Chuyên đề Những vấn đề lý luận cơ bản về tài chính và chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ trong kinh tế thị trường

Đây là biện pháp mà NHTW khống chế mức cho vay tối đa đối với các TCTD. Trên cơ sở qui mô, tình hình hoạt động cũng như khả năng huy động vốn của từng TCTD, NHTW tiến hành phân chia hạn mức tín dụng cho từng TCTD, đó chính là mức tối đa mà mỗi TCTD được phép vay từ NHTW. Với việc sử dụng biện pháp này tạo cho NHTW dễ đạt được các mục tiêu trung gian của CSTT. Tuy nhiên trong điều kiện kinh tế thị trường, với sự biến động thường xuyên của cung và cầu tiền vay, biện pháp này bỏ ra không còn phù hợp vì không điều chỉnh kịp thời với sự biến động của nền kinh tế. Bên cạnh việc qui định hạn mức tín dụng đối với các TCTD, NHTW còn qui định hạn mức tín dụng đối với nền kinh tế. Trong trường hợp này, NHTW có thể qui định giới hạn khối lượng tín dụng mà các TCTD có thể cung cấp cho nền kinh tế. Nó được sử dụng để kiểm soát chặt chẽ sự mở rộng tín dụng khi NHTW thực hiện chính sách chặt tiền tệ.

pdf35 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2469 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Những vấn đề lý luận cơ bản về tài chính và chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ trong kinh tế thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tương tối, do đó tổng cầu của xã hội cũng tăng lên. Vai trò của CSTK mang tính chất phản chu kỳ. Mặt khác, trong điều kiện mất cân đối giữa tắc tổng cung và tổng cầu, có thể thông qua CSTKh để gia tăng chi tiêu công cộng, hoặc là giảm bớt thu nhập của chính phủ từ thuế khóa để duy trì sự không thay đổi về tổng nhu cầu. Ngược lại, nếu chi tiêu của các tổ chức tư nhân quá nhiều, có nguy cơ gây ra lạm phát, CSTK, một mặt cần giảm bớt chi tiêu công cộng, mặt khác cần tăng gia thu thuế để thu hút sức mua dư thừa của xã hội. Vai trò đó của CSTK mang tính chất ổn định. Trong trường hợp nền kinh tế có lạm phát, để khống chế và đẩy lùi lạm phát, các biện pháp của tài chính thường được sử dụng như: Cắt giảm chi tiêu Ngân sách, tăng thuế tiêu dùng, giảm thuế đối với đầu tư; vay dân qua con đường phát hành công trái, tín phiếu Kho bạc nhà nước hoặc sử dụng công cụ tín dụng và lãi suất để thu hút lượng tiền mặt trong lưu thông làm giảm sự căng thẳng trong quan hệ tiền - hàng ... 16 2. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG MỞ CỦA HỘI NHẬP 2.1 CSTT, mục tiêu và nội dung của CSTT 1). CSTT Tiền tệ là sản phẩm của quan hệ trao đổi hàng hóa. Có thể nói bất cứ vật gì được chấp nhận chung để đổi lấy hàng hóa, dịch vụ hoặc để thanh toán các khoản nợ đều được gọi là tiền tệ. Tiền tệ có vai trò quan trọng trong kinh tế thị trường. Để phát huy được vai trò đó, nhà nước phải hoạch định CSTT theo những định hướng nhất định, hình thành CSTT. Như vậy, CSTT là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô do NHTW soạn thảo và tổ chức thực hiện nhằm đạt các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước trong một thời kỳ nhất định. Trong tác phẩm “Tiền tệ, ngân hàng và TTTC”, F.S. Miskin đã đưa ra quan điểm về CSTT theo nghĩa rộng: “CSTT là một trong các chính sách vĩ mô, trong đó ngân hàng Trung ương thông qua các công cụ của mình thực hiện việc kiểm soát và điều tiết khối lượng tiền cung ứng nhằm tác động tới các mục tiêu cơ bản của nền kinh tế trên cơ sở đó đạt được những mục tiêu cuối cùng của mình là công ăn việc làm cao, tăng trưởng kinh tế, ổn định giá cả, ổn định lãi suất, ổn định TTTC và ổn định tỷ giá hối đoái”. Bất kỳ nền kinh tế nào, ổn định tiền tệ và nâng cao sức mua đồng tiền trong nước luôn được coi là mục tiêu có tính chất dài hạn. NHTW điều hành CSTT phải kiểm soát được tiền tệ, làm sao cho phù hợp giữa khối lượng tiền với mức tăng tổng sản phẩm quốc dân danh nghĩa, giữa tổng cung và tổng cầu tiền tệ, giữa tiền và hàng, không gây thừa hoặc thiếu tiền so với nhu cầu của lưu thông. Xét cho cùng, CSTT có thể được xác định theo một trong hai hướng sau: - CSTT mở rộng là việc cung ứng thêm tiền cho nền kinh tế, nhằm khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất, tạo công ăn việc làm. Trong trường hợp này, chính sách nhằm vào chống suy thoái. - CSTT thắt chặt là việc giảm cung ứng tiền cho nền kinh tế, nhằm hạn chế đầu tư, kìm hãm sự phát triển quá nóng của nền kinh tế, trường hợp này CSTT nhằm vào việc kiềm chế lạm phát. Bằng cách NHTW tác động đến cung ứng tiền (money supply) làm thay đổi cung ứng tiền để tác động đến lãi suất, từ đó ảnh hưởng đến chi tiêu của các khu vực 17 nền kinh tế, cuối cùng CSTT có tác động quan trọng đến GDP (thực, tiềm năng) và lạm phát. Trong dài hạn, CSTT xác định giá trị danh nghĩa hay giá trị tiền tệ của hàng hóa và dịch vụ - đó chính là mức giá chung hay CSTT chính là yếu tố quyết định mức giá chung trong dài hạn. Tuy nhiên, những thay đổi của CSTT cũng có ảnh hưởng nhất định đến hoạt động kinh tế trong ngắn hạn và trung hạn. CSTT là cách thức hay tổng thể các biện pháp, công cụ của NHTW nhằm góp phần đạt được các mục tiêu của chính sách kinh tế, thông qua việc chi phối, điều tiết quá trình cung ứng tiền và tín dụng, tức là thông qua chi phối dòng chu chuyển tiền và khối lượng tiềnii. Qui trình hoạt động của CSTT có thể tóm tắt như sau: Qui trình này thực hiện thông qua một cơ chế truyền dẫn tiền tệ 2). Hệ thống mục tiêu CSTT Để đạt được cái đích cuối cùng của CSTT, trong quá trình điều hành CSTT, NHTW phải theo đuổi những đích trực tiếp và gián tiếp khác. Các đích này có sự liên kết lẫn nhau và liên kết với cái đích cuối cùng của CSTT, từ đó hình thành “ hệ thống mục tiêu” của CSTT. Nhiều nghiên cứu thực tế đã chỉ ra rằng, CSTT chỉ đạt được hiệu quả cao khi NHTW lựa chọn được hệ thống mục tiêu CSTT phù hợp với thực trạng của nền kinh tế và hệ thống tài chính. Mục tiêu cuối cùng Mục tiêu cuối cùng của CSTT thường là mục tiêu trung hạn, vì tác động trễ của tiền tệ đến sản lượng và lạm phát. CSTT là một công cụ quản lý kinh tế vĩ mô, nên mục tiêu CSTT theo đuổi không ngoài mục tiêu của kinh tế vĩ mô là “ mức sản lượng cao và tăng trưởng nhanh; mức công ăn việc làm hữu hiệu với mức thất nghiệp tự nguyện thấp nhất; ổn định giá cả”. Trên thực tế NHTW các nước điều hành CSTT đều theo đuổi mục tiêu trên. Tuy nhiên, CSTT không phải là duy nhất để nền kinh tế đạt được sự ổn định kinh tế vĩ mô với mức tăng trưởng bền vững, công ăn việc làm cao và lạm phát thấp, mà để đạt được điều đó