Báo cáo Đánh giá hệ thống pháp luật Môi trường Việt Nam

CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM I. ĐẶC TRƯNG CỦA HỆ THỐNG VĂN BẢN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM 1. Pháp luật bảo vệ môi trường Việt Nam được xây dựng trên một cơ sở chính trị nhất quán và vững chắc 2. Pháp luật bảo vệ môi trường Việt Nam có tính thống nhất trong sự liên kết với pháp luật chuyên ngành II. PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM III. NGUYÊN TẮC ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM I. NHỮNG THÀNH TỰU II. NHỮNG BẤT CẬP, TỒN TẠI CHƯƠNG III: NHỮNG KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG I. KIẾN NGHỊ CHUNG VỀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG II. KIẾN NGHỊ CỤ THỂ KẾT LUẬN CHƯƠNG I TỔNG QUAN VỀ PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM Hoạt động bảo vệ môi trường là hoạt động giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp; phòng ngừa, hạn chế tác động xấu đối với môi trường, ứng phó sự cố môi trường; khắc phục ô nhiễm, suy thoái, phục hồi và cải thiện môi trường; khai thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên; bảo vệ đa dạng sinh học . Một trong những công cụ quan trọng để phân công trách nhiệm giữa các tổ chức, cá nhân trong xã hội trong việc bảo vệ môi trường chính là pháp luật. Hệ thống các quy phạm pháp luật quy định quyền và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân trong hoạt động bảo vệ môi trường tạo thành pháp luật bảo vệ môi trường. Pháp luật bảo vệ môi trường của Việt Nam được cấu thành bởi hệ thống các quy phạm pháp luật nằm trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật ở nhiều tầm hiệu lực pháp luật khác nhau từ Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh đến các văn bản do Chính phủ, các bộ, ngành và chính quyền địa phương ban hành. Điều 29 Hiến pháp Việt Nam năm 1992 đã quy định: “Cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, mọi cá nhân phải thực hiện các quy định của Nhà nước về sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Nghiêm cấm mọi hành động làm suy kiệt tài nguyên và huỷ hoại môi trường”. Đây là quy định mang tính hiến định, tạo cơ sở cho việc xác định nghĩa vụ của các chủ thể trong việc bảo vệ môi trường. Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 gồm 136 điều được chia làm 15 chương quy định những vấn đề quan trọng sau đây: 1. Phạm vi, đối tượng điều chỉnh, nguyên tắc, chính sách về bảo vệ môi trường của Việt Nam; 2. Tiêu chuẩn môi trường: nguyên tắc xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn môi trường; nội dung tiêu chuẩn môi trường quốc gia; hệ thống tiêu chuẩn môi trường quốc gia; các yêu cầu đối với tiêu chuẩn về chất lượng môi trường xung quanh; các yêu cầu đối với tiêu chuẩn về chất thải; việc ban hành và công bố áp dụng tiêu chuẩn môi trường quốc gia; 3. Đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và cam kết bảo vệ môi trường: - Đối với việc đánh giá môi trường chiến lược: quy định rõ các đối tượng, chủ thể phải lập và nội dung của báo cáo đánh giá môi trường chiến lược cũng như cơ quan có thẩm quyền thẩm định báo cáo đánh giá môi trường chiến lược; - Đối với việc đánh giá tác động môi trường: quy định rõ các đối tượng, chủ thể phải lập và nội dung của báo cáo đánh giá tác động môi trường cũng như cơ quan có thẩm quyền thẩm định, phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường; trách nhiệm thực hiện và kiểm tra việc thực hiện báo cáo tác động môi trường; - Đối với cam kết bảo vệ môi trường: quy định rõ đối tượng phải lập bản cam kết, nội dung bản cam kết, trách nhiệm thực hiện và kiểm tra việc thực hiện bản cam kết bảo vệ môi trường. 4. Bảo tồn và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên: quy định việc điều tra, đánh giá, lập quy hoạch sử dụng tài nguyên thiên nhiên; bảo tồn thiên nhiên; bảo vệ đa dạng sinh học; bảo vệ và phát triển cảnh quan thiên nhiên; bảo vệ môi trường trong khảo sát, thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên; phát triển năng lượng sạch, năng lượng tái tạo và sản phẩm thân thiện với môi trường; xây dựng thói quen tiêu dùng thân thiện với môi trường. 5. Các biện pháp bảo vệ môi trường trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ: quy định trách nhiệm bảo vệ môi tr¬ường của tổ chức, cá nhân trong họat động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; bảo vệ môi trường đối với khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung; bảo vệ môi trường đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; bảo vệ môi trường đối với làng nghề; bảo vệ môi trường đối với bệnh viện, cơ sở y tế khác; bảo vệ môi trường trong hoạt động xây dựng; bảo vệ môi trường trong hoạt động giao thông vận tải; bảo vệ môi trường trong nhập khẩu, quá cảnh hàng hoá; bảo vệ môi trường trong nhập khẩu phế liệu; bảo vệ môi trường trong hoạt động khoáng sản; bảo vệ môi trường trong hoạt động du lịch; bảo vệ môi trường trong sản xuất nông nghiệp; bảo vệ môi trường trong nuôi trồng thủy sản; bảo vệ môi trường trong hoạt động mai táng; xử lý cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ gây ô nhiễm môi trường; 6. Các yêu cầu và biện pháp bảo vệ môi trường đô thị, khu dân cư: quy định việc quy hoạch bảo vệ môi trường đô thị, khu dân cư; yêu cầu về bảo vệ môi trường đối với đô thị, khu dân cư tập trung; bảo vệ môi trường nơi công cộng; yêu cầu về bảo vệ môi trường đối với hộ gia đình; tổ chức tự quản về bảo vệ môi tr¬ường; 7. Bảo vệ môi trường biển, nước sông và các nguồn nước khác: - Bảo vệ môi trường biển: quy định nguyên tắc bảo vệ môi trường biển; bảo tồn và sử dụng hợp lý tài nguyên biển; kiểm soát, xử lý ô nhiễm môi trường biển; tổ chức phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường trên biển; - Bảo vệ môi trường nước sông: quy định nguyên tắc bảo vệ môi trường nước sông; kiểm soát, xử lý ô nhiễm môi trường nước trong lưu vực sông; trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh đối với bảo vệ môi trường nước trong lưu vực sông; tổ chức bảo vệ môi trường nước của lưu vực sông; - Bảo vệ môi trường các nguồn nước khác: Bảo vệ môi trường nguồn nước hồ, ao, kênh, mương, rạch; Bảo vệ môi trường hồ chứa nước phục vụ mục đích thuỷ lợi, thủy điện; Bảo vệ môi trường nước dưới đất; 8. Quản lý chất thải: - Quy định chung về quản lý chất thải: trách nhiệm quản lý chất thải; thu hồi, xử lý sản phẩm hết hạn sử dụng hoặc thải bỏ; tái chế chất thải; trách nhiệm của ủy ban nhân dân các cấp trong quản lý chất thải; - Các biện pháp quản lý chất thải nguy hại: lập hồ sơ, đăng ký, cấp phép và mã số hoạt động quản lý chất thải nguy hại; phân loại, thu gom, l¬ưu giữ tạm thời chất thải nguy hại; vận chuyển chất thải nguy hại; xử lý chất thải nguy hại; cơ sở xử lý chất thải nguy hại; khu chôn lấp chất thải nguy hại; quy hoạch về thu gom, xử lý, chôn lấp chất thải nguy hại; - Các biện pháp quản lý chất thải rắn thông thường: phân loại chất thải rắn thông thường; thu gom, vận chuyển chất thải rắn thông thường; cơ sở tái chế, tiêu hủy, khu chôn lấp chất thải rắn thông thường; quy hoạch về thu gom, tái chế, tiêu huỷ, chôn lấp chất thải rắn thông thường; - Các biện pháp quản lý nước thải: thu gom, xử lý nước thải; hệ thống xử lý nước thải; - Các biện pháp quản lý và kiểm soát bụi, khí thải, tiếng ồn, độ rung, ánh sáng, bức xạ: quản lý và kiểm soát bụi, khí thải; quản lý khí thải gây hiệu ứng nhà kính, phá huỷ tầng ô zôn; hạn chế tiếng ồn, độ rung, ánh sáng, bức xạ; 9. Phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường, khắc phục ô nhiễm và phục hồi môi trường: - Các biện pháp phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường: phòng ngừa sự cố môi trường; an toàn sinh học; an toàn hoá chất; an toàn hạt nhân và an toàn bức xạ; ứng phó sự cố môi trường; xây dựng lực lượng ứng phó sự