bảo hiểm y tế cho người nghèo ở Thanh Hoá, thực trạng và giải pháp

Từ nhiều năm qua, BHYT tỉnh Hải Dương (trước đây) nay là BHXH tỉnh Hải Dương đang tích cực tham gia vào quá trình đảm bảo sức khoẻ cho người dân, mà một trong những vấn đề mấu chốt là quan tâm đến công tác chăm sóc sức khoẻ cho người nghèo. CSSK cho người nghèo thông qua chính sách BHYT là một chủ trương đúng đắn, thể hiện tính nhân đạo và nhân văn sâu sắc của truyền thống “lá lành đùm lá rách”. Điều này hoàn toàn phù hợp với thực tiễn khi mà đại bộ phận người nghèo của tỉnh ta chưa có cơ may nào tốt hơn trong việc tự chăm lo sức khoẻ cho mình. BHYT giúp người nghèo được tiếp cận với các dịch vụ y tế cơ bản, được KCB ngay từ tuyến cơ sở; nhờ đó mà người nghèo được chăm sóc sức khoẻ kịp thời, bệnh tật được phát hiện sớm, người bệnh có thẻ BHYT khi có bệnh, cần chữa bệnh không cần phải đi xa, chi phí KCB bình quân thấp hơn góp phần giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước. Như vậy, có thể nói rằng, chính sách BHYT cho người nghèo là một trong những đóng góp quan trọng cho việc thực hiện thành công chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo, góp phần ổn định xã hội, phát triển kinh tế nhằm đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước.

doc63 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3900 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu bảo hiểm y tế cho người nghèo ở Thanh Hoá, thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ã thu được những kết quả hết sức quan trọng, đánh dấu một bước phát triển về chất trong chính sách xã hội hoá chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân, góp phần nâng cao chất lượng khám và điều trị bệnh, là chỗ dựa tin cậy cho nhân dân đặc biệt là người nghèo, người có thu nhập thấp, các đối tượng chính sách xã hội, giúp họ vượt qua được những khó khăn về tài chính khi ốm đau, bệnh tật. 2.1.6. Các hoạt động khác * Công tác công nghệ thông tin: Với ưu thế ứng dụng được công nghệ kỹ thuật cao và không ngừng được cải tiến, công nghệ thông tin đã góp phần tích cực trong công tác quản lý, lưu trữ, in cấp sổ, thẻ BHYT-BHXH và nhiều lĩnh vực khác của ngành. Năm 2003 phòng CNTT chính thức được thành lập. Công tác quản lý hồ sơ đối tượng hưởng BHXH bằng CNTT đã đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao để phục vụ cho việc kiểm tra, rà soát chế độ hưởng BHXH, điều chỉnh tiền lương theo quy định của Nhà nước, hồ sơ được quản lý chặt chẽ khắc phục tình trạng mất mát, thất lạc hồ sơ. Từ năm 2003 đã chủ động trong việc in danh sách chi trả thường xuyên, đảm bảo tính chính xác tiền lương, trợ cấp cho đối tượng thay cho trước đây phải ký hợp đồng với Trung tâm tính toán thuộc Tổng cục Thống kê. Trong công tác in, cấp phiếu KCB BHYT, CNTT đã đảm bảo được tiến độ cấp thẻ BHYT, phiếu KCB kịp thời cho đối tượng, góp phần đảm bảo quyền lợi cho người tham gia BHYT. CNTT đã không ngừng được phát triển đến nay đã đưa vào ứng dụng các chương trình công nghệ tin học và quản lý như phần mềm theo dõi, quản lý đối tượng, thời gian, mức đóng BHXH của đối tượng tham gia BHXH bắt buộc, phần mềm về quản lý cấp thẻ BHYT, phiếu KCB. Đặc biệt năm 2004 đã đưa vào ứng dụng phần mềm theo dõi, thanh toán giám định tại các cơ sở KCB giúp cho việc thực hiện rút ngắn thời gian tiếp nhận, thanh toán cho bệnh nhân và đáp ứng yêu cầu kiểm soát việc KCB chặt chẽ. * Công tác tiếp dân, trả lời đơn thư: Từ tháng 7/1995 đến 2004 đã thực hiện được việc kiểm tra 37 lượt các đơn vị BHXH huyện, thành phố, kiểm tra 758 đaị lý chi trả, 493 đơn vị sử dụng lao động về thực hiện các chế độ đóng nộp và giải quyết các chế độ BHXH cho ngươì lao động, chi trả lương hưu và trợ cấp BHXH, kiểm tra việc thực hiện hợp đồng KCB tại 24 cơ sở KCB trong tỉnh. Phối hợp với Uỷ ban kiểm tra Tỉnh uỷ, Sở lao động, Liên đoàn lao động kiểm tra theo chỉ thị 15/TW của Bộ Chính trị tại 3 BHXH huyện thành phố và 29 đơn vị sử dụng lao động. Phối hợp với Thanh tra Nhà nước tỉnh kiểm tra được 10 đơn vị sử dụng lao động về việc thực hiện chế độ BHXH cho người lao động. BHXH từ tỉnh đến huyện đã có phòng tiếp dân, phân công cán bộ làm công tác tiếp dân, công tác tiếp dân được thực hiện theo đúng luật định. Đã tiếp nhận 763 đơn các loại, trong đó 51 đơn tố cáo, khiếu nại 40 đơn, 672 đơn đề nghị và hỏi. Đơn thư đã được xác minh trả lời kịp thời theo đúng thẩm quyền và luật định, trả lời dứt điểm không có đơn thư vượt cấp kéo dài. Kết quả công tác kiểm tra trong những năm qua đã giúp cho công tác chi trả các chế độ BHXH - BHYT đúng đối tượng, đúng chế độ chính sách, tạo được sự công bằng xã hội góp phần hết sức quan trọng vào việc khẳng định tính đúng đắn ưu việt của các chế độ BHXH - BHYT, đặc biệt đã đem lại lòng tin cho nhân dân đối với cơ qua BHXH, với sự lãnh đaọ của Đảng và sự nghiêm minh của pháp luật, điều đó khẳng định vai trò hết sức quan trọng và cần thiết của công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán. * Công tác tuyên truyền: Công tác tuyên truyền về chế độ chính sách BHXH - BHYT luôn được quan tâm, mỗi khi có thay đổi về chính sách BHXH - BHYT đã kịp thời thông báo triển khai đến các đơn vị sử dụng lao động và người hưởng chế độ BHXH -BHYT. BHXH tỉnh Hải Dương đã thường xuyên phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng như Báo Hải Dương, Đài phát thanh truyền hình Hải Dương, Ban tuyên giáo Tỉnh uỷ, các Tạp chí và với liên đoàn lao động tỉnh để tuyên truyền về chính sách BHXH - BHYT với nhiều hình thức đa dạng như tổ chức hội nghị, báo cáo viên, tuyên truyền miệng tại các đơn vị doanh nghiệp, in cấp hàng trăm ngàn tờ rơi, tờ gấp tuyên truyền, phát thanh trên hệ thống truyền thanh của huyện, thành phố, các xã, phường, thị trấn về quyền lợi,trách nhiệm liên quan đến chế độ BHXH -BHYT đến nhân dân, học sinh, xuất bản tập san 5 năm xây dựng và trưởng thành của BHXH tỉnh Hải Dương. Năm 2004 BHXH tỉnh Hải Dương đã phối hợp với Ban tuyên giáo tỉnh uỷ xây dựng cuốn những điều cần biết về chính sách BHXH - BHYT, làm phóng sự, tổ chức toạ đàm trực tiếp trên truyền hình, trả lời phỏng vấn, trả lời hỏi đáp trên báo, đài truyền hình, mua thẻ tặng BHYT tự nguyện cho học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn, tăng cường tháo gỡ, giải quyết chế độ chính sách BHXH - BHYT để tạo lòng tin cho nhân dân về chính sách BHXH - BHYT. Công tác thông tin tuyên truyền đã thực sự có tác dụng làm chuyển biến nhận thức về công tác BHXH - BHYT của chủ sử dụng lao động, cơ quan, đơn vị, người lao động, nhân dân. *. Công tác hoạt động xã hội: BHXH tỉnh