phải phối hợp đồng bộ với nhiều chính sách khác như chính sách tài khoá, chính sách thu nhập, chính sách đối ngoại...Có thể khái quát hoá mục tiêu cuối cùng của CSTT thường là ổn định hệ thống tiền tệ, hỗ trợ sự phát triển kinh tế bền vững, ổn định giá cả hay là kiểm soát được lạm phát ở mức mong muốn. Trong từng thời kỳ, mục tiêu cuối cùng được lượng hoá cụ thể phù hợp với diễn biến kinh tế và diễn biến tiền tệ. Mục tiêu hoạt động Mục tiêu trung gian Mục tiêu cuối cùng Công cụ của CSTT 18 Mục tiêu trung gian Mục tiêu trung gian là những biến số tiền tệ mà có thể đo lường được, NHTW có thể kiểm soát được và phải có tác dụng dự báo được mục tiêu cuối cùng. Điều đó có nghĩa rằng biến số tiền tệ đó có mối liên kết với mục tiêu hoạt động và có thể tác động đến mục tiêu cuối cùng của CSTT. Qua đúc kết kinh nghiệm của các nước, IMF đã chia mục tiêu trung gian được chia thành 3 loại: Mục tiêu trung gian là tổng tiền, thường là lượng chọn M2 và/hoặc là tổng tín dụng nền kinh tế. Mục tiêu trung gian là tổng tiền, hoặc tỷ giá hối đoái, hoặc lãi suất thị trường đã được áp dụng trong nhiều thập kỷ qua, qua đó cho thấy mỗi một mục tiêu được lựa chọn gắn liền với những diễn biến kinh tế và TTTC trong từng giai đoạn phát triển, gắn liền với mục tiêu và giải pháp đảm bảo sự ổn định vĩ mô. Như vậy, để lựa chọn được mục tiêu trung gian thích hợp, đòi hỏi sự phân tích kỹ lưỡng về các diễn biến kinh tế, tiền tệ hiện tại và dự báo trong tương lai, và xác định rõ định hướng phát triển kinh tế trong ngắn hạn cũng như dài hạn. Mục tiêu hoạt động Mục tiêu hoạt động là những biến tiền tệ mà NHTW có thể tác động hay kiểm soát một cách trực tiếp bằng các công cụ CSTT nhằm thay đổi mục tiêu trung gian, qua đó tác động đến mục tiêu cuối cùng của CSTT. Mục tiêu hoạt động có vai trò quan trọng đối với việc điều hành CSTT, đây là điểm khởi đầu trong cơ chế truyền tải tiền tệ, là biến số chủ yếu để NHTW thực thi CSTT. IMF đã chia mục tiêu hoạt động thành hai loại là mục tiêu hoạt động giá cả hay lãi suất ngắn hạn và mục tiêu hoạt động là khối lượng (tiền cơ bản), cụ thể như sau: + Gắn với mục tiêu hoạt động là giá cả nghĩa là NHTW kiểm soát lãi suất ngắn hạn trên thị trường liên ngân hàng. Thông thường NHTW qui định lãi suất trần và lãi suất sàn của NHTW trên thị trường liên ngân hàng nhằm tạo ra hành lang dao động cho lãi suất ngắn hạn trên thị trường theo mức mong muốn của NHTW, thông qua sự tác động của công cụ CSTT như nghiệp vụ thị trường mở v.v. Trong trường hợp việc chỉ đạo CSTT hầu hết thông qua sự can thiệp của NHTW trên thị trường ngoại hối hơn là việc điều chỉnh lãi suất thì tỷ giá được xem như là mục tiêu hoạt động. + Gắn với mục tiêu hoạt động là khối lượng tiền tệ nghĩa là NHTW kiểm soát tiền cơ bản (MB), hoặc các cấu thành của nó, chẳng hạn như Dự trữ quốc tế ròng, Dự trữ của các NHTM, hoặc tài sản có trong nước ròng trên bảng cân đối của NHTW. + Đối với mục tiêu giá cả tiền tệ, việc kiểm soát lãi suất sẽ có hiệu quả trong điều kiện thị trường tiền tệ phát triển- thị trường liên ngân hàng có tính thanh khoản cao và hiệu quả, hệ thống NHTM tồn tại sự cạnh tranh, NHTW phải có sự tín nhiệm với thành viên thị trường. Sở dĩ phải có điều kiện như vậy là do lãi suất chỉ có tính nhạy cảm cao 19 trong môi trường như vậy, khi đó bất cứ sự thay đổi nhỏ trong cung tiền của NHTW sẽ tác động đến sự biến động của lãi suất. Đối với mục tiêu là khối lượng điều kiện áp dụng có phần ngược lại, tức là có thể áp dụng trong điều kiện thị trường tiền tệ chưa phát triển, kém hiệu qủa, khả năng cạnh tranh giữa các ngân hàng là thấp, nhất là trong điều kiện môi trường lạm phát cao. Tuy nhiên trong tình hình như vậy, một điều kiện tiên quyết là giữa hệ số tạo tiền và hàm cầu tiền phải có sự liên hệ chặt chẽ với nhauiii, và gắn với nó là mục tiêu trung gian là tổng tiền (tổng phương tiện thanh toán hoặc tổng tín dụng nền kinh tế). Sở dĩ mục tiêu khối lượng có hiệu quả trong điều kiện như vậy là do, khi đó chỉ có sự thay đổi khối lượng tiền mới tạo ra sức đẩy tiền tệ trong cơ chế truyền tải tiền tệ trong môi trường thị trường tiền tệ kém phát triển. 3). Nội dung cơ bản của CSTT Trong cơ chế thị trường, CSTT bao gồm 3 chính sách cơ bản. Đó là chính sách tín dụng; chính sách ngoại hối; chính sách đối với NSNN. Chính sách tín dụng Thực chất của chính sách tín dụng là cung ứng phương tiện thanh toán cho nền kinh tế quốc dân, thông qua các nghiệp vụ tín dụng ngân hàng, dựa trên các quĩ cho vay được tạo lập từ các nguồn tiền của xã hội và với một hệ thống lãi suất mềm dẻo, phù hợp với sự vận động của cơ chế thị trường. Khi các TCTD thiếu phương tiện thanh toán thì họ đến NHTW xin tái cấp vốn. NHTW luôn là người cho vay cuối cùng, đóng vai trò chủ nợ với các tổ chức tín dụng. Chính sách ngoại hối Nhằm đảm bảo việc sử dụng có hiệu quả các tài sản có giá trị thanh toán đối ngoại, phục vụ cho việc ổn định tiền tệ, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững và gia tăng việc làm trong xã hội. Chính sách ngoại hối được thể hiện trên các phương diện: (i) Chính sách hối đoái; (ii) Dự trữ ngoại hối và (iii) Tỷ giá hối đoái. Chính sách hối đoái: Chính sách hối đoái thường hướng vào việc ngăn chặn tích trữ ngoại hối trong các pháp nhân và thế nhân, quản lý việc mua bán ngoại tệ, thu hút các nguồn ngoại tệ vào NHTW. Dự trữ ngoại hối: Mỗi nước đều có dự trữ ngoại hối tùy thuộc vào khả năng của nền kinh tế đó. Dự trữ ngoại hối phục vụ cho nhu cầu thanh toán quốc tế và điều chỉnh khối lượng tiền trong nước. Khi NHTW mua ngoại tệ sẽ làm gia tăng dự trữ ngoại tệ, gia tăng khối lượng tiền tệ và ngược lại. Qua việc mua bán ngoại hối, NHTW can thiệp vào thị trường, chủ động tác động vào tỷ giá hối đoái theo ý muốn nhất định. 20 Tỷ giá hối đoái: Phản ánh tương quan sức mua giữa nội tệ và ngoại tệ. Tỷ giá hối đoái ảnh hưởng trực tiếp đến xuất nhập khẩu. Nếu tỷ giá hối đoái quá thấp sẽ khuyến khích nhập khẩu, gây bất lợi cho xuất khẩu. Ngược lại, nếu tỷ giá hối đoái quá cao sẽ bất lợi cho nhập khẩu. Do tầm quan trọng của nó, nên NHTW rất quan tâm và khi cần thiết dùng nhiều biện pháp để ổn định tỷ giá hối đoái. Chính sách đối với ngân sách Ngân sách cân bằng hay không cân bằng có ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực với những mức độ khác nhau đối với lưu thông tiền tệ. Trường hợp ngân sách cân bằng. Vẫn có thể tác động mạnh tới CSTT. Nếu CSTT nhằm chống lạm phát, thì ngân