Trên đây là những đánh giá nhận định về tình hình Xuất khẩu lao động
và biến đổi văn hóa tại Đông Tân-Đông Hưng-Thái Bình.
Bên cạnh những yếu tố văn hóa cổ truyền,làn sóng XKLĐ đã thổi vào
địa phương này những dấu ấn mới của nền văn hóa nhân loại.Người lao động
đã tiếp thu những nét văn hóa nước ngoài áp dụng vào Đông Tân làm thay đổi
phần nào bộ mặt của nền văn hóa cổ truyền.Văn hóa xã Đông Tân vì thế mà
có thêm những màu sắc mới trong quá trình hội nhập và phát triển.
Cơ sở vật chất hạ tầng được đầu tư,bộ mặt nông thôn nhiều đổi khác,lối
sống phong cách sống văn minh và hiện đại tạo nên một Đông Tân giàu đẹp
và văn minh.
Bên cạnh những yếu tố văn hóa tốt đep là văn minh hóa đời sống địa
phương thì cũng xuất hiện nhiều hệ quả không thể tránh khỏi của hoạt động
XKLĐ tác động đối với nền văn hóa như rạn nứt tình cảm,lối sống buông
thả,sự xuất hiện các tệ nạn xã hội.vv.
70 trang |
Chia sẻ: ngoctoan84 | Lượt xem: 890 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Xuất khẩu lao động và biến đổi văn hoá tại Đông tân – Đông hưng – Thái Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h mẫu tử, phụ tử: “Phụ tử tình thâm”, “Xương cha, da mẹ”, “Cá
chuối đắm đuối vì con”. Khi khôn lớn mỗi người không thể quên công ơn
dưỡng dục của cha mẹ: “Công cha như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ như nước
trong nguồn chảy ra/ Một lòng thờ mẹ, kính cha/ Cho tròn chữ hiếu mới là
đạo con”. Chữ “hiếu” luôn được đề cao trong quan hệ ứng xử với cha mẹ và
được thể hiện bằng tục báo hiếu. Mối quan hệ giữa cha mẹ với con cái, con
cái đối với cha mẹ đã được ông cha ta nâng lên thành đạo làm cha mẹ, đạo
làm con. Từ mối quan hệ chủ đạo này đã hình thành nên đạo thờ ông bà tổ
tiên, đạo thờ cha mẹ, góp phần nuôi dưỡng cho con người tình cảm “Uống
nước nhớ nguồn”.
22
Trong quan hệ ứng xử, người xưa cũng đặc biệt coi trọng tình nghĩa
giữa anh chị em trong một gia đình: “Anh em như chân, như tay. Như chim
liền cánh, như cây liền cành”, “Em thuận, anh hòa là nhà có phúc”... Mối liên
hệ ruột thịt là mối liên hệ thiêng liêng không thể chia cắt: “Cắt dây bầu dây
bí/ Chẳng ai cắt dây chị dây em”. Vì lẽ đó, ông cha ta cũng lên án nghiêm
khắc những ai không giữ được tình cảm anh em: “Người dưng có nghĩa thì
đãi người dưng/ Anh em vô nghĩa thì đừng anh em”
Đối với quan hệ vợ chồng, sự ho nhà thuận và tình nghĩa thuỷ chung
luôn mang ý nghĩa thiêng liêng, sâu nặng, là mối ràng buộc trách nhiệm cao
suốt đời người: “Thuận vợ thuận chồng tát bể Đông cũng cạn”, “Đốn cây ai
nỡ dứt chồi/ Đạo chồng nghĩa vợ giận rồi lại thương”
Quan hệ cha mẹ với con cái:
Trong gia đình người Việt ,vì chịu ảnh hưởng của nền văn minh nông
nghiệp ,với nhau cầu sử dụng lao động cao thường coi trọng việc sinh nhiều
con,đông con.Cha mẹ luôn nhất mực yêu thương con cái,coi con cái là tài sản
quay báu nhất của mình:
“Con hơn cha là nhà có phúc”
Quan niệm nhiều con thì nhiều của
Người cha người mẹ nào cũng dành cho con những sự yêu thương vô
bờ bến:
“Nuôi con chẳng quản chi thân
Chỗ ướt mẹ nằm ,chỗ ráo con lăn”
“Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao
23
Ông ơi ông với tôi nao
Tôi có đồng nào ông hãy sáo măng
Có sáo thì sáo nước trong
Chớ sáo nước đục đau lòng cò con”
Đáp lại tình yêu thương của cha mẹ,con cái thể hiện sự kính trọng
biết ơn:
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Đạo làm con được thể hiện qua sự trọng chữ Hiếu của con cái đối với
cha mẹ:
-Phải biết kính trong cha mẹ
-Biết vâng lời cha mẹ
-Phụng dưỡng cha mẹ.
Những nét đẹp ứng xử trong gia đình đã hình thành nên nhiều giá trị
văn hoá mang tính truyền thống của người Việt như: Sự hoà thuận, chung
thuỷ, tình nghĩa, lòng yêu thương và hy sinh cho con cái, tôn trọng và hiếu đễ
với cha mẹ, anh em. Nhiều gia đình Việt Nam xưa nhờ biết duy trì lối ứng xử
có văn hoá đã tạo ra nền nếp, kỷ cương để mọi người cùng noi theo. Chính gia
lễ, gia phong ấy là cái gốc của gia đình, giữ cho con người Việt Nam, gia đình
và xã hội Việt Nam một sức sống mãnh liệt và sự trong sáng với cội nguồn.
Tuy nhiên trong thời kỳ XKLĐ,những giá trị văn hóa này đang dần dần
bị thay đổi.
Việc một hay một số thành viên trong gia đình rời khỏi ngôi nhà cùng
chung sống để đi làm ăn ở nước ngoài trong thời gian dài làm phát sinh những
24
gia đình theo dạng mô hình “ không đầy đủ” tức là cha mẹ ,con cái,người thân
không cùng chung sống trong một khu vực không gian lãnh thổ chung,và không
cùng chia sẻ những tâm tư tình cảm.Mô hình này xuất hiện ngày một nhiều,có
thể trong một gia đình có nhiều người sống ở các quốc gia khác nhau,sự rang
buộc sinh hoạt chung trong gia đình trở nên không còn quan trọng.
Thực tế cho thấy,nhiều gia đình có vợ hoặc chồng đi xuất khẩu lao
động,thì việc xa nhau là điều tất yếu.Họ chỉ có cơ hội gặp gỡ nhau phụ thuộc
vào hợp đồng lao động đã ký kết.Do điều kiện tuân thủ hợp đồng và yếu tố
không gian nên họ thường xa nhau hàng năm trời.Như vậy,không thể thường
xuyên trao đổi tình cảm với nhau .Họ chỉ có cơ hội trao đổi qua các phương
tiện thông tin như điện thoại,internet.Việc cùng nhau giải quyết những vấn đề
của gia đình gần như không thể thực hiện.Tiếng nói của người đi xa chỉ mang
tính chất tham khảo,gợi ý chứ ít có thể quyết định.
Vợ chồng không có sự ràng buộc lẫn nhau,mỗi người sống một nơi làm
những công việc riêng biệt nên dần dần sự gắn kết vợ chồng càng trở nên lỏng
lẻo,nhạt nhòa.Nếu trước kia vợ chồng “Chung sức chung lòng” thì XKLĐ đẩy
họ vào hoàn cảnh “ Việc ai người đấy làm”và trở thành những cá thể độc
lập.Quan hệ vợ chồng mang tính chất tượng trưng vì họ cùng nhau giải quyết
các việc lớn như xây dựng nhà cửa,chia sẻ việc đầu tư cho chăm sóc con cái.
Việc không giữ được tiếng nói chung giữa vợ và chồng,việc bị những
cám dỗ bên ngoài dẫn đến tình trạng ly hôn ngày càng gia tăng,tình trạng vợ
chồng sống không hòa hợp cũng trở nên phổ biến.
Mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái trong gia đình cũng biến đổi.Cha
mẹ không có cơ hội để tiếp xúc nhiều với con cái.Không hiểu được tâm tư
tình cảm giữa con cái nên mối quan hệ tình cảm giữa hai thế hệ trở nên thiếu
bền vững.