cố môi trường; - Các biện pháp khắc phục ô nhiễm và phục hồi môi trường: căn cứ để xác định khu vực môi trường bị ô nhiễm; khắc phục ô nhiễm và phục hồi môi trường; 10. Quan trắc và thông tin về môi trường: quy định các vấn đề về quan trắc môi trường; hệ thống quan trắc môi trường; quy hoạch hệ thống quan trắc môi trường; chương trình quan trắc môi trường; chỉ thị môi trường; báo cáo hiện trạng môi trường cấp tỉnh; báo cáo tình hình tác động môi trường của ngành, lĩnh vực; báo cáo môi trường quốc gia; thống kê, lưu trữ dữ liệu, thông tin về môi trường; công bố, cung cấp thông tin về môi trường; công khai thông tin, dữ liệu về môi trường; thực hiện dân chủ cơ sở về bảo vệ môi trường; 11. Nguồn lực bảo vệ môi trường: tuyên truyền về bảo vệ môi trường; giáo dục về môi trường và đào tạo nguồn nhân lực bảo vệ môi tr¬ường; phát triển khoa học, công nghệ về bảo vệ môi trường; phát triển công nghiệp môi trường, xây dựng năng lực dự báo, cảnh báo về môi trường; nguồn tài chính bảo vệ môi tr¬ường; ngân sách nhà nước về bảo vệ môi trường; thuế môi trường; phí bảo vệ môi tr¬ường; ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường trong hoạt động khai thác tài nguyên thiên nhiên; quỹ bảo vệ môi trường; phát triển dịch vụ bảo vệ môi trường; chính sách ưu đãi, hỗ trợ hoạt động bảo vệ môi trường; 12. Hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường: thực hiện điều ước quốc tế về môi trường; bảo vệ môi trường trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hoá; mở rộng hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường; 13. Trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước, Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên về bảo vệ môi trường: trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường của Chính phủ, bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường của Uỷ ban nhân dân các cấp; cơ quan chuyên môn, cán bộ phụ trách về bảo vệ môi trường; trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên; 14. Thanh tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo và bồi thường thiệt hại về môi trường: - Thanh tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo về môi trường: thanh tra bảo vệ môi trường; trách nhiệm thực hiện kiểm tra, thanh tra bảo vệ môi trường; xử lý vi phạm; khiếu nại, tố cáo, khởi kiện về môi trường; tranh chấp về môi trường; - Bồi thường thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường: thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường; xác định thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường; giám định thiệt hại do suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường; giải quyết bồi thường thiệt hại về môi trường; bảo hiểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại về môi trường;

doc148 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 7656 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Đánh giá hệ thống pháp luật Môi trường Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chung, của Chương XVII nói riêng phụ thuộc rất nhiều vào việc định lượng một cách chính xác và hợp lý các khung hình phạt. - Làm rõ hơn đối tượng tác động của các tội phạm về môi trường. Phù hợp với quy định của Luật bảo vệ môi trường 2005 về 2 dạng thiệt hai do ô nhiễm, suy thoái môi trường, đối tượng chịu sự tác động của hành vi phạm tội môi trường không chỉ là môi trường và các thành tố của môi trường mà còn là tính mạng, sức khoẻ , tài sản, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. - Nghiên cứu việc áp dụng trách nhiệm hình sự đối với các tổ chức, pháp nhân. Cho tới nay, pháp luật hình sự của Việt Nam mới chỉ quy định trách nhiệm hình sự đối với các cá nhân. Tuy nhiên các hành vi gây thiệt hại môi trường lại chủ yếu do các doanh nghiệp gây ra. Do đó, việc quy trách nhiệm cụ thể và áp dụng hình phạt rất khó thực hiện. - Định lượng lại khung hình phạt và mức phạt theo mức độ thiệt hại do ô nhiễm thực tế đã xảy ra, đảm bảo tính “liên thông”, nâng cao của mức phạt hình sự so với mức phạt hành chính vì trong phần lớn trường hợp, người có hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu trước đó đã bị xử phạt hành chính nhưng không chấp hành các nghĩa vụ khắc phục thiệt hại theo quyết định xử phạt hành chính. - Tiếp tục đổi mới cách thức quy định tội phạm về môi trường trong các văn bản quy phạm pháp luật để nâng cao tính thống nhất, minh bạch của các quy định này. Trước mắt, từ góc độ thống nhất quan niệm về bảo vệ môi trường trong Luật bảo vệ môi trường 2005 và Bộ luật hình sự 1999, cần nghiên cứu việc tập hợp toàn bộ các quy định về tội phạm liên quan đến việc khai thác, sử dụng không hợp lý, lãng phí tài nguyên thiên nhiên (với tính chất là thành phần môi trường) vào Chương các tội phạm về môi trường của Bộ luật Hình sự. Hiện nay vẫn còn nột số tội phạm về thực chất là tội phạm môi trường nhưng lại được quy định ở các chương khác, ví dụ Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai, Tội vi phạm các quy định về quản lý rừng...được để ở Chương các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế. Tuy nhiên, về lâu dài, nên nghiên cứu việc quy định xử lý các vi phạm pháp luật về môi trường- từ xử phạt hành chính đến các tội phạm về môi trường ngay trong các luật chuyên ngành (chẳng hạn xử phạt hành chính các vi phạm pháp luật về rừng và các tội phạm liên quan đến khai thác, sử dụng rừng sẽ được quy định trong Luật bảo vệ và phát triển rừng). Cách thức này sẽ góp phần đảm bảo tính hệ thống, toàn diện, thống nhất trong việc điều chỉnh mọi vấn đề liên quan đến bảo vệ một thành phần môi trường ngay trong một văn bản luật chuyên ngành (từ khai thác, sử dụng, xác định hệ tiêu chuẩn môi trường, khắc phục sự cố môi trường, xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp môi trường...). Hướng tiếp cận này tạo sự tiện lợi trong tìm kiếm, tra cứu, áp dụng pháp luật cũng như trong việc cập nhật, sửa đôi nhanh chóng, kịp thời. 4. Hoàn thiện các quy định về tiêu chuẩn môi trường Trong thời gian tới, các quy định về tiêu chuẩn môi trường cần được hoàn thiện theo các định hướng sau: - Cần có các quy định khuyến khích áp dụng các tiêu chuẩn môi trường của các nước trên thế giới vào Việt nam cũng như áp dụng các hệ thống tiêu chuẩn quốc tế hiện đại. - Nhanh chóng ban hành tiêu chuẩn môi trường đối với một số ngành, lĩnh vực đặc thù. - Bổ sung, cụ thể hoá các quy định phân loại tiêu chuẩn môi trường thành tiêu chuẩn chất lượng môi trường xung quanh và tiêu chuẩn chất thải. Tiêu chuẩn về chất lượng môi trường xung quanh bao gồm: a) Nhóm tiêu chuẩn môi trường đối với đất phục vụ cho các mục đích về sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và mục đích khác; b) Nhóm tiêu chuẩn môi trường đối với nước mặt và nước dưới đất phục vụ các mục đích về cung cấp nước uống, sinh hoạt, công nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, tưới tiêu nông nghiệp và mục đích khác; c) Nhóm tiêu chuẩn môi trường đối với nước biển ven bờ phục vụ các mục đích về nuôi trồng thuỷ sản, vui chơi, giải trí và mục đích khác; d) Nhóm tiêu chuẩn môi trường đối với không khí ở vùng đô thị, vùng dân cư nông thôn; đ) Nhóm tiêu chuẩn về âm thanh, ánh sáng, bức xạ trong khu vực dân cư, nơi công cộng. Tiêu chuẩn về chất thải bao gồm: a) Nhóm tiêu chuẩn về nước thải công nghiệp, dịch vụ, nước thải từ chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, nước thải sinh hoạt và hoạt động khác; b) Nhóm tiêu chuẩn về khí thải công nghiệp; khí thải từ các thiết bị dùng để xử lý, tiêu huỷ chất thải sinh hoạt, công nghiệp, y tế và từ hình thức xử lý khác đối với chất thải; c) Nhóm tiêu chuẩn về khí thải đối với phương tiện giao thông, máy móc, thiết bị chuyên dụng; d) Nhóm tiêu chuẩn về chất thải nguy hại; đ) Nhóm tiêu chuẩn về tiếng ồn, độ rung đối với phương tiện giao