Hải Dương còn thực hiện tốt công tác phụng dưỡng bà mẹ Việt Nam anh hùng và vận động cán bộ công chức tham gia ủng hộ nhân dân vùng bị bão lụt, thiên tai, nhân dân trong khu vực bị động đất, sóng thần, tham gia các quỹ ủng hộ nạn nhân bị chất độc hoá học, quỹ xoá đói giảm nghèo, quỹ khuyến học… Có được kết quả trên là do những nguyên nhân chủ yếu sau: Được sự quan tâm lãnh đạo chỉ đạo của BHXH Việt Nam, của Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, UBND tỉnh, sự phối hợp của các Sở, ban, ngành, đoàn thể, cấp uỷ, chính quyền các huyện, thành phố. Nhờ đó đã có tác động đến trách nhiệm thực hiện chế độ chính sách BHXH, BHYT cho người lao động ở các đơn vị. Chính sách BHXH, BHYT được Đảng và Nhà nước bổ sung sửa đổi đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của đông đảo người dân tham gia, thụ hưởng các chế độ BHXH, BHYT. Công tác thông tin tuyên truyền được thực hiện thường xuyên, liên tục có sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan thông tin đại chúng các cấp đã làm chuyển biến mạnh mẽ nhận thức và tăng thêm sự hiểu biết cho người lao động, nhân dân, học sinh, người hưởng các chế độ BHXH, BHYT. Cán bộ, công chức, viên chức trong ngành đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, luôn đoàn kết thống nhất, chủ động tham mưu và triển khai thực hiện nhiệm vụ, bám sát nhiệm vụ chính trị, có những giải pháp hợp lý để tổ chức thực hiện nhiệm vụ. Các phong trào thi đua khơi dậy được tinh thần tích cực, chủ động sáng tạo của cán bộ, công chức, viên chức; tập trung hướng vào giải quyết các chỉ tiêu nhiệm vụ khó khăn, bức xúc với các mục tiêu và thời gian thi đua cụ thể, công tác thi đua khen thưởng được thực hiện đúng mục đích, kịp thời, hàng năm có tổng kết, sơ kết; qua đó có tác dụng khuyến khích các đơn vị tham gia BHXH, BHYT thực hiện tốt chế độ BHXH, BHYT và cán bộ công chức hoàn thành nhiệm vụ được giao. Nhất là những năm gần đây toàn ngành đang tích cực thực hiện khẩu hiệu " Kỷ cương, dân chủ, năng động, sáng tạo, đoàn kết, tiết kiệm". 2.2. Những hạn chế 2.2.1. Về triển khai BHYT tự nguyện Tuy đã có sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng và chính quyền, công tác tuyên truyền đã được tăng cường nhưng việc triển khai BHYT tự nguyện vẫn còn nhiều hạn chế, chưa thực sự được tất cả các đoàn thể, chính quyền các xã, phường, thị trấn, thôn, xóm, nhà trường vào cuộc do đó chưa thu hút được đông đảo nhân dân, hội đoàn thể, học sinh tham gia. 2.2.2. Về năng lực chuyên môn, phương pháp làm việc Năng lực chuyên môn, phương pháp làm việc của một bộ phận cán bộ, công chức trong ngành còn hạn chế, giải quyết công việc còn mang tính hành chính cứng nhắc, chưa thực sự đạt mục đích phục vụ người lao động và đối tượng làm mục đích phấn đấu trong thực thi nhiệm vụ, chuyển đổi tác phong làm việc từ hành chính thụ động sang tác phong phục vụ còn chậm, hiệu quả công việc chưa cao và chưa đồng đều, có nơi, có lúc, có cán bộ còn chưa giải thích, hướng dẫn chu đáo, tỷ mỷ, tận tình cho đối tượng. Như vậy, trong thời gian tới BHXH tỉnh Hải Dương sẽ phát huy những điểm mạnh, khắc phục những điểm yếu, tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo của BHXH Việt Nam, Tỉnh uỷ, UBND tỉnh, sự phối hợp của các Sở, ban, ngành, đoàn thể, cấp uỷ, chính quyền các huyện, thành phố, các đơn vị sử dụng lao động, ngành chủ động nâng cao chất lượng hoạt động vì quyền lợi của người tham gia và người thụ hưởng các chế độ BHXH, BHYT mà phục vụ phấn đấu hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch được giao. 2.2.3. Công tác thông tin tuyên truyền Công tác thông tin tuyên truyền phổ biến chế độ chính sách BHXH đến đơn vị sử dụng còn hạn chế vì vậy còn một số doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và người lao động trong các doanh nghiệp này chưa nhận thức được đầy đủ nghĩa vụ, quyền lợi, một số doanh nghiệp chưa tự giác thực hiện chế độ BHXH, BHYT cho người lao động, vì thế người lao động trong các đơn vị này chưa được hưởng quyền lợi BHXH, BHYT. III. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BHYT CHO NGƯỜI NGHÈO Ở BHXH HẢI DƯƠNG, 1999-2005 1. Tình hình triển khai BHYT cho người nghèo * Đối tượng được cấp thẻ BHYT Đối tượng được cấp thẻ BHYT cho người nghèo là các đối tượng được KCB theo quy định tại Quyết định số 139/2002/QĐ-TTg ngày 15/10/2002 về khám chữa bệnh cho người nghèo, cụ thể như sau: Các hộ nằm trong chuẩn hộ nghèo quy định tại Quyết định số 1143 ngày 1/11/2000 của Bộ LĐ-TB&XH. Nhân dân các xã có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn theo Quyết định số 135/1998/QĐ-TTg ngày 31/07/1998 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình phát triển kinh tế – xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa. Nhân dân các dân tộc thiểu số vùng Tây Nguyên theo Quyết định số 168/2001/QĐ-TTg ngày 30/10/2001 của Thủ tướng Chính Phủ về “Định hướng dài hạn, kế hoạch 5 năm 2001-2005 và những giải pháp cơ bản phát triển kinh tế – xã hội vùng Tây Nguyên” và nhân dân các dân tộc thiểu số tại 6 tỉnh đặc biệt khó khăn của miền núi phía Bắc theo Quyết định số 186 ngày 7/12/2001 của Thủ tướng Chính phủ. * Mệnh giá thẻ BHYT cho người nghèo Với hình thức mua thẻ BHYT cho người nghèo, người nghèo được hưởng quyền lợi KCB theo chế độ BHYT công bằng, bình đẳng như các đối tượng có thẻ BHYT khác. Để đảm bảo tốt hơn quyền lợi KCB bằng thẻ BHYT cho người nghèo và cũng là phù hợp hơn với tình hình đất nước, mệnh giá thẻ BHYT cho người nghèo đã thay đổi qua các năm. Giai đoạn đầu từ năm 1999-2002 thực hiện theo Thông tư liên tịch số 05 /1999/TTLT ngày 29/1/1999 của Bộ LĐ-TB&XH, Tài chính, Y tế hướng dẫn việc thực hiện KCB miễn nộp một phần viện phí đối với những người thuộc diện quá nghèo quy định tại Nghị định 95/CP ngày 27/8/1994 của Chính phủ mệnh giá thẻ BHYT là 30.000đ/ người /năm. Từ năm 2003 đến nay thực hiện theo Quyết định số 139/2002/QĐ-TTg ngày 15/10/2002 của Thủ tướng Chính phủ về KCB cho người nghèo mệnh giá thẻ là 50.000 đ/người/năm. * Nguồn kinh phí mua thẻ BHYT cho người nghèo Nguồn kinh phí mua thẻ BHYT cho người nghèo lấy từ dự toán chi đảm bảo xã hội đã được bố trí hàng năm từ nguồn ngân sách địa phương. Để hỗ trợ cho ngân sách mua thẻ BHYT cho người nghèo, có thể huy động sự đóng góp của các tổ chức kinh tế xã hội, hội chữ thập đỏ, hội từ thiện... Đến cuối năm kinh phí KCB cho người nghèo kết dư tại quỹ BHYT sẽ được chuyển sang năm sau để mua tiếp thẻ BHYT cho người nghèo. * Cơ quan cấp thẻ BHYT cho người nghèo. Hàng năm Sở LĐ-TB&XH tỉnh Hải Dương căn cứ vào Quyết định của UBND