25
Thực tế cho thấy tại xã Đông Tân khi người lao động đi xuất khẩu lao
động nước ngoài chủ yếu là phụ nữ,đàn ông làm nhiệm vụ chăm sóc con cái
thường không được chu toàn.Theo văn hóa truyền thống người Việt thì vai trò
của người mẹ trong gia đình rất được đề cao,do đàn ông thường xuyên sống
vắng nhà nên nhân cách của người mẹ có ảnh hưởng lớn đến con cái. Đa phần
đàn ông gặp khó khăn trong việc tiếp cận con cái hơn phụ nữ,không thể đi
sâu vào đời sống tình cảm của con,thiếu sự mềm mỏng,thiếu những tâm sự để
hiểu sâu về tâm lý con cái.Giai đoạn khó khăn nhất là giai đoạn tuổi dậy
thì,con cái thay đổi tâm sinh lý,nếu người cha không có sự can thiệp khéo
léo,hay người mẹ không có sự dạy dỗ tận tình dễ khiến trẻ rơi vào tình trạng
khủng hoảng,gây ảnh hưởng xấu đến quá trình hình thành nhân cách,lối sống
của trẻ sau này.Nhưng những điều này luôn là những khoảng trống mà các gia
đình có người đi XKLĐ gặp phải do thiếu một vế trong cấu trúc của một gia
đình.Các gia đình thường chọn phương án đi XKLĐ khi sức khỏe còn ổn định
đồng nghĩa với điều đó là đối tượng mới kết hôn và vừa sinh con đi nước
ngoài chiếm thành phần chủ yếu.Điều đó khiến cho sợi dây tình cảm giữa cha
mẹ đi XKLĐ và con cái còn nhỏ trở nên hết sức mong manh.Những ảnh
hưởng của người đi xa khó có thể tiếp cận với đứa trẻ khi nhân thức về tình
cảm của đứa trẻ chưa hoàn thiện khiến cho khoảng cách cha mẹ với con cái
càng trở nên giãn cách.
Ngoài tình cảm vợ chồng,con cái,còn những mối quan hệ khác không
thể bỏ qua.
Trước hết là mối quan hệ truyền thống vốn dĩ nhiều mâu thuẫn-mối
quan hệ “mẹ chồng nàng dâu” thời hiện đại.
Quan hệ mẹ chồng nàng dâu tại Đông Tân ngày nay,đã không còn tồn tại
nhiều mâu thuẫn gay gắt như trước kia.Do phần lớn các gia đình đều có kinh tế
26
riêng,xu thế gia đình hạt nhân phổ biến,những mâu thuẫn trong cuộc sống hàng
ngày đã không còn là rào cản ảnh hưởng đến mối quan hệ tốt đẹp này.
Tuy nhiên tồn tại hai xu thế,một là mối quan hệ “Mẹ chồng ,nàng dâu”
trở nên tốt hơn do con dâu ra ngoài làm ăn kinh tế tốt,có điều kiện chăm sóc
,phụng dưỡng cha mẹ chồng tốt hơn,được mẹ chồng quý mến.
Xu hướng thứ hai,do mải làm ăn kinh tế,người phụ nữ bỏ bê chuyện gia
đình,trao việc chăm sóc chồng con cho mẹ chồng,khiến mẹ chồng không vừa
lòng,nảy sinh mâu thuẫn.
Mặc dù theo khảo sát có 60% trường hợp nói rằng mối quan hệ mẹ
chồng nàng dâu ở mức độ hòa hợp nhưng có tới 40 % nói rằng mối quan hệ
đang có chiều hướng đi xuống.Điều này cho thấy ảnh hưởng của hoạt động
XKLĐ tác động đến mối quan hệ này rất lớn.Xuất hiện những dấu hiệu xuống
cấp tình cảm giữa người thân trong gia đình.
Thời kỳ xuất khẩu lao động đẩy người ta vào cơn lốc cơm áo gạo tiền
mà làm cho việc duy trì mối quan hệ tình cảm trở nên khó khăn hơn.Nhiều
phụ nữ sau khi đi XKLĐ trở nên thay đổi tính nết,kiêu căng hách dịch,cậy
mình có tiền ,coi thường người khác.Chuyện con dâu coi thường bố mẹ
chồng,lạnh nhạt với chồng,thờ ơ với con cái xuất hiện không ít.Nếu lối sống
như thế này kéo dài sẽ làm mai một đi tính cách “trọng tình trọng nghĩa” xưa
nay vẫn là biểu hiện đẹp của văn hóa Việt Nam.
2.1.2 Sự thay đổi quan niệm về giới trong gia đình và ngoài xã hội
Theo nghiên cứu của Trung tâm nghiên cứu về phụ nữ thì vai trò giới
được định nghĩa như sau:
Vai trò giới là tập hợp những hoạt động và hành vi ứng xử mà nam giới
và phụ nữ học được và thể hiện trong thực tế, dựa trên mong đợi từ phía xã
27
hội ở một người, tùy thuộc người đó là phụ nữ hay nam giớ i. Các vai trò
giới đa dạng (tùy thuộc vào vị trí và bối cảnh), thay đổi theo thời gian (tương
ứng với sự thay đổi của các điều kiện và hoàn cảnh) và thay đổi theo sự thay
đổi trong quan niệm xã hội (tương ứng với việc chấp nhận hoặc không chấp
nhận một hành vi ứng xử vai trò nào đó).
Vai trò giới thể hiện ở ba loại hình:
1.Vai trò sản xuất:
Là những công việc do phụ nữ và nam giới thực hiện nhằm tạo ra thu
nhập hoặc để tự tiêu dùng. Chúng bao gồm các hoạt đ ộng tạo ra sản phẩm vật
chất, tinh thần hoặc tạo ra những dị ch vụ để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của
gia đình.
Ví dụ: vai trò sản xuất của phụ nữ ở nông thôn bao gồm công việc
trồng trọt, chăn nuôi, làm vườn, làm hàng thủ côngVai trò s ản xuất của
phụ nữ ở thành thị bao gồm vi ệc làm công ăn lương trong các cơ quan, xí
nghiệp, làm thuê cho chủ tư nhân hoặc kinh doanh, buôn bán
2. Vai trò tái sản xuất và nuôi dưỡng.
Là những hoạt đ ộng tạo ra nòi giống và tái tạo sức lao động. Chúng
bao gồm vi ệc sinh con, nuôi dạy con, chăm sóc các thành viên khác trong gia
đình và làm các công việc nội trợ, giặt giũ, lau chùi nhà cửaCác công việc
này hầu hết do phụ nữ đảm nhiệm và là những công việc không trả thù lao.
3. Vai trò cộng đồng, xã hội.
Vai trò bao gồm những hoạt động nhằm đảm bảo sự cung cấp và bảo
vệ những nguồn lực khan hiếm cho nhu cầu chung của cộng đồng như vệ
sinh môi trường, nước sạch, dịch vụ chăm sóc sức khỏe và giáo dụcĐây
hầu hết là những hoạt động tình nguyện và không được trả thù lao.
28
Như các công việc của làng, bản, khối phố, họ hàng, tham gia chính
quyền, lãnh đạo xã hộinhằm đáp ứng các nhu cầu hoạt động chung của
cộng đồng xã hội như: xây dựng đường làng, ngõ xóm, giữ gìn trật tự vệ
sinh hoặc trao đổi thông tin, tổ chức họp hành, lễ hội, tham gia các đoàn thể
Vai trò lãnh đạo cộng đồng:
Vai trò này bao gồm những hoạt động được thực hiện ở cấp cộng
đồng, các tổ chức, các hoạt động chính trị chính thứcĐây là những hoạt
động được trả công và dẫn đến việc nâng cao quyền lực và địa vị .
Trong đề tài này, thuật ngữ vai trò kép cũng được cho là cơ sở lý
luận quan trọng. Vai trò kép ở đây được hiểu: Dùng để chỉ một hiện tượng là
phụ nữ thường đảm nhận cùng lúc nhiều vai trò, thời gian làm việc dài hơn
và nhiều công việc vụn vặt hơn nam giới. Phụ nữ thường thực hiện cùng lúc
vai trò tái sản xuất, vai trò sản xuất và vai trò cộng đồng, trong khi đó nam
giới thường tập trung vào vai trò sản xuất và vai trò lãnh đạo cộng đồng.
Theo nghiên cứu của Trung tâm Nghiên cứu về Phụ nữ thì phụ nữ it
có quyền quyết định trong gia đình và xã hội bởi vai trò thế yếu của họ xuất
phát từ sự gia trưởng trong gia đình và tư tưởng phong kiến “trọng nam
khinh nữ ”.
Tại xã Đông Tân, hiện nay 80% phụ nữ đi XKLĐ vì kinh phí đầu tư
ban đầu không lớn, thu nhập lại tương đối khá. Hầu hết số lao động nữ này
đều góp phần cải thiện kinh tế gia đình, làm thay đổi bộ mặt nông thôn.
Trong các gia đình này đã có sự thay đổi cơ cấu tổ chức gia
đình.Người phụ nữ đảm nhiệm nhiệm việc tạo nguồn thu nhập kinh
tế,còn người đàn ông đóng vai trò làm nội trợ và chăm sóc con cái,tham gia
các hoạt động cộng đồng.Như vậy đã có sự thay đổi một cách rõ rệt vai trò
29
giới,khi phụ nữ đảm nhận vai trò sản xuất còn đàn ông thực hiện vai trò kép:
Vai trò sản xuất,vai trò tái sản xuất và nuôi dưỡng,vai trò cộng đồng xã hội.