thông, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, hoạt động xây dựng. Tiếp đến, Bộ Tài nguyên và Môi trường cần tiếp tục ban hành các quy chuẩn môi trường mới, phù hợp với các yêu cầu của Luật Bảo vệ môi trường năm 2005, đồng thời rà soát lại hệ thống tiêu chuẩn môi trường đã ban hành để có những sửa đổi, bổ sung phù hợp. Trong các nội dung này, cần lưu ý việc bổ sung tiêu chuẩn về mùi hôi thối, độc hại, tiêu chuẩn môi trường không khí ở vùng đô thị và vùng dân cư nông thôn, tiêu chuẩn ánh sáng, bức xạ trong khu vực dân cư, nơi công cộng. Bổ sung tiêu chuẩn về tổng lượng khí thải của các cơ sở sản xuất, bổ sung quy định về thời điểm thải khí thải độc hại để đảm bảo khả năng chịu tải của môi trường cũng như khả năng chịu đựng của người dân. - Hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn môi trường không khí. + Đối với các tiêu chuẩn thải khí nhất thiết phải quy định tổng lượng thải. Đây là chỉ tiêu hết sức quan trọng góp phần đảm bảo sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp và chấm dứt tình trạng xử lý khí thải giả tạo hiện nay của một số doanh nghiệp Theo quy định hiện hành thì một cơ sở thải vào môi trường 1 m3 khí thải cũng phải đáp ứng các đòi hỏi giống một cơ sở thải 1 triệu m3 khí thải. Điều đó là bất bình đẳng và có thể dẫn tới bóp chết các cơ sở nhỏ không đủ trên vốn đầu tư quy trình xử lý khí thải hiện đại để đảm bảo tiêu chuẩn môi trường. Mặt khác, các cơ sở cũng có thể xử lý khí thải bằng cách hoà loãng một cách cơ học trước khi thải vào môi trường. Như vậy, tổng lượng khí thải tăng lên và lượng khói, bụi... không hề được giảm thiểu qua xử lý. . Bên cạnh đó, quy định tổng lượng khí thải còn là cơ sở để nghiên cứu và dự báo mức độ, khả năng xảy ra ô nhiễm môi trường không khí tại một khu vực cụ thể. Tổng lượng thải cũng là cơ sở khoa học và pháp lý để các cơ quan quản lý nhà nước phân bổ quyền xả thải cho các cơ sở có chất thải khí và là căn cứ không thể thiếu để tính các loại phí và thuế môi trường. + Cần quy định cụ thể về vị trí địa lý, không gian áp dụng các tiêu chuẩn môi trường không khí; xây dựng các tiêu chuẩn chất lượng môi trường không khí xung quanh khác nhau áp dụng cho các vùng khác nhau như: chất lượng môi trường không khí khu dân cư, chất lượng môi trường không khí khu công nghiệp, chất lượng môi trường không khí khu du lịch... + Đối với các tiêu chuẩn thải khí, nên quy định thời điểm xả thải để tránh tình trạng quá tải đối với nguồn tiếp nhận, gây ra ô nhiễm môi trường không khí. Nên quy định thời điểm xả thải theo hướng khuyến khích các cơ sở tránh thải khí vào các giờ cao điểm. + Bổ sung thêm một số tiêu chuẩn thải khí cho các cơ sở công nghiệp như: Đối với các cơ sở công nghiệp thông thường, nên có sự phân biệt về tiêu chuẩn thải khí giữa các cơ sở đang hoạt động và các cơ sở mới đi vào hoạt động. Đối với các cơ sở công nghiệp đặc thù (nhà máy nhiệt điện, sản xuất xi măng, hoá chất, khai thác khoáng sản...) nên quy định tiêu chuẩn thải khí riêng với yêu cầu nghiêm ngặt hơn. Đây là những cơ sở có tiềm năng gây ô nhiễm môi trường không khí nghiêm trọng. Nếu áp dụng tiêu chuẩn thải khí đối với các cơ sở này cũng giống như các cơ sở công nghiệp thông thường thì khó tránh khỏi những tác động bất lợi lớn mà nó có thể gây ra cho môi trường không khí xung quanh khu vực hoạt động của mình. Việc bổ sung ngay một số tiêu chuẩn thải khí với yêu cầu cao hơn để áp dụng cho các cơ sở này là hết sức cần thiết, để giảm thiểu lượng khói, bụi, khí độc hại mà nó đang thải vào môi trường không khí theo tiêu chuẩn hiện hành. + Cần xây dựng ngay các tiêu chuẩn về mùi để kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí đối với các chất ô nhiễm này. 5. Hoàn thiện các quy định đánh giá tác động môi trường Để ĐTM có thể là một công cụ hữu hiệu trong quản lý và bảo vệ môi trường, cần hoàn thiện khung pháp lý về ĐTM ở Việt Nam ở các khía cạnh sau đây: Cần nghiên cứu hoàn thiện các quy định đảm bảo chất lượng của báo cáo ĐTM được lập, trong đó có việc đưa ra các tiêu chí đánh giá chất lượng của báo cáo ĐTM. Việc đưa ra các tiêu chí cụ thể về mặt nội dung đối với báo cáo ĐTM vừa đảm bảo tính minh bạch của các quy định về lập và thẩm định báo cáo ĐTM, vừa làm cơ sở cho các tổ chức, cá nhân lập báo cáo ĐTM, vừa là căn cứ cho việc thẩm định báo cáo. Cần có cơ chế để đảm bảo thực thi các nội dung của báo cáo ĐMC trên thực tế. Nội dung của báo cáo ĐMC phải được coi là một phần của các quy hoạch, chiến lược đã được phê duyệt và các báo cáo ĐTM thuộc các dự án nằm trong phạm vi của các quy hoạch, chiến lược phải đảm bảo sự phù hợp với các báo cáo ĐMC đã được lập cho các quy hoạch, chiến lược đó. Cần cụ thể hoá các quy định về điều kiện chuyên môn, cơ sở vật chất, trang thiết bị đối với các tổ chức cung ứng dịch vụ lập báo cáo ĐTM nhằm đảm bảo năng lực cung cấp dịch vụ của các tổ chức này, góp phần chuyên môn hoá công tác lập báo cáo ĐTM và đảm bảo chất lượng của công tác ĐTM trên thực tế. Cần có cơ chế đảm bảo sự tham gia của cộng đồng địa phương vào quá trình lập, thẩm định và giám sát thực hiện các báo cáo ĐTM và ĐMC thông qua việc nâng cao năng lực của cộng đồng về các vấn đề môi trường và yêu cầu đối với báo cáo ĐTM và ĐMC. Cần làm rõ trách nhiệm môi trường của các chủ thể tham gia vào việc lập, thẩm định, phê duyệt báo cáo ĐTM đảm bảo trong trường hợp các dự án được phê duyệt làm tổn hại đến môi trường xuất phát từ chất lượng của báo cáo ĐTM thì sẽ có chủ thể phải chịu trách nhiệm về hậu quả này. Cần có những chế tài nghiêm khắc hơn đối với các vi phạm nghĩa vụ từ việc lập, thẩm định, phê duyệt và thực hiện báo cáo ĐTM để đảm bảo tính răn đe đối với hành vi vi phạm, bổ sung chế tài đình chỉ dự án và yêu cầu khôi phục hiện trạng để tránh tình trạng có những chủ thể cố tình không lập báo cáo ĐTM nhưng vẫn triển khai dự án gây ra những hậu quả môi trường không thể khắc phục được. 6. Hoàn thiện các quy định về quản lý chất thải 6.1. Thu hồi, xử lý sản phẩm hết hạn sử dụng hoặc thải bỏ Điều 67 Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 quy định Chủ cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có trách nhiệm thu hồi sản phẩm đã hết hạn sử dụng hoặc thải bỏ dưới đây: a) Nguồn phóng xạ sử dụng trong sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; b) Pin, ắc quy; c) Thiết bị điện tử, điện dân dụng và công nghiệp; d) Dầu nhớt, mỡ bôi trơn, bao bì khó phân huỷ trong tự nhiên; đ) Sản phẩm thuốc, hoá chất sử dụng trong công nghiệp, nông nghiệp, thuỷ sản; thuốc chữa bệnh cho người; e) Phương tiện giao thông; g) Săm, lốp; h) Sản phẩm khác theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Việc thu hồi, xử lý các sản phẩm này được thực hiện theo quy định của Thủ tướng Chính phủ. Để thực hiện quy định này, trong thời gian tới Bộ Tài nguyên và Môi trường cần chủ trì xây dựng Dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế thu hồi, xử lý các sản phẩm hết hạn sử dụng hoặc thải bỏ trong đó nêu rõ danh mục các loại sản phẩm thuộc diện điều chỉnh của Quy chế và quy trình thu gom, xử lý các sản phẩm ấy. 6.2. Sửa đổi, bổ sung Quy chế quản lý chất thải nguy hại Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 dành một dung lượng khá lớn (từ Điều 70 đến Điều 76) các quy định về chất thải nguy hại, trong đó có nhiều nội dung mới về cơ sở xử lý chất thải, về phân định thẩm quyền của các cơ quan hữu quan trong việc quản lý nhà nước về chất thải nguy hại. Để các quy định này được triển khai, Quy chế quản lý chất thải nguy hại được ban hành kèm theo Quyết định số 155/1999/QĐ-TTg ngày 16/7/1999 cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với các quy định mới về quản lý chất thải nguy hại trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2005. 