tỉnh phê duyệt kinh phí và số lượng người nghèo được mua thẻ BHYT để phối hợp với các đơn vị hữu quan trong đó cơ quan BHXH tổ chức mua – cấp thẻ, phiếu KCB BHYT cho đối tượng (sau đây gọi chung là thẻ), Cụ thể: Năm 1999, thực hiện công văn số 1161/QĐ-UB ngày 11/6/1999 của UBND tỉnh về việc bổ sung kinh phí cấp thẻ BHYT cho người thuộc diện quá nghèo năm 1999 cho 7217 đối tượng. Năm 2000, thực hiện công văn số 12/TB-VP ngày 07/01/2000 của UBND tỉnh về việc mua BHYT cho người thuộc diện quá nghèo cho 15.000 đối tượng. Năm 2001, thực hiện Quyết định số 336/2001/QĐ-UB ngày 05/02/2001 của UBND tỉnh về việc giao chỉ tiêu kế hoạch cho các Sở, Ban, Ngành...trong đó có bản dự toán kinh phí đảm bảo từ ngân sách năm 2001 của Sở LĐ-TB&XH mua BHYT cho 15.000 đối tượng. Năm 2002, thực hiện Công văn số : 17/TB-UB ngày 28/02/2002 của UBND tỉnh về việc thông báo kết quả phiên họp thường kì UBND tỉnh tháng 02/2002 có nội dung đồng ý cấp bổ sung mua thêm 10.000 thẻ BHYT cho đối tượng người thuộc diện quá nghèo. Căn cứ vào Quyết định của UBND tỉnh, Sở LĐ-TB&XH tổ chức kí hợp đồng với cơ quan BHXH để mua thẻ BHYT cho số đối tượng đã được duyệt. Nội dung của hợp đồng quy định như sau: Ngành LĐ-TB&XH căn cứ vào kết quả bình xét và chỉ tiêu được phân bổ tổ chức hướng dẫn lập danh sách đối tượng người nghèo, duyệt qua các cấp có thẩm quyền, chuyển cho cơ quan BHXH. Cơ quan BHXH tiếp nhận và căn cứ danh sách đã được duyệt, in – cấp thẻ BHYT cho các Phòng tổ chức xã hội thông qua các chi nhánh BHXH huyện. Phòng tổ chức xã hội giao cho các xã để cấp trực tiếp cho đối tượng. Sở LĐ-TB&XH căn cứ vào biên bản giao nhận thẻ có xác nhận của Phòng tổ chức xã hội huyện và tổng hợp phát hành thẻ của cơ quan BHXH chuyển trả tiền mua thẻ theo hợp đồng. Chi nhánh BHXH phối hợp với Phòng tổ chức Lao động xã hội huyện hướng dẫn các đơn vị cơ sở lập danh sách những người bị sót, ghi sai tên họ, nhầm lẫn địa chỉ...để in lại cấp trả cho đối tượng (đối tượng người nghèo thẻ được cấp theo đợt căn cứ vào chỉ tiêu kế hoạch phân bổ, không có trường hợp bổ sung). Cơ quan BHXH tổ chức kí hợp đồng với các cơ sở y tế trong và ngoài tỉnh đảm bảo quyền lợi cho người nghèo được cấp thẻ. * Các loại thẻ BHYT Có 2 loại thẻ BHYT thường sử dụng là thẻ T8 và thẻ A7. Thẻ T8 là loại thẻ BHYT nhân đạo, có nhiều mệnh giá khác nhau để có thể phục vụ cho nhiều đối tượng khác nhau, chẳng hạn như: 30.000đồng/người/ năm. Nguồn kinh phí mua thẻ là do sự đóng góp tự nguyện của cá nhân, đoàn thể, các cơ quan, các hội phụ nữ, hội cựu chiến binh... Tuy nhiên khi sử dụng thẻ T8 không chủ động được về tài chính, có thể dẫn đến cạn kiệt nguồn kinh phí KCB cho người nghèo nên loại thẻ này hiện nay không còn được sử dụng. Thẻ A7 là loại thẻ được cấp theo hình thức thực thanh thực chi, tức là chi phí KCB hết bao nhiêu sẽ được thanh toán chừng đó. Nguồn kinh phí thanh toán hàng quý là do Sở Tài chính cung cấp thông qua BHYT tỉnh, sau đó chuyển cho cơ sở KCB. Thẻ A7 do cơ quan BHXH cấp cho người nghèo căn cứ theo Thông tư số 05/1999/TTLT ngày 29/01/1999 và Thông tư số 14/2002/TTLT ngày 16/12/2002; theo đó cơ quan BHXH cấp thẻ BHYT cho người nghèo trên cơ sở danh sách do ngành LĐ-TB&XH lập và chuyển sang. Thẻ A7 chính là loại thẻ được sử dụng hiện nay và có mức phí được điều chỉnh qua các năm cho phù hợp. Những kết quả đạt được a. Về số thẻ BHYT cấp cho người nghèo Trước năm 1999, tỉnh Hải Dương cũng đã thực hiện việc cấp thẻ BHYT tự nguyện cho những người thuộc diện bảo trợ xã hội (người tàn tật, cô đơn, không nơi nương tựa...) tuy nhiên việc cấp thẻ BHYT không thực hiện thống nhất do chưa có quy định chung về đối tượng và cơ chế tạo lập nguồn kinh phí, do đó đối tượng người nghèo được KCB BHYT thường không ổn định. Từ năm 1999-2002 việc cấp thẻ BHYT được thực hiện theo quy định của Thông tư liên tịch số 05/1999/TTLT ngày 29/1/1999; đối tượng được cấp thẻ BHYT là những người thuộc diện quá nghèo (là những người mà hộ gia đình được xếp vào diện đói và khoảng 30% số người nghèo nhất trong tổng số người nghèo của địa phương) với mệnh giá 30.000đ/người/thẻ/năm. Do đó số thẻ BHYT được cấp đã tăng lên. Nếu như năm 1999 chỉ có 5.456 thẻ thì đến năm 2000 dã cso 12.344 người được cấp thẻ, tăng gấp hơn 2 lần và đến năm 2002 thì đã có 25.000 thẻ được cấp cho người nghèo, đã tăng gấp 5 lần sau năm. Tuy rằng số thẻ đã tăng lên nhưng tốc độ tăng như vậy còn chậm nhất là khi Việt Nam có số lượng người nghèo khá đông. Nguyên nhân của tình trạng này là do việc xét chọn hộ quá nghèo để cấp thẻ BHYT diễn ra còn chậm chạp, không kịp thời; mặt khác, do thiếu kinh phí để mua thẻ BHYT trên diện rộng để cấp kinh phí cho tất cả các hộ nghèo, nên số lượng rất hạn chế, trong mỗi hộ chỉ lựa chọn 1 đến 2 người được cấp thẻ BHYT cho nên thường xảy ra tình trạng người có bệnh thì lại không có thẻ BHYT còn người khoẻ mạnh thì có thẻ BHYT nhưng lại không sử dụng. Việc bình chọn được 30% số người nghèo nhất trong số những người nghèo cũng là một khó khăn dễ dẫn đến đánh giá sai đối tượng ảnh hưởng lớn đến tốc độ và số lượng phát hành thẻ BHYT cho người nghèo. Ngày 15/10/2002 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 139/2002/QĐ-TTg về việc thành lập quỹ KCB cho người nghèo. Thực hiện theo Quyết định 139, UBND tỉnh Hải Dương đã ra Quyết định số 522/QĐ-UB ngày 26/02/2003 về việc thành lập Ban quản lý Quỹ KCB cho người nghèo; Ban quản lý quỹ KCB cho người nghèo kí kết hợp đồng với Sở LĐ-TB&XH, Sở Tài chính, Sở y tế của tỉnh thực hiện KCB cho người nghèo với phương thức thanh toán thực thanh thực chi. Kết quả một năm triển khai theo phương thức mới này đã thu được những con số rất khả quan, số lượng thẻ BHYT cấp cho người nghèo năm 2003 là 109.164 gấp 4,4 lần so với năm 2002. Tuy nhiên mặc dù đã có nhiều người nghèo được hưởng quyền lợi BHYT nhưng thực hiện theo hình thức này quyền lợi của người nghèo bị hạn chế, kinh phí thì không đủ để cấp giấy chứng nhận miễn giảm viện phí cho tất cả đối tượng đồng thời với phương thức này người nghèo thường chỉ KCB ở tuyến cơ sở, ít được KCB ở tuyến cao hơn, tuy tỉnh có kí hợp đồng với một số bệnh viện tuyến Trung ương nhưng do chi phí đi lại, ăn ở tốn kém nên người nghèo khó có khả năng tiếp cận. Người nghèo đi KCB tại bệnh viện phải tự chi trả viện phí KCB, lấy hoá đơn sau đó mới được Ban quản lý quỹ thanh toán. Ngoài ra thủ tục rất phức tạp, người bệnh có khi phải đi lại nhiều lần mới được thanh toán, hơn thế nữa, khi bội chi quỹ KCB BHYT cho người nghèo, không có quỹ KCB BHYT bắt buộc bù đắp. Do nhận thấy có rất nhiều hạn chế nên UBND