Điều đó hiển nhiên diễn ra trong đời sống,người phụ nữ vẫn có thể làm
tốt công việc kiếm tiền trang trải cuộc sống và người đàn ông làm tốt công
việc chăm sóc gia đình.
Theo cuộc khảo sát,90% người phỏng vấn quan niệm thoáng về việc
phụ nữ đi làm kinh tế bên ngoài phục vụ nhu cầu cải thiện kinh tế,không gò
ép phụ nữ vào các công việc gia đình,tôn trọng phụ nữ và các quyền phụ nữ
được hưởng.
Bên cạnh việc thừa nhận năng lực làm kinh tế,khả năng chăm sóc gia
đình của người đàn ông ,thì biểu hiện của sự biến đổi quan niệm về giới còn
được thể hiện ở việc sinh con và nuôi con của các hộ gia đình
Theo tìm hiểu của chúng tôi,các gia đình có người đi XKLĐ thường
không đặt nặng vấn đề sinh con trai hay con gái.Xu hướng chung thiên về
sinh con và nuôi dạy con khỏe mạnh.
Nếu như định kiến về giới đã ăn sâu vào suy nghĩ và hành động của
người Việt từ xưa đến nay,thì XKLĐ đã chứng tỏ những định kiến đó hoàn
toàn có thể xóa bỏ được.
30
Bảng đánh giá chung:
Tiêu chí thời điểm Trước thời kỳ XKLĐ Hiện tại-Trong thời kỳ
XKLĐ
Trụ cột kinh tế Người đàn ông( tuyệt
đối người chồng làm
trụ cột kinh tế)
-Có thể là người vợ(
Gia đình có phụ nữ đi
XKLĐ )
Nội trợ chính Phụ nữ (Mặc định đó
là việc của phụ nữ)
Người đàn ông làm nội
trợ (Các gia đình có
phụ nữ đi XKLĐ)
Quan niệm phụ nữ đi lao
động bên ngoài
Không đồng tình Đồng tình
Quan hệ mẹ chồng-Nàng
dâu
Mâu thuẫn,xung đột
gay gắt=>hình thành
định kiến
Mối quan hệ dựa trên
sự tôn trọng lẫn nhau
Việc sinh con một
bề,sinh ít con
Phải sinh con trai để
nối dõi tong đường
Sinh con và nuôi dạy
con cái khỏe mạnh
Việc chăm sóc giáo dục
trẻ em gái
Con gái không cần
học hành nhiều.Lớn
thì đi lấy chồng
Trẻ em được chăm sóc
giáo dục như nhau,tạo
mọi điều kiện trong
sinh hoạt,học tập
Sự bình đẳng giới Không tồn tại Phổ biến tại địa phương
31
2.1.3 Biến đổi nhu cầu văn hóa-giáo dục-giải trí
Cũng như các miền quê Việt Nam khác,trước kia Đông Tân là một
mảnh đất thuần nông điều kiện kinh tế còn khó khăn,mọi sinh hoạt văn hóa
,tình cảm,giáo dục,giải trí đều gắn với các hoạt động của nền kinh tế nông
nghiệp.Phần lớn thời gian của người dân dành cho công viêc đồng áng,nhu
cầu dịch vụ văn hóa,giáo dục,giải trí xoay quanh đời sống nông nghiệp,mang
đậm văn hóa lúa nước
Đến ngày nay,XKLĐ đã làm thay đổi khá nhiều bộ mặt đời sống nông
thôn,mặt bằng dân sinh đã được cải thiện,người ta phát sinh những nhu cầu mới.
Về lối sống:
Về mặt văn hóa tinh thần ,lối sống của người dân Đông Tân thời kỳ này
có nhiều thay đổi.
Trước XKLĐ Thời kỳ XKLĐ
Theo kiểu cộng đồng nông thôn:
-Sống tập trung theo xóm thôn, làng
-Có các mối quan hệ chặt chẽ với
nhau
-Lối sống chắt chiu dành dụm
Theo kiểu cá nhân, đô thị:
-Người dân chú trọng lợi ích kinh tế
gia đình, cá nhân
-Phân công công việc rõ ràng, thờ ơ
trong 1 số việc chung: “Nhà ai nấy ở”
-Lối sống nông thôn tương đồng lối
sống đô thị: kiểu thực dụng
-Ưa hưởng thụ,xuất hiện những thói
quen mới như tụ tập café,karaoke.
32
Nhìn vào bảng,chúng ta có thể thấy lối sống của nhân dân xã Đông Tân
có rất nhiều thay đổi,sự thay đổi diễn ra nhanh chóng trong thời gian khá ngắn
(chưa đầy 20 năm).Phần lớn đi theo xu thế hiện đại hóa gắn với điều kiện
kinh tế phát triển.Điều này tạo cơ hội nâng cao đời sống của nhân dân,có tác
động tích cực mang đến cuộc sống tiện ích cho nhân dân,nhưng vô hình
chung lại đẩy con người ta ra xa cộng đồng,ít có cơ hội chia sẻ tâm tư,tình
cảm,các nét văn hóa nông thôn cổ truyền có nguy cơ “đô thị hóa” ,lu mờ giá
trị tinh thần tốt đẹp của làng quê Việt Nam.
Thay đổi về quan niệm thẩm mỹ:
Nếu như quan niệm về vẻ đẹp của phụ nữ nông thôn trước kia là tóc
dài,người đậm đà,khỏe mạnh,đảm đương được công việc đồng áng,thì ngày
nay các yếu tố này đã thay đổi đi rất nhiều.
Với sự hỗ trợ của internet,cùng với điều kiện kinh tế tốt,người ta dễ bắt
kịp xu hướng thời trang quốc tế,hình ảnh “thôn nữ” thay bằng hình ảnh của
những cô gái có phong cách thời trang hợp thời đại.
Phẫu thuật thẩm mỹ cũng không còn là hiện tượng “chỉ có ở Hàn
Quốc” nữa,mà tại vùng đất này cũng đã xuất hiện những người áp dụng biện
pháp tân trang sắc đẹp.
Du nhập nhiều xu hướng thời trang hiên đại như trang điểm, nhuộm
tóc,uốn tóc,trang phục với phô diễn vẻ đẹp cơ thể,trang phục với gu thời trang
cá tính......
Nhu cầu làm đẹp của phụ nữ ngày càng được chú trọng hơn.
Về giải trí:
Sự hưởng thụ đời sống của người nông dân có nhiều thay đổi.
33
Trước thời kì XKLĐ Thời kỳ hiện tại
-Tính chất giải trí theo mùa và lễ hội .
Nó kế thừa của quá khứ , mang hình
thức tập thể. Người ta hay tổ chức
những ngày hội địa phương
-Các lễ hội văn hóa của làng như hội
đấu vật, đánh cờ, hát chèo v.v ...vào
các dịp lễ, tết tổ chức đình làng
-Những bản nhạc, vở kịch truyền
thống của dân tộc,văn hóa dân gian :
chèo Thái Bình,Giáo cờ giáo quạt-
điều múa cổ làng Thượng Liệt –xã
Đông Tân được quan tâm nhiều nhất
-Các hoạt động giải trí thường theo
cộng đồng,nhóm thiên về hoạt động
đoàn thể như thanh niên tụ tổ chức đi
dạo buổi tối,tổ chức làm trại rằm
trung thu
- Sinh hoạt văn hóa trong khuôn viên
làng quê
-Giải trí thường qua báo, đài truyền
hình, truyền thanh, internet,
-Phạm vi giải trí mở rộng hơn
-Nhu cầu và khả năng thực hiện cao
hơn
-Thay vào đó dòng nhạc hiện đại
phong cách
-phương Tây, phong cách Mỹ, nghe
các loại nhạc Rock, Jazz, Hip hop,
uống rượu mạnh, nhảy Disco,
-Các hoạt động mang tính cá nhân,các
trò chơi vận động mạnh như trượt
patin,nhảy hiphop..
-Xu hướng đi du lịch vào những dịp
đặc biệt như đầu năm,nghỉ dưỡng
mùa hè
Về giáo dục:
Kinh tế đã không còn là rào cản đối với các hộ gia đình thì việc chăm
sóc và tạo mọi điều kiện cho con cái được học hành đầy đủ luôn là điều mà
các bậc phụ huynh hướng tới.
34
Các gia đình luôn sẵn sàng chi những khoản tiền lớn đầu tư cho con
học tập như xuất hiện những hình thức mới trong việc đầu tư giáo dục cho
con cái :thuê gia sư dạy tại nhà,đầu tư cho con cái theo học các trường chuyên
từ bậc tiểu học đến bậc THPT,đầu tư cho con cái theo học các chương trình
đào tạo năng khiếu như đào tạo thể thao,đào tạo nghệ thuật,du học
Nếu như trước kia,việc đồng áng được đặt lên hàng đầu thì bây giờ việc
học của con mới là quan trọng.
