối với các phần tử dao động 2 được cung cấp bên ngoài tàu phản ứng 1. Một thiết bị thông gió 4 được cung cấp trong tàu phản ứng 1, và thổi một 5 kết nối với thiết bị thông gió 4 được cung cấp bên ngoài tàu phản ứng 1. Một hệ thống lưu hành 6 bao gồm một đường ống 7 có một đầu gần cuối kết nối với một phần dưới cùng của tàu phản ứng 1 và kết thúc một xa mở cửa vào bên trong tàu phản ứng 1, và lưu hành một máy bơm 8 và trao đổi một nhiệt 9 xử lý trên ống dòng 7.. Các trao đổi nhiệt 9 được cung cấp với một chất làm nguội (không hiển thị) để làm mát bùn chảy từ tàu qua đường ống dẫn 7. Các máy bơm lưu thông 8 là actuated và dừng lại trên cơ sở nhiệt độ của bùn trong phản ứng 1 tàu đo bằng một nhiệt kế 10, qua đó điều chỉnh nhiệt độ của bùn trong tàu phản ứng ở một mức độ định trước. Một đường ống xả 11 là nhánh từ đường ống 7 hạ lưu của các máy bơm lưu thông 8, và van một đầu tiên 12 và van một thứ hai 13 được cung cấp trên đường ống 7 và ống xả 11, tương ứng, hạ lưu của điểm chi nhánh. Các slurry 14 sẽ được tính phí vào tàu phản ứng 1 là do nguyên slurrying bùn, bùn dày, dewatered bùn hoặc hỗn hợp của chúng có chứa nồng độ dioxin trong bùn định trước, và có một lỏng thích hợp. Một số lượng định trước của slurry 14 được giữ lại trong tàu phản ứng 1. Các slurry 14 là có ga với không khí cung cấp thông qua các thiết bị thông gió 4 từ blower 5 do đó được kích động đến dòng chảy bên trong các mạch phản ứng 1. Với tình trạng này, một điện áp dao động được áp dụng cho các yếu tố dao động 2 từ đầu dò 3 để dao động các yếu tố dao động 2 đối với thế hệ của bức xạ siêu âm, mà là áp dụng cho các slurry 14. Việc áp dụng các bức xạ siêu âm tiến hóa bong bóng cavitation trong bùn 14, và phát triển nguyên nhân, phân tán, mở rộng và lòng sâu răng. Vào lúc này, một lĩnh vực phản ứng ở nhiệt độ C. vài ngàn độ và áp suất khí quyển của một số hàng trăm áp lực được hình thành trong bùn 14. Lĩnh vực này gây ra phản ứng phân hủy của dioxin chứa trong bùn trong bùn 14. Trong lĩnh vực phản ứng, các gốc hydro, các gốc oxy, các gốc hydroxyl, các gốc nitơ và các loại tương tự được tạo ra từ các nước xung quanh sâu răng và oxy và nitơ hòa tan trong đó, theo đó các hợp chất oxy hóa như hydrogen peroxide, acid nitơ và axit nitric được tạo ra. Những gốc tự do và ôxi hóa các hợp chất bị phân hủy dioxin và các chất ô nhiễm khác (COD, BOD, TN và như thế) chứa trong bùn 14. Các slurry 14 được cung cấp với sục khí oxy qua là trong một nhà nước giàu ôxy, do đó sự phát triển của sâu răng và thế hệ của các gốc oxy hóa và các hợp chất được tăng cường để thúc đẩy sự phân hủy của dioxin. Mặt khác, dioxin và các chất ô nhiễm khác (COD, BOD, TN và các loại tương tự) đưa vào bề mặt và phần bên trong của bùn được chuyển giao từ một pha rắn để một pha lỏng của bùn 14 bằng năng lượng rung động của bức xạ siêu âm . Kết quả là, dioxin và các chất ô nhiễm có hiệu quả hơn bị trường phản ứng do đó thường xuyên hơn để được đưa vào liên hệ với các gốc tự do và các hợp chất ôxi hóa.. Như vậy, phân hủy của dioxin và các chất ô nhiễm được phát huy. Do đó, nhiệt độ bên trong của con tàu phản ứng