sách thăng bằng vẫn có thể làm tăng giá. Nếu CSTT nhằm chống suy thoái, ngân sách thăng bằng vẫn có thể chuyển dịch thu nhập tiền tệ theo hướng góp phần chống suy thoái bằng cách làm tăng mức tiêu thụ. Trường hợp ngân sách thiếu hụt sẽ có 4 cách để tài trợ thiếu hụt. Đó là: vay dân; vay hệ thống TCTD và TTTC trong nước; vay NHTW; vay ở nước ngoài. Trong đó vay của NHTW sẽ làm tăng mạnh khối lượng tiền tệ, gây áp lực lạm phát tiềm tàng về sau. Nhưng trong trường hợp cần thiết, NHTW phải đảm bảo cung ứng phương tiện thanh toán cho Chính phủ. 2.2 Các công cụ của CSTT và sự lựa chọn Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn sử dụng các công cụ CSTT trong điều hành CSTT của các NHTW trên thế giới, IMF đã tổng kết và phân chia các công cụ CSTT thành 2 loại chủ yếu: Công cụ tiền tệ trực tiếp và công cụ tiền tệ gián tiếp. 4). Công cụ trực tiếp Là cách thức mà NHTW trực tiếp tác động thông qua các quy định để giới hạn mục tiêu giá cả (hoặc mục tiêu khối lượng) thường nhằm vào các chỉ tiêu trên bảng cân đối của ngân hàng thương mại. Các công cụ này thường được áp dụng trong điều kiện thị trường tiền tệ chưa phát triển, khả năng sử dụng các điều kiện thị trường để điều tiết tiền tệ của NHTW còn hạn chế, như: kiểm soát trực tiếp lãi suất của nền kinh tế, hạn mức tín dụng, tín dụng chỉ định.  Ấn định lãi suất tiền gửi và tiền vay Nếu lãi suất qui định cao, sẽ thu hút được nhiều tiền gửi, làm gia tăng nguồn vốn cho vay. Nếu lãi suất thấp, sẽ làm giảm tiền gửi, giảm khả năng mở rộng kinh doanh tín dụng. Nhược điểm của biện pháp này là làm cho các TCTD mất đi tính linh hoạt và quyền tự chủ kinh doanh, nó dễ dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn ở ngân hàng nhưng lại 21 thiếu vốn đầu tư hoặc khuyến khích dân cư dùng tiền vào dự trữ ngoại tệ, bất động sản, trong khi ngân hàng bị hụt hẫng về tiền mặt cũng như nguồn vốn cho vay.  Ấn định khung lãi suất tiền gửi và cho vay NHTW có thể qui định khung lãi suất (giới hạn tối đa và tối thiểu về lãi suất) bắt buộc các TCTD phải thực hiện. Biện pháp này có ưu điểm là giúp ngân hàng lựa chọn dự án kinh tế tối ưu để cho vay, loại bỏ những dự án kinh tế kém hiệu quả. Nhìn chung việc ấn định khung lãi suất tiền gửi và cho vay ngày càng ít được áp dụng ở các nước theo cơ chế thị trường. Bởi vì, trong cơ chế thị trường, lãi suất rất nhạy cảm với đầu tư, nó phải được vận động theo quan hệ cung cầu vốn trên thị trường.  Ấn định hạn mức tín dụng đối với các TCTD Đây là biện pháp mà NHTW khống chế mức cho vay tối đa đối với các TCTD. Trên cơ sở qui mô, tình hình hoạt động cũng như khả năng huy động vốn của từng TCTD, NHTW tiến hành phân chia hạn mức tín dụng cho từng TCTD, đó chính là mức tối đa mà mỗi TCTD được phép vay từ NHTW. Với việc sử dụng biện pháp này tạo cho NHTW dễ đạt được các mục tiêu trung gian của CSTT. Tuy nhiên trong điều kiện kinh tế thị trường, với sự biến động thường xuyên của cung và cầu tiền vay, biện pháp này bỏ ra không còn phù hợp vì không điều chỉnh kịp thời với sự biến động của nền kinh tế. Bên cạnh việc qui định hạn mức tín dụng đối với các TCTD, NHTW còn qui định hạn mức tín dụng đối với nền kinh tế. Trong trường hợp này, NHTW có thể qui định giới hạn khối lượng tín dụng mà các TCTD có thể cung cấp cho nền kinh tế. Nó được sử dụng để kiểm soát chặt chẽ sự mở rộng tín dụng khi NHTW thực hiện chính sách chặt tiền tệ.  Phát hành tín phiếu ngân hàng trung ương Trong một số trường hợp, NHTW có thể phát hành tín phiếu để giảm khối lượng tiền trong lưu thông. Việc phân bổ tín phiếu mang tính chất bắt buộc đối với TCTD. Việc phát hành tín phiếu NHTW thường áp dụng trong trường hợp lạm phát cao, hoặc được sử dụng để hỗ trợ một số công cụ khác.  Phát hành trực tiếp cho NSNN và cho đầu tư Trong điều kiện NSNN bị thiếu hụt, NHTW phát hành tiền để bù đắp sự thiếu hụt ấy. Biện pháp này làm gia tăng khối lượng trong lưu thông, hậu quả là gia tăng lạm phát. Phát hành trực tiếp cho đầu tư có thể qua NSNN hoặc qua con đường tín dụng ngân hàng. Biện pháp này cần thiết trong điều kiện nền kinh tế suy thoái, dư thừa tiềm 22 năng kinh tế. Nó sẽ mang lại hiệu quả tích cực, nếu phát hành này được sử dụng để khơi tăng tiềm năng về tài nguyên và con người. 5). Công cụ gián tiếp Các công cụ gián tiếp là các công cụ mà sự tác động của chúng vào các mục tiêu trung gian được thông qua một biến số khác thuộc về sự kiểm soát của NHTW và phải thông qua cơ chế tự điều tiết của các lực lượng thị trường. Thuộc về nhóm công cụ này bao gồm:  Dự trữ bắt buộc Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các TCTD phải duy trì theo qui định của NHTW. Nó được xác định bằng tỷ lệ phần trăm nhất định trên tổng số dư tiền gửi trong một khoảng thời gian nhất định. Dự trữ bắt buộc được xác định bằng cách: DTBBTGBB xTLTDTBB  Trong đó: o DTBB: Tiền dự trữ bắt buộc o TGBBT : Tổng số tiền gửi phải tính dự trữ bắt buộc o DTBBTL : Tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Về nguyên tắc, các khoản tiền gửi dự trữ bắt buộc gửi trên tài khoản chuyên dùng tại NHTW và không được NHTW trả lãi. Tuỳ theo điều kiện của từng nước, trong từng thời kỳ, có nhiều qui định về việc xác định tỷ lệ dự trữ bắt buộc khác nhau. Dự trữ bắt buộc có thể qui định cho tất cả các TCTD hoặc có thể chỉ tính cho một số các TCTD. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc có thể được qui định chung cho toàn bộ các nguồn vốn huy động được của các TCTD hoặc có thể chỉ được qui định đối với tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi ngắn hạn dưới một năm. Việc quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm đảm bảo khả năng thanh toán của các TCTD và quan trọng hơn là để NHTW kiểm soát quá trình tạo tiền của hệ thống TCTD. Sự thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc tác động tới sự thay đổi số nhân tiền và qua đó tác động đến mức cung tiền. Nếu tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng, các yếu tố khác không đổi, làm giảm khả năng cho vay và đầu tư của TCTD, do đó làm giảm tiền trong lưu thông. Ngược lại, NHTW giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, mở rộng cho vay và đầu tư của các TCTD, dẫn đến tăng mức cung ứng tiền. 23 Như vậy thông qua công cụ dự trữ bắt buộc, NHTW tác động cả về khối lượng và giá cả tín dụng của các ngân hàng thương mại: Về số lượng: Tăng, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng có nghĩa là thắt chặt hay nới lỏng khả năng tạo tiền của ngân hàng thương mại. Về chi phí: Tăng, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng có nghĩa là làm tăng hoặc giảm cho phí tín dụng của các ngân hàng thương mại. Do đó dự trữ bắt buộc tạo ra tác động kép (vừa tác động về khối lượng, vừa tác động về chi phí) để buộc các ngân hàng thương mại có thể mở rộng hay hạn chế tín dụng.  