Trước thời kỳ XKLĐ chủ yếu học sinh học đến hết bậc THCS rồi sau
đó trở về lao động sản xuất nông nghiệp tại địa phương hoặc đi làm ăn.Việc
học chủ yếu dành cho con trai,cho những nhà có đủ điều kiện nuôi con hành.
100% trẻ em được đến trường ở bậc tiểu học,100% bậc trung học cơ sở,
90%bậc trung học phổ thông.
Đặc biệt từ năm 2004 đến nay,số lượng sinh viên đỗ vào các trường cao
đẳng,đại học không ngừng tăng lên.
Đây là một tín hiệu đáng mừng thúc đẩy cho quá trình nâng cao nhận
thức,đổi mới tư duy tạo đà cho phát triển kinh tế,tiến tới xây dựng đời sống
văn minh tại khu dân cư.
Sự du nhập những yếu tố ngoại lai:
Những người đi XKLĐ đều có một thời gian sinh sống và làm việc trên
một đất nước khác,đồng thời trong thời gian đó người ta cọ sát với văn hóa
bản địa,dù là vô tình hay hữu ý thì những nét văn hóa của nơi cư trú cũng ảnh
hưởng ít nhiều đến đời sống văn hóa của người lao đông.Sau đó những người
thân của họ cũng chịu tác động theo nguyên lý bắc cầu.
100% người đi XKLĐ khẳng định,họ học được tác phong công
nghiệp,làm việc nhanh gọn,không ồn ào,có nề nếp trong lao động.
35
Nếp sống thay đổi theo chiều hướng văn minh hơn:
Tiếp thu những nét văn hóa mới,người dân biết cách thể hiện tình cảm
của mình thông qua những lời chúc mừng,chia sẻ tình cảm với người ở
xa.Ông Bùi Văn Sỹ cho biết: “Bây giờ vào những dịp lễ tết,tôi thường gọi
điện hoặc nhắn tin chúc mừng vợ để bù đắp sự thiếu thốn tình cảm giữa hai
vợ chồng,đồng thời san sẻ những khó khăn cùng vợ.Ngày trước vợ ở nhà thì
không như vậy”
Nhà cửa được vệ sinh gọn gàng sạch sẽ,bố trí đồ đạc hợp lý khoa
học.100% sử dụng nước giếng khoan,90% có nhà vệ sinh tự hoại.
Bên cạnh những người còn những nguyên được nếp sống Việt thì một
bộ phận thu nhận những nếp suy nghĩ tư tưởng mới.
Hiện tượng sống thử đã không còn xa lạ với người dân Đông
Tân.Những cặp đôi tự nguyện chung sống với nhau trước khi hỏi ý kiến của
cha mẹ,sau đó nếu cảm thấy sống được với nhau thì kết hôn,không hợp nhau
thì chia tay.Đây là một nét thay đổi khá rõ nét,đặc biệt là tại một làng cổ
mang đậm dấu ấn của văn hóa nông thôn Việt Nam cổ truyền.
2.1.4 Biến đổi về phong tục,tập quán ,tín ngưỡng
Cưới xin là một sinh hoạt văn hóa gắn bó với đời sống mỗi con người,
trở thành một hoạt động không thể thiếu trong cộng đồng, đặc biệt là cộng
đồng người dân ở nông thôn.
Xu hướng cưới xin ngày càng đơn giản gọn gang hơn,đỡ mất thời gian
hơn tuy nhiên quy mô tổ chức lại lớn hơn.Đây được coi là dịp để các gia đình
phô trương của cải của mình với các món đồ trang sức,vàng bạc,các bữa tiệc
xa xỉ.Xu hướng đặt cỗ trọn gói thay cho sự tương trọ,giúp đỡ lần nhau giữa
những gia đình liền kề
36
Tổ chức tiệc cưới khách sạn cũng là nét mới trong đời sống văn hóa của
người dân Đông Tân.Đồng thời cũng xuất hiện phong tục cưới hỏi mới-đám
cưới mang tính chất báo hỷ,vắng mặt cô dâu ,chủ rể.Các đám cưới kiểu hình
thức này chủ yếu xuất hiện ở các gia đình có có cặp vợ chồng kết hôn nhưng
sống tại nước ngoài,chưa có điều kiện về nước.Hai họ tự sắp xếp tổ chức gặp
mặt,thực hiện các thủ tục như đám cưới bình thường.
Cũng có trường hợp vợ chồng về sống chung,sau đó có con mới thực
hiện đám cưới,do tư tưởng người dân khá thoáng nên những đám cưới hình
thức mới này không gặp phải sự phản ứng gay gắt từ phía người dân.
Đám cưới đám hỏi cũng có thể thiếu bố mẹ chú rể hoặc bố mẹ cô dâu
và được thay thế bởi người khác nếu như người đi XKLĐ không thể thu xếp
trở về địa phương.
Bên cạnh việc kết hôn được công nhận về mặt pháp lý,có xuất hiện
hiện tượng hôn nhân không hôn thú.Tức là việc hình thành gia đình giữa hai
người tự nguyện sống với nhau không có giấy đăng ký kết hôn
Việc tang ma theo lối cũ,với những hủ tục cũng được loại bỏ.Nhưng
xuất hiện những cách thức tổ chức tang ma mới chỉ có khi có sự xuất hiện của
XKLĐ đó là hiên tượng khóc người thân qua phương tiện thông tin.Đó là
hình thức mà những người lao động lựa chọn thực hiện khi không thể trở về
lo cho tang ma người quá cố.Họ gọi điện về và khóc trên điện thoại.Ban tổ
chức tang lễ sẽ nối điện thoại với thiết bị trợ giúp âm thanh,để mọi người
được nghe thấy tiếng khóc của người xa xứ thể hiện sự tiếc thương người
mất.Hiện tượng này xuất hiện ngày càng nhiều,do nhiều lao động sau khi trốn
ra ngoài làm ăn,nếu trở về nước sẽ mất cơ hội đi tiếp,họ thực hiện trách nhiệm
của mình theo hình thức đó để đảm bảo công việc và theo họ đó là cách để thể
hiện tình cảm chấp nhận được.
37
Xuất hiện thêm những hoạt động kỷ niệm ngày phụ nữ như ngày 8-
3,ngày 20/10 với nhiều hoạt động sôi nổi như tổ chức liên hoan xóm,tổ chức
các cuộc thi cho chị em trổ tài,trao hoa tặng quà,tri ân phụ nữ.Các chương
trình này được tổ chức với quy mô lớn,mang tính chất của một sinh hoạt văn
hóa thường niên.Trong ngày này phụ nữ được ưu ái không phải làm việc,lo
toan công việc,tất cả mọi việc do người đàn ông thực hiện.
Về tín ngưỡng ,tôn giáo:
Người Việt đi XKLĐ không chịu nhiều ảnh hưởng tác động của tín
ngưỡng tôn giáo từ bên ngoài.Họ giữ nguyên nếp thờ cúng tổ tiên cổ truyền
của dân tộc.
Về tôn giáo không có tôn giáo ngoại lai nào thâm nhập đời sống người
dân nơi đây dù lượng người đi XKLĐ không ngừng tăng.Người dân giữ được
những nét văn hóa quê hương.
2.2 Nguyên nhân dẫn đến sự biến đổi
Sự biến đổi văn hóa trong đời sống người dân Đông Tân-Đông Hưng –
Thái Bình đang diễn ra từng ngày,từng giờ một cách âm ỉ mà không phải ai
cũng có thể nhận thấy được.Nguyên nhân dẫn đến sự biến đổi rất nhiều nhưng
có thể tập trung vào những nguyên nhân sau:
Sự xa cách không gian,thời gian:
Những người đi XKLĐ thường có hợp đồng lao động ở nước ngoài
trong một thời gian khá dài,từ 2 năm trở lên.Trong khoảng thời gian đó,mọi
mối liên hệ về tình cảm đều bị yếu tố về không gian chi phối,mọi nỗi buồn vui
giữa các thành viên trong gia đình khó có thể chia sẻ được cùng nhau.dần dần
sự gắn bó,nhu cầu tâm sự,bày tỏ quan điểm giữa những người trong một gia
đình càng trở nên mờ nhạt,ít sự liên kết gắn bó.
38
Những người đi XKLĐ chủ yếu rơi vào độ tuổi từ 25-45 thường có con
nhỏ trong độ tuổi từ 1-16 tuổi đây là giai đoạn có sự biến đổi rất lớn về tâm
sinh lý,nhưng lại thiếu sự quan tâm của một bên cha/mẹ dẫn đến sự thiếu hụt
tình cảm.Con cái ít được tiếp xúc với cha mẹ khiến cho sự đồng cảm sẻ chia
giữa những người thân không được đáp ứng trọn vẹn,dẫn đến sự xa lạ ngay
chính những người sống trong một gia đình.
Sự thay đổi nhận thức:
XKLĐ tạo cơ hội cho người lao động được cọ sát với môi trường lao
động mới.Trong quá trình lao động,người lao động tiếp thu những nét văn hóa
của bản địa làm thay đổi nếp sống nếp suy nghĩ.Nhận thức thay đổi mở đường
cho ý thức,ý thức được thể hiện qua hành động.
Người lao động đi nước ngoài học tập được tác phong công nghiệp
nhanh nhạy,có kỷ luật thay thế cho lối làm ăn mang tính chất nông nghiệp
thời vụ.Điều đó làm biến đổi về tác phong,các sống của người lao động.Bộ
phận lao động này lại ảnh hưởng đến người thân của họ,tạo nên sự biến đổi
văn hóa so với phông nền văn hóa cũ,tạo ra sự biến đổi
.Việc tiếp xúc với những nét văn hóa bản địa như cách ăn,mặc,ở,đi
,phong tục tập quán lại khiến cho cách nhận thức các quan niệm khác với khi
người lao động còn ở trong nước,dần dần nó được nhân rộng trở thành nếp
sống đi vào đời sống văn hóa trong nước.
Do tiếp xúc lâu dài với đời sống nước ngoài,sự ảnh hưởng của tư tưởng
suy nghĩ bản địa có tác động rất lớn đến tư duy người lao động.
Theo phỏng vấn chúng tôi được biết,người lao đông Việt Nam chủ yếu
lao động tại các nước tư bản.Lối sống tư bản với những mặt tích cực như tác
phong,kỷ luật,bình đẳng giữa người chủ và người làm thuê đã rèn luyện kỹ
năng làm việc cho người Việt Nam.
39
Nhưng bên cạnh đó, vẫn còn tồn tại nhiều mặt không tương đồng văn
hóa mà người Việt không chọn lọc để tiếp thu.Đó là mối quan hệ tình cảm
giữa những người trong gia đình.
Thường người nước ngoài tập trung vào làm ăn nhiều hơn nên ít có thời
gian quan tâm đến người thân trong gia đình.Trong khi đó người Việt Nam lại
trọng tình,trọng nghĩa.Nhiều người Việt Nam sau một thời gia đi lao động ở
nước ngoài đã trở nên coi thường gia đình,mối liên hệ vợ chồng ,con cái mà
chỉ tập trung làm ăn khiến cho tình cảm gia đình rạn vỡ,các mối quan hệ trong
gia đình trở nên mờ nhạt.
Nhận thức về biến đổi giới được hình thành trên thực tế do người phụ
nữ thể hiện được khả năng của mình khi làm ăn kinh tế bên ngoài xã hội,gánh
vác kinh tế gia đình không thua kém người đàn ông khiến cho nhận định về
vai trò của nam nữ trong xã hội được củng cố
Sự phát triển về kinh tế:
Sự phát triển kinh tế giúp cho con người đáp ứng được nhu cầu nuôi
sống bản thân.Con người vươn lên nhu cầu cao hơn : Nhu cầu hưởng thụ,nhu
cầu chăm sóc –giáo dục con cái.
Phụ nữ khi không phải lo toan việc nhà,họ có xu hướng chăm sóc
bản thân nhiều hơn,nhu cầu làm đẹp cũng ngày càng được quan tâm hơn
trước kia.
Khi kinh tế đã vững vàng,gia đình nào cũng mong muốn cho con cái
được chưm sóc ,học hành đầy đủ,đó là lý do mà các gia đình luôn tạo mọi
điều kiện thuận lợi cho con cái được học hành đến hết khả năng của mình
nhằm tạo dựng cho con cái một tương lai tươi sáng.
40
Trên đây là ba nguyên nhân chính dẫn đến sự biến đổi về văn hóa tại
Đông Tân-Đông Hưng-Thái Bình.Do lượng người XKLĐ và các gia đình có
người đi XKLĐ chiếm tỷ lệ khá lớn trong địa bàn xã,nên những nét văn hóa
mới biến đổi trên địa bàn xã chủ yếu chịu tác động mạnh mẽ của hoạt động
XKLĐ mang lại.
41
Chương 3: NHẬN ĐỊNH VÀ MỘT VÀI KIẾN NGHỊ GÍUP CHO VIỆC
DUNG HÒA GIỮA HOẠT ĐỘNG XKLĐ VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA
TẠI ĐÔNG TÂN-ĐÔNG HƯNG-THÁI BÌNH HIỆN NAY
3.1 Đánh giá tác động của XKLĐ đến văn hóa địa bàn nghiên cứu
3.1.1 Yếu tố tích cực
XKLĐ phần nào giúp hình thành nên một lực lượng công nhân có tác
phong công nghiệp có kỷ luật,đúng giờ giấc giúp cho quá trình chuyên nghiệp
hóa lao động được đảm bảo.Tạo nòng cốt nhân rộng kỹ năng cho người lao
động tại địa phương giúp người lao động có việc làm ổn định và chống lãng
phí thời gian trong quá trình sản xuất sản phẩm của các doanh nghiệp địa
phương cũng như đất nước.
XKLĐ tạo nguồn thu nhập giúp xóa đói giảm nghèo,tạo cơ hội cho con
cái của các gia đình có điều kiện học tập đầy đủ,được phát triển khả năng qua
đó nâng cao mặt bằng nhận thức ,dân trí tại địa phương.
XKLĐ giúp cho việc nhìn nhận vị trí vai trò của phụ nữ được cải
thiện,nâng cao nhận thức về bình đẳng giới và quyền con người tạo tiền đề
tích cực cho việc xây dựng một xã hội “ Công bằng,dân chủ,văn minh”
XKLĐ đã phần nào làm thay đổi những mặt hạn chế trong lối sống của
người Việt Nam.Thói xấu bị loại bỏ và tiếp nhận tinh hoa văn hóa nhân loại
làm giàu có thêm,đa dạng thêm nền văn hóa quê hương.Cơ hội để thay đổi
những mặt hạn chế còn tồn tại trong con người Việt Nam giúp họ phát huy hết
những khả năng sẵn có để hoàn thành tốt công việc và tạo ra nguồn thu nhập
cho gia đình và xã hội.
42
XKLĐ tạo cho con người cơ hội để tiếp xúc với cuộc sống văn minh,lối
sống hiện đại,thay đổi văn hóa ứng xử theo chiều hướng tích cực,trang nhã
trong giao thiệp.
Tạo cơ hội cho việc thay đổi nhiều quan điểm lạc hậu cổ hủ,tạo chuyển
biến cho cách nhìn nhận đánh giá con người.
3.1.2 Yếu tố tiêu cực
Bên cạnh những yếu tố tích cực vừa nêu trên,XKLĐ cũng kéo theo
nhiều mặt hạn chế.
Trong đề tài nghiên cứu: “Tác động của XKLĐ tới cuộc sống gia đình tại
tỉnh Thái Bình” được Trung tâm Nghiên cứu phụ nữ tỉnh Thái Bình thực hiện,
cho thấy: 73% những gia đình có người đi XKLĐ có chất lượng cuộc sống tốt
hơn, 10% các hộ gia đình rơi vào nợ nần, phá sản do bị phá vỡ hợp đồng, thiếu
việc làm hoặc người ở nhà (chồng) sử dụng tiền vào cờ bạc, rượu chè.
Việc XKLĐ có tác động nhất định đến sự bền vững của gia đình.
87,3% người chồng đã thừa nhận sự thiếu thốn tình cảm, thiếu người chia sẻ
khi vợ đi XKLĐ. Một bộ phận gia đình có sự cố nạn rứt quan hệ hôn nhân, có
hành vi bạo lực, quan hệ tình dục ngoài hôn nhân, ly thân, thờ ơ lạnh nhạt do
ghen tuông, nghi ngờ. Nguyên nhân phổ biến là vì người chồng thiếu trách
nhiệm, không chung thủy và cả sự thay đổi quan điểm sống của người vợ sau
khi đi XKLĐ về.
Người đi XKLĐ chủ yếu nằm trong độ tuổi 28-42. Ở độ tuổi này, gia
đình có một con dưới sáu tuổi là phổ biến. Thiếu đi một người, đặc biệt là
người mẹ, việc chăm sóc trẻ nhỏ trở thành một thách thức lớn đối với người ở
nhà. Phải sống thiếu mẹ trong một thời gian khá dài (ba năm và hơn), những
đứa trẻ không tránh khỏi hụt hẫng, khủng hoảng. Ở lứa tuổi đi học, 45% trẻ
43
phải tham gia làm việc gia đình thay người lớn và 10% các gia đình XKLĐ có
con cái học hành sa sút.
