Đặc điểm về nguồn gốc - Ý nghĩa và giá trị phản ánh hiện thực của địa danh Quảng Ngãi

Ngoài ra, địa danh Quảng Ngãi còn phản ánh ngôn ngữ các dân tộc di cư đến hoặc các dân tộc là người bản địa sinh sống lâu đời ở tỉnh. Ví dụ : y ếu tố Chăm trong các địa danh sông Trà Bồng (TB), sông Trà Câu (ĐP). ; tiếng Ca Dong trong các địa danh thôn Huy Em (S Tây, Huy tiếng Ca Dong có nghĩa là bạn bè), sông Huy Măng (S Tây), thôn Mang Tu La, thôn Mang Ta Bể (Mang Ta Bể có nghĩa là bãi bằng ở ngã ba), thôn Mang Rễ, thôn Mang Trẫy (S Tây, Mang tiếng Ca Dong có nghĩa là bãi bằng).

pdf30 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2802 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đặc điểm về nguồn gốc - Ý nghĩa và giá trị phản ánh hiện thực của địa danh Quảng Ngãi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Khóa luận tốt nghiệp “ Đặc điểm về nguồn gốc - ý nghĩa và giá trị phản ánh hiện thực của địa danh Quảng Ngãi “ MỤC LỤC DẪN NHẬP............................................................................................................. 3 1. Lí do chọn đề tài................................................................................................... 3 2. Lịch sử vấn đề....................................................................................................... 5 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu........................................................................ 7 4. Mục đích nghiên cứu............................................................................................. 7 5. Phương pháp nghiên cứu...................................................................................... 7 6. Kết cấu của đề tài.................................................................................................. 8 CHƯƠNG I. NHỮNG TIỀN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN......................... 9 1.1. Những tiền đề lí luận.......................................................................................... 9 1.2. Những tiền đề thực tiễn.................................................................................... 14 TIỂU KẾT............................................................................................................... 25 CHƯƠNG II. ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO ĐỊA DANH QUẢNG NGÃI............... 26 2.1. Phương thức định danh.................................................................................... 26 2.1.1 Phương thức tự tạo................................................................................... 26 2.1.2 Phương thức chuyển hóa.......................................................................... 34 2.2. Đặc điểm cấu tạo dịa danh Quảng Ngãi........................................................... 39 2.2.1. Cấu tạo địa danh Quảng Ngãi.................................................................. 39 2.2.2. Vấn đề danh từ chung và thành tố chung trong địa danh Quảng Ngãi... 42 TIỂU KẾT............................................................................................................... 46 CHƯƠNG III. Đặc điểm về mặt chuyển biến của địa danh Quảng Ngãi......... 48 3.1. Nguyên nhân tồn