tỉnh quyết định không thực hiện theo hình thức này nữa. Đến năm 2004 Sở LĐ-TB&XH lại tiếp tục kí kết hợp đồng với BHXH tỉnh Hải Dương để in thẻ, cấp thẻ BHYT cho người nghèo đã được duyệt; sau khi cơ quan BHXH in, cấp thẻ BHYT cho các Phòng tổ chức xã hội thông qua các chi nhánh BHXH huyện thì Sở LĐ-TB&XH căn cứ vào biên bản giao nhận thẻ có xác nhận của Phòng tổ chức xã hội huyện và tổng hợp phát hành thẻ của cơ quan BHXH chuyển trả tiền cho cơ quan BHXH, Ban quản lý quỹ KCB cho người nghèo thanh toán chi phí với Sở LĐ-TB&XH. Ngày 07/04/2004 Ban quản lý quỹ KCB cho người nghèo đã ban hành Quyết định số 20/QĐ-BQL về việc thành lập tổ chức chuyên viên giúp việc cho Ban quản lý quỹ, để giúp cho Ban quản lý quỹ hoạt động hiệu quả hơn. Tạo điều kiện cho người nghèo được KCB thuận tiện, BHXH tỉnh Hải Dương, Sở y tế tỉnh đã phối hợp chỉ đạo triển khai KCB về tuyến cơ sở, nhằm giúp cho người cho thẻ BHYT nói chung và đặc biệt là người nghèo giảm các chi phí gián tiếp khi đi KCB (chi phí đi lại, ăn ở, thời gian...) tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế. Kết quả thu được trong hai năm 2004 và 2005 số người nghèo được cấp thẻ BHYT đã giảm so với năm 2003, cụ thể năm 2004 là 86.000 người, năm 2005 là 69.858 người; nguyên nhân chủ yếu là Tỉnh uỷ, UBND tỉnh Hải Dương trong những năm gần đây đã thực hiện tốt công tác xoá đói giảm nghèo, xoá nhà tranh tre nên số người nghèo trong tỉnh đã giảm xuống (theo chuẩn nghèo giai đoạn 2001-2005). Thực hiện Nghị định 63/2005/NĐ-CP, Cơ quan BHXH tỉnh Hải Dương đã tiến hành triển khai, đưa người nghèo vào đối tượng tham gia BHYT bắt buộc, do đó quyền lợi của người nghèo có thẻ BHYT được mở rộng. Chắc chắn rằng trong thời gian tới việc cấp thẻ BHYT cho người nghèo sẽ thu được kết quả tốt hơn. Với sự chỉ đạo kịp thời của UBND tỉnh, cùng sự phối hợp tốt giữa các sở, ngành liên quan, từ năm 1999 đến nay, Hải Dương là một trong những tỉnh, thành phố của cả nước thực hiện tốt chính sách BHYT cho người nghèo. Tỉnh uỷ, UBND tỉnh đã nhận thức đúng đắn về tính ưu việt của loại hình BHYT, đặc biệt là BHYT cho người nghèo, nên nhiều năm qua, tỉnh Hải Dương lựa chọn duy nhất hình thức CSSK người nghèo theo phương thức cấp thẻ BHYT. Đồ thị 2: Kết quả cấp thẻ BHYT cho người nghèo ở BHXH Hải Dương, 1999-2005 (Nguồn:BHXH Hải Dương) b. Về công tác KCB cho người nghèo Qua hơn 6 năm thực hiện chính sách KCB cho người nghèo, số lượng người nghèo đi KCB tăng rất nhanh. Thực tế cho thấy tần suất KCB của nhóm đối tượng này tại các cơ sở y tế trong tỉnh có tỷ lệ ngang bằng với các đối tượng tham gia BHYT bắt buộc khác, năm 1999 có 222.572 lượt bệnh nhân nghèo đi KCB, đến năm 2001 đã có 335.975 lượt trong đó tỷ lệ KCB nội trú khoảng 42%, KCB nội trú khoảng 6,5% so với tổng số người đi KCB BHYT của toàn tỉnh và bước sang năm 2002 là 420.810 lượt người người nghèo đi KCB, tăng 25% so với năm 2001.So với những năm chưa thực hiện BHYT thì số lượt người nghèo đi KCB quá nhỏ so với con số 420.810 lượt người của năm 2002. Việc triển khai đưa KCB BHYT về tuyến xã, phường, mở rộng quyền lợi của người tham gia BHYT, đã tạo điều kiện cho người nghèo được tiếp cận với các dịch vụ y tế. Nhiều người nghèo mắc bệnh hiểm nghèo như suy thận mãn tính phải chạy thận nhân tạo mỗi năm lên tới hàng trăm triệu đồng vẫn được cơ quan BHXH chi trả theo đúng quy định, năm 2001 đã chi trả cho 7 bệnh nhân nghèo phải chạy thận nhân tạo. Sự gia tăng số lượt và tỷ lệ bệnh nhân nghèo đi KCB cùng sự gia tăng giá viện phí đã làm chi phí KCB BHYT người nghèo tăng nhanh chóng. Năm 1999 chi phí KCB người nghèo mới có 10,379 triệu; đến năm 2001 chi phí KCB đã lên tới 338,981 triệu đã tăng 32,67 lần so với năm 1999; năm 2003 chi phí KCB là 1,2 tỷ và đến 2004 hơn 4,9 tỷ đồng tăng 14,5 lần so với năm 2001; tăng 4,1 lần so với năm 2003, từ tháng 4/2005 đến tháng12/2005 mới có 8 tháng mà chi phí KCB đã hơn 4 tỷ đồng. Năm 2001 BHYT tỉnh Hải Dương đã thanh toán chi phí KCB BHYT cho 7 bệnh nhân nghèo chạy thận nhân tạo với chi phí khá lớn. Tình trạng bội chi quỹ KCB cho người nghèo xảy ra liên tục qua các năm, năm 2004 bội chi quỹ KCB khoảng 1,7 tỷ đồng; năm 2005 bội chi quỹ hơn 2,7 tỷ đồng, BHXH tỉnh Hải Dương đã và sẽ phải lấy quỹ BHYT bắt buộc bù đắp cho số bội chi này. Bảng 10: Kết quả KCB cho người nghèo theo chế độ BHYT ở BHXH Hải Dương, 1999-2005 Năm 1999 2000 2001 2002 2003 2004 4/2005- 12/2005 Số lượt KCB 222.572 229.719 335.975 420.810 551.992 679.056 114.008 Chi KCB (trđ) 10,379 371,799 338,981 718,429 1200 4916,78 4760,59 (Nguồn: BHXH Hải Dương) 2. Đánh giá chung về công tác KCB cho người nghèo theo chế độ BHYT 2.1.Những ưu điểm Thứ nhất: Các ngành, các cấp, các tổ chức chính trị - xã hội trong tỉnh đã tích cực trong công tác KCB cho người nghèo. Đặc biệt là sự phối hợp chặt chẽ với tinh thần làm việc có trách nhiệm của Ban quản lý quỹ KCB cho người nghèo với các ngành, các cấp, các tổ chức nên công tác KCB BHYT cho người nghèo được thực hiện đảm bảo đúng thời gian, đúng quy định. Thứ hai: Không tốn kém cán bộ, thực hiện tốt công tác cải cách hành chính, tinh giảm bộ máy biên chế, cơ quan chuyên môn không phải vừa tham gia trực tiếp quản lý quỹ, vừa phải chi phí quỹ, trong khi đó nếu cấp sổ cần phải có một bộ phận quản lý theo dõi, in ấn, cấp phát sổ cũng như thủ tục thanh toán chi phí KCB cần tập hợp chứng từ riêng từ tuyến trạm y tế xã, phường, huyện thị, tuyến trong tỉnh và ngoài tỉnh, nhờ giám định hộ…để quyết toán. Thứ ba: BHYT cho người nghèo sẽ có rất nhiều ưu điểm thuận tiện cho đối tượng thụ hưởng chính sách này, đó là: Thực hiện BHYT cho người nghèo xoá bỏ được sự phân biệt đối xử, tạo sự bình đẳng trong KCB BHYT với các đối tượng phải trả viện phí, KCB bằng thẻ BHYT tạo cho người nghèo thoát khỏi bẫy nghèo, vì dù phải KCB từ tuyến xã, huyện, hoặc lên tuyến tỉnh, tuyến Trung ương, người nghèo có thẻ BHYT không phải trả viện phí, mà cơ quan BHXH sẽ trả thay người nghèo có thẻ BHYT như các đối tượng khác thông qua việc kí hợp đồng KCB với các cơ sở KCB. Thực hiện BHYT cho người nghèo, tạo điều kiện thuận lợi để người nghèo tiếp cận với các dịch vụ y tế, được KCB từ tuyến cơ sở xã, phường trở lên là sự kết hợp, tận dụng tối đa hệ thống y tế xã, phường đã được đầu tư xây dựng và hoàn thiện trong thời gian vừa qua. Theo số liệu thống kê, đến nay hầu hết các xã, phường trong tỉnh đã có trạm y tế và đội ngũ cán bộ y tế đủ điều kiện để KCB thông thường. Hiện nay, hầu hết các huyện, thành phố trong tỉnh đã đưa KCB BHYT về tuyến xã, người có thẻ BHYT được chăm sóc sức khoẻ kịp thời, chi