Tái cấp vốn Tái cấp vốn là cách để NHTW đưa tiền ra lưu thông, đồng thời khống chế về số lượng và chất lượng tín dụng của các TCTD. Nếu căn cứ vào mục đích, các khoản tái cấp vốn của NHTW đối với TCTD bao gồm: Cho vay thanh toán đối với các ngân hàng thiếu hụt tạm thời; cho vay bổ sung nguồn vốn tín dụng ngắn hạn; cho vay thời vụ để đáp ứng nhu cầu thời vụ của một số ngân hàng. Thông qua việc ấn định lãi suất tái cấp vốn, NHTW tác động đến chi phí vay mượn của các TCTD tại NHTW. Nếu lãi suất tái cấp vốn tăng lên, chi phí các khoản tiền vay từ NHTW tăng lên, các TCTD sẽ bất lợi trong vay vốn. Trong điều kiện đó, các TCTD không có khả năng bành trướng tín dụng. Nếu lãi suất tái cấp vốn giảm xuống, các TCTD có khả năng bành trướng tín dụng. do được lợi trong việc vay vốn của NHTW. Điều kiện để NHTW tái cấp vốn là: - Còn hạn mức tín dụng dành cho TCTD đó. - Các khoản tín dụng đem đến tái chiết khấu phải lành mạnh và đảm bảo khả năng thu hồi nợ. Ở các nước công cụ tái cấp vốn được sử dụng một cách phổ biến để tác động đến cơ số tiền và cung ứng tiền tệ và qua đó thực hiện các mục tiêu về tăng trưởng kinh tế và ổn định tiền tệ. Qua công cụ tái cấp vốn, NHTW là người cho vay cuối cùng. Tái cấp vốn được thực hiện trên nền các giấy tờ có giá, nên thời hạn vay mượn là rõ ràng, việc hoàn trả nợ tương đối chắc chắn, tiền vay vận động phù hợp với sự vận động của quy luật cung cầu thị trường. Mặc dù công cụ tái cấp vốn có nhiều công dụng trong việc thực hiện CSTT, nhưng việc kiểm soát cơ số tiền và mức tiền cung ứng thường kém chặt chẽ. Sự thay đổi của lãi suất tái cấp vốn có thể làm tăng hay giảm khối lượng vay mượn của TCTD, 24 nhưng mức độ thay đổi là bao nhiêu lại phụ thuộc phần lớn vào hoạt động của TCTD. Vì vậy, đôi khi khối lượng tiền vay mượn của TCTD nằm ngoài ý định của NHTW, do vậy NHTW không thể kiểm soát chặt chẽ sự thay đổi của mức cung ứng tiền.  Nghiệp vụ thị trường mở Nghiệp vụ thị trường mở là nghiệp vụ mua bán các chứng khoán ngắn hạn của NHTW trên thị trường tiền tệ. Ở các nước phát triển, nghiệp vụ thị trường mở là một công cụ quan trọng trong việc thực hiện CSTT của NHTW nhằm đạt được mục đích là điều tiết mức dự trữ của TCTD, điều tiết mức cung tiền. Nếu ý muốn gia tăng khối lượng tiền trong lưu thông, mở rộng tín dụng, NHTW thực hiện nghiệp vụ mua các giấy tờ có giá trên thị trường tiền tệ. Ngược lại, khi muốn giảm mức cung ứng tiền thu hẹp tín dụng, NHTW bán các giấy tờ có giá đang nắm giữ. Qua nghiệp vụ mua bán này, NHTW làm tăng hay giảm dự trữ của ngân hàng thương mại, tác động tới khả năng tín dụng của ngân hàng này và từ đó làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ. Công cụ thị trường mở có ưu điểm là nó trực tiếp tác động ngay đến dự trữ của các TCTD và buộc các ngân hàng này phải gia tăng tín dụng hoặc giảm tín dụng đối với nền kinh tế. Nếu không có sự tham gia mua bán của NHTW trên thị trường tiền tệ mà chỉ có việc mua bán tín phiếu kho bạc giữa các TCTD với nhau thì khối lượng tiền tệ sẽ không thay đổi. Bởi vì một TCTD này bán tín phiếu cho TCTD thì chỉ là sự chuyển dịch tín phiếu và một phần dự trữ dư thừa từ TCTD này qua TCTD khác mà thôi. Công cụ tiền tệ gián tiếp là cách tác động thông qua thị trường dưới những điều kiện về cung cầu vốn, và hầu hết các công cụ này nhằm vào bảng cân đối tiền tệ của NHTW. Các công cụ tiền tệ gián tiếp (dự trữ bắt buộc, tái cấp vốn, nghiệp vụ thị trường mở…) không ngừng phát triển cùng với sự phát triển của thị trường tiền tệ, hệ thống thanh toán. Đến nay, công cụ dự dữ bắt buộc ít được sử dụng hơn ở những nước phát triển,mà dự trữ bắt buộc chủ yếu được sử dụng ở những nước đang phát triển và những nước chuyển đổi. Còn công cụ tái cấp vốn cũng được mở rộng thêm, đến nay NHTW nhiều nước đã thực hiện nghiệp vụ thấu chi cung cấp nguồn vốn qua đêm cho các NHTM do thiếu hụt khả năng thanh toán khi tham gia hệ thống thanh toán của NHTW và thực hiện nghiệp vụ gửi tiền (deposit facility) để thu hút vốn khả dụng thừa của các NHTM nhằm ngăn chặn lãi suất thị trường hạ xuống mức quá thấp. Nghiệp vụ tiền gửi thường được kết hợp với nghiệp vụ lombard hoặc cho vay qua đêm tạo ra một hành lang dao động cho lãi suất thị trường liên ngân hàng. 25 Nghiệp vụ thị trường mở ngày nay đã trở thành công cụ CSTT chủ yếu ở những nước phát triển. Từ nghiệp vụ thị trường mở truyền thống (mua bán hẳn chứng khoán chính phủ) đến nay nghiệp vụ này đã phát triển dưới nhiều hình thức, như nghiệp vụ mua – bán có kỳ hạn giấy tờ có giá (Repo); nghiệp vụ mua – bán có kỳ hạn ngoại tệ (nghiệp vụ Swap); bán tín phiếu của NHTW trên thị trường sơ cấp. Ngoài nghiệp vụ tái cấp vốn và nghiệp vụ thị trường mở là những công cụ tiền tệ gián tiếp chủ yếu được áp dụng trong điều hành CSTT của NHTW các nước, còn một số công cụ khác được áp dụng trong những điều kiện nhất định và chỉ có một vài nước áp dụng. Chẳng hạn như nghiệp vụ tiền gửi của khu vực công – là sự phân bổ lại tiền gửi chính phủ giữa NHTW với các NHTM để bù đắp sự thiếu hụt ngắn hạn vốn khả dụng của các NHTM. Sử dụng công cụ này đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa NHTW và Kho bạc… Như vậy, để điều hành CSTT, NHTW đã sử dụng rất nhiều các công cụ tiền tệ, mỗi công cụ đều có những vai trò nhất định trong việc tác động đến cung, cầu vốn trên thị trường. Tùy theo các điều kiện của thị trường tiền tệ, mức độ phát triển của thị trường tiền tệ, mục tiêu và khuôn khổ CSTT của NHTW mà mỗi công cụ khi áp dụng có thể mang lại những hiệu quả tối đa. 6). Lựa chọn sử dụng các công cụ CSTT Có thể đưa ra nét chung nhất mà IMF đã tổng kết làm cơ sở tham khảo để lựa chọn công cụ CSTT cho phù hợp với mục tiêu điều hành của NHTW như sau: - Công cụ dự phòng: Tạo hành lang lãi suất trên thị trường liên ngân hàng, do vậy phù hợp với mục tiêu hoạt động là lãi suất ngắn hạn hơn là với mục tiêu hoạt động là tiền cơ bản. - Nghiệp vụ thị trường mở: Mục tiêu điều tiết của nghiệp vụ thị trường mở là giá cả (lãi suất) hay khối lượng tiền tùy thuộc vào việc lựa chọn phương thức đấu thầu là