tại hay mất đi của một địa danh........................................... 48 3.1.1. Nhóm nguyên nhân xã hội....................................................................... 48 3.1.2. Nhóm nguyên nhân ngôn ngữ.................................................................. 52 3.2. Đặc điểm chuyển biến của các loại địa danh..................................................... 53 TIỂU KẾT............................................................................................................... 71 CHƯƠNG IV. Đặc điểm về nguồn gốc- ý nghĩa và giá trị phản ánh hiện thực 72 4.1. Nguồn gốc- ý nghĩa của một số địa danh Quảng Ngãi..................................... 72 4.2. Giá trị phản ánh hiện thực của địa danh Quảng Ngãi....................................... 76 TIỂU KẾT............................................................................................................... 90 KẾT LUẬN............................................................................................................ 91 Bất kì một địa danh nào khi ra đời cũng thực hiện hai chức năng cơ bản và quan trọng đó là chức năng định danh và chuyển tải ý nghĩa của con người gửi gắm trong đó. Địa danh ngoài chức năng là để gọi tên một đối tượng tồn tại trong thực tế khách quan, để phân biệt đối tượng này với đối tượng khác thì còn có nhiệm vụ thể hiện những ước mơ, nguyện vọng, là « tấm bia » phản ánh lịch sử, văn hóa, xã hội... của một vùng đất. Do đó, việc tìm hiểu nguồn gốc và ý nghĩa của địa danh là việc làm cần thiết cho nhiều khoa học như văn hóa học, lịch sử, địa lí, nhân học, ngôn ngữ học... Hơn nữa việc tìm hiểu giá trị phản ánh hiện thực của địa danh cũng là một công việc thú vị và đầy ý nghĩa. Bởi lẽ ngoài các địa danh được định danh một cách « trực quan » tức là ta dễ dàng nhận ra vì sao địa danh lại có tên ấy (như kiểu địa danh đặt theo tên cây cỏ, động vật có nhiều nơi ấy) thì còn một phần lớn những địa danh mà khi đi vào phân tích cụ thể ta mới rõ được nguồn gốc của sự ra đời địa danh ấy. Chính vì vậy nên, đi tìm hiểu nguồn gốc- ý nghĩa cũng như giá trị phản ánh hiện thực của địa danh chính là đi khơi dậy cái phần trầm tích ẩn sâu dưới lớp vỏ lộ thiên để thấy được giá trị đích thực của địa danh. Bên cạnh đó, khám phá ra những điều trên còn góp phần làm rõ lịch sử phát triển của ngôn ngữ dân tộc nói chung và ngôn ngữ địa phương nơi đang nghiên cứu nói riêng. 4.1. Nguồn gốc- ý nghĩa của một số địa danh Quảng Ngãi Thiên Ấn Núi Thiên Ấn nằm ở tả ngạn sông Trà Khúc, cách Quốc lộ 1 không xa và cận đường Quốc lộ 24B (Quán Cơm- Sa Kỳ) cách thị xã Quảng Ngãi 3,5km về hướng đông bắc, thuộc thị trấn Sơn Tịnh, thường được người xưa xem là « đệ nhất thắng cảnh » của tỉnh Quảng Ngãi. Núi Thiên Ấn (hay còn gọi tắt là núi Ấn) cao 106m, dáng núi hình thang cân, nhìn từ phía hữu ngạn sông Trà, tựa như chiếc ấn của trời cao niêm xuống dòng sông. Vì vậy người xưa gọi đây là « Thiên Ấn niêm hà » (ấn trời đóng trên sông) với niềm tin đây là một ngọn núi thiêng chi phối lịch sử và con người Quảng Ngãi. Long Đầu Long Đầu hay Đầu Rồng là tên một ngọn núi nằm sát đường Thiên Lý Bắc – Nam xưa kia và là Quốc lộ 1 ngày nay. Núi thuộc làng Phú Nhơn, nay thuộc thị trấn Sơn Tịnh, huyện