phí KCB bình quân thấp hơn, vì bệnh tật được phát hiện và điều trị sớm, người bệnh có thẻ BHYT không phải đi xa, góp phần nâng cao khả năng cân đối thu chi quỹ BHYT, đồng thời tạo điều kiện tăng thêm nguồn tài chính cho hoạt động của trạm y tế xã đi vào nề nếp, ổn định hơn. Người nghèo có thẻ BHYT khi đi KCB tại các cơ sở y tế hoàn toàn yên tâm và được đối xử công bằng như những đối tượng có thẻ BHYT khác, tránh được sự mặc cảm vể sử dụng sổ KCB của người nghèo. Mỗi thẻ BHYT cho người nghèo có mệnh giá 50.000đ/người/năm, trong khi phí BHYT bình quân hiện nay của đối tượng BHYT bắt buộc khác thì cao hơn nhiều, do đó người nghèo có thẻ BHYT sẽ được hưởng quyền lợi từ sự hỗ trợ cộng đồng và nhân đạo xã hội từ các đối tượng tham gia BHYT khác. Thứ tư: Quá trình thực hiện BHYT cho người nghèo – diện đối tượng khá phức tạp về phương diện quản lý khai thác – phát hành thẻ - Đã đem lại một số kinh nghiệm nhất định cho hoạt động BHYT trong tiến trình thực hiện BHYT toàn dân. 2.2. Những khó khăn trong quá trình thực hiện BHYT cho người nghèo. Hiện nay còn tồn tại một số khó khăn và hạn chế đối với công tác KCB bằng thẻ BHYT cho người nghèo, đó là: Thứ nhất: Việc bình xét đối tượng được thụ hưởng chính sách KCB cho người nghèo nhiều khi vẫn còn mang tính chủ quan, không lựa chọn đúng đối tượng là người nghèo để được cấp thẻ BHYT, việc đánh giá sai đối tượng khiến cho có những hộ gia đình không phải thuộc diện hộ nghèo nhưng lại được địa phương xác nhận là hộ đói nghèo và được địa phương cấp thẻ BHYT để đi KCB miễn phí. Điều này không những gây nên sự bất bình và mối hoài nghi về tính công bằng trong chính sách BHYT, mà còn đi ngược lại nguyên lý hoạt động của BHYT là mang tính nhân đạo, tính cộng đồng, lấy số đông bù số ít, người khoẻ giúp đỡ người ốm đau, khi khoẻ phòng cho lúc ốm. Thêm vào đó là làm thế nào để xét cho công bằng tránh được thắc mắc nhưng phải phù hợp với số lượng chỉ tiêu có hạn, có nơi do không dàn xếp được việc tranh chấp nên bỏ lại một số chỉ tiêu để giữ đoàn kết nội bộ. Mặt khác, do quy định ưu tiên diện bảo trợ xã hội nên số người thuộc diện này được xét hết mới đến số lượng người nghèo nên số người có thẻ BHYT càng ít. Những khó khăn đó dẫn đến nhiều trường hợp kiến nghị xin được cấp thẻ ngoài chỉ tiêu, kiến nghị vượt cấp, cá biệt có trường hợp gia đình thân nhân liệt sỹ mang người bệnh nặng đang chạy thận nhân tạo sắp tử vong đến đấu tranh đòi cấp thẻ ngoài quy định... Do việc bình xét, lựa chọn người nghèo nhiều khó khăn như vậy nên công tác cấp thẻ BHYT cho người nghèo cò chậm trễ và không kịp thời. Thứ hai: Một khó khăn nữa là thời điểm phát hành thẻ không thể thực hiện được sớm ngay từ đầu năm, lý do chính là thời gian từ lúc Sở LĐ-TB&XH trình các cấp có thẩm quyền duyệt kinh phí, qua các bước bình xét tại địa phương, chuyển cho cơ quan BHXH in và phát thẻ thường mất từ 2 đến 3 tháng đầu năm nên trong quý I, đối tượng không có thẻ để đi KCB. Mặc dù đã rút kinh nghiệm song tình hình trên vẫn chưa được cải thiện. Để tháo gỡ bất cập này, Sở LĐ-TB&XH và BHXH Hải Dương buộc phải thống nhất quy định hạn thẻ BHYT từ ngày 01/04 năm trước đến ngày 31/03 năm sau. Tuy thời gian sử dụng của thẻ vẫn đủ 12 tháng và mọi quyền lợi của đối tượng vẫn được đảm bảo song vẫn còn nhiều ý kiến thắc mắc. Thứ ba: Nhận thức của một số các thành viên là đoàn thể trong ban chỉ đạo thành phố, huyện, xã tại tỉnh chưa thật thông suốt với phương thức cấp thẻ BHYT cho người nghèo. Cũng cần phải nói thêm rằng việc thực hiện các quy định, hướng dẫn của Trung ương về chính sách KCB theo phương thức BHYT cho người nghèo chưa thật nghiêm túc. Thứ tư: Mức phí mua BHYT cho người nghèo hiện nay là 50.000đ/người/năm, mức phí như vậy qua thực tế cho thấy không đủ trang trải chi phí KCB BHYT. Vì vậy rất khó khăn trong cân đối quỹ BHYT, tỉnh Hải Dương trong những năm vừa qua chi phí KCB phát sinh lớn hơn nhiều do với quỹ KCB người nghèo, năm 2004 bội chi quỹ KCB người nghèo khoảng 1,7 tỷ đồng. Thứ năm: Vẫn chưa triển khai KCB BHYT 100% về tuyến xã, phường, hiện nay mới chỉ có 226/263 xã, phường có trạm y tế cho nên còn 37 xã chưa triển khai KCB BHYT về tuyến xã, phường nên người nghèo có thẻ BHYT ở những nơi này chưa tiếp cận được với các dịch vụ y tế. Một số xã, phường đã triển khai công tác KCB BHYT cho người nghèo về tuyến xã rồi thì cơ sở vật chất tại trạm y tế xã vẫn còn thiếu thốn nhiều, trình độ chuyên môn, trình độ quản lý của đội ngũ cán bộ nhân viên trạm y tế xã còn rất hạn chế. Nhiều trạm y tế do chưa có bác sĩ nên chưa dám nhận việc khám bệnh ngoại trú cho đối tượng có thẻ BHYT. Cũng cần nói thêm rằng người nghèo có thẻ BHYT không thật sự yên tâm khi đến KCB tại trạm y tế xã không có bác sỹ nên tỷ lệ đăng kí rất ít, thậm chí không có thẻ BHYT đăng kí tại những trạm y tế xã này. Thứ sáu: Công tác thông tin tuyên truyền chưa thật hiệu quả, chưa làm cho người dân nắm được đầy đủ chế độ BHYT, tính ưu việt, sự cần thiết của BHYT. Vẫn còn hiện tượng người dân coi KCB tại trạm y tế xã như một phần định mức được hưởng hàng năm của người có thẻ BHYT, làm gia tăng tình trạng lạm dụng quỹ tại xã. CHƯƠNG III MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM THỰC HIỆN TỐT BHYT CHO NGƯỜI NGHÈO Ở BHXH HẢI DƯƠNG 1. XÁC ĐỊNH ĐÚNG ĐỐI TƯỢNG LÀ NGƯỜI NGHÈO ĐƯỢC HƯỞNG CHÍNH SÁCH KCB Phải xác định đúng đối tượng là người nghèo để được hưởng chính sách KCB. Vì thế, cần thiết là có một quy trình chuẩn để thực hiện nhanh chóng, chính xác trong việc xác định danh sách người nghèo làm cơ sở cấp thẻ BHYT, kèm theo đó là cần xử lý nghiêm minh những tổ chức, cá nhân vi phạm Công tác lập và xét duyệt danh sách người nghèo cần thiết phải cải tiến lại cho hợp lý hơn, rút ngắn thời gian trong quá trình tổ chức thực hiện. Có như vậy mới đảm bảo quyền lợi cho người nghèo, giúp cho công tác cấp thẻ BHYT cho người nghèo được tiến hành nhanh chóng và kịp thời. Về đối tượng được hưởng chính sách KCB vẫn còn nhiều bất cập như: với những người sống trong khu vực miền núi, khu vực khó khăn có hộ nghèo nhưng cũng có hộ có thu nhập từ trung bình khá trở lên mà trong quy định về đối tượng được hưởng chính sách KCB BHYT có tất cả những người sống trong khu vực có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn. Do vậy, cần được điều chỉnh cho phù hợp. Cần ưu tiên cấp thẻ cho những người thuộc diện được cấp thẻ BHYT người nghèo năm trước nhưng do kinh phí hạn chế nên chưa được cấp để tránh những vướng mắc phải giải quyết và cũng là đảm bảo tính công bằng cho những người này. Thêm vào đó việc lập hồ sơ tham gia BHYT cần