được đo bằng phương tiện của các nhiệt kế 10. Các máy bơm lưu thông 8 là actuated và dừng lại trên cơ sở đo nhiệt độ, và bùn 14 chảy qua đường ống 7 được làm lạnh bằng phương tiện của trao đổi nhiệt 9 để điều tiết nhiệt độ của bùn 14 trong tàu ở mức độ định trước. Vào lúc này, van đầu tiên 12 được mở, và thứ hai 13 van được đóng lại. Sau một mất hiệu lực của một khoảng thời gian định trước, việc áp dụng các bức xạ siêu âm là ngưng. Sau đó, 12 van đầu tiên được đóng lại và thứ hai, 13 van được mở ra để nuôi bùn 14 đến 15 xe tăng giải quyết thông qua các đường ống xả 11 từ tàu bằng cách gạt lưu thông bơm 8. Các slurry 14 là chịu lắng trong bể giải quyết 15. Các rượu nổi trên mặt kết quả được lấy ra như tách 15A lỏng, và bùn trầm tích kết quả được lấy ra là 15B bùn được điều trị.. Sau đó, bùn trầm tích là dewatered bằng một máy ly tâm thoát nướcCác loại chất lỏng được lấy ra là tách chất lỏng 16A, 16B và các bánh dewatered được thải ra. Nếu nồng độ của bùn trầm tích thấp (tức là, không phải cao hơn 1% trên tổng số chất rắn (TS) cơ sở) khi bùn trầm tích sẽ được chuyển từ xe tăng để giải quyết 15 máy ly tâm 16 thoát nước, bùn trầm tích trong bình giải quyết 15 được cung cấp như 15C bùn hút vào một chất làm đặc bùn 17, 17a và bùn dày kết quả tạm thời được lưu giữ trong một bồn chứa bùn 18 và sau đó cung cấp như 18a bùn nguồn cấp dữ liệu vào máy tính thoát nước 16, như được chỉ ra bởi các đoạn bị hỏng tại Hình. 1. 1Do đó, thoát nước ổn định có thể được thực hiện với một hiệu quả thoát nước cải thiện. Bởi như vậy, tách bùn được điều trị 14 vào giai đoạn có chứa các chất gây ô nhiễm chất lỏng và pha rắn miễn phí từ dioxin, bùn không chứa dioxin có thể được lấy. Ngoài dioxin, các chất gây ô nhiễm khác có thể được gỡ bỏ từ bùn ban đầu. 3.2.Một số ví dụ về xử lý bùn bị nhiễm dioxinNhững tác động của việc áp dụng các bức xạ siêu âm tiếp theo sẽ được mô tả bằng cách ví dụ. VÍ DỤ 1 Nguyên bùn được slurried trong một nồng độ bùn của 8% trên tổng số chất rắn (TS) cơ sở, và bùn các kết quả 14 đã được giới thiệu vào tàu phản ứng 1 (10-L khối lượng). và bị bức xạ siêu âm của 40 kHz (300 W) cho năm giờ. Sau đó, bùn được điều trị 14 được định cư trong ngăn giải quyết 15 cho 30 phút Do đó, điều trị bùn (bùn trầm tích) và tách chất lỏng (nổi trên mặt rượu) đã được thu được. Kết quả phân tích nội dung của nguyên bùn, bùn được điều trị và chất lỏng tách được hiển thị trong Bảng 1 dưới đây. Trong 1 bàn, xử lý và bùn lỏng chứa các phân hầu như không có dioxin, và có không có độc tính với một số lượng thẩm định tính độc (TEQ) của số không. Trong khi mất lửa của bùn nguyên là 39,4%, mất lửa của bùn được xử lý là 5,4%. Tách chất lỏng có chứa một số lượng tương đối lớn các chất ô nhiễm như BOD, COD và TN Điều này cho thấy rằng Ban Giám đốc, COD, TN và các chất ô nhiễm khác chứa trong bùn thô được chuyển giao cho các chất lỏng ly thân. có một mối quan hệ nhất định giữa tỷ lệ loại bỏ dioxin (%) và thời gian h sonication (), và tỷ lệ loại bỏ chất độc da cam nói chung đạt đến mức cao nhất trong khoảng năm giờ của ứng dụng của bức xạ siêu âm. BẢNG 1 __________________________________________________________________________ Nguyên đã xử lý bùn bùn lỏng Tách khoản Đơn vị Đo Đo TEQ TEQ Đơn vị đo TEQ __________________________________________________________________________ T 4 CDDs pg / g ND ND 0 0 pg / L ND 0 P 5 CDDs pg / g ND ND 0 0 pg / L ND 0 H 6 CDDs pg / g 14 2,5 ND 0 pg / L 1,9 0 H 7 CDDs pg / g 7,8 ND 0 0,044 pg / L 0,048 0,00048 O 8 CDDs pg / g 13 0,013 ND 0 pg L / 2,1 0,0021 PCDDs pg / g 35 2,6 0 0 pg / L 4,0 0,0026 T 4 CDF pg / g ND ND 0 0 pg / L ND 0 P 5 CDDs pg / g 31 0 ND 0 pg / L ND 0 H 6 CDDs pg / g 32 0 6,2 0 pg / L ND 0 H 7 CDF pg / g 14 0,064 0,12 0 pg / L 0,0480 0,00026 O 8 CDF pg / g 5,1 0,005 ND 0 pg L / PCDF 0,00024 0,24 pg / g 82 0 0,069 6,3 pg / L 0,29 0,00050 PCDDs PCDF pg / g 2,6 6,3 0 117 pg / L 4,3 0,0031 pH 9,7-9,2 mg kiềm M / L - - 39 SS mg / L - 569.530 VSS 33 mg / L - 53.910 - BOD mg / L - - 1124 COD Mn mg / L - - 567 TOC mg / L - - TN 376 mg / L - - 23,5 NH 4 - N mg / L - - 16,6 NO 2 - N mg / L - - - 2,6 NO 3 - N mg / L - - 3,1 T - P mg / L - - 0,02 Cl - mg / L - - 595 T - Ca mg / L - - TDS 204 mg / L - - 2.220 TS% 44,4 58,4 - 39,4% VS 5,4 - 5,0% dư lượng trên 53,0 - __________________________________________________________________________ đánh lửa VÍ DỤ 2 1. Nguyên bùn được slurried trong một nồng độ bùn của 1,1% trên tổng số chất rắn (TS) cơ sở, và bùn các kết quả 14 đã được giới thiệu vào tàu phản ứng 1. Nhiệt độ của bùn trong tàu đã được quy định tại 35 ° C., và bị bức xạ siêu âm của 40 kHz (300 W) cho năm giờ. Sau đó, bùn được điều trị 14 được định cư trong ngăn giải quyết 15 cho 30 phút Do đó, điều trị bùn (bùn trầm tích) và tách chất lỏng (nổi trên mặt rượu) đã được thu được. Kết quả phân tích nội dung của nguyên bùn, bùn được điều trị và chất lỏng tách được hiển thị trong Bảng 2 sau đây. ______________________________________ BẢNG 2 ______________________________________ Tách lỏng đã xử lý bùn bùn Nguyên MEA-MEA-MEA-Đơn vị sured TEQ sured TEQ Đơn vị sured TEQ ______________________________________ Dioxin pg / L 6.600 63 35 ND pg / g 370 ND (PCDDs & PCDF) ______________________________________ Như rõ ràng từ 2 bàn, trong bùn được điều trị và tách các chất lỏng mỗi chứa một lượng đáng kể giảm của dioxin với độc tính không phát hiện Điều này cho thấy rằng chất dioxin đã được hiệu quả phân hủy bởi các ứng dụng của bức xạ siêu âm. VÍ DỤ 3 Dewatered bùn bánh có một thành phần như trong Bảng 3 được slurried trong một nồng độ bùn của 7,4% trên tổng số chất rắn (TS) cơ sở, và bùn các kết quả đã được giới thiệu vào tàu phản ứng 1. Nhiệt độ của bùn trong tàu đã được quy định tại 35 ° C., và bị bức xạ siêu âm của 40 kHz (300 W) cho năm giờ. Sau đó, bùn được điều trị 14 được định cư trong ngăn giải quyết 15 cho 30 phút. Do đó, điều trị bùn (bùn trầm tích) và tách chất lỏng (nổi trên mặt rượu) đã được thu được. Kết quả phân tích nội dung của nguyên bùn bùn các điều trị được thể hiện trong Bảng 4. ______________________________________ BẢNG 3 ______________________________________ ______________________________________ khoản Đơn vị Giá trị pH - Tỷ trọng 7,9 - 1,2 Nước 80,5% TS