Sơn Tịnh, ở bờ bắc sông Trà, ngay tại đầu cầu Trà Khúc. Thật ra ngọn núi này chỉ là đoạn cuối của một dãy núi thấp kéo dài từ làng Tham Hội huyện Bình Sơn ở phía đông bắc chạy theo hướng tây nam, đụng vào vực sông Trà Khúc. Hình núi chạy dài khuất khúc, chân núi choải ra và đầy cây cối, làng mạc, lưng núi cong võng như mình rồng. Khi đến sông Trà, núi đột ngột nhô cao như đầu rồng nên có tên gọi là Long Đầu (Đầu Rồng). Đoạn sông Trà ở đây dòng chảy đào sâu thành vực, từ dưới chân núi ngâm dưới vực sông, đất đỏ ngấm ra đỏ ối, nước sông vỗ vào các mõm đá, cuộn réo khiến người xưa tưởng tượng là đầu rồng giỡn nước nên gọi là Long Đầu hý thủy. Đất đỏ từ « đầu rồng » chảy ra đỏ ối được giải thích bằng huyền thoại Cao Biền đến đây yểm « long mạch » và huyền thoại Vua Nam Chiếu bên bờ sông Trà cũng gắn với địa danh này. Sách Đại Nam nhất thống chí do Quốc sử nhà Nguyễn biên soạn có đoạn chép : « Núi Đầu Rồng », tức Long Đầu, cách huyện Bình Sơn 31 dặm về phía nam, hình thế khuất khúc, sống núi từ núi Sâm Hội chạy về nam, đến vực sông Trà Khúc thì dừng, hình như rồng thần hút nước, nên gọi tên thế. Trên núi có miếu cổ thờ Long Vận tướng quân, sườn núi có ba đường đi đều sâu như giếng. Tương truyền hồi Cao Biền nhà Đường cưỡi diều giấy đến đây yểm long mạch, hoang đường không tin được. Trong tập « Mười cảnh Quảng Ngãi » có một đề là « Long Đầu hý thủy » tức là núi này. Thình Thình Núi Thình Thình cao khoảng 168m so với mực nước biển, nằm trong địa phận hai xã Bình Tân và Bình Thanh, huyện Bình Sơn. Núi cấu tạo giống như hình một chú cá sấu khổng lồ, phía đông và phía tây chênh nhau chạy theo dãy núi Phượng Hoàng, phía bắc cắt trũng chạy dài đến mũi Ba Làng An. Đường lên núi Thình Thình quanh co, quanh các sườn núi cỏ tranh mọc dày, màu xanh dưới chân núi hiện lên tươi sáng và đậm đà vào những ngày trời trong xanh. Sườn núi phía Tây giáp thôn Tham Hội xã Bình Thanh là một rừng cây cổ thụ với nhiều loại gỗ quý như lim, trâm, chỉ... Ngoài ra, trên núi còn có một số động vật quý hiếm như cò trắng, cò đen, tê tê, trăn, rắn, khỉ, nhím... và các loại chim quý khác. Núi sở dĩ có tên gọi như vậy vì khi con người dậm chân xuống mặt bằng của núi thì phát ra âm thanh « thình thình ». Núi Thình Thình là một cảnh đẹp, thiên nhiên ở đây thơ mộng và huyền bí, có giá trị rất lớn về mặt tham quan du lịch. Bên cạnh đó, nó còn có giá trị về mặt khoa học trong nghiên cứu quá trình hình thành địa tầng của vùng đất. Tuyền Tung- Vực Bà Suối Tuyền Tung (khe Tung) là một dòng hợp lưu của sông Trà Bồng, nằm ở vùng núi rừng phía tây huyện Bình Sơn. Sở dĩ có tên khe Tung vì dòng chảy của suối theo hướng bắc- nam, hơi chếch về phía đông, từ trong khe núi, dòng suối chảy ra, vượt qua một tảng đá lớn bổ nhào xuống vực Bà sâu thẳm, thành dòng thác, bọt nước tung bay như khói nên người xưa còn gọi đây là suối Bay. Tương truyền, dưới vực sâu chân thác có đôi cá thia vàng, to như bánh xe và con tôm mình lớn như cột đình, dân gian gọi là cá Bà, tôm Bà. Những ngày trời trong gió mát, vào đúng chính ngọ, tôm Bà, cá Bà nổi lên bơi lội tung tăng, khoe sắc màu rực rỡ. Cũng theo lời truyền ngôn, những khi trời nắng lâu, nghe tiếng cá quẫy đuôi, trời lại mưa. Trước đây, suối Tuyền Tung, vực