Biện chứng giữa cái chung và cái riêng và vận dụng vào việc xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta

MỞ ĐẦUTrong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường đầy khó khăn, phức tạp, nền kinh tế Việt Nam đòi hỏi sự học tập, tiếp thu kinh nghiệm của nhân loại trên cơ sở chọn lựa cho phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của Việt Nam. Trong quá trình học hỏi đó, triết học Mác- Lênin, đặc biệt là cặp phạm trù triết học cái chung - cái riêng đóng vai trò vô cùng quan trọng trong mọi hoạt động nhận thức về kinh tế thị trường. Do đặc điểm gần gũi với kiến thức trong nhà trường, cùng với mong muốn thể hiện sự ủng hộ đường lối phát triển kinh tế của Đảng và nhà nước, em chọn vấn đề "Mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung và vận dụng trong quá trình xây dựng kinh tế thị trường ở nước ta" làm đề tài của mình. Cùng với tiểu luận này, em hi vọng có thể góp một phần nhỏ của mình trong việc làm rõ, củng cố lòng tin của mọi người vào công cuộc đổi mới của nhà nước, và giúp mọi người quen thuộc hơn với một nền kinh tế đã và đang được áp dụng ở Việt Nam- nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Để đạt được mục đích đó, tiểu luận này lần lượt đề cập từ khái niệm cái chung- cái riêng, đặc biệt ở khía cạnh kinh tế, cho tới những đặc điểm và hoàn cảnh của nền kinh tế Việt Nam, từ đó rút ra một số giải pháp phát triển kinh tế thị trường phù hợp. Mục lục Trang MỞ ĐẦU 3 I. TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN VỀ CÁI CHUNG, CÁI RIÊNG: 4 1.1. Các khái niệm : 4 1.2. Mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung: 5 II. CÁI CHUNG VÀ CÁI RIÊNG XÉT TRONG KINH TẾ VIỆT NAM VÀ THẾ GIỚI 7 III. NHỮNG GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG DỰA TRÊN CƠ SỞ NGUYÊN LÝ GIỮA CÁI CHUNG VÀ CÁI RIÊNG 8 3.1. Chuyển sang kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan: 8 3.1.1. Khái niệm kinh tế thị trường: 8 3.1.2. Chuyển sang kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan: 8 3.2. Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta: 9 3.2.1. Nền kinh tế nước ta mang đặc điểm của nền kinh tế thị trường thế giới: 9 3.2.2. Những nét đặc thù của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt nam: 10 3.2.4. Một số giải pháp tiếp tục phát triển kinh tế thị trường Việt Nam dựa trên những đặc điểm riêng của Việt Nam: 11 KẾT LUẬN 13 TÀI LIỆU THAM KHẢO 14

doc14 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 19565 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Biện chứng giữa cái chung và cái riêng và vận dụng vào việc xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC Tên đề tài: Biện chứng giữa cái chung và cái riêng và vận dụng vào việc xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta. Sinh viên thực hiên Lớp Giảng viên hướng dẫn : : : ĐỖ QUÍ MINH Anh 2 - khối 1- Quản trị kinh doanh – K50 PGS.TS ĐOÀN VĂN KHÁI HN- Tháng 11/2011 Mục lục Trang MỞ ĐẦU Trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường đầy khó khăn, phức tạp, nền kinh tế Việt Nam đòi hỏi sự học tập, tiếp thu kinh nghiệm của nhân loại trên cơ sở chọn lựa cho phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của Việt Nam. Trong quá trình học hỏi đó, triết học Mác- Lênin, đặc biệt là cặp phạm trù triết học cái chung - cái riêng đóng vai trò vô cùng quan trọng trong mọi hoạt động nhận thức về kinh tế thị trường. Do đặc điểm gần gũi với kiến thức trong nhà trường, cùng với mong muốn thể hiện sự ủng hộ đường lối phát triển kinh tế của Đảng và nhà nước, em chọn vấn đề "Mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung và vận dụng trong quá trình xây dựng kinh tế thị trường ở nước ta" làm đề tài của mình. Cùng với tiểu luận này, em hi vọng có thể góp một phần nhỏ của mình