đấu thầu khối lượng hay đấu thầu lãi suất trong các giao dịch mua bán hẳn hoặc mua bán có kỳ hạn các giấy tờ có giá. Khi thực hiện nghiệp vụ Swap, NHTW không tác động được đến tỷ giá hối đoái, mà tác động đến khối lượng tiền. Nhưng khi thực hiện mua – bán đứt ngoại tệ, NHTW vừa tác động đến tỷ giá hối đoái vừa tác động đến khối lượng tiền cơ bản. - Công cụ dự trữ bắt buộc: Là công cụ không hiệu quả để định hướng lãi suất ngắn hạn, mà cũng như tác động đến khối lượng tiền cơ bản. Tuy nhiên, với việc áp dụng dự trữ bình quân, công cụ dự trữ bắt buộc có thể đóng góp vào sự ổn định của lãi suất ngắn hạn, về khía cạnh nào đó tạo thuận lợi cho hệ thống thanh toán và hỗ trợ việc ổn định hệ số tạo tiền, qua đó góp phần cho cơ chế truyền dẫn tiền tệ thực hiện trôi chảy. 26 Việc lựa chọn các công cụ CSTT có vị trí quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả điều hành, việc áp dụng các công cụ CSTT gắn liền với khuôn khổ CSTT nhất định. Trong một khuôn khổ CSTT, mỗi một công cụ có một vai trò nhất định trong điều tiết tiền tệ, như có công cụ giữ vị trí chủ yếu để cung ứng vốn khả dụng, tạo tín hiệu CSTT, điều chỉnh lãi suất; có công cụ thì có vai trò hạn chế sự biến động của lãi suất, hoặc cung ứng dài hạn vốn khả dụng cho các NHTM... Ngoài ra, với cùng một công cụ, kỹ thuật áp dụng cũng có sự khác nhau giữa các nước, giữa các thời kỳ phát triển, điều đó thể hiện tính đa năng, linh hoạt của các công cụ chính sách. Để phát huy hết tính đa năng và hiệu quả của các công chính sách phụ thuộc nhiều vào kỹ năng điều hành và các điều kiện thực thi CSTT của NHTW. 7). Cơ chế truyền tải tác động của CSTT Cơ chế truyền tải tiền tệ là tuyến đường, hay những kênh tác động mà NHTW có thể sử dụng các công cụ CSTT làm thay đổi các điều kiện tiền tệ trên thị trường, qua đó tác động đến tổng cầu của nền kinh tế làm thay đổi sản lượng, giá cả và việc làm (mục tiêu cuối cùng của CSTT). Trong nhiều thập kỷ qua, NHTW đã có những kênh khác nhau làm thay đổi tổng cầu và hoạt động kinh tế. Sự hình thành và phát triển cơ chế truyền tải CSTT được bắt đầu từ lược đồ đơn giản của Keynes để xem xét sự thay đổi trong cung tiền, lãi suất của NHTW ảnh hưởng như thế nào đến hoạt động kinh tế. Kênh lãi suất trực tiếp: Kênh lãi suất là đặc trưng cơ bản của mô hình Keynes truyền thống áp dụng cho nền kinh tế đóng. CSTT thắt chặt làm tăng lãi suất danh nghĩa ngắn hạn trên thị trường tiền tệ (thị trường liên ngân hàng) và tiếp đến tăng lãi suất tiền gửi và cho vay của các ngân hàng. Sự gia tăng lãi suất của các ngân hàng tác động tới các khoản chi nhạy cảm với lãi suất và thu nhập theo các cách khác nhau. + Tác động lãi suất tới chi tiêu: Sự thay đổi lãi suất của NHTW tác động đến cầu thực và sản lượng thực của nền kinh tế, vì xét về mặt ngắn hạn, với kỳ vọng về lạm phát không thay đổi thì sự thay đổi lãi suất danh nghĩa dẫn đến sự thay đổi lãi suất thực, qua đó sẽ có tác động nhạy cảm đến sản lượng và giá cả. + Tác động tới thu nhập: Lãi suất tăng hơn sẽ phân phối lại thu nhập từ người vay tiền sang người gửi tiền. - Kênh tỷ giá hối đoái: Kênh truyền tải qua tỷ giá hối đoái của CSTT được xây dựng từ mô hình Mundell-Fleming áp dụng cho nền kinh tế mở có chế độ tỷ giá linh hoạt. Lãi suất tăng dẫn đến giá nội tệ tăng có thể làm cho giá cả hàng hoá sản xuất trong nước tăng so với hàng hoá của nước ngoài, đưa tới giảm nhu cầu đối với hàng hoá trong nước, tăng nhu cầu hàng nhập làm suy yếu cán cân thương mại, giảm tổng cầu và sản lượng. Tỷ giá không chỉ tác động tới tổng cầu, mà còn có thể tác động tới tổng cung. Như vậy, ngược với tổng cầu, tổng cung có thể tăng lên khi đồng nội tệ lên giá. 27 Ở những nước có chế độ tỷ giá cố định hoặc bị kiểm soát chặt, CSTT có thể tác động tới tỷ giá thực thông qua giá cả trong nước và do vậy vẫn có thể tác động tới xuất khẩu ròng mặc dù với mức độ thấp hơn và chậm hơn. - Kênh giá cả tài sản: Sự thay đổi của của CSTT tác động tới giá cả của cổ phiếu, trái phiếu và bất động sản. Sự thay đổi về giá cả các tài sản này tác động tới tổng cầu qua các kênh: tác động Tobin, thực trạng tài chính và năng lực tài sản ròng. - Kênh tín dụng ngân hàng: CSTT thắt chặt làm giảm tiền gửi ngân hàng. Để cân đối giữa cung và cầu tín dụng, các ngân hàng không chỉ tăng lãi suất mà còn áp dụng hạn mức tín dụng thông qua tăng các chuẩn mực về uy tín tín dụng. Sự giảm sút của vốn tín dụng sẽ hạn chế đầu tư và sản lượng của doanh nghiệp. 2.3 Chính sách và chế độ điều hành tỷ giá 8). Khái niệm và thước đo tỷ giá Tỷ giá hối đoái là giá cả của ngoại tệ tính bằng đồng bản tệ hoặc tỷ giá là giá cả của đồng bản tệ tính bằng đồng ngoại tệ. Vịêt Nam hiện nay sử dụng cách yết giá thứ nhất, đó là giá cả của đồng đô la Mỹ (USD) tính bằng đồng Việt Nam (VND). Trong nghiên cứu này, nói đến sự tăng tỷ giá đồng nghĩa với VND giảm giá. Các thước đo tỷ giá bao gồm: - Tỷ giá hối đoái danh nghĩa (NER) là giá của một đơn vị ngoại tệ tính theo nội tệ và chưa tính đến sức mua của đồng tiền. -Tỷ giá hối đoái thực (RER) là tỷ giá danh nghĩa đã được điều chỉnh theo giá tương đối giữa các nước (nghĩa là tỷ giá danh nghĩa đã loại trừ yếu tố giá cả trong nước và ngoài nước). Tương quan giữa tỷ giá thực E(r) và tỷ giá danh nghĩa E được biểu diễn như sau: E(r) = EP*/P Trong đó:: P* là mức giá cả nước ngoài P là mức giá ở trong nước Tỷ giá thực là thước đo đầy đủ sức cạnh tranh hàng hóa của một nước so với hàng hóa nước ngoài xét về phương diện giá cả. - Tỷ giá hối đoái thực hiệu quả (REER) là tỷ giá được điều chỉnh theo các tỷ giá thực của các nước có giao dịch với một nước theo tỷ trọng thương mại của nước đó với các nước bạn hàng. REER là một thước đo hiệu quả về tính cạnh tranh của một nước trong quan hệ thương mại với nước khác. 28 Tỷ giá thực cân bằng (RERE) là mức tỷ giá mà tại đó nền kinh tế đồng thời đạt cân bằng bên trong và cân bằng bên ngoài. 