Bà là vùng núi rừng thâm u, cây cối rậm rì, nhiều cây đại thụ to mấy người ôm không xuể. Dưới mặt đất ken dày chân muông thú, trên cành cây vắt vẻo những tổ chim, người dân quanh vùng tin rằng đây là chỗ riêng của Bà, thiêng liêng huyền bí nên chẳng mấy ai mon men lui tới. Ông Nghè Cấm Ông Nghè thuộc địa phận thôn Năng Tây, xã Nghĩa Phương, huyện Tư Nghĩa. Từ tỉnh lị đến cấm chừng 8km về phía Nam. Nhưng lấy mốc là cầu Cây Bứa trên Quốc lộ 1 theo hướng tây đến cấm chỉ hơn một cây số. Cấm rộng một mẫu bảy, có hình bầu dục, na ná như trái xoài. Giữa đồng trống mênh mông nổi lên ngọn núi đá làm cho cấm đầy huyền bí. Ông Nghè tên thật là Nguyễn Tộ, sinh năm 1888, mất năm 1966. Trước đây cấm thuộc phần đất của ông, qua bao đời, núi được chăm sóc cẩn thận. Nhà ông Nghè ở ngay chân núi cấm nên tên ông được người đời đặt cho vùng đất ấy. Chuyện xưa kể lại, trước đây đất đai của ông Nghè rộng vô kể. Ông tổ của ông Nghè chính là vị Tiền hiền, vỡ hoang khai hóa, sáng lập nên vùng đất. Trong quá trình khai khẩn, ông phát hiện thấy hòn núi lạ, cho là điềm lành, bèn sai người dọn dẹp sạch sẽ, hương đèn kính cẩn. Tương truyền cấm Ông Nghè rất thiêng. Vào những đêm trời quang mây tạnh, không khí trong lành, hay có thần giáng hạ. Đó là một chùm sáng khi trắng, khi xanh, khi đỏ từ trên cao nhằm cấm mà sà xuống. Người dân trong vùng bảo có điềm lành tiền báo cho một mùa lúa bội thu. Những người chặt cây, săn thú, bẫy đá ở cấm trước đây, về sau làm ăn không khá lên được, phần lớn số phận chìm nổi, nay đây mai đó. Trước mặt cấm là tảng đá to bằng cái nhà. Trong cấm, ngay cổng ra vào, có cái miếu rêu phong cổ kính, ngót trăm tuổi là miếu thờ bà Chúa Ngọc. Sau miếu Bà, chệch bên phải là miếu Ông, nhỏ hơn và có năm tuổi ít hơn thờ ông Mã Thái Giám. Lễ cúng được tổ chức định kỳ hàng năm vào ngày 20 tháng 3 âm lịch. Thời ông Nghè, những nhà hiền triết, những bậc túc nho, những bằng hữu tri âm tri kỉ xa gần quần tụ về đây uống rượu, uống trà để đàm đạo và làm thơ vịnh cảnh. Răng Cưa Từ vùng ven biển phía bắc tỉnh Quảng Ngãi, nhìn lên lớp lớp dãy Trường Sơn phía tây tỉnh, ta dễ dàng nhận ra hình dạng dãy núi nhấp nhô chia cắt từng khúc như hình răng cưa nên có tên gọi như vậy. Về Trà Bồng nói đến núi Răng Cưa thì dân Cor nơi đây ai cũng biết. Núi thuộc xã Trà Hiệp, hơi chếch về phía tây- tây bắc huyện Trà Bồng và bên cạnh huyện Trà Mi của tỉnh Quảng Nam. Núi Răng Cưa nổi tiếng không chỉ vì độ cao, mà chính vì hình dạng độc đáo của nó. Truyện cổ dân tộc Cor bản địa kể rằng : Xưa kia có nàng công chúa con vua trời (Mặt Ngây) xinh đẹp nhưng thích phiêu lưu, thích cưỡi ngựa, bắn cung, đua thuyền. Nàng tâu xin vua cha cho thần mưa phun nước ngập hết khắp nơi, khắp vùng Trà Bồng chỉ còn mấy ngọn núi là nhô đầu lên khỏi mặt nước. Công chúa cùng đoàn nữ tì mặc sức bơi thuyền rong chơi trên mặt nước mênh mông như biển cả. Mỗi lần qua một ngọn núi, nàng đều ngỏ lời xin thần núi cho mình chèo thuyền vượt qua. Lần nào thần núi cũng nể mặt mở cửa cho đi, lâu dần nàng đâm ra hách dịch, cứ tự tiện cho lính mở cửa để băng qua. Đến lần nọ, thần núi giận lắm, bèn đóng chặt cửa. Không ngờ lần này có cả Mặt Ngây cùng đi với công chúa ngắm cảnh. Mặt Ngây cả giận nên ra lệnh cho ba chiếc thuyền xuyên vút qua núi, núi liền lở thành ba đường mà thuyền chỉ hơi tròng trành. Ba đường do mũi thuyền cắt ra ấy có hình dạng như những chiếc răng của lưỡi cưa nên gọi là núi Răng Cưa. Khác với nhiều ngọn núi khác, núi Răng Cưa có đến ba đỉnh nhọn hoắt trên đầu núi gây nên một ấn tượng khó quên. Ở huyện Trà Bồng, nếu núi Cà Đam cao nổi tiếng như là tượng trưng cho dân tộc Cor anh dũng chống ngoại xâm từ những năm 30 cho đến cuộc khởi nghĩa Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi tháng 8.1959, thì núi Răng Cưa lại gắn liền với huyền thoại và như một hình ảnh tiêu biểu của thiên nhiên nơi đây : lớp lớp núi đồi lởm chởm, sông núi chia cắt vùng đất một cách bạo liệt. Nhìn núi Răng Cưa người ta thấy ngay được đặc điểm của cả một vùng sông núi Trà Bồng. 4.2. Giá trị phản ánh hiện thực của địa danh Quảng Ngãi Như đã nói ở trên, địa danh ngoài chức năng định danh, chức năng lưu trữ ngôn ngữ thì còn một chức năng khác không kém phần quan trọng, đó là phản ánh hiện thực. Địa danh ra đời dựa trên hiện thực cuộc sống, con người dựa vào hiện thực khách quan để đặt tên cho địa danh và đến lượt mình, địa danh quay trở lại phản ánh hiện thực cuộc sống với nhiều ngõ ngách, nhiều cung bậc, nhiều chiều kích. Có thể dẫn ra đây những mảng hiện thực mà sự phản ánh của địa danh là thể hiện rõ nhất : 4.2.1. Phản ánh lịch sử 4.2.1.1. Phản ánh quá trình di trú Trong buổi bình minh của lịch sử, vùng đất Quảng Ngãi đã có con người thời đại đá cũ sinh sống (di tích khảo cổ Giếng Tiền, LS). Trải qua thời kì vương quốc Chămpa rồi đến các triều đại phong kiến Việt Nam, thành phần dân cư vùng đất này có nhiều chuyển biến theo tiến trình của lịch sử dân tộc và lịch sử địa phương. Năm 1402, cuộc xung đột giữa hai chính quyền phong kiến Đại Việt và Chămpa đã khiến cho vua Chămpa là Ba Đích Lại phải cắt nhượng đất Chiêm Động và Cổ Lũy Động. Hồ Quý Ly vừa chiêu mộ vừa bắt buộc dân chúng ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, các xứ Thanh, Nghệ không có ruộng đất vào Chiêm Động và Cổ Lũy Động khẩn hoang lập làng. Đối với người Việt, quê gốc rất thiêng liêng nên có làng xã người ta lấy tên quê gốc đặt cho tên quê mới như Vạn Phước (Phúc), An (Yên) Mô đều có gốc từ Bắc Bộ. Sau khi hình thành thêm làng quê mới, người ta lại tiếp tục đặt tên làng đã có cho làng mới, chỉ thêm hai chữ « Tân lập » (mới lập). Dưới thời các chúa Nguyễn, có một số người Hoa từ các vùng Quảng Đông, Phúc Kiến, Triều Châu, Hải Nam (Trung Quốc) đến sinh sống ở Thu Xà, các cửa biển Sa Cần, Sa Huỳnh và một số điểm ở trung du. Người Hoa đóng vai trò tương đối quan trọng trong sự phát triển kinh tế của vùng đất Quảng Ngãi thời bấy giờ thông qua các hoạt động buôn bán thịnh đạt ở Thu Xà. Dấu ấn người Hoa hiện nay còn để lại trong hàng loạt các địa danh Hán Việt trong vùng như : thôn Hòa Bình (TN), thôn Hòa Tân (TN), thôn Hòa Phú (TN)... Phố cũ Thu Xà nay trở thành thôn Thu Xà thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa. Dưới thời Pháp thuộc, cho đến hết năm 1975, có một số người Pháp, Mỹ, Ấn Độ, Chà Và (Java) đến sống ở Quảng Ngãi, nhưng chủ yếu là chuyển cư tạm thời, hoặc không thành cộng đồng riêng nên dấu ấn của họ hiện nay hầu như không còn được lưu giữ trên địa bàn