trong việc làm rõ, củng cố lòng tin của mọi người vào công cuộc đổi mới của nhà nước, và giúp mọi người quen thuộc hơn với một nền kinh tế đã và đang được áp dụng ở Việt Nam- nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Để đạt được mục đích đó, tiểu luận này lần lượt đề cập từ khái niệm cái chung- cái riêng, đặc biệt ở khía cạnh kinh tế, cho tới những đặc điểm và hoàn cảnh của nền kinh tế Việt Nam, từ đó rút ra một số giải pháp phát triển kinh tế thị trường phù hợp. TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN VỀ CÁI CHUNG, CÁI RIÊNG: Các khái niệm : Cái riêng: Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định trong thế giới khách quan. Ví dụ: Một thực vật, động vật nào đấy là cái đơn nhất trong giới tự nhiên. Cái riêng trong lịch sử xã hội là một sự kiện riêng lẻ nào đó, như là cuộc cách mạng tháng Tám của Việt nam chẳng hạn. Cái riêng còn có thể hiểu là một nhóm sự vật gia nhập vào một nhóm các sự vật rộng hơn, phổ biến hơn. Sự tồn tại cá biệt đó của cái riêng cho thấy nó chứa đựng trong bản thân những thuộc tính không lặp lại ở những cấu trúc sự vật khác. Tính chất này được diễn đạt bằng khái niệm cái đơn nhất. Cái đơn nhất là một phạm trù triết học dùng để chỉ những thuộc tính, những mặt chỉ có ở một sự vật nhất định mà không lặp lại ở những sự vật khác. Ví dụ chiều cao, cân nặng, vóc dáng... của một người là cái đơn nhất. Nó cho biết những đặc điểm của chỉ riêng người đó, không lặp lại ở một người nào khác. Cần phân biệt “cái riêng” với cái “đơn nhất”. Mặt khác, giữa những cái riêng có thể chuyển hóa qua lại với nhau, chứng tỏ giữa chúng có một số đặc điểm chung nào đó. Những đặc điểm chung đó được triết học khái quát thành khái niệm cái chung. Cái chung: Cái chung là một phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những yếu tố, những quan hệ,. lặp lại phổ biến ở nhiều cái riêng. Cái chung thường chứa đựng ở trong nó tính qui luật, sự lặp lại. Ví dụ như qui luật cung- cầu, qui luật giá trị thặng dư là những đặc điểm chung mà mọi nền kinh tế thị trường bắt buộc phải tuân theo. 1.2. Mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung: Triết học duy vật biện chứng cho rằng cái chung và cái riêng có mối liên hệ biện chứng mật thiết với nhau, và cả hai đều tồn tại một cách khách quan. Cái chung tồn tại bên trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại. Không có cái chung tồn tại độc lập bên ngoài cái riêng. Ví dụ qui luật bóc lột giá trị thặng dư của nhà tư bản là một cái chung, không thế thì không phải là nhà tư bản, nhưng qui luật đó được thể hiện ra ngoài dưới những biểu hiện khác nhau của các nhà tư bản (cái riêng). Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung. Nghĩa là không có cái riêng nào tồn tại tuyệt đối độc lập. Thí dụ: Nền kinh tế nào cũng bị chi phối bởi quy luật cung-cầu,quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX,dó là cái chung .Như vậy sự vật hiện tượng nào cũng bao hàm cái chung Cái chung là bộ phận,nhưng sâu sắc hơn cái riêng, còn cái riêng là toàn bộ nhưng phong phú hơn cái chung. Cái riêng phong phú hơn cái chung vì ngoài đặc điểm chung ,cái riêng còn có cái đơn nhất. Cái chung sâu sắc hơn cái riêng vì cái riêng phản ánh những thuộc tính ,những mối liên hệ ổn định,tất nhiên, lặp lại ở nhiều cái riêng cùng loại .Do vậy cái chung là cái gắn liền với bản chất,quy định phương hướng tồn tại và phát triển của cái chung. Có thể khái quát một công thức như sau: Cái riêng = cái chung + cái đơn nhất Công thức trên có thể là không hoàn toàn đúng một cách tuyệt đối, nhưng trong một chừng mực nào đó thì nó có thể nói được một cách chính xác quan hệ bao trùm giữa cái chung và cái riêng Trong những hoàn cảnh khác nhau, cái chung có thể chuyển hoá thành cái đơn nhất và ngược lại. Ví dụ: trước