9). Các chế độ tỷ giá Chế độ tỷ giá đóng vai trò quan trọng trong phân tích và hoạch định chính sách. Một khi Chính phủ đã lựa chọn một chế độ tỷ giá cụ thể thì mọi phân tích và đề xuất chính sách dựa trên cơ sở chế độ tỷ giá đó. Có 3 chế độ tỷ giá điển hình: - Chế độ tỷ giá cố định: Chế độ tỷ giá cố định là chế độ tỷ giá trong đó Ngân hàng Trung ương ấn định tỷ giá danh nghĩa giữa đồng nội tệ và một đồng ngoại tệ ở một mức cố định. Thông thường, đồng ngoại tệ trong trường hợp này là đồng tiền của một quốc gia lớn hoặc một nhóm các quốc gia (đồng tiền chung) có quan hệ thương mại chặt chẽ hoặc có mức lạm phát thấp hoặc cả hai. Trong trường hợp cầu ngoại tệ lớn hơn cung ngoại tệ tại mức tỷ giá cố định, NHTW phải bán dự trữ ngoại hối của mình để cân bằng cung cầu và ngược lại, trong trường hợp cung ngoại tệ lớn hơn cầu ngoại tệ, NHTW phải mua lại số ngoại tệ dư thừa. Để thực hiện được chế độ tỷ giá này, đương nhiên NHTW phải có một lượng ngoại tệ đủ lớn để sẵn sàng can thiệp thị trường. Tại một số quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi, do nhiều lý do mà NHTW quyết định cố định tỷ giá tại một mức nhất định cho dù là không có đủ dự trữ ngoại tệ cần thiết để can thiệp thị trường. Trong trường hợp này sẽ hình thành 2 thị trường về ngoại tệ: Thị trường chính thức sẽ giao dịch với mức tỷ giá chính thức do NHTW quyết định và thị trường phi chính thức sẽ giao dịch với mức tỷ giá do cung cầu ngoại tệ quyết định và đôi khi mức tỷ giá này được bị chi phối bởi yếu tố đầu cơ. Dưới chế độ tỷ giá cố định, Chính phủ quyết định tỷ giá theo một mục tiêu và sử dụng các công cụ để bảo vệ mức tỷ giá này. Các loại tỷ giá thuộc vùng cố định như chế độ tỷ giá bò trườn, chế độ neo tỷ giá, tỷ giá neo có khả năng điều chỉnh. + Chế độ tỷ giá bò trườn là chế độ tỷ giá trong đó NHTW cố định tỷ giá trong một khoảng thời gian nhất định thông thường là một tháng hoặc một quý. Trong cơ chế này, tỷ giá có thể được cố định với một ngoại tệ hoặc một rổ tiền tệ. NHTW sẽ thông báo khi nào họ sẽ thay đổi tỷ giá hoặc thậm chí công khai về công thức tính tỷ giá. + Chế độ neo tỷ giá là chế độ cho phép gắn đồng nội tệ theo một đồng tiền mạnh hoặc rổ tiền tệ. Thường thì một nước neo đồng nội tệ của mình theo một loại ngoại tệ mạnh nhất. Trong một số trường hợp, tỷ giá bị gắn chặt với một rổ tiền tệ tính theo bình quân gia quyền của các bạn hàng. Biên độ dao động cho phép của tỷ giá dưới chế độ này nằm trong khoảng từ 2-3%, đủ để các tổ chức kinh doanh tiền tệ không thể chủ động điều tiết được. Biên độ này được phép thay đổi khi có quyết định của NHTW. + Chế độ neo có thể điều chỉnh là chế độ mà trong đó giá đồng nội tệ bị neo theo một đồng tiền khác mạnh hơn một rổ tiền tệ nhưng với biên độ dao động nới rộng hơn 29 (khoảng từ 5%-10%). Dưới chế độ này, các nhà kinh doanh tiền tệ có thể chủ động điều tiết tỷ giá trong hoạt động kinh doanh của mình. + Một hình thức khá phổ biến của chế độ tỷ giá cố định là chế độ tỷ giá gắn với dự trữ ngoại hối (Currency Board). Trong cơ chế này, NHTW cam kết chuyển đổi bất kỳ một lượng bản tệ nào thành ngoại tệ với một tỷ giá cố định. Đương nhiên trong trường hợp này, việc phát hành đồng bản tệ của NHTW phụ thuộc chặt chẽ vào lượng dự trữ ngoại hối. Vì vậy, về bản chất, đây là chế độ phát hành tiền lấy ngoại tệ làm đảm bảo của NHTW. - Chế độ tỷ giá thả nổi: Chế độ tỷ giá thả nổi là chế độ tỷ giá mà trong đó tỷ giá danh nghĩa hoàn toàn được quyết định bởi quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại tệ và NHTW không thực hiện bất kỳ sự can thiệp nào vào thị trường. Xét về mặt lý thuyết, khi thực hiện chế độ tỷ giá thả nổi, NHTW không cần có dự trữ ngoại tệ. Tuy nhiên, trên thực tế gần như không quốc gia nào thả nổi hoàn toàn tỷ giá mà luôn có những biện pháp can thiệp khi cần thiết để thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô của mình. - Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết: Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết là chế độ tỷ giá hỗn hợp giữa chế độ tỷ giá cố định và chế độ tỷ giá thả nổi. Tỷ giá được tự do biến động trong phạm vi giới hạn cao nhất và giới hạn thấp nhất do NHTW ấn định. NHTW cũng có thể can thiệp khi tỷ giá có xu hướng vượt ra khỏi phạm vi cho phép. Hình thức phổ biến nhất của chế độ tỷ giá này là việc NHTW quy định tỷ giá chính thức và biên độ dao động tính bằng tỷ lệ phần trăm của tỷ giá chính thức. Chính vì vậy, cơ chế này còn được gọi là chế độ tỷ giá quy định biên độ dao động. 10). Chính sách tỷ giá Tỷ giá hối đoái là nhân tố quan trọng tác động đến giá cả của hàng hoá và dịch vụ xuất nhập khẩu, đến chi phí đối với hoạt động đầu tư nước ngoài và lợi nhuận từ hoạt động đầu tư đó. Nhiều quốc gia đã có những biện pháp nhằm kiểm soát tỷ giá danh nghĩa. Các biện pháp này, cùng với những công cụ được sử dụng để đạt được mục tiêu tỷ giá đề ra được gọi là chính sách tỷ giá. Nội dung của chính sách tỷ giá được thể hiện ở 3 khía cạnh sau đây: - Lựa chọn chế độ tỷ giá phù hợp với điều kiện phát triển của quốc gia trong nền kinh tế toàn cầu; - Xác định một mức tỷ giá hối đoái áp dụng cho các hoạt động kinh tế có liên quan nhằm đạt được mục tiêu của chính sách tỷ giá; - Xác định phương pháp và công cụ điều hành tỷ giá. Thông qua đó, nhà nước thực hiện vai trò điều tiết lưu thông ngoại hối để đạt được mức tỷ giá đã xác định. 30 3. PHỐI HỢP ĐỒNG BỘ CSTK VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TRONG ĐIỀU TIẾT KINH TẾ VĨ MÔ 3.1 Các quan điểm lý thuyết về sự phối hợp giữa CSTK và CSTT trong điều tiết kinh tế vĩ mô. 1). Lý thuyết tài chính nhà nước của J.M.Keynes Nhà kinh tế lỗi lạc người Anh Kenyes đã đặt nền móng về ký luận và thực tiễn cho tư tưởng sử dụng tài chính nhà nước để điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Lý thuyết của Ông đã đưa ra một quan niệm mới về vị trí và vai trò của tài chính nhà nước trong nền sản xuất xã hội, đồng thời bắt đầu thời kỳ đoạn tuyệt với những trào lưu cũ trong lý thuyết kinh tế về sự không can thiệp của nhà nước vào hoạt động kinh tế. Trong cuốn sách “Lý thuyết chúng về việc làm, lãi suất và tiền tệ” (1936), các quan điểm về CSTC điều tiết kinh tế của Kenyes được xuất phát từ các luận điểm sau: Thứ nhất, tất cả những vấn đề quan trọng của nền kinh tế phải được nghiên cứu với quan điểm cầu. Sự khủng hoảng của sản xuất là xuất phát từ cầu tiêu dùng. Bởi vậy, vấn đề cân bằng trong nền kinh tế cần được giải quyết với quan điểm cầu. Ông sử dụng thuật ngữ “cầu hiệu qủa” để biểu hiện sự cân bằng giữa nhu cầu và sản xuất, thu nhập và việc làm. Thứ hai, công cụ quan trọng để thực hiện điều chỉnh nền kinh tế là CSTK, còn chính cách tiền tệ - tín dụng bị ông đưa xuống hàng thứ yếu. Ông viết: “Nhà nước cần phải thực hiện sự lãnh đạo của mình ảnh hưởng đến giới hạn tiêu dùng bằng cách sử dụng hệ thống thuế phù hợp, lãi suất tín dụng và cả các phương pháp nữa”iv. Ông coi chi tiêu nhà nước là một công cụ cơ bản của Chính phủ để can thiệp vào