6.3. Ban hành các quy định hướng dẫn việc quản lý chất thải thông thường - Đề nghị Bộ Xây dựng chủ trì phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định tiêu chuẩn kỹ thuật, hướng dẫn, kiểm tra, xác nhận cơ sở tái chế, tiêu huỷ, khu chôn lấp chất thải rắn thông thường theo đúng yêu cầu tại Điều 79 khoản 3 Luật Bảo vệ môi trường năm 2005; - Đề nghị Bộ Xây dựng chủ trì phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường xây dựng quy hoạch tổng thể quốc gia về thu gom, tái chế, tiêu huỷ, chôn lấp chất thải rắn thông thường trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo đúng yêu cầu của Điều 80 Luật Bảo vệ môi trường năm 2005. 6.4. Ban hành quy chế chuyển nhượng hạn ngạch phát khí thải gây hiệu ứng nhà kính Điều 84 Khoản 2 Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 quy định “việc chuyển nhượng, mua bán hạn ngạch phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính của Việt Nam với nước ngoài do Thủ tướng Chính phủ quy định”. Để triển khai quy định này, trong thời gian tới Bộ Tài nguyên và Môi trường cần chủ động phối hợp với các Bộ, ngành hữu quan xây dựng Dự thảo Quy chế chuyển nhượng, mua bán hạn ngạch phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính của Việt Nam với nước ngoài trình Chính phủ xem xét, quyết định. Các quy định về quản lý chất thải, nhất là chất thải tại các khu đô thị, khu công nghiệp cần đặc biệt được ưu tiên, hoàn thiện. Trong đó cần đặc biệt ưu tiên thực hiện các nhiệm vụ đã được nêu trong Chỉ thị số 23/2005/CT-TTg ngày 21/6/2005 của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh công tác quản lý chất thải rắn tại các đô thị và khu công nghiệp, trong đó có các việc cụ thể sau: - Bộ Xây dựng sớm hoàn thiện Đề án quy hoạch tổng thể quản lý chất thải rắn cho các đô thị và khu công nghiệp trình Thủ tướng Chính phủ quyết định; Chủ trì, phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Khoa học và Công nghệ rà soát, bổ sung và xây dựng mới các tiêu chuẩn, quy phạm về các công trình xử lý chất thải rắn; Hoàn thành việc rà soát nội dung, đánh giá kết quả thực hiện Chiến lược quản lý chất thải rắn, đề xuất các vấn đề cần chỉnh sửa, bổ sung trình Thủ tướng Chính phủ; Xây dựng mô hình tổ chức và các cơ chế, chính sách phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, chất lượng dịch vụ, đẩy mạnh xã hội hóa trong lĩnh vực thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn. - Bộ Tài nguyên và Môi trường sớm hoàn thành việc rà soát nội dung, đánh giá kết quả thực hiện Quy chế quản lý chất thải nguy hại (ban hành kèm theo Quyết định số 155/1999/QĐ-TTg ngày 16/7/1999 của Thủ tướng Chính phủ), đề xuất các vấn đề cần chỉnh sửa, bổ sung trình Thủ tướng Chính phủ quyết định. Việc sửa đổi, bổ sung này cần phù hợp với các quy định mới về quản lý chất thải nguy hại (như quy định về cơ sở xử lý chất thải, về phân định thẩm quyền của các cơ quan hữu quan trong việc quản lý nhà nước về chất thải nguy hại v.v.) trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 (từ Điều 70 đến Điều 76). Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng cần khẩn trương hoàn thành nhiệm vụ chủ trì, phối hợp với Bộ Xây dựng, Bộ Khoa học và Công nghệ rà soát, xây dựng đồng bộ hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật và hướng dẫn áp dụng các tiêu chuẩn môi trường trong lĩnh vực quản lý chất thải rắn; Chủ trì xây dựng quy chế phối hợp giữa các tổ chức thanh tra môi trường và thanh tra xây dựng các cấp nhằm tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, phát huy hiệu quả phòng chống, khắc phục ô nhiễm môi trường do rác thải, đặc biệt là chất thải công nghiệp; - Bộ Tài chính cần sớm hoàn thiện Dự thảo Nghị định về phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn trình Chính phủ xem xét, ban hành; Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương rà soát, nghiên cứu, trình cấp có thẩm quyền sửa đổi, hoàn thiện các cơ chế, chính sách về tài chính, giá dịch vụ thu gom và xử lý chất thải rắn, ... nhằm khuyến khích các hoạt động nghiên cứu, áp dụng công nghệ mới nhằm giảm thiểu chất thải, xử lý, tái chế và tái sử dụng chất thải, cơ khí chế tạo thiết bị vận tải, công nghệ xử lý chuyên dùng trong lĩnh vực chất thải rắn; Chủ trì, phối hợp với Bộ Xây dựng, Bộ Tài nguyên và Môi trường xây dựng các cơ chế chính sách hỗ trợ và khuyến khích cho các dự án đầu tư trong lĩnh vực xử lý, tái chế, tái sử dụng chất thải. - Bộ Công nghiệp cần sớm hoàn thiện Đề án hạn chế và giảm dần việc sử dụng hóa chất độc hại, các bao bì làm từ các loại vật liệu khó phân hủy trong công nghiệp, thay thế bằng các nguyên, vật liệu thân thiện môi trường trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, ban hành. - Bộ Y tế cần khẩn trương hoàn thành việc rà soát nội dung, đánh giá kết quả tình hình thực hiện Quy chế quản lý chất thải rắn y tế, đề xuất các vấn đề cần chỉnh sửa, bổ sung; Xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện quy hoạch tổng thể về quản lý chất thải rắn y tế sau khi được Thủ tướng Chính phủ ban hành. Ban hành các văn bản: - Bổ sung quy định cụ thể về vấn đề tái chế, tái sử dụng chất thải và phân loại các loại chất thải để tiêu huỷ, chất thải có thể tái chế, phế liệu có thể được sử dụng để làm nguyên liệu sản xuất sản phẩm khác.. - Bổ sung tiêu chí để xác định tận thu, tái sử dụng kim loại nặng. - Ban hành văn bản ở tầm Nghị định để thống nhất việc quản lý nước thải, khí thải.... - Ban hành quy định khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất theo hướng giảm thiểu chất thải, sử dụng nguyên liệu sạch, thân thiện với môi trường… - Ban hành quy định về chính sách khuyến khích, hỗ trợ hay ưu đãi về thuế, phí, vay vốn, đất đai, trợ giá… đối với tổ chức, cá nhân thực hiện dịch vụ thu gom, xử lý chất thải (xã hội hoá hoạt động quản lý chất thải). 7. Hoàn thiện các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường đất - Pháp luật về đất đai cần được bổ sung những quy định cụ thể về bảo vệ chất lượng, giá trị sinh thái của đất; cần có những quy định hạn chế tình trạng sử dụng đất không đúng mục đích, chuyển đổi mục đích sử dụng tràn lan làm ảnh hướng đến phát triển bền vững, an ninh lương thực - Bổ sung quy định về sử dụng đất liên quan đến việc bảo vệ môi trường tại các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao. - Bổ sung quy định về quy hoạch đất đai nhằm tập trung các làng nghề thủ công truyền thống ở khu vực nông thôn nhằm bảo vệ môi trường. - Luật đất đai năm 2003 cần bổ sung các quy định về quản lý, sử dụng đất có mặt nước ven các hải đảo, đất có mặt nước thuộc vùng lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa liên quan đến việc bảo vệ môi trường. 8. Hoàn thiện các quy định bảo vệ môi trường nước (i) Ban hành các văn bản quy định cụ thể về + Ban hành Nghị định về thực hiện việc quản lý, khai thác, sử dụng nước mặt, nước ngầm; + Trình tự, thủ tục đăng ký, kê khai, cấp phép và gia hạn khai thác, sử dụng nước ngầm, nước mặt và xả nước thải; + Mẫu đơn xin đăng ký, kê khai và sử dụng các nguồn nước; mẫu giấy phép về khai thác, sử dụng các nguồn nước; + Tiêu chuẩn, định mức xả nước thải; + Việc điều tra cơ bản, đánh giá trữ lượng, chất lượng và quy hoạch tài nguyên nước; + Quy định về bảo vệ chất lượng nước; ngăn ngừa các hành vi gây cạn kiệt các nguồn nước; + Quy định về phí, lệ phí và thuế tài nguyên áp dụng cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân khai thác, sử dụng nước. (ii) Ban hành quy định cụ thể về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các ban quản lý lưu vực sông; mối quan hệ giữa các ban quản lý lưu vực sông với hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về tài nguyên nước các cấp (Bộ Tài nguyên và Môi trường, Cục Quản lý tài nguyên nước và Uỷ ban nhân dân các địa phương) trong việc phối, kết hợp quản lý, bảo vệ tài nguyên nước; chưa xác định rõ ràng cơ chế phối hợp quản lý tài nguyên nước theo quy hoạch lưu vực sông