Đại hội Đảng VI thì kinh tế thị trường, khoán sản phẩm chỉ là cái đơn nhất, còn cái chung là cơ chế bao cấp; nhưng từ sau Đại hội Đảng VI thì kinh tế thị trường lại dần trở thành cái chung, còn kinh tế tập trung bao cấp thành cái đơn nhất, chỉ còn tồn tại trong một số ngành như an ninh quốc phòng... Sự phân biệt giữa cái chung và cái đơn nhất nhiều khi chỉ mang tính tương đối. Có những đặc điểm xét ở trong nhóm sự vật này là cái đơn nhất, nhưng nếu xét ở trong nhóm sự vật khác lại là cái chung. Ví dụ như cây cối là một đặc điểm chung khi xét tập hợp các cây như bạch đàn, phượng vĩ, bàng… nhưng nếu xét trong phạm vi thực vật thì cây cối chỉ là một đặc điểm đơn nhất chỉ các loại cây, mà ngoài ra thực vật còn có cỏ, bụi rậm, nấm... Xét một ví dụ khác, qui luật cung- cầu là cái chung trong nền kinh tế thị trường, nhưng trong toàn bộ các hình thức kinh tế trong lịch sử thì nó lại chỉ là cái đơn nhất, đặc trưng cho kinh tế thị trường mà không thể là đặc điểm chung cho mọi hình thức khác như kinh tế tự cung tự cấp chẳng hạn. Trong một số trường hợp ta đồng nhất cái riêng với cái chung, khẳng định cái riêng là cái chung. Ví dụ như những câu sau: “hoa hồng là hoa”, “kinh tế thị trường theo định hướng XHCN là kinh tế thị trường”... Những trường hợp đó thể hiện mâu thuẫn giữa cái riêng và cái chung. Quan hệ bao trùm của cái riêng đối với cái chung đã trở thành quan hệ ngang bằng. Tuy nhiên những định nghĩa như trên chỉ nhằm mục đích tách sự vật ra khỏi những phạm vi không thuộc sự vật ấy, chứ không dùng để chỉ toàn bộ những đặc tính của sự vật. Trong quá trình phát triển của sự vật hiện tượng,trong những điều kiện nhất định “cái đơn nhất” có thể biến thành “cái chung” và ngược lại “cái chung” có thể biến thành “cái đơn nhất” , nên trong hoạt động thực tiễn có thể và cần phải tạo điều kiện thuận lợi để “cái đơn nhất” có lợi cho con người trở thành”cái chung” và “cái chung” bất lợi trở thành “cái đơn nhất”. Trên cơ sở nguyên lý về mối liên hệ giữa cái riêng và cái chung, ta đã đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển nền kinh tế thị trường của Việt nam một cách thích hợp, cố gắng theo kịp tốc độ tăng trưởng của các nước phát triển trên thế giới, tăng cường cơ sở vật chất cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. CÁI CHUNG VÀ CÁI RIÊNG XÉT TRONG KINH TẾ VIỆT NAM VÀ THẾ GIỚI Nền kinh tế nước ta đang hoà nhập với nền kinh tế thị trường thế giới, sự giao lưu về hàng hoá, dịch vụ và đầu tư nước ngoài làm cho sự vận động của nền kinh tế nước ta gần gũi hơn với nền kinh tế thị trường thế giới. Tương quan giá cả của các loại hàng hoá trong nước gần gũi hơn với tương quan giá cả hàng hoá quốc tế. Thị trường trong nước gắn liền với thị trương thế giới. Nói cách khác, kinh tế Việt Nam là một bộ phận của nền kinh tế thế giới. Xu hướng chung phát triển kinh tế của thế giới là sự phát triển kinh tế của mỗi nước không thể tách rời sự phát triển và hoà nhập quốc tế, sự cạnh tranh giữa các quốc gia đã thay đổi, không còn là dân số đông, vũ khí nhiều, quân đội mạnh mà là tiềm lực kinh tế. Mục đích của các chính sách, của các quốc gia là tạo được nhiều của cải vật chất trong quốc gia của mình, là tốc độ phát triển kinh tế cao, đời sống nhân dân được cải thiện. Tiềm lực kinh tế đã trở thành thước đo chủ yếu, vai trò và sức mạnh của mỗi dân tộc, là công cụ chủ yếu để bảo vệ uy tín và duy trì sức mạnh của các đảng cầm quyền. Như vậy với tư cách là một bộ phận của nền kinh tế thế giới thì việc tiếp thu những đặc trưng cơ bản những nét chung trong tổng thể đó để hoàn thiện nền kinh tế Việt Nam là tất yếu . Tuy nhiên ta không được phép chỉ tiếp thu một cách hình thức phải tiếp thu có chọn lọc cho phù hợp với đièu kiện đất nước .Phải giữ dược nhưng nét đặc trưng riêng tưc là phải bảo