chính xác, tránh sai sót. Hiện tượng sai sót phổ biến là tên đối tượng viết không rõ ràng, địa chỉ không chi tiết, thiếu nơi đăng kí KCB ban đầu, không có năm sinh, không viết đúng tên người được cấp thẻ... Những sai sót này gây khó khăn trong việc in thẻ, làm tỷ lệ thẻ phải in lại tăng lên. Nhiều hồ sơ thiếu dấu, thiếu chữ kí của các cấp xét duyệt làm mất đi tính pháp lý của hồ sơ, do đó kéo dài thời gian được cấp thẻ BHYT người nghèo, gây khó khăn cho những người có bệnh nhưng không có thẻ để sử dụng. 2. THỰC HIỆN MUA THẺ BHYT CHO 100% NGƯỜI NGHÈO Với đối tượng là người nghèo do họ không có khả năng chi trả chi phí KCB nên nếu có bệnh họ cũng không thể đến các cơ sở KCB được vì thế để đảm bảo mục tiêu công bằng theo chủ trương của Đảng và Nhà nước nhất là công bằng trong CSSK nên hiện nay chúng ta đã thực hiện chính sách KCB cho người nghèo hoàn toàn theo chế độ BHYT (Thực hiện theo Nghị định số 63/2005/NĐ-CP ngày 16/5/2005 của Chính phủ ); tuy nhiên do quỹ KCB cho người nghèo còn hạn chế, thường xuyên xảy ra tình trạng bội chi quỹ KCB cho người nghèo nên số lượng người nghèo được cấp thẻ BHYT chưa nhiều, số lượng người nghèo được cấp thẻ BHYT bao nhiêu là tuỳ thuộc vào quyết định của UBND tỉnh. Với số lượng hạn chế như vậy thì vẫn còn rất nhiều người nghèo theo quy định không được hưởng KCB theo chế độ BHYT, đây là thiệt thòi rất lớn đối với họ. Do vậy, cần mở rộng tỷ lệ thụ hưởng, phấn đấu để 100% đối tượng nghèo theo quy định được hưởng chế độ KCB. Nếu tất cả người nghèo đều được cấp thẻ BHYT thì khi có bệnh họ sẽ nhanh chóng đến các cơ sở KCB gần nhất, tránh có những trường hợp tử vong vì khám chữa bệnh không kịp thời vì họ không có khả năng về tài chính nên đến khi bệnh nặng quá rồi họ mới đi KCB như vậy rất khó cứu chữa; hơn nữa, khi người nghèo được cấp thẻ BHYT sẽ tránh tình trạng người nghèo thì ngày càng nghèo hơn do phải chi trả hoàn toàn chi phí KCB vì chi phí cho cuộc sống hàng ngày còn khó khăn thì khi bị bệnh không có tiền, họ phải vay mượn để chữa trị, có trường hợp người bệnh thì chưa khỏi mà đã đến hạn phải trả tiền rồi. Thêm vào đó cũng nên đưa diện cận nghèo vào đối tượng thụ hưởng chính sách với mức thấp hơn đối tượng hỗ trợ mệnh giá mua thẻ BHYT tự nguyện, hỗ trợ trực tiếp khi bị ốm đau, bệnh nặng; theo chuẩn nghèo mới ước tính toàn tỉnh có khoảng 50.000 người cận nghèo, có thể hỗ trợ 1/3 mức phí (khu vực nông thôn là 33.000đ/người/năm, khu vực thành thị là 43.000 đ/người/năm) ước tính số tiền hỗ trợ là 1,65 tỷ đồng/năm. 3. MỞ RỘNG QUỸ KCB Theo quy định, trường hợp quỹ KCB người nghèo trong năm không sử dụng hết được chuyển sang năm sau tiếp tục mua thẻ nhưng không có quy định nếu thiếu thì sử lý thế nào, trong khi thông thường người nghèo ốm đi nằm viện thường có bệnh nặng, chi phí cao và điều trị dài ngày do đó thường bội chi quỹ BHYT. Như vậy, cần mở rộng quỹ KCB cho người nghèo. Quỹ BHYT cho người nghèo hiện nay không đủ để trang trải chi phí KCB, vì thế cần nâng mệnh giá mua thẻ BHYT cho người nghèo trước mắt là 70.000đ/người/năm. Đồng thời, tăng cường và đa dạng nguồn lực cho người nghèo từ cộng đồng dân cư, các nguồn tại chỗ, kêu gọi sự giúp đỡ của các tổ chức kinh tế – xã hội, các tổ chức từ thiện trong và ngoài nước. Cần điều tiết kinh phí KCB giữa các huyện, thành phố, trạm y tế xã, phường bởi vì tình hình chi cho công tác KCB ở các nơi là khác nhau; việc điều tiết như vậy sẽ bù trừ, tương hỗ lẫn nhau giữa các huyện, thành phố nhằm tránh tình trạng bội chi quá lớn quỹ BHYT. Có sự quản lý chặt chẽ quỹ BHYT, tránh lạm dụng quỹ. Có như vậy mới đảm bảo sử dụng hợp lý và hiệu quả quỹ KCB cho người nghèo. Có thể thực hiện phương thức cấp thẻ BHYT cho người nghèo với hình thức cấp thẻ BHYT có mệnh giá, cấp thẻ BHYT không có mệnh giá để phù hợp với kinh tế của địa phương. Có thể thành lập quỹ KCB cho người nghèo thành một quỹ thống nhất từ Trung ương đến địa phương trong phạm vi cả nước. Nhằm tập trung các nguồn lực thống nhất nhằm quản lý công tác KCB cho người nghèo đạt hiệu quả cao hơn. 4. NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG KCB Trong thời gian tới cần tiếp tục cải thiện cơ sở hạ tầng, tăng cường trang thiết bị y tế thiết yếu cho các cơ sở KCB để đáp ứng tốt hơn yêu cầu KCB, tăng thêm sự tin tưởng, tính hấp dẫn và đảm bảo quyền lợi cho người nghèo có thẻ BHYT khi đi KCB. Nên và cần thiết đầu tư cung cấp các dịch vụ y tế thông thường, ít tốn kém để người nghèo để người nghèo có thể được hưởng quyền lợi nhiều hơn. Cần phân bổ sao cho công bằng giữa các xã, phường nhưng không vì thế mà cào bằng nơi khó khăn với nơi ít khó khăn. Nâng cao năng lực chuyên môn, tăng cường đào tạo cán bộ y tế; nâng cao tinh thần, thái độ phục vụ người bệnh của nhân viên y tế để làm tốt công tác KCB cho nhân dân nói chung và cho người nghèo nói riêng, và cũng để trả lại giá trị đích thực tốt đẹp của chính sách BHYT. Có chính sách khuyến khích cả về vất chất lẫn tinh thần đối với cán bộ làm công tác y tế, bao gồm cả đội ngũ giám định viên để nâng cao chất lượng KCB, đảm bảo hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng lạm dụng quỹ BHYT, đảm bảo quyền lợi cho người nghèo. Ngành y tế cần tiếp tục tổ chức đưa KCB về tuyến cơ sở, giúp người nghèo nhanh chóng tiếp cận với các dịch vụ y tế cơ sở. Ngoài ra, cần đưa đội ngũ cán bộ y tế lưu động đi về vùng còn nghèo, tổ chức KCB miễn phí, điều động cán bộ hỗ trợ về chuyên môn, chuyển giao kĩ thuật cho tuyến dưới nhằm giúp người nghèo có thể được KCB hiệu quả ngay ở tuyến cơ sở. Sở y tế và các cấp các ngành có liên quan có sự quan tâm sát xao, phối hợp chặt chẽ. Cơ quan BHXH cần chủ động xây dựng kế hoạch phối hợp cùng Sở y tế, trung tâm y tế huyện triển khai và hướng dẫn tổ chức công tác KCB cho người có thẻ BHYT tại trạm y tế xã. Tăng cường trang thiết bị thiết yếu cho các chuyên khoa tại trạm y tế xã để đáp ứng tốt hơn nhu cầu KCB, tăng thêm sự tin tưởng và tính hấp dẫn, sự tin tưởng và đảm bảo quyền lợi cho người tham gia BHYT khi họ đăng kí KCB ban đầu tại trạm y tế xã. Đối với những xã có số lượng thẻ BHYT đăng kí ít, điều kiện tổ chức KCB tại từng xã gặp khó khăn, cần thực hiện giải pháp KCB cho người có thẻ BHYT tập trung theo cụm xã với bán kính khoảng 5 km để giảm bớt khó khăn vất vả cho người bệnh do phải đi lại nhiều. Trung tâm y tế huyện có kế hoạch điều tiết phần kinh phí KCB giữa những trạm y tế xã có số lượng thẻ thấp với những trạm y tế xã có số lượng thẻ nhiều để các đơn vị cùng hoạt động KCB một cách ổn định. Thường xuyên đánh giá, rút kinh nghiệm việc thực hiện KCB BHYT tại trạm y tế xã để có được định hướng và giải pháp đúng đắn nhằm phát triển hoạt động KCB BHYT tại tuyến cơ sở mà cụ thể hơn là trạm y tế xã. Ở những nơi cung cấp thuốc còn hạn chế nên chăng phát triển y học cổ truyền hướng về cộng đồng, hướng dẫn nhân dân phát huy truyền thống dùng cây, con làm thuốc chữa bệnh thông thường cho gia đình cũng như các biện pháp châm cứu chữa bệnh không dùng thuốc. 5. ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC THÔNG TIN TUYÊN TRUYỀN Công tác tuyên truyền (CTTT) góp phần đưa chủ trương chính sách về BHYT vào cuộc sống, CTTT là một bước đi trước và thường xuyên nhằm nâng cao nhận thức, khai thông tư tưởng, mở đường cho việc tổ chức thực hiện. Mỗi khi có chủ trương chính sách, chế độ mới về BHYT, cần những người làm CTTT cần nắm bắt nhanh chóng về thông tin, có hiểu biết cần thiết để kịp thời nắm bắt cho đúng, viết cho đúng về các chính sách BHYT mà Đảng và Nhà nước muốn triển khai. Qua đẩy mạnh CTTT, người dân hiểu rõ hơn, hiểu đúng về chính sách BHYT, hiểu rõ tính nhân đao, tính cộng đồng cũng như lợi ích của BHYT để từ đó tự nguyện tham gia các loại hình BHYT, một trong những loại hình đó là BHYT cho người nghèo. Đồng thời, nhờ có CTTT mà có thể giải quyết được những vướng mắc ở tuyến cơ sở như vướng mắc trong khâu KCB, vướng mắc về trình độ, về thái độ phục vụ của đội ngũ cán bộ y tế từ đó hiểu rõ thêm tâm tư, nguyện vọng của người dân. Đẩy mạnh CTTT giúp người tham gia BHYT và cơ quan BHYT gần gũi hơn. Qua thực hiện CTTT có thể vận động được nguồn tài chính của các cơ quan, tổ chức từ thiện trong và ngoài nước, giúp mở rộng quỹ BHYT. Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền ở tất cả các cấp, bằng nhiều hình thức hợp lý, nội dung thiết thực, chú trọng công tác tuyên truyền miệng, nêu các điển hình về tổ chức thực hiện và các trường hợp có chi phí KCB lớn, mắc bệnh nặng được BHYT thanh toán trả thay đã giúp gia đình thoát nghèo... Ban Tuyên giáo tỉnh uỷ, các cơ quan thông tin có kế hoạch tuyên truyền chế độ chính sách BHYT. Báo Hải Dương, Đài phát thanh truyền hình tỉnh xây dựng chuyên mục về BHXH-BHYT, hàng tháng đưa tin về những điển hình trong việc triển khai tổ chức vận động người tham gia BHYT, phản ánh về chất lượng KCB, giải đáp các ý kiến hỏi, kiến nghị của nhân dân... Chính vì vậy, trong lộ trình tiến tới mục tiêu xã hội hoá công tác y tế và chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ; những người làm công tác BHYT và đội ngũ những người làm CTTT báo chí tiếp tục gắn bó, phối hợp chặt chẽ hơn nữa nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp, để đẩy mạnh hơn nữa công tác chăm sóc sức khoẻ cho người tham gia BHYT. 6. TẬP TRUNG XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO Trong các thời kì phát triển đất nước, trong các thời kì Đại hội Đảng đều đã xác định nhiệm vụ cụ thể trong xoá đói giảm nghèo. Đại hội Đảng VIII của Đảng ta đã xác định rõ: “Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong quá trình phát triển”. Còn tại Đại hội IX, đã đặt ra chỉ tiêu: “Phấn đấu đến năm 2010 về cơ bản không còn hộ nghèo. Thường xuyên củng cố thành quả xoá đói, giảm nghèo” Chính vì vậy, xoá đói, giảm nghèo là nhiệm vụ chính trị – xã hội của toàn Đảng, toàn dân. Công cuộc xoá đói giảm nghèo ở tỉnh ta đồng thời giải quyết, bảo đảm các yêu cầu cơ bản như: lương thực, nhà ở, đồ mặc, y tế, giáo dục, dạy nghề, đi lại, văn hoá, thông tin, giao tiếp, bảo đảm xoá đói giảm nghèo vững chắc, chống tái nghèo. Cần tập trung giúp các hộ nghèo, cá nhân nghèo chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao, phát triển sản xuất hàng hoá. Cần đầu tư dứt điểm về cơ sở hạ tầng thiết yếu cho các xã nghèo, trước hết về thuỷ lợi, trường học, trạm y tế, nước sinh hoạt, trung tâm cụm xã, đường giao thông, điện. Áp dụng tiến bộ kĩ thuật, chuyển giao công nghệ tới các xã nghèo, người nghèo để phát triển kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập. Các dịch vụ xã hội nhất là dịch vụ xã hội cơ bản như giáo dục và y tế cũng nên được ưu tiên đầu tư phát triển, đặc biệt cho các đối tượng như trẻ em, phụ nữ nghèo. Cần có các chính sách trợ giúp xã hội, phòng chống thiên tai, giảm rủi ro cho nhóm yếu thế, tăng cường và đa dạng nguồn lực cho người nghèo từ ngân sách Nhà nước, từ cộng đồng dân cư, các nguồn tại chỗ, các tổ chức kinh tế – xã hội, các cá nhân và tổ chức quốc tế. Quan tâm nhiều hơn nữa tới đời sống, vật chất, tinh thần với những người có công với nước, cho vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến; duy trì, phát triển các phong trào đền ơn, đáp nghĩa, gắn phong trào xoá đói giảm nghèo với các phong trào, các chương trình kinh tế – xã hội khác. Tập trung xoá đói giảm nghèo, giúp cho người dân trở lên khấm khá hơn không chỉ là mục tiêu của Đảng và Nhà nước mà còn là mục tiêu của toàn xã hội. Hy vọng rằng trong tương lai không xa, tỉnh ta sẽ không còn hộ đói nghèo, nền kinh tế phát triển, sánh ngang với tất cả các tỉnh trong nước. Có được khả năng vững chắc về kinh tế thì chất lượng công tác chăm sóc sức khoẻ cho người dân ngày càng nâng cao và đại bộ phận người dân được chăm sóc về sức khoẻ. 7. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ KHÁC *Với UBND tỉnh Hải Dương Quan tâm hơn nữa trong việc thực hiện BHYT cho người nghèo, tạo điều kiện đáp ứng tốt hơn nhu cầu KCB của người nghèo, tăng nguồn kinh phí mua BHYT để vừa góp phần thực thi được chính sách xoá đói giảm nghèo tại địa phương vừa tăng lượng thẻ lưu hành góp phần đẩy nhanh tiến độ BHYT toàn dân. *Với Sở Tài chính – Vật giá Tích cực tham mưu đề xuất với các cấp có thẩm quyền, cân đối ngân sách địa phương để có nguồn kinh phí cần thiết từng bước tiến tới việc mua thẻ BHYT cho toàn bộ số người thuộc diện nghèo tại tỉnh. * Với Sở LĐ-TB&XH Tăng cường hơn nữa công tác chỉ đạo các đơn vị trực thuộc cấp huyện-thành phố thực hiện tốt các quy định đã được hướng dẫn trong các văn bản hiện hành, trong đó chú trọng đến công tác tổ chức bình xét người nghèo theo tiêu chuẩn – chỉ tiêu đã được phân bổ. Lập hồ sơ tham gia BHYT đúng quy định tránh những sai sót không cần thiết làm chậm tiến độ phát hành thẻ * Với Sở y tế Tăng cường chỉ đạo các cơ sở y tế trong tỉnh phối hợp chặt chẽ với cơ quan BHXH thực hiện tốt công tác KCB cho người nghèo có thẻ BHYT, vừa đảm bảo quyền lợi chính đáng vừa kiên quyết chống những hiện tượng lạm dụng của đối tượng, phát huy hết hiệu quả của chế độ BHYT cho người nghèo. * Với cơ quan BHXH tỉnh Hải Dương Cơ quan BHXH tiến hành cải cách các thủ tục hành chính, giảm bớt các giấy tờ có thể giảm được