với quản lý theo địa giới hành chính. Để quản lý tốt tài nguyên nước, gắn khai thác với bảo vệ tài nguyên nước, cần sớm hình thành bộ máy các Ban Quản lý lưu vực sông để thực hiện các chức năng sau đây: - Hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện Luật, các văn bản dưới Luật; - Hướng dẫn, kiểm tra việc quản lý chất lượng nước, bảo vệ các tầng nước dưới đất trong lưu vực; - Chỉ đạo việc tập trung thu gom và xử lý nước thải sinh hoạt, nước thải công nghiệp; - Thu các thuế, phí để chi cho các hoạt động quản lý lưu vực và tiến tới thu để có các kinh phí tài trợ cho việc xây dựng các công trình xử lý nước thải và một số công trình thuỷ lợi nhỏ ở vùng sâu vùng xa trong lưu vực; - Quản lý và phân phối nguồn tài chính thu được (và nguồn tài chính do nhà nước cấp) để trợ cấp hoặc cho vay đối với các chương trình, dự án có liên quan đến bảo vệ và phát triển tài nguyên nước trong lưu vực theo luật định; - Xây dựng các chính sách và mức (hoặc khung) giá, phí, thuế về tài nguyên nước, sản phẩm nước trong lưu vực; - Tổ chức thu thập, điều tra, khảo sát, chỉnh biên, biên soạn, lưu trữ các tài liệu cơ bản về tài nguyên nước trên toàn lưu vực; - Chỉ đạo xây dựng quy hoạch các dòng dông trong lưu vực (sông chính và các sông nhánh); - Tổng hợp các quy hoạch của các ngành sử dụng nước để trình duyệt quy hoạch khai thác, sử dụng tổng hợp về tài nguyên nước; - Xây dựng, chỉ đạo xây dựng các kế hoạch bảo vệ và phát triển tài nguyên nước trên toàn lưu vực; - Chỉ đạo công tác chống xói mòn gắn với bảo vệ thảm thực vật trên toàn lưu vực; - Tư vấn, hỗ trợ kỹ thuật và khoa học công nghệ đối với một số hạng mục công trình quan trọng trong lưu vực và các công trình chuyển nước qua lưu vực; - Tư vấn, hỗ trợ kỹ thuật và khoa học công nghệ đối với số hạng mục công trình quan trọng trong lưu vực và các công trình chuyển nước qua lưu vực. - Chủ trì và phối hợp với các cơ quan hữu quan nghiên cứu, thử nghiệm các vấn đề khoa học công nghệ có liên quan đến bảo vệ và phát triển tài nguyên nước. - Chủ trì và phối hợp với các ngành hữu quan bảo vệ sinh thái nước gắn với môi trường sinh thái chung trong toàn lưu vực. (iii) Khắc phục tình trạng chồng chéo không rõ ràng trong việc thực hiện nhiệm vụ điều tra cơ bản tài nguyên nước; cơ chế trao đổi thông tin và hệ thống lưu trữ, xử lý thông tin, dữ liệu về tài nguyên nước bằng việc xây dựng và ban hành các văn bản: - Nghị định quy định việc phân công, phân cấp điều tra cơ bản tài nguyên nước; - Nghị định ban hành quy chế thu thập, quản lý, khai thác, sử dụng dữ liệu, thông tin về tài nguyên nước. (iv) Rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật Tài nguyên nước và các văn bản pháp luật khác có liên quan nhằm phúc đáp các yêu cầu của quản lý và sử dụng nước trong thời kỳ tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Chẳng hạn, theo Luật Tài nguyên nước thì “Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tài nguyên nước theo sự phân công của Chính phủ” (khoản 2 Điều 58), nhưng thực tế hiện nay chức năng quản lý nhà nước về tài nguyên nước được giao cho Bộ Tài nguyên và Môi trường thực hiện theo Nghị quyết số 02/2002/QH11 ngày 05 tháng 8 năm 2002 của Quốc hội khóa XI và Nghị định số 91/2002/NĐ-CP ngày 11 tháng 11 năm 2002 của Chính phủ. (v) Hoàn thiện pháp luật bảo vệ môi trường biển và tài nguyên biển. - Ngoài các quy định về bảo vệ môi trường biển và tài nguyên biển trong các luật chuyên ngành, cần sớm ban hành một luật riêng về bảo vệ môi trường biển và tài nguyên biển. Trong đó, quy định toàn diện các biện pháp quản lý môi trường biển, trách nhiệm của các chủ thể hoạt động trên biển trong việc bảo vệ môi trường biển, phân công cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường biển, bảo vệ đa dạng sinh học trên biển v.v.; - Cần thiết phải có một cơ quan đầu mối quản lý tổng hợp dải ven bờ và môi trường biển; - Cần phải xác định rõ thẩm quyền trong một số vùng ven biển, biên giới biển của Việt Nam; 9. Hoàn thiện các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường không khí - Xây dựng và ban hành mới Nghị định về phí bảo vệ môi trường đối với khí thải; Nghị định về Phí bảo vệ môi trường đối với tiếng ồn. - Cần có quy định về nguyên tắc, hệ tiêu chí để phân khu chức năng của các hoạt động công nghiệp trên quan điểm bảo vệ môi trường không khí. Cụ thể là bố trí các khu công nghiệp, các nhà máy trong đô thị hợp lý, bảo vệ các khu vực có tính nhạy cảm đối với môi trường không khí như khu đông dân cư, các khu rừng nguyên sinh... - Bổ sung một số quy định về đánh giá hiện trạng và kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí thông qua hệ thống quan trắc môi trường. + Ban hành quy chế riêng trong hoạt động quan trắc, trong đó quy định một số vấn đề cơ bản như: Phương pháp quan trắc, hình thức báo cáo kết quả quan trắc, phương thức quản 1ý, lưu trữ các số liệu quan trắc, cơ chế trao đổi dữ liệu giữa các trạm quan trắc... + Quy định chi tiết cơ chế phối hợp giữa các trạm quan trắc để đảm bảo tính thống nhất trong toàn mạng lưới quan trắc. + Cần bổ sung quy định về chức năng phối hợp với các Bộ ngành có liên quan trong hoạt động qua trắc của các địa phương. Thực tế, các trạm quan trắc môi trường quốc gia được đặt ở rất nhiều địa phương khác nhau. Nếu không có sự phối hợp chặt chẽ với các địa phương thì hoạt động quan trắc khó có thể được tiến hành một cách thuận lợi. + Quy định chức năng quản lý đầu mối chuyên môn đối với hệ thống quan trắc môi trường quốc gia cho Bộ Tài nguyên Môi trường. Riêng đối với hoạt động quan trắc môi trường không khí, chức năng này nên giao cho Vụ Khí tượng thuỷ văn đảm nhiệm. - Quy định trách nhiệm tự giám sát tại nguồn là trách nhiệm cơ bản của các tổ chức, cá nhân trong phòng ngừa ô nhiễm môi trường không khí. Đây được hiểu là hoạt động do các cơ sở sản xuất tự giám sát chất thải (mà cụ thể trong lĩnh vực này là khí thải) ngay tại nguồn phát thải của cơ sở mình, bao gồm ba hoạt động chính là tự giám sát, tự báo cáo và tự lưu giữ. Quy định nghĩa vụ này cho các tổ chức, cá nhân là một biện pháp hữu hiệu trong bảo vệ môi trường không khí vì các lý do sau: + Đây là biện pháp mà khi thực hiện nó có thể ngăn ngừa tình trạng vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường không khí của các cơ sở có chất thải khí. Các số liệu thu được từ chương trình tự giám sát của các cơ sở giúp các cơ quan nhà nước dễ dàng phát hiện ra hành vi vi phạm pháp luật của họ. Hơn thế nữa, thông qua các dữ liệu được cơ sở báo cáo lên, thanh tra môi trường sẽ có căn cứ để tập trung thanh tra tại những cơ sở trọng điểm và kịp thời áp dụng các biện pháp để ngăn ngừa hoặc giảm thiểu tình trạng ô nhiễm môi trường không khí có thể xảy ra. + Thông qua việc thực hiện nghĩa vụ này, nhận thức về bảo vệ môi trường không khí của các cơ sở có chất thải khí sẽ được nâng cao. Khi thực hiện nghĩa vụ này, họ có điều kiện để tự nhìn nhận và đánh giá mức độ tuân thủ pháp luật vào mình, từ đó có thể phát hiện ra hành vi vi phạm của chính mình và tự chấm dứt hành vi đó ở giai đoạn sớm nhất. Quy định nghĩa vụ này cho các cơ sở thải khí sẽ giảm bớt một phần gánh nặng công việc cho các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường không khí. 10. Hoàn thiện các quy định về tài nguyên khoáng sản Để đảm bảo yêu cầu về bảo vệ môi trường trong hoạt động khoáng sản và đảm bảo khai thác hợp lý, tiết kiệm nguồn tài nguyên khoáng sản của đất nước, pháp luật về tài nguyên khoáng sản cần được hoàn thiện ở các góc độ sau: Cần hoàn thiện các quy định về bảo vệ môi trường trong hoạt động khoáng sản, cụ thể hoá các quy trình khai thác đối với từng loại khoáng sản đặc thù trên cơ sở các yêu cầu về bảo vệ môi trường; bổ sung các tiêu chí lựa chọn dự án phát triển khi có sự xung đột về môi trường giữa các dự án khoáng sản và các dự án khác. Cần cụ thể hoá