tồn cái đơn nhất của kinh tế Việt Nam từ đó còn phải xây dựng một nền kinh tế thị trường mới về chất, thể hiện sự phát triển, phủ định biện chứng đối với nền kinh tế thị trường TBCN. NHỮNG GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG DỰA TRÊN CƠ SỞ NGUYÊN LÝ GIỮA CÁI CHUNG VÀ CÁI RIÊNG 3.1. Chuyển sang kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan: 3.1.1. Khái niệm kinh tế thị trường: Ta có thể định nghĩa thị trường là nơi diễn ra hoạt động mua bán hàng hóa, nơi cung gặp cầu. Kinh tế thị trường là một hệ thống tự điều chỉnh nền kinh tế, bảo đảm có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao; dư thừa và phong phú hàng hoá; dịch vụ được mở rộng và coi như hàng hoá thị trường; năng động, luôn luôn đổi mới mặt hàng, công nghệ và thị trường. Đó là một nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường, với những đặc trưng cơ bản như: phát triển kinh tế hàng hoá, mở rộng thị trường, tự do kinh doanh, tự do thương mại, tự định giá cả, đa dạng hoá sở hữu, phân phối do quan hệ cung- cầu... 3.1.2. Chuyển sang kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan: Sau chiến tranh, do sự không hài hoà giữa các nền kinh tế và sự chủ quan cứng nhắc không tính tới sự phù hợp của cơ chế quản lý mà chúng ta đã không tạo ra được động lực thúc đẩy nền kinh tế phát. Việc quản lý kinh tế của nhà nước lại sử dụng các công cụ hành chính, mệnh lệnh theo kiểu thời chiến không thích hợp với yêu cầu của thời đại, đặc biệt là kìm hãm sức sáng tạo của người lao động. Trong khi đó, nhờ sử dụng triệt để kinh tế thị trường, CNTB đã đạt được những thành tựu về kinh tế- xã hội, phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động. Với tinh thần tích cực sửa đổi, sau khi đã nhận ra những sai lầm, tại đại hội VI của Đảng đã chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và thực hiện chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá sang cơ chế hạch toán kinh doanh XHCN. Đây là một sự thay đổi về nhận thức có ý nghĩa rất quan trọng trong lý luận cũng như thực tế. Đảng ta còn chỉ rõ rằng nền kinh tế thị trường có sự phù hợp với thực tế nước ta, phù hợp với các qui luật kinh tế và với xu thế của thời đại: Nếu không thay đổi cơ chế kinh tế, vẫn giữ cơ chế kinh tế cũ thì không thể nào có đủ sản phẩm để tiêu dùng chứ chưa muốn nói đến tích luỹ vốn để mở rộng sản xuất. Do đặc trưng của nền kinh tế tập trung là rất cứng nhắc nên nó chỉ có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn ngắn. Nền kinh tế chỉ huy ở nước ta tồn tại quá dài nên nó không những không còn tác dụng đáng kể trong việc thúc đẩy sản xuất phát triển mà nó còn sinh ra nhiều hiện tượng tiêu cực làm giảm năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất. Xu hướng chung phát triển kinh tế của thế giới là sự phát triển kinh tế của mỗi nước không thể tách rời sự phát triển và hoà nhập quốc tế. Mục đích của các chính sách, của các quốc gia là tạo được tốc độ phát triển kinh tế cao, đời sống nhân dân được cải thiện, thất nghiệp thấp. Kinh tế đã trở thành thước đo chủ yếu, vai trò và sức mạnh của mỗi dân tộc, là công cụ chủ yếu để bảo vệ uy tín và duy trì sức mạnh của các đảng cầm quyền. Như vậy việc chuyển sang kinh tế thị trường là điều kiện không thể thiếu để phát triển kinh tế. Tuy nhiên ta không được phép chỉ tiếp thu hình thức kinh tế thị trường từ chế độ TBCN mà từ đó còn phải xây dựng một nền kinh tế thị trường mới về chất, thể hiện sự phát triển, phù hợp với hoàn cảnh đất nước 3.2. Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta: 3.2.1. Nền kinh tế nước ta mang đặc điểm của nền kinh tế thị trường thế giới: Trước hết, nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường, nên nó tuân theo mọi quy luật của kinh tế thị trường: quy luật cung- cầu, quy luật giá trị thặng dư, quy luật lưu thông tiền tệ... Kinh tế thị trường nước ta cũng có sự quản lý của nhà nước để khống chế, giảm bớt những khiếm khuyết. Nền kinh tế thị trường nước ta hiện nay cũng tuân theo xu hướng chung phát triển kinh tế thế giới là sự phát triển kinh tế của mỗi nước không thể tách rời sự phát triển và hoà nhập quốc tế, tiến tới hoà nhập thành một thị trường chung trên toàn thế giới. Tương quan giá cả của các loại hàng hoá trong nước cũng ngày càng gần gũi hơn với tương quan giá cả hàng hoá quốc tế. 3.2.2. Những nét đặc thù của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt nam: Nếu trong CNTB hiện đại, kinh tế thị trường đặt dưới sự quản lý của nhà nước tư sản độc quyền vì lợi ích của giai cấp tư sản, thì trong nền kinh tế thị trường nằm dưới sự quản lý của nhà nước XHCN nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân, góp phần thực hiện mục tiêu giải phóng con người, và vì con người. Để thực hiện mục tiêu đó, phải tìm kiếm nhiều giải pháp, cần giải quyết đồng bộ từ vấn đề sở hữu, quản lý, phân phối; tìm động lực cho sự phát triển trên cơ sở xây dựng vật chất- kỹ thuật cho xã hội mới, là quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước có nền kinh tế phát triển. Đường lối phát triển đó đã được Đảng ta chỉ rõ: Xây dựng kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN; luôn giữ vững định hướng XHCN trong quả trình đổi mới, kết hợp với sự kiên định về mục tiêu, nguyên tắc và linh hoạt trong giải pháp. Chúng ta không coi kinh tế thị trường là mục tiêu mà chỉ là một công cụ, giải pháp, phương tiện để phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế phục vụ lợi ích của đa số nhân dân lao động, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với xoá đói giảm nghèo, làm cho thị trường mang tính nhân văn hơn. Nền kinh tế thị trường trong xã hội XHCN vẫn mang tính cạnh tranh, sử dụng cạnh tranh làm động lực phát triển nhưng không cạnh tranh bằng mọi giá; tăng trưởng kinh tế đi đôi với công bằng xã hội, khuyến khích làm giàu gắn với xoá đói giảm nghèo và khắc phục sự phân cấp giàu nghèo, gia tăng về mức sống nhưng vẫn giữ gìn được đạo đức, bản sắc văn hoá dân tộc. Ta chủ trương chống bóc lột, bất công, chăm lo sự nghiệp y tế, giáo dục, đấu tranh cho một nền đạo đức mới, một lối sống lành mạnh. Chỉ có kết hợp mục tiêu kinh tế với mục tiêu xã hội mới thể hiện được bản chất của chế độ mới. Xuất phát điểm của nền kinh tế nước ta là một nền sản xuất nhỏ, lạc hậu, trong đó nông nghiệp chiếm vai trò chủ chốt (chiếm 75% dân số) nhưng lại tồn tại phương thức sản xuất với trình độ thấp. Ngoài ra, nước ta mới chỉ bước vào xây dựng kinh tế thị trường trong vài năm gần đây nên chưa có nhiều kinh nghiệm quản lý. Kết quả là hiện nay, trình độ phát triển kinh tế nước ta còn thấp, mang tính tự túc là chủ yếu, cơ sở vật chất yếu kém, thu nhập thấp, trình độ quản lý kinh tế còn non yếu, khả năng cạnh tranh kém. Do vậy mà ta cần có thời gian làm quen, học hỏi kinh nghiệm của nước ngoài trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là quản lý và phát triển kinh tế. Ta không đủ khả năng về vốn, kỹ thuật để có thể bước ngay vào xây dựng một nền kinh tế thị trường thực sự hiện đại, với các công nghệ cao như nhiều nước tư bản vốn đã có tới ba thế kỷ tích luỹ. Nước ta có truyền thống văn hoá lâu đời, nhân dân ta vốn có sự khéo léo cao nên có thể phát triển nhiều thành phần kinh tế cần có độ tinh xảo, khéo léo cao như trạm khắc, đan... đặc biệt là những thành phần kinh tế truyền thống. Tuy nhiên, trong lịch sử nước ta có thể nói chỉ là lịch sử của những cuộc chiến tranh chống xâm lược mà không có trang nào về việc phát triển kinh tế. Ngoài ra, ta mới đổi mới nền kinh tế nên vẫn còn những người thuộc "thế hệ cũ"- thế hệ của cơ chế bao cấp. Họ coi kinh tế thị trường là một thứ gì đó rất xấu xa mà mình không thể chấp nhận, và làm theo được; và họ cũng không đủ năng động để thích ứng với tốc độ phát triển của kinh tế thị trường. Trong quá trình phát triển kinh tế, hội nhập với kinh tế thị trường thế giới, ta cần luôn chú ý tới việc đảm bảo độc lập, tự chủ về kinh tế, chính trị và đảm bảo độc lập, tự do cho dân tộc, giữ gìn bản sắc dân tộc. 3.2.4. Một số giải pháp tiếp tục phát triển kinh tế thị trường Việt Nam dựa trên những đặc điểm riêng của Việt Nam: Dựa trên những đặc điểm trên, ta có thể đưa ra một số giải pháp phát triển kinh tế thị trường Việt Nam như sau: Phải đào tạo được "lớp người mới", quen thuộc với khoa học kỹ thuật, máy móc hiện đại, đòi hỏi người lao động phải có trình độ cao. Để đáp ứng yêu cầu đó, ta phải đẩy mạnh phát triển khoa học, giáo dục đào tạo, cũng như có những chính sách phát hiện, nuôi dưỡng và giữ gìn nhân tài. Nước ta có vị trí vô cùng thuận lợi, đồng thời lại có nhiều danh lam thắng cảnh đẹp được thế giới công nhận. Do đó, điều kiện để phát triển giao thông vận tải và du lịch là rất lớn. Nhưng hiện nay việc phát triển du lịch ở nước ta còn rất hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng, điều đó đặt ra nhu cầu phải đẩy mạnh phát triển du lịch sao cho tương xứng với tiềm năng của mình. Người Việt nam được đánh giá là khéo léo. Ta có nhiều làng nghề thủ công mỹ nghệ nổi tiếng. Nhưng do trở ngại về thuế, thủ tục hành chính, cũng như việc ngại áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, nên các ngành nghề thủ công vẫn chưa thực sự đem lại hiệu quả. Để giữ vững vị trí là nhân tố đảm bảo cho sự định hướng XHCN nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp nhà nước cần không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất, trở nên năng động hơn, bám sát với những biến động của thị trường hơn và quan tâm đến hiệu quả sản xuất hơn thì mới có thể tiếp tục giữ vai trò chủ đạo, định hướng như trước. Hiện nay, sự quản lý bằng pháp luật của ta vẫn còn nhiều sơ hở để tội phạm kinh tế lợi dụng. Do đó yêu cầu đặt ra là phải thiết lập luật pháp chặt chẽ, dần đưa con người tới hành động tự giác tuân theo pháp luật, sông văn minh, có văn hóa, và tạo một môi trường cạnh tranh công bằng, lạnh mạnh. Nền kinh tế có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản va có sự quản lý của nhà nước sao cho vừa đảm bảo phát triển kinh tế vừa đảm bảo phát triển xã hội và con người, giảm thiểu những khuyết tật xã hội mà kinh tế thị trường mang lại. KẾT LUẬN Giữa cái riêng và cái chung luôn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau. Cái chung tồn tại bên trong cái riêng, thông qua cái riêng để thể hiện sự tồn tại của mình; còn cái riêng tồn tại trong mối liên hệ dẫn đến cái chung. Với vai trò là một “cái riêng”, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt nam cũng tuân theo những quy luật chung mang tính bản chất của kinh tế thị trường, đồng thời cũng chứa đựng những đặc điểm, bản sắc đặc trưng, vốn có, riêng của Việt Nam cần được nghiên cứu và khai thác hiệu quả. Hy vọng tiếp sau tiểu luận này, sẽ có những nghiên cứu chuyên sâu hơn vào từng lĩnh vực, từng ngành kinh tế dựa trên mối liên hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung, từ đó có thể đưa ra những giải pháp cụ thể, mang tính thực tiễn cao hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO Đại hội Đảng cộng sản VI Trang web Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin NXB Chính trị quốc gia PGS.TS Nguyễn Ngọc Hà Phát triển kinh tế thị trường để thực hiện mục tiêu xã hội chủ nghĩa Trang web

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBiện chứng giữa cái chung và cái riêng và vận dụng vào việc xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta.doc