nội dung 19,5% Ignition mất 21,3% C 7,5% H nội dung nội dung 1,6% N nội dung 0,96% 13,16% O nội dung nội dung Ash 76,7% Fe nội dung% Ca nội dung 39,6 0,51% ______________________________________ (PCDDs & PCDFs) ______________________________________ BẢNG 4 bánh ______________________________________ Dewatered xử lý bùn khoản Đơn vị Đo Đo TEQ TEQ ______________________________________ Dioxin pg / g 13,000 140 0 0 (PCDDs & PCDF) ______________________________________ Như rõ ràng từ bảng 4, bùn thu được sau khi áp dụng các bức xạ siêu âm không có chứa dioxin với độc tính không phát hiện. Điều này cho thấy rằng chất dioxin đã gần như hoàn toàn bị phân hủy bởi các ứng dụng của bức xạ siêu âm. Như được mô tả ở trên, dioxin có thể được phân hủy thông qua việc điều trị bằng siêu âm và giảm. Ngoài ra, các chất ô nhiễm hữu cơ và vô cơ khác có thể được chuyển sang giai đoạn lỏng, và tách ra từ bùn. Đối với ứng dụng hiệu quả các bức xạ siêu âm, nồng độ bùn trong bùn không phải là giới hạn ở những mô tả trong ví dụ 1-3, nhưng phạm vi hiệu lực của nồng độ bùn là từ 0,1% đến 10% trên tổng số chất rắn (TS) cơ sở.. Các tần số của bức xạ siêu âm không giới hạn cho những mô tả trong ví dụ 1-3, nhưng cơn giận hiệu quả các tần số siêu âm là từ khoảng 20 kHz đến 500 kHz, tốt hơn từ 40 kHz đến 200 kHzHơn nữa, nhiệt độ của bùn không phải là giới hạn ở những mô tả trong ví dụ 1-3, nhưng phạm vi hiệu lực của nhiệt độ bùn là từ khoảng 10 ° C. khoảng 50 ° C. Một hiện thân của những sáng chế hiện nay sẽ được mô tả với tham chiếu đến các bản vẽ. Căn cứ theo sung. 3 và 4, lọc được 21 từ một bãi rác thải của một trang web tổng hợp xử lý rác thải là đối tượng của một quá trình tiền xử lý 22 đối với đông máu và lắng của canxi chứa trong lọc được các. Sau đó, nước 23 pretreated thông qua việc đông máu và trầm tích là đối tượng của một quá trình xử lý sinh học 24, trong đó các chất phân huỷ sinh học chứa trong nước pretreated 23 là biodegraded để loại bỏ chúngCác nước sinh học xử lý 25 là tiếp theo bị đông máu a lắng cho quá trình đông máu 26 và lắng các chất ô nhiễm có trong nước sinh học xử lý 25nước được điều trị thông qua đông máu và lắng là tiếp tục chịu một quá trình lọc cát 28 để lọc các vấn đề nổi chứa trong nước được điều trị 27. Kết quả là 29 nguyên nước là đối tượng của một quá trình xử lý hình ảnh hóa học 30 mà sử dụng bức xạ tia cực tím và ozone kết hợp. Trong quá trình này, không phân hủy các chất có trong nước thô 29 được chiếu xạ với tia cực tím bức xạ trong sự hiện diện của phân hủy ozone cho biết. Quá trình này sẽ được mô tả sau này trong chi tiết. Các nước photolytically điều trị 31 là đối tượng của một quá trình xử lý kích hoạt carbon 32, trong đó dư các chất ô nhiễm có trong nước được điều trị photolytically 31 được hấp thụ. Trong quá trình xử lý hình ảnh hóa học 30, như hình. 4 các nước thô 29 được giới thiệu vào một chiếc xe tăng pH quy định 33, trong đó pH của nước 36 được đối xử được quy định tại 5,8-8,6 quyết bằng cách thêm một axit hoặc kiềm 35. 