các cơ chế pháp lý đảm bảo yêu cầu khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm nguồn tài nguyên. Cơ chế pháp lý để thực hiện yêu cầu này cần được hoàn thiện một cách đồng bộ từ việc đặt ra các yêu cầu cần thế hiện trong các quy hoạch, chiến lược khai thác tài nguyên khoáng sản của quốc gia, địa phương và của từng loại khoáng sản. Yêu cầu đối với các quy hoạch này cần thể hiện được quan điểm đối với các tài nguyên không thể tái tạo thì cần có mức độ khai thác hợp lý để vừa phục vụ cho yêu cầu phát triển kinh tế trước mắt, vừa đảm bảo tiết kiệm tối đa cho tương lai; yêu cầu về việc ưu tiên sử dụng khoáng sản cho các hoạt động kinh tế trong nước, hạn chế xuất khẩu khoáng sản thô cũng cần được xác lập. Ngoài việc xác lập yêu cầu đối với khâu lập quy hoạch, chiến lược, thủ tục cấp giấy phép đối với tổ chức, cá nhân hoạt động khoáng sản cần phải được hiểu như là một dạng quota, với những khoáng sản nhất định và ở những địa bàn nhất định thì giấy phép chỉ được cấp ở một phạm vi hạn chế và như vậy, không phải tất cả các tổ chức, cá nhân đủ điều kiện về năng lực, về chuyên môn… đều có thể được cấp giấy phép hoạt động khoáng sản. Cũng cần xem xét lại mức độ thương mại hoá hoạt động khai thác khoáng sản, các hoạt động khai thác các khoáng sản cơ bản cần áp dụng cơ chế hợp tác giữa nhà nước với doanh nghiệp, theo đó doanh nghiệp cung cấp công nghệ, trang thiết bị, nhân lực, kỹ thuật v.v. và được chia sẻ căn cứ vào đóng góp này, Nhà nước với tư cách là người chủ sở hữu của tài nguyên được nhận phần lợi ích còn lại sau khi đã chia sẻ cho doanh nghiệp và các lợi ích Nhà nước nhận được sẽ được sử dụng phục vụ cho các mục đích phát triển đất nước. Như vậy sẽ khắc phục được tình trạng Nhà nước chỉ thu được nguồn thuế tài nguyên với tỷ lệ thấp như hiện nay, trong khi doanh nghiệp chỉ cần đầu tư trang thiết bị, khai thác được tài nguyên bán đi và coi như toàn bộ số tiền bán tài nguyên là nguồn thu của doanh nghiệp là không phù hợp. Cần khắc phục các kẽ hở trong các quy định về khoáng sản: chẳng hạn như đưa ra những cách tính về quy mô đa dạng hơn để khái quát tất cả các trường hợp có mức độ khai thác tài nguyên lớn hay mức độ tác động đến môi trường lớn, từ đó làm cơ sở cho các yêu cầu về áp dụng các biện pháp bảo vệ môi trường nghiêm ngặt. Hay dưa ra các cơ chế giám sát, kiểm tra, các quy định về trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân cho người khác khai thác khoáng sản trong khu vực thuộc phạm vi quản lý của mình... Cần tăng cường mức độ răn đe của các chế tài trong lĩnh vực khoáng sản: nâng mức phạt lên tương ứng với mức độ thu lợi mà hoạt động khai thác khoáng sản có thể mang lại cho người tham gia hoạt động khoáng sản. - Ban hành Nghị định về hạn ngạch khai thác tài nguyên, ví dụ khai thác, đánh bắt thuỷ sản, khai thác khoáng sản,... - Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ rừng và tài nguyên rừng. + Xây dựng hệ thống pháp luật bảo vệ môi trường rừng thống nhất, đồng bộ, đầy đủ, cụ thể và có hiệu lực thực tế, trước hết phải khẳng định vai trò chủ đạo, hạt nhân của Luật Bảo vệ và phát triển rừng với việc xác lập các quy định, cụ thể, thực hiện trực tiếp, giảm thiểu các văn bản soạn kèm theo dễ làm biến dạng về nội dung của luật, gây ách tắc, khó khăn trong việc thực thi. Phương hướng tổng thể trước mắt để hoàn thiện pháp luật bảo vệ môi trường rừng là, một mặt cần tập trung vào rà soát, bổ sung, sửa đổi các quy định của Luật Bảo vệ và phát triển rừng cho đầy đủ và cụ thể, trong đó đặc biệt cần chú trọng tới các quy định về trách nhiệm quản lý nhà nước của các Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân các cấp; công tác kiểm lâm; quyền lợi và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân được giao đất để trồng và bảo vệ rừng; kinh doanh lâm nghiệp; vấn đề cho thuê rừng và đất lâm nghiệp..., mặt khác, cần tiến hành rà soát, sửa đổi, bổ sung một số quy định trong các văn bản pháp luật hiện hành thuộc các ngành luật có liên quan đến pháp luật bảo vệ môi trường rừng như pháp luật đất đai, môi trường, tài nguyên nước, pháp luật hình sự, các quy định về xử phạt hành chính... + Hoàn thiện thể chế pháp lý về hệ thống tổ chức các cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường rừng, nhằm nâng cao hiệu quả tác động pháp luật của các cơ quan này trước hết là thiết lập một hệ thống quy hoạch ổn định lâm phận quốc gia của 3 loại rừng: rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất. Trên cơ sở đó, hoàn thiện cơ chế tổ chức quản lý và các chính sách áp dụng cho từng loại rừng, sử dụng tiềm năng tổng hợp của cả ba loại rừng; tiến hành phân cấp quản lý nhà nước về rừng và đất trồng rừng trên cơ sở các quy định cụ thể về trách nhiệm của Chính phủ, các Bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân các cấp; xác định trách nhiệm trực tiếp của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp trong việc bảo vệ và phát triển vốn rừng ở địa phương; đổi mới tổ chức kiện toàn hệ thống kiểm lâm theo hướng tăng cường sự quản lý thống nhất về tổ chức, nghiệp vụ để làm tốt chức năng bảo vệ rừng và kiểm tra, thanh tra công tác bảo vệ rừng của các cấp chính quyền địa phương, đặc biệt là cấp cơ sở. + Thể chế hoá quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước trong việc xã hội hóa công tác bảo vệ và phát triển rừng. Để hoàn thiện chính sách lâm nghiệp quốc gia, cần chuyển nền lâm nghiệp thuần túy quốc doanh, lấy khai thác rừng làm chính sang nền lâm nghiệp xã hội, lấy bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng là cơ bản. Để đạt được sự chuyển biến tích cực đó, con người phải được khẳng định là nhân tố trung tâm, quyết định trong hệ thống sinh thái “đất đai - rừng cây - con người”. Mọi chính sách, giải pháp phát triển rừng phải xuất phát từ lợi ích của dân trên cơ sở xây dựng mối quan hệ giữa người dân với rừng một cách hợp quy luật để tạo một hệ sinh thái bền vững. Xã hội hóa nghề rừng phải giải quyết một cách thỏa đáng mối quan hệ lợi ích giữa người dân với Nhà nước nhằm phát huy mọi tiềm lực trong dân, thu hút nhân dân đầu tư trồng và khai thác nguồn lợi từ rừng, đồng thời trở thành lực lượng chủ chốt, là nhân tố trung tâm phát huy vai trò tích cực trong việc bảo vệ rừng, biến việc bảo vệ và phát triển rừng thành sự nghiệp của toàn dân. Quan điểm về xã hội hóa nghề rừng cần được Nhà nước từng bước thực hiện trên cơ sở các chủ trương, chính sách, giải pháp đồng bộ và cụ thể. Nhà nước cần xúc tiến hoàn thành cơ bản chính sách định canh, định cư, đẩy mạnh việc thực hiện các chương trình xóa đói, giảm nghèo và phát triển kinh tế - xã hội các xã nghèo vùng cao. Những biện pháp quan trọng để đẩy nhanh mục tiêu xã hội hóa nghề rừng như hỗ trợ về vốn, kỹ thuật; tạo cơ chế thông thoáng để khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư kinh doanh lâm nghiệp, bảo vệ và phát triển rừng; thông qua việc giao đất, giao rừng tới các hộ gia đình, các tổ chức có tư cách pháp nhân để thực hiện rừng phải có chủ thực sự và người lao động có quyền hưởng thành quả từ sản xuất, kinh doanh nghề rừng, phát huy khả năng khai thác các tiềm năng và lợi ích từ rừng, khả năng sản xuất của đất, góp phần bảo vệ đất, bảo vệ môi trường, tạo việc làm, tăng thu nhập và nâng cao đời sống cho đồng bào miền núi và người lao động nghề rừng, tạo động lực hấp dẫn để huy động mọi nguồn lực của nhân dân tham gia bảo vệ và phát triển vốn rừng.v.v.., cần được Chính phủ và các cơ quan chức năng nghiêm túc thực hiện. + Nghiên cứu và học hỏi những kinh nghiệm để bảo vệ rừng bền vững từ các quốc gia trên thế giới để xem xét, vận dụng xây dựng một mô hình quản lý rừng thích hợp trong điều kiện của Việt Nam là một chủ trương đúng đắn góp phần tích cực vào sự nghiệp bảo vệ và phát triển rừng của nước ta. + Tổ chức thực hiện tốt các cam kết quốc tế về bảo vệ môi trường rừng là một quan điểm chỉ đạo tích cực nhằm đạt được mục tiêu hoàn thiện pháp luật bảo vệ môi trường rừng. Bảo vệ môi trường rừng bền vững không phải là mục tiêu, nhiệm vụ của một quốc gia riêng lẻ nào, càng không thể nằm trong phạm vi của một cộng đồng dân tộc, mà đây là vấn đề có tính chất xuyên quốc gia và quốc tế. Bằng việc tham gia các điều ước quốc tế, các quốc gia trên thế giới cùng nhau cam kết hợp tác thực hiện các quy định, các tiêu chuẩn để bảo vệ môi trường rừng của mỗi quốc gia, góp phần quan trọng ổn định và cân bằng hệ sinh thái chung toàn cầu. 11. Hoàn thiện các quy định về đa dạng sinh học 11.1. Xây dựng, hoàn thiện một số vấn đề về bảo tồn Đa dạng sinh học Về quy hoạch bảo tồn ĐDSH. Đối chiếu với các luật khác cho thấy, hiện tồn tại quá nhiều loại quy hoạch. Quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng (Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004); Quy hoạch khu bảo tồn (KBT) vùng nước nội địa, KBT biển (Luật Thuỷ sản năm 2003); QHBT và phát triển bền vững các vùng đất ngập nước (Nghị định số 109/2003/NĐ-CP ngày 23/9/2003 của Chính phủ về bảo tồn và phát triển bền vững các vùng đất ngập nước); QHBT ĐDSH (Luật ĐDSH 2008). Điều này được dự báo là nảy sinh nguy cơ trùng lặp, chồng chéo, lãng phí nguồn lực trong các công tác xây dựng và thực hiện quy hoạch. Do vậy, cần cân nhắc một số vấn đề sau: Thứ nhất, nhất thể hoá các loại quy hoạch có chung tính chất bảo tồn các nguồn tài nguyên thiên nhiên và ĐDSH. Không nên tiếp cận việc xây dựng quy hoạch theo hướng chia cắt các hệ sinh thái rừng, biển, đất ngập nước như trước đây mà nên xây dựng theo hướng xác định các mức độ cần thiết, mức độ ưu tiên bảo tồn ĐDSH. Thứ hai, trong trường hợp chưa đạt được việc nhất thể hoá các loại quy hoạch thì cần phải chỉ rõ mối quan hệ giữa các quy hoạch bảo vệ rừng, QHBT đất ngập nước, QHBT đất ngập nước chuyên ngành, QHBT biển nêu trên với QHBT ĐDSH thuộc phạm vi quản lý của các bộ, cơ quan ngang bộ Khoản 2 Điều 10 Luật ĐDSH 2008. . Những nội dung liên quan đến chi trả dịch vụ môi trường Chi trả dịch vụ HST (Payments for Ecosystems Services - PES) hay còn gọi là chi trả dịch vụ môi trường Mặc dù PES là một khái niệm mới, được đưa vào tư duy và thực tiễn bảo tồn gần một thập kỷ trở lại đây, tuy nhiên, nó đã nhanh chóng trở nên phổ biến ở một số nước. Sự phát triển của PES ngày càng được lan rộng và ở một số nước PES còn được thể chế hóa trong các văn bản pháp luật. Hiện nay, PES đã nổi lên như một giải pháp chính sách để khuyến khích, chia sẻ các lợi ích trong cộng đồng và xã hội. Các nước phát triển ở Mỹ La tinh đã sử dụng các mô hình PES sớm nhất. PES cũng đã bắt đầu được thực hiện ở các nước châu Á. Ở châu Phi, mặc dù đã cố gắng nghiên cứu, đánh giá điều kiện thực hiện PES, tuy nhiên, tiềm năng và cơ hội rất hạn chế ở châu lục này. Hiện tại, chỉ có 2 chương trình về dịch vụ thủy văn đang được thực hiện ở Nam Phi và một số ít sáng kiến đang được đề xuất ở Nam Phi, (tiếp theo tr.33) Tunisia và Kenya. Ở châu Âu, chính phủ một số nước cũng đã quan tâm đầu tư và thực hiện nhiều chương trình, mô hình PES. Ôxtrâylia đã luật pháp hóa quyền phát thải cácbon từ năm 1998, cho phép các nhà đầu tư đăng ký quyền sở hữu hấp thụ cácbon của rừng. Cho đến nay, hàng trăm sáng kiến mới về PES đã được xây dựng trên toàn cầu. Costa Rica, Mexico và Trung Quốc đã xây dựng các chương trình PES quy mô lớn, chi trả trực tiếp cho các chủ đất để thực hiện các biện pháp sử dụng đất nhằm tăng cường cung cấp các dịch vụ thủy văn, bảo tồn ĐDSH, chống xói mòn, hấp thụ cácbon và vẻ đẹp cảnh quan. (Payments for Environment Services - PES) là công cụ kinh tế, sử dụng để những người được hưởng lợi từ các dịch vụ HST chi trả cho những người tham gia duy trì, bảo vệ và phát triển các chức năng của HST đó. Ví dụ, rừng đầu nguồn có tác dụng giữ nước, duy trì chất lượng nước, chống sạt lở đất và lũ lụt cho hạ lưu... Vì vậy, những người được hưởng lợi ở hạ lưu cần chi trả một khoản tương xứng cho những người trực tiếp tham gia duy trì và bảo vệ các chức năng của rừng đầu nguồn. Hiện đã có các quy định về chính sách thí điểm chi trả dịch vụ môi trường rừng tại Quyết định số 380/2008/QĐ-TTg ngày 10/4/2008 của Thủ tướng Chính phủ, theo đó, dịch vụ môi trường rừng bao gồm cả yếu tố cảnh quan và ĐDSH. Tuy nhiên, do chính sách này chỉ áp dụng thí điểm trong thời hạn 02 năm và với 07 tỉnh, thành phố (gồm: Lâm Đồng, Sơn La, Đồng Nai, Hoà Bình, Bình Thuận, Ninh Thuận, TP. Hồ Chí Minh) nên các quy định hướng dẫn thi hành Luật ĐDSH 2008 được ban hành trong thời gian tới (thời gian còn hiệu lực của việc thí điểm chi trả dịch vụ môi trường rừng) cần chú ý đến các loại hình của dịch vụ môi trường có liên quan đến ĐDSH, thời gian và đối tượng áp dụng để tránh sự trùng lặp, chồng chéo giữa các văn bản Vũ Thu Hạnh, Trần Thị Hương Trang, Mức độ phù hợp của Luật Đa dạng sinh học với các văn bản có liên quan, Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, . Hơn nữa, đây là một vấn đề còn mới trong pháp luật ĐDSH của Việt Nam nên chúng ta cũng cần quan tâm, học hỏi những kinh nghiệm quốc tế điều chỉnh vấn đề này để góp phần mang lại hiệu quả thi hành cao cho công cụ hữu hiệu này Một số kinh nghiệm như: Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết các mô hình PES, thể hiện ở các vấn đề như: Xây dựng khung pháp luật và chính sách; Hỗ trợ kỹ thuật và tài chính thông qua các chương trình tổng hợp; Xúc tác cho các quá trình liên quan đến thực thi chính sách; và Giám sát quá trình giao dịch các tín chỉ của dịch vụ HST. Chính sách PES đối với lưu vực sông được coi là đòn bẩy để quản lý rừng bền vững; Cộng đồng nhận thức rất rõ về tầm quan trọng của việc quản lý lưu vực sông là quản lý rừng đầu nguồn để bảo vệ tài nguyên và ĐDSH. Hoa Kỳ đã xây dựng chính sách quản lý lưu vực sông theo cách quản lý tổng hợp đa ngành, đa mục tiêu trên nền tảng bảo tồn HST. Chính quyền ở các bang có vai trò rất quan trọng trong việc phối hợp các hoạt động của các ngành và các đối tác, quy hoạch sử dụng đất trong lưu vực sông, hỗ trợ các tổ chức, cá nhân xác định các dịch vụ và các mô hình sử dụng đất bền vững về kinh tế và môi trường; Vấn đề quy hoạch sử dụng đất và xác định các HST trong lưu vực sông được quan tâm hàng đầu, vì đây là công cụ để giúp xác định được các mục tiêu cho quản lý và xác định các dịch vụ của HST, dịch vụ nào là cốt yếu. Đồng thời, xác định các đối tác cung cấp và sử dụng dịch vụ; Để khiển khai các mô hình PES, nhiều nước đã luật hóa các quy định liên quan đến PES hoặc thông qua việc thành lập các quỹ; xây dựng các chính sách hỗ trợ PES, đồng thời, đầu tư cho các chương trình điều tra, nghiên cứu về sinh thái, lượng giá kinh tế các dịch vụ HST; Để thực hiện việc chi trả dịch vụ HST rừng, Hoa Kỳ đã áp dụng hình thức mua lại “quyền sử dụng rừng” của chủ đất tư nhân để bảo vệ rừng đầu nguồn thuộc các lưu vực sông. Ở Việt Nam, đất đai và tài nguyên thiên nhiên nói chung thuộc sở hữu toàn dân - do Nhà nước quản lý, vì vậy, để thực hiện PES thì phải thực hiện giao “quyền (tiếp theo tr.34) sử dụng đất và rừng” cho dân tức là giao đất, giao và khoán rừng cho dân, để dân có tư liệu sản xuất nhằm tạo và cung cấp các dịch vụ cho cộng đồng; Cộng đồng nhận thức và đánh giá cao về vai trò và lợi ích của PES đối với công cuộc bảo tồn ĐDSH. Vì vậy, vai trò của cộng đồng rất quan trọng. Nếu được sự đồng tình, họ sẽ ủng hộ, hỗ trợ và tham gia tự nguyện vào các hoạt động PES, xem thêm: Huỳnh Thị Mai, Chi trả dịch vụ hệ sinh thái – Giải pháp bảo tồn Đa dạng sinh học, nguồn: . Đối với các nguồn lực cho Đa dạng sinh học Thành lập Quỹ bảo tồn ĐDSH quốc gia để sử dụng vào việc quản lý và bảo tồn ĐDSH; Xây dựng cơ chế thu và sử dụng Quỹ; Tăng cường phát huy tác dụng của Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam; Xây dựng đề