sự phát triển có tính chất chu kỳ của nền kinh tế và vượt qua khủng hoảng. Bởi vậy, sự hình thành, cơ cấu và tốc độ của chi tiêu nhà nước được ông coi là yếu tố quan trọng và không thể tách rời để đạt được "cầu hiệu qủa". Tốc độ chi tiêu nhà nước theo ông cần phải thúc đẩy tăng thu nhập quốc dân và cuối cùng phải nhằm vào mục tiêu đảm bảo việc làm. Để thực hiện được điều đó, nhà nước phải tác động đến các tác nhân của cầu là: tiêu dùng cá nhân và tiêu dùng đầu tư. Theo quan điểm của Kenyes, tốc độ đầu tư nhà nước có vai trò hỗ cho các biện pháp của chính phủ để kích thích "giới hạn đối với đầu tư". Bên cạnh chi tiêu nhà nước, ông coi thuế là một công cụ quan trọng của tài chính nhà nước trong việc điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế và cho rằng sự thay đổi trong chính sách thuế có thể tác động đến "giới hạn tiêu dùng" và cầu của Chính phủ được đảm bảo bằng thuế sẽ khuấy động hoạt động kinh doanh để làm tăng thu nhập quốc dân và việc làm. 31 Ngoài ra, một điểm đáng chú ý trong học thuyết của ông là cần tăng chi tiêu nhà nước bằng nguồn vay nợ. Những người ủng hộ ông đã gọi nguyên tắc này là “cấp phát tài chính thiếu hụt". Kenyes khẳng định rằng, sự đầu tư của nhà nước và chi tiêu hiện tại của Nhà nước có thể được đảm bảo từ nguồn vay nợ. Đầu tư của chính phủ được đảm bảo bằng vay nợ sẽ đưa đến mở rộng “khuynh hướng đối với đầu tư", còn đảm bảo tài chính cho chi tiêu hiện tại của chính phủ sẽ mở rộng “khuynh hướng đối với tiêu dùng". Tốc độ nợ nhà nước được coi là một bộ phận khăng khít của chính sách điều chỉnh của nhà nước để đạt được “cầu hiệu qủa". Sự thiếu hụt ngân sách trở thành một trong những phương thức điều chỉnh nền kinh tế. Sau này những nhà kinh tế khác như: A.Han Xen, P. Sammuelson, A.Lerher, R.Makgreiv, G.Ekkli, U.Kheller, J.Pecman (Mỹ), J.Khics (Anh) đã bổ sung những cơ cấu mới cho lý thuyết của Kenyes về điều chỉnh tài chính nhà nước không chỉ trong giai đoạn khủng hoảng mà còn cả trong giai đoạn phát triển kinh tế theo chu kỳ. 2). Lý thuyết tài chính nhà nước của trường phái Trọng cung Sự khủng hoảng của điều chỉnh nhà nước nền kinh tế thị trường dựa trên cơ sở học thuyết kinh tế của Kenyes diễn ra sau những năm 1970 đã dẫn đến sự tìm kiếm tích cực của các nhà kinh tế phương Tây một quan điểm mới làm lành mạnh hóa nền kinh tế. Khoảng những năm 1980 ở Mỹ và Anh đã ra đời một học thuyết kinh tế mới dựa trên cơ sở luận điểm của các nhà kinh tế Trọng cung, mà các đại biểu của trường phái này là Arthur Laffer, Jude Winniski, Norman Ture. Một trong những luận điểm cơ bản của thuyết Trọng cung là giảm bớt sự can thiệp của nhà nước đến các qúa trình kinh tế và kích thích sự phát triển kinh doanh của tư nhân. Mặc dù vai trò cơ bản trong chính sách kinh tế của nhà nước thuộc vẫn về tài chính nhà nước và công cụ chủ yếu trong việc điều hành CSTC vẫn là các đòn bẩy; thuế, chi tiêu nhà nước và vay nợ chính phủ, nhưng những biện pháp của thuyết Trọng cung lại hoàn toàn đối lập với thuyết Trọng cầu của Kenyes. Thuyết Trọng cung đưa ra những đề nghị cơ bản là: thứ nhất, cắt giảm thuế; thứ hai, cắt giảm chi tiêu nhà nước; thứ ba, giảm số lượng tiền trong lưu thông với sự trợ giúp của các chính sách vay nợ của chính phủ và tiến hành định mức tốc độ phát hành tiền trong lưu thông. Các đại biểu của trường phái này cho rằng, tốc độ tăng trưởng kinh tế được xác định bởi mức tiết kiệm và tích lũy đủ đến mức độ nhất định. Theo họ, mức tiết kiệm từ những khoản thu nhập cao sẽ hình thành nguồn tài chính để mở rộng ĐTPT kinh doanh. Vì vậy, chính phủ cần tích cực sử dụng các biện pháp tín dụng để kích thích tăng trưởng kinh tế, đồng thời thông qua hệ thống thuế, cần tạo ra những điều kiện cần thiết để hình thành mức tiết kiệm đủ để đảm bảo đầu tư trong các thành phần tư nhân. Laffer – một đại biểu chính của trường phái Trọng cung đã đưa ra đề nghị bãi bỏ biểu 32 thuế suất luỹ tiến và hạ thấp thuế lợi nhuận công ty, coi đó như một trong những biện pháp quan trọng nhằm tăng tích luỹ tư bản, mở rộng ĐTPT kinh tế. Friedman lại cho rằng chính sách phục hồi kinh tế bằng ngân sách thực chất cũng là CSTT nhằm tăng thêm khối lượng tiền tệ trong lưu thông mà đó lại là một yếu tố đảm bảo cho sự phục hồi phát triển kinh tế. 3). Lý thuyết tài chính nhà nước của kinh tế học hiện đại Từ sau những năm 1970 hình thành một trào lưu hậu Kenyes, được phát triển trên cơ sở phê phán các học thuyết cổ điển mới và học thuyết Kenyes chính thống. Những đại biểu của trường phái hậu Kenyes ở Anh là Robinson, Kando, Sekl, Arestic. Trong các tác phẩm về tài chính của các nước phương Tây đã giành sự chú ý đến việc giải quyết một mâu thuẫn vĩ đại giữa trường phái kinh tế của Kenyes và trường phái tân cổ điển. Một trong những nhà nghiên cứu lịch sử các học thuyết về tài chính Kindlebege đã nhận xét rằng, những người tân cổ điển thường coi trọng các vấn đề lạm phát, giá cả và số lượng tiền tệ trong lưu thông, còn Kenyes - việc làm và sản xuất. Ông đưa ra kết luận rằng, kể cả tân cổ điển và kể cả Kenyes cũng không thể giải quyết những vấn đề phức tạp của xã hội tư sản, bởi vì họ đã không tính hết các yếu tố kinh tế khác nhau và sự thay đổi quá trình chính trị . Về bản chất, CSTC của hai trường phái này là hai phương thức khác nhau để điều tiết nền kinh tế TBCN. Sự khác nhau và mâu thuẫn giữa chúng có tính chất đối kháng. Hiện nay đang diễn ra xu hướng xích lại gần nhau giữa hai trường phái tư tưởng tài chính phương Tây: tư tưởng Trọng cung được lồng trong lý thuyết của Kenyes còn tư tưởng của Kenyes lại được đưa vào trong lý thuyết Trọng cung để hình thành lý thuyết kinh tế học hiện đại. Biểu hiện rõ nét nhất là sự cần thiết kết hợp chính sách tài khoá và CSTT. Còn các nhà tân cổ điển thì cho rằng hiệu quả áp dụng lý thuyết Trọng cung sẽ cao hơn nếu như bao hàm trong đó một vài cơ cấu của Kenyes. Cũng cần phải thừa nhận rằng, tư tưởng hòa hợp và xích lại gần nhau giữa hai trường phái lý thuyết nổi tiếng nhất trong lịch sử các học thuyết kinh tế đã góp phần làm thay đổi tư duy lý luận trong khoa học tài chính và việc vận dụng các công cụ tài chính nhà nước vào hoạt động thực tiễn. Điều đó được thể hiện rõ nét trong việc soạn thảo các chính sách kinh tế có ý nghĩa quan trọng trong dài hạn cũng như ngắn hạn để đối phó với nền kinh tế chu kỳ, mức thất nghiệp ngày càng tăng cao, tình trạng lạm phát đang đe doạ và mức tiết kiệm tư nhân ngày càng giảm sút trong