36 nước được đưa vào mạch xử lý 38 bằng một máy bơm 37. Trong mạch điều trị 38, 36 nước cung cấp từ đầu đó là chiếu xạ với tia cực tím bức xạ của một bước sóng 185 nm hoặc 254 nm bằng phương tiện của một đơn vị xử lý 39 đèn tia cực tím trong đó. Các đơn vị đèn tia cực tím 39 bao gồm một ống bảo vệ 39A và 39B suốt một bóng đèn cực tím được cung cấp trong 39A đường ống bảo vệ. Với tình trạng này, ozone được cung cấp ở một nồng độ ozone trong không thấp hơn 10 g / m 3 vào mạch điều trị 38 từ một máy phát điện ozone 40 thông qua một thiết bị thông gió 40 xử lý trên dưới cùng của con tàu. Đồng thời, các nước 36 để được điều trị được đưa trở lại điều chỉnh pH 33 từ một phần dưới cùng của con tàu, và một phần của 36 nước được phép lưu lượng ra khỏi tàu điều trị 38 là nước đã xử lý 41. Trong khi đó đang được lưu thông giữa xe tăng quy định pH 33 và mạch điều trị 38, 36 nước được giữ lại trong các mạch điều trị 38 trong khoảng năm giờ. Trong khi chảy xuống dưới cùng của tàu điều trị 38, 36 nước được đối xử là chiếu xạ với tia cực tím bức xạ phát ra từ đèn cực tím 39B, và các gốc hydroxyl mà là một chất ôxi hóa mạnh được tạo ra trong nước 36 của sự hợp tác của ozone trong và các bức xạ cực tím. Các gốc hydroxyl ôxi hóa hiệu quả dioxin và các chất không phân hủy khác chứa trong 36 nước để loại bỏ chúng. Ống xả khí ozone thải từ các tàu xử 38 bị phân hủy trong một tháp xả khí ozone phân hủy 42, và sau đó phát hành vào bầu khí quyển. Bùn thải từ quá trình tiền xử lý 22, quá trình xử lý sinh học 24 và đông máu các / 26 là quá trình bồi lắng slurried, và bùn các kết quả 43 là chịu một quá trình điều trị siêu âm 44. Quá trình siêu âm 44 là giống như mô tả có sự tham khảo hình. 1 và, do đó, không có lời giải thích sẽ được quan. Các slurry 45 bị quá trình điều trị siêu âm 44 được giới thiệu vào một chiếc xe tăng giải quyết 46, và tiếp tục chịu một quá trình bồi lắng. Kết quả 46a nổi trên mặt rượu là bị đông máu các / 26 quá trình bồi lắng, lọc cát của quá trình 28 và quá trình xử lý hình ảnh hóa học 30, trong khi các kết quả trầm tích bùn 46B được giới thiệu vào một máy thoát nước 47, trong đó các trầm tích bùn là 46B bị tách rắn-lỏng. Các nước 47A loại bỏ là bị đông máu các / 26 quá trình bồi lắng, lọc cát của quá trình 28 và quá trình xử lý hình ảnh hóa học 30, và 47B bùn bánh dewatered được thải ra như bùn được điều trị. Theo cách này, các pha rắn miễn phí từ dioxin là thu được như chiếc bánh dewatered, trong khi giai đoạn phân hủy các sản phẩm có chứa chất lỏng và các chất ô nhiễm được xử lý qua quá trình xử lý hình ảnh hóa học 30. Vì vậy, việc điều trị bùn có thể được hoàn thành trong hệ thống này. Nếu nồng độ của bùn trầm tích thấp (tức là, không phải cao hơn 1% trên cơ sở TS) khi bùn trầm tích sẽ được chuyển từ xe tăng giải quyết 46 đến 47 máy thoát nước, bùn trầm tích trong việc giải quyết 46 là xe tăng cung cấp như rút ra 46c bùn thành một chất làm đặc bùn 48 như được chỉ ra bởi các đoạn gãy trong hình. 3. 