án 1% ngân sách cho công tác bảo vệ môi trường và các nguồn thu từ các dịch vụ ĐDSH; Quy định cơ chế thu và chi Quỹ cho công tác quản lý và bảo tồn ĐDSH. 11.2. Xây dựng, ban hành các văn bản hướng dẫn hhi hành Luật Đa dạng sinh học - Cần xây dựng và ban hành Nghị định hướng dẫn thi hành Luật ĐDSH. Nghị định này cần có các quy định về quy hoạch bảo tồn ĐDSH; khu bảo tồn; bảo tồn và phát triển bền vững các loài sinh vật; bảo tồn và phát triển bền vững tài nguyên di truyền. Bên cạnh đó, một số vấn đề quy định trong Luật ĐDSH cần được quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành bổ sung như việc chuyển tiếp các khu bảo tồn thiên nhiên khi Luật ĐDSH có hiệu lực và một số vấn đề khác cũng được đưa vào dự thảo Nghị định. - Nghị định xử lý vi phạm hành chính về bảo tồn và phát triển bền vững ĐDSH trên cơ sở quy định tại khoản 2 Điều 78 Luật ĐDSH 2008; - Nghị định hướng dẫn về Tiếp cận nguồn gen và chia sẻ lợi ích từ việc tiếp cận nguồn gen (hướng dẫn vấn đề này nên xác định cụ thể cư dân cộng đồng tại vùng đệm của các khu bảo tồn là một bên liên quan trong ba bên được chia sẻ lợi ích theo quy định tại Điều 61 của Luật ĐDSH năm 2008; quy định đầy đủ nội dung các vấn đề trình tự, thủ tục tiếp cận nguồn gen, quản lý, chia sẻ lợi ích thu được,...); - Nghị định về quản lý rủi ro của sinh vật biến đổi gen và mẫu vật di truyền của sinh vật biến đổi gen đối với ĐDSH và dịch vụ môi trường liên quan đến ĐDSH; - Nghị định về việc điều tra, nghiên cứu, quan trắc và quản lý thông tin về ĐDSH Do các hoạt động này ở Việt Nam còn nhiều bất cập, vì vậy, cần quy định cụ thể các vấn đề sau: - Hỗ trợ và khuyến khích điều tra, nghiên cứu, thăm dò, tiếp cận, tạo và chuyển giao công nghệ thích hợp đối với đa dạng sinh học; đăng ký và lưu trữ các kết quả nghiên cứu; cấp phép nghiên cứu và thăm dò sinh học; - Xây dựng cơ chế phối hợp hài hoà giữa các cấp để hỗ trợ thực hiện công tác giám sát, quan trắc; kiểm kê các nguồn đa dạng sinh học; quan trắc hiện trạng và diễn biến các hệ sinh thái cũng như số lượng, mức độ bị đe dọa của các loài sinh vật; xây dựng cơ chế quan trắc và các bộ chỉ thị để xác định hiện trạng bảo tồn các thành phần đa dạng sinh học; báo cáo tình trạng bảo tồn thiên nhiên và đánh giá tác động môi trường; bâng cấp, tăng cường và cơ chế hoạt động của các trạm quan trắc về đa dạng sinh học; quy định về giám sát, quan trắc đa dạng sinh học; - Quy định về việc xây dựng và cập nhật cơ sở dữ liệu quốc gia về đa dạng sinh học; Cơ chế phối hợp và trao đổi thông tin giữa các Bộ, ngành: Quy định về thu thập, đăng ký và phân tích thông tin, dữ liệu; Hợp tác trong lĩnh vực kiểm kê đa dạng sinh học. ;… - Cần ban hành Quy chế quản lý khu bảo tồn và quy hoạch tổng thể ĐDSH toàn quốc đến năm 2020 Dương Thanh An, Các văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực bảo tồn Đa dạng sinh học, tr. 12, Hội thảo tham vấn những vướng mắc, bất cập của pháp luật về bảo vệ môi trường và phương hướng hoàn thiện, Hà Nội ngày 23 tháng 09 năm 2009. . - Thông tư liên tịch giữa Bộ Tài nguyên và Môi trường với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Khoa học và Công nghệ quy định về cơ chế tiếp cận nguồn gen và chia sẻ lợi ích. - Thông tư quy định hệ thống phân loại đất ngập nước Việt Nam. - Thông tư hướng dẫn trình tự, các bước lập, thẩm định, phê duyệt điều chỉnh quy hoạch bảo tồn ĐDSH. - Thông tư quy định về quan trắc và chế độ báo cáo ĐDSH. 12. Một số kiến nghị khác - Sửa đổi, bổ sung các quy định trong Quyết định số 03/2004/QĐ-BTNMT ngày 2/4/2004 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường về việc ban hành Quy định về bảo vệ môi trường đối với phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất cho phù hợp với các quy định tại Điều 43 Luật Bảo vệ môi trường. Cụ thể, cần bổ sung điều kiện “có công nghệ, thiết bị tái chế, tái sử dụng phế liệu đạt tiêu chuẩn môi trường” đối với tổ chức, cá nhân nhập khẩu phế liệu đã nêu tại Điều 43 Luật Bảo vệ môi trường vào quy định tại Điều 7 của Quy định nêu tại Quyết định số 03/2004/QĐ-BTNMT. - Xem xét sửa đổi, bổ sung Quyết định số 1363/QĐ-TTg ngày 17/10/2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt đề án “Đưa các nội dung bảo vệ môi trường vào hệ thống giáo dục quốc dân”, đảm bảo đúng tinh thần, yêu cầu được quy định tại Điều 107 Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 “Công dân Việt Nam được giáo dục toàn diện về môi trường nhằm nâng cao hiểu biết và ý thức bảo vệ môi trường. Giáo dục về môi trường là một nội dung của chương trình chính khoá của các cấp học phổ thông. Nhà nước ưu tiên đào tạo nguồn nhân lực bảo vệ môi trường, khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân tham gia đào tạo nguồn nhân lực bảo vệ môi trường”. - Tuyên bố hết hiệu lực đối với Chỉ thị 406/CT ngày 8/8/1994 của Thủ tướng Chính phủ về việc cấm sản xuất, buôn bán và đốt pháo vì những nội dung còn phù hợp của Chỉ thị này đều đã được tích hợp vào Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 (Điều 85 Khoản 4: Cấm sản xuất, nhập khẩu, vận chuyển, kinh doanh và sử dụng pháo nổ. Việc sản xuất, nhập khẩu, vận chuyển, kinh doanh và sử dụng pháo hoa theo quy định của Thủ tướng Chính phủ), còn các quy định về mức xử phạt đối với hành vi vi phạm trong Chỉ thị này thì quá thấp, không còn phù hợp với thực tế và đã được quy định tại Điều 19 Nghị định 121/2004/NĐ-CP. * * * * KẾT LUẬN Qua việc rà soát, đánh giá toàn diện hệ thống quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường ở nước ta hiện nay, chúng ta có thể rút ra một số kết luận sau: 1. Hoạt động xây dựng và hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường rất được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, nhất là kể từ khi nước ta bước vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 2. Chỉ hơn 1 thập niên, kể từ khi ban hành Luật Bảo vệ môi trường đầu tiên năm 1993, Việt Nam đã xây dựng được hệ thống quy phạm tương đối đồ sộ, toàn diện về bảo vệ môi trường, tập trung vào các nội dung căn bản nhất là các quy định về quyền và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân trong hoạt động bảo vệ môi trường, các công cụ quản lý hoạt động bảo vệ môi trường, các biện pháp chế tài đối với chủ thể có hành vi vi phạm, hệ thống các cơ quan bảo vệ môi trường từ cấp trung ương xuống địa phương. Việt Nam cũng xây dựng được hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường với tầm hiệu lực pháp lý đủ mạnh, cơ bản đáp ứng các yêu cầu của sự nghiệp bảo vệ môi trường trong giai đoạn hiện nay. 3. Do bảo vệ môi trường và xây dựng pháp luật về bảo vệ môi trường là hoạt động phức tạp và về nhiều mặt còn mới mẻ đối với Việt Nam, hệ thống quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường ở Việt Nam còn nhiều điểm bất cập, tồn tại. Những tồn tại, bất cập ấy thể hiện ở tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo và sự thiếu toàn diện trong không ít chế định của pháp luật bảo vệ môi trường. Những tồn tại, bất cập ấy còn thể hiện cả ở hiệu lực thi hành trong thực tế của pháp luật bảo vệ môi trường còn thấp. 4. Để hoàn thiện pháp luật về bảo vệ môi trường, đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất giữa tinh thần, quy định của Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 với các quy định pháp luật về môi trường đã ban hành trước đây, đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, trong thời gian tới nhiều văn bản quy phạm pháp luật mới cần được ban hành . Đây là nhiệm vụ vừa có tính chất cấp bách, vừa có tính lâu dài, cần có sự quan tâm, đầu tư thỏa đáng của không chỉ ngành Tài nguyên và Môi trường mà cả các bộ, ngành hữu quan và của toàn xã hội. --------------------------------------------------

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBáo cáo Đánh giá hệ thống pháp luật Môi trường Việt Nam.doc