trong tiếp nhận, theo dõi, thanh toán KCB tạo điều kiện thuận lợi cho người có thẻ BHYT khi KCB được nhanh chóng. * Với Ban quản lý quỹ KCB cho người nghèo Quản lý chặt chẽ và hiệu quả quỹ KCB cho người nghèo, sau khi cơ quan BHXH đã phát hành thẻ xong theo hợp đồng với Sở LĐ-TB&XH và tập hợp đủ chứng từ, hoá đơn thì nhanh chóng chuyển tiền mua BHYT theo quy định để có kinh phí chi cho công tác KCB, đảm bảo quyền lợi cho nhóm đối tượng này. Như vậy để thực hiện tốt công tác KCB theo chế độ BHYT cho người nghèo cần phải có các cơ chế chính sách, quy trình tổ chức thực hiện và sự phối hợp đồng bộ của tất cả các cơ quan, ban ngành có liên quan trong quá trình triển khai. Hy vọng rằng với các kiến nghị nêu trên thì công tác KCB bằng thẻ BHYT cho người nghèo sẽ đạt được các kết quả như mong muốn. KẾT LUẬN Từ nhiều năm qua, BHYT tỉnh Hải Dương (trước đây) nay là BHXH tỉnh Hải Dương đang tích cực tham gia vào quá trình đảm bảo sức khoẻ cho người dân, mà một trong những vấn đề mấu chốt là quan tâm đến công tác chăm sóc sức khoẻ cho người nghèo. CSSK cho người nghèo thông qua chính sách BHYT là một chủ trương đúng đắn, thể hiện tính nhân đạo và nhân văn sâu sắc của truyền thống “lá lành đùm lá rách”. Điều này hoàn toàn phù hợp với thực tiễn khi mà đại bộ phận người nghèo của tỉnh ta chưa có cơ may nào tốt hơn trong việc tự chăm lo sức khoẻ cho mình. BHYT giúp người nghèo được tiếp cận với các dịch vụ y tế cơ bản, được KCB ngay từ tuyến cơ sở; nhờ đó mà người nghèo được chăm sóc sức khoẻ kịp thời, bệnh tật được phát hiện sớm, người bệnh có thẻ BHYT khi có bệnh, cần chữa bệnh không cần phải đi xa, chi phí KCB bình quân thấp hơn góp phần giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước. Như vậy, có thể nói rằng, chính sách BHYT cho người nghèo là một trong những đóng góp quan trọng cho việc thực hiện thành công chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo, góp phần ổn định xã hội, phát triển kinh tế nhằm đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO TS. Nguyễn Văn Định, 2004, Giáo trình Kinh tế bảo hiểm, Nhà xuất bản Thống kê, Trường ĐHKTQD, Hà nội. TS. Lê Ngọc Trọng, 2002, Kỉ yếu Khám chữa bệnh và bảo hiểm y tế cho người nghèo, Nhà xuất bản Y học, Hà nội. GS. Viện sĩ Y học Phạm Song, 2002, Quá trình hình thành và phát triển của Bảo hiểm y tế Việt Nam, Nhà xuất bản Hà nội, Hà nội. Niên giám thống kê 2004, Nhà xuất bản Thống kê, Hà nội. TS. Trần Thị Trung Chiến, Chính sách khám, chữa bệnh cho người nghèo, góp phần tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo, Tạp chí BHYT số 20/2002. Minh Nam, Khám chữa bệnh cho người nghèo: BHYT – giải pháp hữu hiệu nhất, Tạp chí BHYT số 20/2002. Nguyễn Minh Hiếu, Khám chữa bệnh cho người nghèo: Góp phần thực hiện BHYT toàn dân, Tạp chí BHXH số 10/2003. Hằng Liên, BHYT cho người nghèo thực hiện công bằng trong chăm sóc sức khoẻ, Tạp chí BHXH số 10/2004. Phạm Đình Thành, Khái niệm và bản chất của BHYT, Tạp chí BHXH số 08/2005. Từ kết quả giám sát của Quốc hội về thực hiện chính sách KCB cho người nghèo: KCB theo phương thức BHYT sẽ công bằng hơn, Báo BHXH số 18 ngày 04/05/2005. TS. Nguyễn Hải Hữu, Chuẩn nghèo nhìn từ góc độ lý luận và thực tiễn, Tạp chí LĐ&XH số 262 (từ 1-15/05/2005). Thông tư liên tịch số 05/1999/TTLT–BTC–BLĐTBXH của liên bộ Bộ LĐTB&XH, Bộ Tài Chính, Bộ Y Tế về việc hướng dẫn việc thực hiện KCB được miễn một phần viện phí đối với người thuộc diện quá nghèo ngày 29/01/1999. Quyết định số 139/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về khám chữa bệnh cho người nghèo ngày 15/10/2002. Thông tư số 14/2002/TTLT-BTC-BYT của liên bộ Bộ LĐTB&XH, Bộ Tài Chính, Bộ Y Tế về hướng dẫn tổ chức KCB và quản lý, sử dụng, thanh quyết toán quỹ KCB cho người nghèo ngày 16/12/2002. Nghị định số 63/2005/NĐ-CP của Chính phủ ban hành điều lệ BHYT mới ngày 16/5/2005. Thông tư liên tịch số 21/2005/TTLT-BYT-BTC của liên bộ Bộ Y tế, Bộ Tài Chính về việc hướng dẫn thực hiện BHYT bắt buộc ngày 27/7/2005. Quyết định 170/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành chuẩn nghèo mới ngày 08/7/2005. Công văn số 1161/QĐ-UB của UBND tỉnh về việc bổ sung kinh phí cấp thẻ BHYT cho người thuộc diện quá nghèo năm 1999 cho 7217 đối tượng ngày 11/6/1999. Công văn số 12/TB-VP của UBND tỉnh về việc mua BHYT cho người thuộc diện quá nghèo cho 15.000 đối tượng ngày 07/01/2000. Quyết định số 336/2001/QĐ-UB của UBND tỉnh về việc giao chỉ tiêu kế hoạch cho các Sở, Ban, Ngành mua BHYT cho15.000 đối tượng ngày 05/02/2001. Công văn số : 17/TB-UB của UBND tỉnh về việc thông báo kết quả phiên họp thường kì UBND tỉnh tháng 02/2002 có nội dung đồng ý cấp bổ sung mua thêm 10.000 thẻ BHYT cho đối tượng người thuộc diện quá nghèo ngày 28/02/2002. Quyết định số 522/QĐ-UB của UBND tỉnh Hải Dương về việc thành lập ban quản lý quỹ khám chữa bệnh cho người nghèo ngày 26/02/2003. Quyết định số 20/QĐ-BQL của Ban quản lý quỹ khám chữa bệnh cho người nghèo về việc thành lập tổ chuyên viên giúp việc cho Ban quản lý quỹ khám chữa bệnh cho người nghèo của tỉnh ngày 07/04/2004. PHỤ LỤC Bảng 1: So sánh BHYT của Nhà nước và BHYT trong BHTM.................10 Bảng 2: Tỷ lệ hộ nghèo của các vùng trong cả nước..................................26 Đồ thị 1: Số trạm y tế xã, phường cả nước từ năm 2000-2004...................32 Bảng 3: Tình hình KCB cho người nghèo có thẻ BHYT............................32 Bảng 4: Kết quả thực hiện KCB theo chế độ BHYT cho người nghèo ở tỉnh Bình Định từ năm 1992-2002......................................................................35 Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức của BHXH Hải Dương.........................................39 Bảng 5: Số cán bộ, nhân viên trong biên chế và làm việc theo hợp đồng...40 Bảng 6: Cán bộ, nhân viên được phân chia theo trình độ chuyên môn.......40 Bảng 7: Kết quả thu BHXH từ 1995-2004..................................................42 Bảng 8: Số người tham gia BHYT tự nguyện từ 1995-2004......................45 Bảng 9: Kết quả chi trả các chế độ BHXH từ tháng 10/1995-2004............47 Đồ thị 2: Kết quả cấp thẻ BHYT cho người nghèo ở BHXH Hải Dương, 1999-2002....................................................................................................59 Bảng 10: Kết quả KCB cho người nghèo theo chế độ BHYT ở BHXH Hải Dương, 1999-2005.......................................................................................61 MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBHYT cho người nghèo ở Thanh Hoá Thực trạng và giải pháp.doc
Luận văn liên quan