Những đứa con trong các gia đình mẹ xuất ngoại, bố tìm niềm vui
riêng, đều không được chăm sóc, dạy dỗ chu đáo, không ít trường hợp đã bỏ
học hoặc học hành sa sút.
Hình thành tâm lý thờ ơ,coi thường đồng tiền,con cái hư hỏng không
nghe lời cha mẹ là hệ quả của sự thiếu quan tâm chăm sóc đời sống văn hóa
tinh thần của các hộ gia đình có người đi XKLĐ.
Tâm lý vị kỷ,thực dụng,coi thường người nghèo khổ xuất hiện ở một bộ
phận người lao động khiến cho tình làng nghĩa xóm bị phai nhạt,gây mâu
thuấn,tranh chấp khiến cho đời sống văn hóa nông thôn trở nên căng thẳng.
Nguyễn Đắc Duy (16 tuổi) tâm sự: “Nếu mẹ cháu không đi XKLĐ, tôi
sẽ không bỏ học. Thời gian đầu vì nhớ mẹ, tôi thấy hụt hẫng, bỏ bê việc học
hành. Sau cùng, học kém, tôi không muốn đến lớp nữa!”.
Cô Trịnh Thị Mai giáo viên trường THCS Đông Tân cho biết:
“Những gia đình có mẹ đi XKLĐ ,nếu bố giáo dục đúng hướng ,con cái
trong nhà ngoan ngoãn,học hành giỏi giang,chăm chỉ.
Ngược lại nếu không được chăm sóc tận tình,thiếu sự chăm lo của
mẹ,bố không quan tâm thì nảy sinh tính coi thường đồng tiền,không hiểu giá
trị của lao động.
Con trai dễ lao vào điện tử,con gái yêu sớm lại không được chỉ bảo tận
tình dễ phải chịu những hậu quả nặng nề.
Đặc biệt trong độ tuổi từ 5-16 tuổi có những đứa trẻ không biết mẹ là ai
nên không có tình cảm,cha mẹ vì thế mà không thể giáo dục được con
cái.Trường học trở thành gánh nặng hậu quả của Đài Loan”.
44
Anh Nguyến Duy Đông22 tuổi đang lao động tại Đài Loan cho biết :”
Những lao động trẻ sau khi sang nước ngoài rất ít người giữ được ý thức như
ban đầu,nhiều người chưa hết nợ đã sa đọa,tiêu tiền như nước không lo tu chí
làm ăn.Xuất khẩu lao động chỉ dành cho những người cầu tiến,còn sang cho
biết thì không nên sang.”
Một điều đáng bận tâm khác dưới tác động của XKLĐ mang lại đó là
lối sống buông thả của những người đi XKLĐ ở nước ngoài cho đến người
thân trong nước.
Người đi nước ngoài thiếu thốn tình cảm dễ sinh ra ngoại tình,theo
đánh giá có khoảng trên dưới 60 % những người lao động đã có gia đình
ngoại tình ở nước ngoài.
Còn ở địa phương,hệ quả của XKLĐ dễ dàng nhận ra trước mắt.Đó là
sự xuất hiện ồ ạt của nhà nghỉ,quán Karaoke,massage xông hơi trên địa bàn
xã.Sự quản lý lỏng lẻo không ai có thể dám chắc rằng ở đó không ẩn chứa
những tệ nạn xã hội như tệ nạn mại dâm,ma túy.
Các tệ nạn đánh nhau,cờ bạc xuất hiện ngày càng nhiều trên địa phương
gây ảnh hưởng xấu đến hình ảnh,cũng như lối văn hóa tốt đẹp của vùng quê
vốn rất yên bình này.
3.2 Một số kiến nghị nhằm gìn giữ,bảo tồn và phát triển các giá trị văn
hóa tại Đông Tân-Đông Hưng-Thái Bình trong giai đoạn hiện nay
Với mỗi địa phương thì việc gìn giữ các giá trị văn hóa cổ truyền đồng
thời phát triển văn hóa để thích nghi với đời sống xã hội là một nhiệm vụ
không thể lơ là.Các giá trị văn hóa cũ tạo nên bản sắc văn hóa đặc trưng của
một vùng đất thì các giá trị văn hóa mới được tiếp nhận là cách thức để chúng
ta hoàn thiện hơn nền văn hóa địa phương đang có.Để tiếp thu những tinh hoa
văn hóa có giá trị,bà trừ những hủ tục làm cho môi trường văn hóa tốt đẹp hơn.
45
Làn sóng XKLĐ đã đem đến cho Đông Tân một diện mạo mới về cơ sở
hạ tầng,nâng cao đời sống của nhân dân đồng thời đã và đang làm thay đổi
diện mạo văn hóa tại địa phương này.Để văn hóa Đông Tân phát triển bền
vững và phát huy được vị trí vai trò của mình cần có những định hướng cụ thể
để đáp ứng nhu cầu thời đại đang đặt ra.
Chúng ta cần nhìn nhận vấn đề XKLĐ một cách cụ thể.Chúng ta nên lựa
chọn đối tượng nào đi XKLĐ là tiềm năng,vừa giảm bớt được sức ép lao động
trong nước vừa đảm bảo mặt tích cực của hoạt động XKLĐ.Hạn chế đến mức
thấp nhất những hạn chế của XKLĐ gây ra đối với văn hóa như sự nhạt nhòa
trong mối quan hệ tình cảm giữa những người thân trong gia đình.Tránh lối sống
buông thả và các yếu tố văn hóa tiêu cực tác động vào đời sống địa phương.
Đối với người XKLĐ:
Tận dụng nguồn lao động có tay nghề,có tác phong lao động đã được
đào tạo tại nước ngoài để phục vụ cho quá trình lao động sản xuất trong
nước,tránh gây thất thoát nguồn lao động,tận dụng họ làm nhân tố để đổi mới
phương thức sản xuất,lao động trong nước.
Có những khóa đào tạo kỹ năng giúp cho những người đi XKLĐ và
người thân có những cách thức để thích nghi với cuộc sống một cách hiệu quả
trong quá trình diễn ra hoạt động XKLĐ.
Tăng cường các hoạt động xúc tiến,giới thiệu việc làm,đào tạo nghề
phù hợp cho lao động .Giúp họ ổn định việc làm ngay tại địa phương sau khi
đi XKLĐ
Các tổ chức xã hội cần quan tâm nhiều hơn đến đời sống văn hóa tinh
thần của người lao động .Giúp họ nhận định được những mặt tích cực,hạn
chế,biết cách chọn lọc những nét văn hóa tốt đẹp để tiếp thu và bài trừ những
tệ nạn xấu.
46
Đối với người thân của những người đi XKLĐ:
Các hội,ban,ngành địa phương cần quan tâm đến đời sống của những
đối tượng này.Giúp đỡ những người ở nhà tránh xa những tệ nạn xã hội,hạn
chế những hệ quả xấu của XKLĐ mang lại.
Thành lập các câu lạc bộ cho hội viên sinh hoat,chia sẻ những kinh
nghiệm nuôi dạy ,chăm sóc con cái giúp cho người thân những người XKLĐ
có thể hoàn thành tốt những công việc gia đình một cách hiệu quả.
Tạo công ăn việc làm cho lao động tại địa phương để phát triển kinh tế
và tránh dư thừa lao động.
Nhà trường là nơi trẻ em học tập và rèn luyện nên có những lớp học
ngoại khóa dạy bảo kỹ năng sống lối sống bù đắp lại cho học sinh những thiếu
hụt về mặt tình cảm mà gia đình không đáp ứng được,qua đó giúp các em
phát triển hoàn thiện cả về trí tuệ lẫn kỹ năng sống
Bên cạnh việc tiếp thu không quên nhiệm vụ giữ gìn ,bảo tồn các nét
văn hóa tiêu biểu của địa phương,không để các yếu tố văn hóa ngoại xâm
chiếm,lấn át làm mai một lu mờ văn hóa địa phương.Chúng ta luôn hòa nhập
nhưng không hòa tan.Phấn đấu vì mục tiêu “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
47
KẾT LUẬN
Trên đây là những đánh giá nhận định về tình hình Xuất khẩu lao động
và biến đổi văn hóa tại Đông Tân-Đông Hưng-Thái Bình.
Bên cạnh những yếu tố văn hóa cổ truyền,làn sóng XKLĐ đã thổi vào
địa phương này những dấu ấn mới của nền văn hóa nhân loại.Người lao động
đã tiếp thu những nét văn hóa nước ngoài áp dụng vào Đông Tân làm thay đổi
phần nào bộ mặt của nền văn hóa cổ truyền.Văn hóa xã Đông Tân vì thế mà
có thêm những màu sắc mới trong quá trình hội nhập và phát triển.