các nước phát triển hiện nay. Có thể khẳng định rằng, Mỹ là nước đi đầu trong việc vận dụng thành công lý thuyết về tài chính nhà nước hiện đại để điều tiết nền kinh tế trong thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX. Chính sách tài khoá được thực hiện trên cơ sở kiên quyết cắt giảm thâm hụt ngân sách làm cho lãi suất thấp được duy trì, thực hiện chính sách lấy kiềm chế lạm 33 phát làm ưu tiên số một sang cân bằng giữa kiềm chế lạm phát, góp phần kích thích nền kinh tế phục hồi và phát triển. Các biện pháp tài chính cứng rắn cũng đã được áp dụng nhằm điều tiết và chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ sản xuất sang dịch vụ để làm giảm tính chu kỳ của nền kinh tế và kéo dài thời kỳ ổn định để tăng trưởng nhiều hơn. CSTT linh hoạt cũng đã được áp dụng bằng cách chuyển hướng CSTC từ trung lập sang thắt chặt trên cơ sở tăng lãi suất tín dụng. Ngoài ra, nhà nước còn có vai trò quan trọng trong việc tạo ra nhiều cơ chế tự động điều chỉnh để hình thành quỹ phúc lợi làm xoa dịu sức ép giảm thu nhập khi thất nghiệp gia tăng, quỹ bảo hiểm chống lại nguy cơ khủng hoảng ngân hàng. Như vậy, bằng việc thực hiện CSTC linh hoạt có sự kết hợp chặt chẽ giữa chính sách tài khoá và CSTT, giữa CSTC ngắn hạn (theo trường phái Trọng cầu) với CSTC dài hạn (theo trường phái Trọng cung) các nhà kinh tế học hiện đại đã tạo dựng một lý thuyết tài chính nhà nước mới phù hợp với đặc điểm phát triển kinh tế trong giai đoạn hiện nay. 3.2 Mối quan hệ tác động qua lại giữa CSTK và CSTT trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô Mặc dù mỗi chính sách dù là CSTK hay CSTT đều sử dụng hệ thống các công cụ khác nhau: CSTK sử dụng công cụ thuế, chi tiêu ngân sách và vay nợ chính phủ; CSTT sử dụng hệ thống công cụ gián tiếp dựa trên cơ sở thị trường nhưng cuối cùng cả hai chính sách đều nhằm đạt được các mục tiêu vĩ mô như sau: - Tăng trưởng kinh tế - Lạm phát ổn định - Việc làm và thu nhập Có thể nói giữa CSTK và CSTT có mối quan hệ gắn bó với nhau. Để đảm bảo thực hiện các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô của một nền kinh tế thì hai chính sách này không thể tách rời nhau, bởi vì, nhiều chỉ tiêu kinh tế vĩ mô sẽ không thể thực hiện được khi mà không sự kết hợp điều chỉnh của hai chính sách này. 4). Tác động của CSTK đến CSTT Việc điều hành CSTK cũng có ảnh hưởng đến mục tiêu của CSTT. Chẳng hạn, CSTK nới lỏng (hay thắt chặt) gắn liền với tăng (giảm) thâm hụt ngân sách, trong đó phương thức tài trợ thâm hụt ngân sách sẽ tác động đến việc thực hiện mục tiêu ổn định tiền tệ của CSTT. Khi xuất hiện thâm hụt NSNN, chính phủ có thể sử dụng các phương thức bù đắp như sau: - Phát hành tiền hoặc vay NHTW. 34 - Vay từ dân cư và các tổ chức tín dụng hoặc các tổ chức khác bằng việc phát hành các chứng khoán nợ (tín phiếu, trái phiếu công trình, công trái giáo dục và các loại trái phiếu có mục đích khác). - Vay nợ nước ngoài. Nếu thâm hụt ngân sách được bù đắp bằng cách phát hành tiền thì sẽ gây ra lạm phát. Nếu thâm hụt được tài trợ bằng vốn vay từ các ngân hàng thương mại mà NHTW không điều tiết thêm tiền cung ứng cho nhu cầu vốn tín dụng của các NHTM thì các NHTM sẽ buộc phải hạn chế cho vay đối với khu vực tư nhân. Điều này sẽ làm giảm nhu cầu đầu tư của khu vực tư nhân, qua đó ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Trường hợp Chính phủ vay từ NHTM và NHTW hỗ trợ cung ứng thêm tiền cho các NHTM thì tác động cũng tương tự như việc Chính phủ vay trực tiếp từ NHTW (tương tự phát hành tiền). Nếu Chính phủ tài trợ thâm hụt ngân sách bằng cách phát hành trái phiếu, dù bán cho công chúng hay bán cho các tổ chức tín dụng, đều có tác động đến nguồn vốn huy động của các ngân hàng và cuối cùng sẽ hạn chế khả năng cung ứng vốn tín dụng của ngân hàng. Việc Chính phủ vay từ hệ thống ngân hàng hay khu vực phi ngân hàng để tài trợ thâm hụt ngân sách cũng làm giảm nhu cầu đầu tư tư nhân thông qua việc hạn chế lượng vốn tín dụng hoặc qua việc tăng lãi suất. Trường hợp tài trợ bằng nguồn vay nước ngoài cũng có tác động nhất định đến việc thực hiện mục tiêu ổn định cán cân thanh toán... Ngoài ra, CSTK nới lỏng sẽ đi liền với tăng chi tiêu Chính phủ, tác động mạnh đến tổng cầu. Trường hợp cung nhỏ hơn cầu sẽ dẫn đến áp lực tăng giá cả trong nước, hoặc làm tăng nhu cầu đối với hàng nhập khẩu và tăng giá hàng nhập khẩu. Do vậy, trong điều hành CSTT cần luôn quan tâm xem xét các diễn biến CSTK để đảm bảo có sự nhất quán giữa CSTT và CSTK. 5). Tác động của CSTT đến CSTK Hiệu quả của CSTK ở một chừng mực nhất định cũng phụ thuộc vào việc kết quả điều hành CSTT. Chẳng hạn, khi thực hiện CSTT mở rộng sẽ làm giảm giá vay nợ chính phủ do giảm áp lực của lãi suất. Tuy vậy điều này có thể dẫn tới cơ hội tăng mức bội chi ngân sách và lạm phát, lãi suất danh nghĩa tăng lên, người đầu tư chịu đựng rủi ro lợi vốn và vì thế yêu cầu mức lãi suất tăng thêm nhằm bù đắp rủi ro. Giá nợ tăng, đến lượt nó, hạn chế mức bội chi. Ngược lại, một CSTT thắt chặt sẽ làm tăng giá các khoản nợ chính phủ, tâm lý lo sợ rủi ro lợi vốn sẽ gây sức ép làm tăng lãi suất thị trường và cuối cùng ảnh hưởng tới tổng cầu, ảnh hưởng tới mức tăng trưởng và một mức bội chi tăng thêm trong tương lai. 35 Tuy nhiên, quá trình này nếu diễn ra trong điều kiện có sự phối hợp với một CSTK hợp lý thì những động thái của CSTT sẽ không dẫn tới kỳ vọng rủi ro lợi vốn và vì thế mặt bằng lãi suất không bị ảnh hưởng bởi phản ứng dây chuyền của người đầu tư, TTTC nội địa ổn định. Như vậy, thiếu sự phối hợp hiệu quả giữa CSTT và CSTK có thể kéo theo sự thiếu ổn định tài chính mà biểu hiện là những dao động mạnh của lãi suất, tỷ giá, mức lạm phát và vì thế mà phá huỷ nền tảng của tăng trưởng kinh tế. Từ những phân tích đó có thể kết luận rằng, việc kết hợp giữa CSTK và CSTT là hết sức quan trọng để đảm bảo các chính sách được đưa ra đồng bộ, góp phần thực hiện được các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô. i Larousse, Nxb Larousse, Paris, 1993. ii Xem CSTT của NHTW Đức, xuất bản văn hoá và thông tin, năm 1994 iii Mối quan hệ giữa hệ số tạo tiền với hàm cầu dựa trên cơ sở lý thuyết về thuyết lượng cầu tài sản iv J.Keynes Lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ. Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva. Năm 1978, tr.368 tiếng Nga.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfcstk_va_cstt_trong_kttt_1927.pdf
Luận văn liên quan