3. Các 48a nước bị loại bỏ là đông máu các / 26 quá trình bồi lắng, lọc cát của quá trình 28 và quá trình xử lý hình ảnh hóa học 30. Mặt khác, các kết quả 48b bùn dày tạm thời được lưu giữ trong một bồn chứa bùn 49, và sau đó cung cấp như 49A bùn nguồn cấp dữ liệu vào máy thoát nước 47. Do đó, thoát nước ổn định có thể được thực hiện với một hiệu quả thoát nước cải thiện. Thêm một hiện thân của sự phát minh hiện nay sẽ được mô tả với tham chiếu đến các bản vẽ. Referring to FIG. Căn cứ theo hình. 5 lọc được 51 từ một bãi rác thải nói chung trong một trang web xử lý cuối cùng là phải chịu một quá trình tiền xử lý 52 đối với đông máu và lắng của canxi chứa trong lọc được các. Các nước 53 pretreated qua đông máu và lắng là sau đó bị một xử lý sinh học / màng tách quá trình 54, trong đó các chất phân huỷ sinh học chứa trong nước pretreated 53 là biodegraded để loại bỏ chúng và sinh học xử lý nước được lọc bằng một tách màng đơn vị (có sử dụng một màng gốm, màng một siêu lọc, một màng microfiltration hoặc tương tự) đắm mình trong một mạch điều trị. Các màng thấm 55 là đối tượng của một quá trình xử lý hình ảnh hóa học 56, trong đó không phân hủy các chất như dioxin có trong các màng thấm 55 được phân hủy bằng cách áp dụng quyết bức xạ tia cực tím trong sự hiện diện của ozone. 4 và, do đó, không có lời giải thích sẽ được quan. Các nước photolytically điều trị 57 là đối tượng của một quá trình xử lý kích hoạt carbon 58, trong đó các chất ô nhiễm còn lại trong nước được điều trị 57 photolytically được hấp thụ bằng than hoạt tính. Bùn thải từ quá trình xử lý sơ bộ 52 và xử lý sinh học tách màng / 54 là quá trình slurried, và bùn các kết quả 59 là chịu một quá trình điều trị siêu âm 60. Quá trình điều trị siêu âm 60 là giống như mô tả có sự tham khảo hình. 1 và, do đó, không có lời giải thích sẽ được quan. Các slurry 61 được điều trị thông qua quá trình điều trị siêu âm 60 được giới thiệu vào một bể chứa để lắng giải quyết 62. Kết quả 62a rượu nổi trên mặt là tiếp tục phải chịu những xử lý sinh học / quy trình tách màng 54 và quá trình xử lý hình ảnh hóa học 56, trong khi các kết quả trầm tích bùn 62b được giới thiệu vào một máy thoát nước 63 trong đó trầm tích bùn 62b là bị rắn tách chất lỏng. Các nước 63A là bị loại bỏ quá trình xử lý hình ảnh-hóa học 56, và 63b bùn bánh dewatered được thải ra như bùn được điều trị. Các nước 64A loại bỏ là phải chịu những xử lý sinh học / quy trình tách màng 54 và quá trình xử lý hình ảnh-hóa học 56. Mặt khác, các kết quả 64B bùn dày tạm thời được lưu giữ trong một bồn chứa bùn 65, và sau đó cung cấp như 65A bùn nguồn cấp dữ liệu vào máy thoát nước 63. Do đó, thoát nước ổn định có thể được thực hiện với một hiệu quả thoát nước cải thiện.
KẾT LUẬN
Mức độ ô nhiễm của dioxin đối với môi trường đất, bùn là quá lớn. Vì bài tiểu luận chỉ có hạn nên em không thể nói hết những ảnh hưởng cũng như những biện pháp xử lý đất, bùn bị nhiễm dioxin. Đó là những biện pháp cụ thể và gần gũi nhất mà em đã thu thập và tìm hiểu được. Mặc dù vậy nhưng tình trạng đất, bùn bị nhiễm dioxin vẫn chỉ được khắc phục một phần nhỏ. Hi vọng trong tương lai sẽ có nhiều biện pháp khả thi hơn để cải tạo lượng đất và bùn bị nhiễm dioxin.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
|vi&u=
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Xử Lý Đất Bùn Nhiễm DIOXIN.doc