Cơ sở vật chất hạ tầng được đầu tư,bộ mặt nông thôn nhiều đổi khác,lối
sống phong cách sống văn minh và hiện đại tạo nên một Đông Tân giàu đẹp
và văn minh.
Bên cạnh những yếu tố văn hóa tốt đep là văn minh hóa đời sống địa
phương thì cũng xuất hiện nhiều hệ quả không thể tránh khỏi của hoạt động
XKLĐ tác động đối với nền văn hóa như rạn nứt tình cảm,lối sống buông
thả,sự xuất hiện các tệ nạn xã hội....vv.
Do đó ngoài việc tiếp nhận văn hóa chúng ta luôn cần có những chọn
lọc định hướng phù hợp tránh làm mất đi giá trị cốt yếu của nền văn hóa quê
hương.Luôn phải tâm niệm việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa dân
tộc là nhiệm vụ mà mỗi người dân sống trên mảnh đất này phải làm vì sự phát
triển của Đông Tân nói riêng và của đất nước Việt Nam nói chung.
48
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Nguyễn Phúc Hưng,Phân tích vai trò giới và ảnh hưởng của nó tới sự
đưa ra quyết định
2.Nguyễn Văn Quyết (2003),Nghiên cứu sự biến đổi văn hóa của các
cộng đồng nông nghiệp ,nông thôn trong quá trình phát triển các khu công
nghiệp,luận án tiến sỹ Văn hóa học,Viện Văn hóa nghệ thuật Việt Nam.
3.Nguyễn Thu Thảo,Xuất khẩu lao động sang Trung Đông.khóa luận
tốt nghiệp.
4.Ủy ban nhân dân xã Đông Tân,Số liệu thống kê dân số,vị trí địa lý xã
Đông Tân-Đông Hưng-Thái Bình.
5.GS-TS Hoàng Vinh: Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng văn
hóa ở nước ta.
49
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI
KHOA VĂN HÓA HỌC
----------------
nguyÔn thu hiÒn
xuÊt khÈu lao ®éng vμ biÕn ®æi v¨n hãa
t¹i ®«ng t©n, ®«ng h−ng, th¸i b×nh
PHỤ LỤC
HÀ NỘI - 2014
50
MỤC LỤC PHỤ LỤC
STT TÊN PHỤ LỤC Trang
Phụlục 1: Những hình ảnh về tác động của XKLĐ đến
văn hóa xã Đông Tân-Đông Hưng-Thái Bình 51
Phụlục 2: Bảng hỏi khảo sát tình hình biến đổi văn hóa
dưới tác động của XKLĐ tại Đông Tân-Đông
Hưng-Thái Bình
55
Phụlục 3: Một số phiểu phỏng vấn sâu 62
51
PHỤ LỤC 1 : Những hình ảnh về XKLĐ và biến đổi văn hóa
xã Đông Tân-Đông Hưng-Thái Bình:
Ngôi nhà cô Nguyễn Thị Sinh trước khi cô đi XKLĐ
Sau hơn 10 năm đi XKLĐ gia đình đã có cơ ngơi bề thế
52
Thay đổi trong gu thời trang của những người đi XKLĐ
Phụ nữ được quan tâm trong những ngày kỷ niệm
53
Gia đình của các hộ XKLĐ có cơ hội nâng cao chất lượng cuộc sống.
Khó ai nghĩ rằng họ từng là những nông dân chân lấm tay bùn
54
Việc đàn ông vào bếp là chuyện rất bình thường tại Đông Tân
Những năm trở lại đây,XKLĐ đang thu hút giới trẻ tại Đông Tân
55
PHỤ LỤC 2: Bảng khảo sát biến đổi văn xã Đông Tân dưới tác động
của XKLĐ:
PHIẾU KHẢO SÁT ĐỀ TÀI “XUẤT KHẨU LAO
ĐỘNG VÀ BIẾN ĐỔI VĂN HÓA TẠI ĐÔNG TÂN-
ĐÔNG HƯNG-THÁI BÌNH”
Kính thưa quý vị!
Trước khi quý vị thực hiện phiếu khảo sát này,cho phép tôi được gửi lời
cảm ơn chân thành đến những người quan tâm và giúp đỡ tôi thực hiện đề tài
khoa học “ Xuất khẩu lao động và biến đổi văn hóa tại Đông Tân-Đông
Hưng-Thái Bình”.
Như chúng ta đã biết,cum từ “Xuất khẩu lao động” (XKLĐ) đã trở nên
quen thuộc trong đời sống của người dân Đông Tân. XKLĐ là hướng đi giúp
rất nhiều các gia đình vươn lên thoát nghèo,cải thiện kinh tế,nâng cao chất
lượng cuộc sống .Nếu như trước kia Đông Tân là vùng đất thuần nông nghèo
khó,thì ngày nay quê hương chúng ta đang từng bước chuyển mình trở nên
khang trang hơn ,hiện đại hơn,giàu đẹp hơn. Có được điều này là nhờ đóng
góp rất to lớn của những người con quê hương đang lao động và làm việc tại
nước ngoài.
Bên cạnh những giá trị vật chất mà chúng ta nhìn thấy được trực tiếp
thì có một hệ quả từ hoạt động XKLĐ đang dần dần làm thay đổi đời sống
của vùng đất này, đó là hiện tượng biến đổi văn hóa.Sự thay đổi về cơ cấu lao
động, vốn văn hóa du nhập từ nước ngoài, các thay đổi về quan niệm sống
theo thời gian.đã làm cho nền văn hóa cổ truyền có những nét khác biệt
so với trước đây.
56
Để có cái nhìn cụ thể, khắc họa sinh động sự chuyển biến về văn hóa
của Xã Đông Tân,chúng tôi thực hiện đề tài này,mong nhận được sự quan
tâm ,giúp đỡ,tư vấn của bà con nhân dân trong xã.Hi vọng với sự nhiệt tình
tham gia góp ý bổ xung của quý vị,đề tài “Xuất khẩu lao động và biến đổi văn
hóa tại Đông Tân-Đông Hưng-Thái Bình” sẽ thành công mỹ mãn.
A. PHẦN THÔNG TIN CÁ NHÂN
(Đánh dấu tích ở cột bên cạnh cho một hoặc nhiều phương án quí vị
lựa chọn)
A1. Giới tính của quí vị:
1. Nam 2. Nữ
A2. Năm sinh (tuổi) của quí vị:
A3. Nơi cư trú hiện nay của quí vị (ghi rõ thuộc xã, huyện, tỉnh
nào?)
.
...................................................................................................................
A4. Trình độ học vấn cao nhất của quí vị:..
(Không biết chữ = 0, Tiểu học = 1, Trung học cơ sở = 2, Phổ thông
trung học = 3, Trung cấp/ cao đẳng hoặc tương đương = 4, đại học trở lên= 5)
A5. Nghề nghiệp (nghề dành nhiều thời gian nhất) hiện naycủa quí vị
1. Nông dân
2. Công nhân
3. Cán bộ hưu trí
57
4. Học sinh, sinh viên
5. Dịch vụ và nghề tự do
6. Khác (ghi rõ):
A5 Gia đình quý vị có người đi XKLĐ không?.Nếu có xin ghi rõ số
người đi XKLĐ :
Giới tính Số lượng
-Người đi XKLĐ ở gia đình quý vị là đối tượng:
a. Đã lập gia đình
b. Chưa lập gia đình
-Hình thức xuất khẩu lao động của người thân trong gia đình quý vị là :
a. Hiệp định chính phủ ký kết giữa hai nước
b. Hợp tác lao động và chuyên gia
c. Thông qua doanh nghiệp Việt Nam nhận thầu, khoán xây dựng công
trình, liên doanh, liên kết chia sản phẩm ở nước ngoài và đầu tư ra nước ngoài
d. Thông qua các doanh nghiệp Việt Nam làm dịch vụ cung ứng lao
động (chủ yếu)
e. Người lao động trực tiếp ký hợp đồng lao động với cá nhân, tổ chức
nướcngoài.
B : Khảo sát tình hình thực tế: (Đánh dấu X vào câu trả lời mà Ông/bà
cho là đúng nhất)
58
1.Thành viên trong gia đình ông/bà đi XKLĐ ở nước nào,khu vực
nào?:(Có thể nhiều lựa chọn)
a. Không có người đi XKLĐ
b. Đài Loan
c. Ma Cao
d. Malaysia
e. Khác ( kể tên)
2.Mô hình tổ chức hiện tại của gia đình ông/bà :
a. Gia đình tam,tứ đại đồng đường (ba,bốn thế hệ cùng chung sống
với nhau)
b. Gia đình hạt nhân ( bố mẹ-con cái)
c. Gia đình không hoàn chỉnh ( không cùng chung sống,một bên
nuôi con)
d. Khác ( ông bà nuôi cháu,con cái tự chăm sóc nhau)
3. Sự gắn kết của các thành viên trong gia đình chủ yếu bằng hình thức gì ?
a. Gặp nhau thường xuyên
b. Gặp nhau phụ thuộc vào thời gian ký hợp đồng lao động
c. Thông qua các phương tiện thông tin : Điện thoại,Internet,thư từ
d. Người nào làm việc của người đó
Nếu gia đình quý vị gặp nhau theo thời hạn hợp đồng lao động vui lòng
ghi rõ thời gian:
4.Sự ảnh hưởng của cha mẹ đối với con cái:
a. Bố có ảnh hưởng đối với con hơn
b. Mẹ có ảnh hưởng với con hơn
c. Bố mẹ đối với con cái có ảnh hưởng tương đương nhau
59
( Chọn a hoặc b,nêu rõ lý do):
5. Quan niện mẹ chồng-nàng dâu trong gia đình ông/bà :
a. Vẫn còn khắt khe
b. Hòa hợp
c. Có sự thay đổi theo chiều hướng tích cực.
d. Có sự thay đổi theo chiều hướng tiêu cực.
6. Quan niệm về việc phụ nữ kiếm sống ngoài xã hội:
a. Đồng tình
b. Không đồng tình
c. Khác (Nêu lý do)
7. Quan niệm về sinh ít con,nuôi con một bề:
a. Đồng tình
b. Không đồng tình
8. Trong gia đình ai là người làm trụ cột kinh tế :
a. Người đàn ông
b. Người phụ nữ
c. Cả hai
9. Gia đình ông/bà có tổ chức các kỷ niệm tôn vinh phụ nữ không?:
60
a. Không
b. Có (kể tên )
Kể tên các ngày kỷ niệm của gia đình giành cho phụ nữ:
10. Gia đình ông/bà có tổ chức các hoạt động du lịch ( nghỉ mát,tham quan
thắng cảnh,du lịch tâm linh) không?
a. Có
b. Không
11. Các gia đình có xu hướng tạo mọi điều kiện cho con cái học hành
đầy đủ.Ý kiến của quý vị:
a. Có
b. Không
12. Tinh thần đoàn kêt cộng đồng ( thể hiện trong tang ma,cưới
xin,hoạt động hội hè ) hiện nay:
a. Giảm xuống
b. Tăng lên
c. Không có sự biến đổi nhiều
(Ví dụ giải thích cho lựa chọn của mình)
13. Ông/bà có chịu tác động của yếu tố văn hóa nước ngoài không?
61
a. Có( Liệt kê yếu tố ông/bà chịu ảnh hưởng)
b. Không
14. Theo quan sát của ông/ bà địa phương có du nhập thêm tôn giáo
mới nào không?
a. Có (Liệt kê).
b. Không
15. Có những tác động xấu của hoạt động XKLĐ vào đời sống đị
phương không?
a. Có ( liệt kê)
b. Không
Cảm ơn quý vị đã giúp đỡ chúng tôi trong việc thực hiện đề tài này!
62
PHỤ LỤC 3:
MỘT SỐ PHIẾU PHỎNG VẤN SÂU VỀ VẤN ĐỀ ĐI XKLĐ
Người trả lời phỏng vấn: Trịnh Thị Mai
Tuổi : 46
Nghề nghiệp: Giáo Viên
Gia đình có người đi nước ngoài mà phụ nữ chiếm số đông tại Đông
Tân-Đông Hưng-Thái Bình
Bố ở nhà nếu gia đình phát triển đúng hướng ,con cái hiểu được sự hi
sinh của mẹ sẽ phấn đấu chăm chỉ chịu kos học hành.
Nhưng đại đa số hư hỏng do bố cặp bồ,cờ bạc ít quan tâm đến con cái
khiến con cái không được quan tâm về mặt tinh thần ,chỉ được chu cấp tiền
bạc sinh ra tâm lý coi thường đồng tiền ,sức lao động của người mẹ đang làm
việc tại nước ngoài.
Có những trường hợp người mẹ đi quá sớm,từ khi con 5 tuổi đến khi
16 không được tiếp xúc với mẹ không có tình cảm với nhau.
Trường học là nơi gánh những hậu quả trực quan của hệ lụy XKLĐ.
63
Phiếu 2 Nguyễn Duy Đông
Tuổi 22
Nghề nghiệp : Công nhân đang thực hiện hợp đồng lao động tại Đài Loan
XKLĐ không mới nhưng được giới trẻ quan tâm nhất là từ ba đến bốn
năm trở lại đây.Nguyên nhân do tình hình kinh tế trong nước khó khăn nên
giải pháp đi XKLĐ là một phương án không tồi,nhưng không ít rủi ro,XKLĐ
như con dao hai lưỡi khả năng thành công và thất bại là 50:50.
Muốn làm ăn ở một nước nào đó thì phải đón một khoản tiền lớn (100
triệu trở lên) gọi là môi giới .Nhưng không phải ai cũng tìm được công việc
tốt ,nếu tìm được công việc tốt thì sẽ đem lại thu nhập cao,nếu không người
lao động sẽ trở nên trắng tay cộng thêm 100 triệu đồng đó.XKLĐ giống như
việc đánh bạc,mang tính chất hên xui .Lợi lích là cơ hội thay đổi cuộc sống
giúp gia đình thoát nghèo.
Thay đổi tính cách:
Nhiều người sang Đài Loan đánh mất mình từ lúc nào không biết.Các
bạn cần nhớ đi XKLĐ để làm gì.?Không phải nhiều gia đình còn nghèo
khó,kinh tế chưa có sao?.Sang bên này để kiếm tiền trả nợ vậy mà nhiều
người sau khi hết nợ vốn đi là đã ăn chơi,tiêu tiền như nước.Nhiều người chưa
hết nợ đã sa đọa vì vậy XKLĐ dành cho những người có chí cầu tiến còn ai
muốn đi cho biết thì không nên đi.
Phong cách sống của giới tư bản rất hay,mình rất thích thú và học được
rất nhiều.Họ sống và làm việc không cần ồn ào,rất thực dụng,nhanh gọn,tiết
kiệm là những từ nói lên cách học làm việc: Giàu không hoang phí,giàu cần
tiết kiệm.
64
Phiếu 3 Cô Nguyễn Thị Sinh
Tuổi 50
Nghề nghiệp: Giúp việc Đài Loan
Thời gian 10 năm,hiện tại đang sinh sống tại Đài Loan:
Vấn đề XKLĐ nước ngoài có nhiều cái hay,cái dở.
Làm việc kiếm tiền xóa đói giảm nghèo,xây dựng quê hương giàu
đẹp.Công việc chính là làm việc,kiếm tiền,lo cho gia đình,cảm nhận được
cuộc sống văn hóa ,tinh thần ,người dân nơi đây họ sống công bằng,song
phẳng.Tôi kính nể họ vì họ rất kính nể họ vì họ rất tôn trọng mọi người kể cả
những người làm công việc tầm thường ,những người ở dưới đáy xã hội như
tôi.Người Đài Loan sống lịch sự có trách nhiệm,tinh thần tự giác cao.
Người phụ nữ đi khỏi nhà,chỗ dựa tinh thần bị lung lay,người đàn ông
không khéo sẽ không làm gia đình phát triển được.
Cảm ơn các các cấp chính quyền,cảm ơn Đảng ,cảm ơn chính phủ đã
tạo điều kiện cho tôi đi XKLĐ kiếm tiền thay đổi cuộc sống.
65
Người trả lời phỏng vấn: Bùi Văn Sỹ
Tuổi: 52
Quê quán: Đông Hưng- Thái Bình
Trong thời gian đầu khi vợ mới đi xuất khẩu lao động thì thấy nhớ
nhung diết, nhưng sau một thời gian thì thấy quen và thấy bình thường.
Nhu cầu về tình cảm không được giải quyết, nên dẫn đến hiện tượng
cần có người thay vợ giả quyết nhu cầu đó. Nhưng mọi việc đều có giới hạn,
khi mình làm một việc gì đấy thì mình vẫn phải nghĩ đến vợ mình đang vất vả
vì mình tại nơi đất khách quê người. Không được để vợ mất niềm tin ở mình,
để vợ yên tâm làm ăn.
Tình cảm vợ chồng, con cái xa cách lâu ngày dễ nhạt phai.
Các vấn đề về nuôi dạy con cái đặt lên vai người chồng.
Những công việc của phụ nữ như: đi chợ, đồng áng, nuôi dạy con
cái,đều do người chồng gánh vác.
Cũng vì nghèo nên mới phải để vợ đi XKLĐ.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nguyen_thu_hien_tom_tat_1304_2066040.pdf