Quảng Ngãi nữa. Duy chỉ có một địa danh đã được đề cập ở trên, mũi Ba Làng An (ST) bị người Pháp phiên âm sai thành Batangan (ba tân gân) nên nhầm tưởng là địa danh mượn Pháp. Hiện nay, địa danh này vẫn tồn tại với hai tên gọi song song nhau. 4.2.1.2. Phản ánh những biến cố, sự kiện lịch sử Địa danh Quảng Ngãi ngoài chức năng quan trọng là định danh thì còn chức năng phản ánh lịch sử khá sâu sắc. Trải qua năm tháng, địa danh không chỉ chịu tác động của những thăng trầm lịch sử với bao sự đổi thay mà bản thân địa danh cũng là « những tấm bia » ghi dấu lịch sử khá đầy đủ và khách quan. Có thể nói địa danh như một nhân chứng trung thành của lịch sử. Về vấn đề này, trước hết phải kể đến sự chuyển biến tên gọi của địa danh hành chính sau những cải tổ do thay đổi nhà cầm quyền hay những địa danh đã đánh dấu sự di trú của bộ phận dân cư từ các vùng miền khác chuyển đến sinh sống tại Quảng Ngãi (xem 3.2.2 và 4.2.1.1). Dấu ấn đánh dấu buổi bình minh trong lịch sử hình thành vùng đất Quảng Ngãi phải kể đến thành Châu Sa, một di tích cấp Quốc gia của cả nước. Thành Châu Sa ngày nay thuộc các xã Tịnh Thiện, Tịnh An, Tịnh Châu, Tịnh Khê của huyện Sơn Tịnh, trên Quốc lộ 24B từ thành phố Quảng Ngãi đi Sa Kỳ, phía Bắc sông Trà Khúc. Sách Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử triều Nguyễn có đoạn chép : « Thành Châu Sa ở xã Châu Sa huyện Bình Sơn, chu vi hơn 5 mẫu 5 sào. Tương truyền có hai thuyết : một thuyết nói là thành Đại La của nước Chiêm Thành ; một thuyết nói là vệ thành của Tam ti đời Lê, chưa rõ thuyết nào đúng ». Tuy nhiên, qua nhiều công trình nghiên cứu lịch sử và khảo cổ cho thấy thành Châu Sa do Chiêm Thành xây dựng, đến cuối thế kỉ XV trở đi nhà Lê mới phái tướng trấn đóng nơi này để bảo vệ thành và toàn bộ vùng đất Châu Tư và Châu Nghĩa trong đạo Thừa tuyên Quảng Nam (hai châu này nay thuộc tỉnh Quảng Ngãi). Thành Châu Sa là một trong những thành Chămpa còn nguyên vẹn nhất hiện nay của nước ta. Thành có vị trí quan trọng về quân sự và kinh tế trong lịch sử người Chàm từ thế kỉ VIII- IX và trong lịch sử quốc gia Đại Việt từ thế kỉ XV. Những bằng chứng khảo cổ học cho thấy sự tồn tại của thành Châu Sa ở bắc sông Trà Khúc liên kết với phòng thành Cổ Lũy ở bờ nam sông Trà đã chứng minh vùng châu thổ đồng bằng Quảng Ngãi có tầm quan trọng về mặt quân sự và kinh tế trong châu Amaravati của vương quốc Chămpa. Thành Châu Sa là di tích lịch sử và kiến trúc khá quan trọng. Nó một mặt khẳng định vùng đất Quảng Ngãi xưa là địa phận vương quốc Chămpa, sau được nhà nước phong kiến Đại Việt đánh chiếm và nhập vào lãnh thổ Đại Việt, mặt khác phế thành Châu Sa còn là chứng tích của những nét văn hóa Chăm đã từng tồn tại nơi đây. Theo dòng thời gian, địa danh như là tấm gương phản ánh lịch sử. Thế nên bên cạnh vết tích về sự hình thành vùng đất thì địa danh Quảng Ngãi còn phản ánh quá trình đấu tranh chống ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc. Nhắc đến Quảng Ngãi là ta đang nhắc đến một vùng quê anh hùng, nơi đã sinh ra bao nhân tài kiệt xuất, bao đấng anh hùng hào kiệt sẵn sàng dâng hiến cuộc đời cho sự nghiệp đấu tranh vệ quốc vĩ đại như Trương Định, Nguyễn Bá Loan, Lê Tựu Khiết, Phạm Văn Đồng, Trần Văn Trà... Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, vùng quê Ấn – Trà đã anh dũng chiến đấu chống giặc mà chiến công còn lưu lại khắp các vùng miền trong tỉnh. Đó là Di tích Huyện đường Đức Phổ (ĐP), Di tích cuộc khởi nghĩa Ba Tơ (BT), Di tích cuộc khởi nghĩa Trà Bồng (TB), Di tích vụ thảm sát Hòa Bình (xã Hòa Bình, BS), Di tích vụ thảm sát địa đạo Đám Toái- Bình Châu (xã Bình Châu, BS), Di tích vụ thảm sát Diên Niên- Phước Bình ( Diên Niên và Phước Bình là hai thôn thuộc xã Tịnh Sơn, ST), Di tích vụ thảm sát Sơn Mỹ (Sơn Mỹ là địa danh mà ngụy quyền Sài Gòn đặt cho xã Tịnh Khê, một xã cực đông của huyện Sơn Tịnh), Di tích vụ thảm sát Khánh Giang- Trường Lệ (Khánh Giang- Trường Lệ là một thôn thuộc xã Hành Tín, NH), Di tích chiến thắng Tà Mực (Tà Mực là tên một ngọn núi cao khoảng 1000m nằm ở xã Sơn Dung, phía đông huyện Sơn Tây), Di tích chiến thắng Ba Gia (Ba Gia là một địa danh thuộc xã Tịnh Bắc, ST), Di tích chiến thắng Vạn Tường (Vạn Tường là một thôn sát biển thuộc xã Bình Hải, BS), Di tích chiến thắng Truông Ba Gò ( Truông Ba Gò là một địa danh nằm trên đoạn Quốc lộ 1 từ xã Bình Hiệp huyện Bình Sơn đến xã Tịnh Phong huyện Sơn Tịnh. Sở dĩ có tên gọi như vậy vì ngày xưa vùng đất này có cây rừng rậm rạp, nhiều cọp beo, trộm cướp. Đường Thiên Lý xưa đi qua truông, cũng là băng qua ba gò đồi thấp nên có tên gọi như vậy, ca dao ngày nay còn lưu truyền rằng ) Cách sông khó lội Phải đợi có đò Qua truông Ba Gò Phải cho có bạn (Ca dao) 4.2.1.3. Phản ánh những tấm gương văn hóa, lịch sử Cũng như nhiều nơi khác trên khắp cả nước, địa danh Quảng Ngãi, đặc biệt là tiểu loại tên đường gắn liền với những tấm gương văn hóa lịch sử của dân tộc nói chung và của miền quê Ấn – Trà nói riêng. Bên cạnh những địa danh mang tên các vị anh hùng dân tộc thời xưa như đường Hùng Vương (QN), đường Lí Thường Kiệt (QN), đường Võ Thị Sáu (QN)… thì phân nửa số ấy mang tên các danh nhân hào kiệt có công với dân, với nước của địa phương từ nhiều đời để lại. Công đức của họ tỏa sáng từ đời này sang đời khác, không chỉ trong tỉnh mà còn thấy ảnh hưởng trong cả nước. Có thể kể ra đây vài tấm gương tiêu biểu làm rạng danh vùng đất Quảng Ngãi mà tên tuổi được lưu truyền mãi trong các tên đường, tên phường, xã, tên núi,… của tỉnh như phường Nguyễn Nghiêm (QN, gọi theo tên chí sĩ yêu nước Nguyễn Nghiêm), Núi Ông (QN, hay còn gọi là núi Trấn Công, núi Ông Trấn là gọi theo tên của trấn công Bùi Tá Hán), Kênh Từ Ty (TN, gọi theo tên nhà cách mạng Từ Ty), Đường Trương Định (QN, gọi theo tên chí sĩ yêu nước Trương Định), Đường Phạm Văn Đồng (QN, gọi theo tên nhà cách mạng nổi tiếng Phạm Văn Đồng)... 4.2.2. Phản ánh địa lí tự nhiên 4.2.2.1. Phản ánh địa hình Địa danh sinh ra ở môi trường nào sẽ phản ánh tính chất, đặc điểm của môi trường ấy. Đối với loại địa danh chỉ địa hình thiên nhiên thì điều này càng thể hiện rõ hơn cả. Trong quá trình khảo sát, chúng tôi tìm thấy được 348 địa danh chỉ địa hình thiên nhiên ở Quảng Ngãi. Chúng tôi tạm chia loại này thành hai tiểu loại là loại chỉ địa hình cao và loại chỉ địa hình thấp. Loại chỉ địa hình cao bao gồm các địa danh đứng sau các tiền từ như hang, hòn, núi, đồi, gò, truông, thác... Loại chỉ địa hình thấp bao gồm các địa danh đứng sau các tiền từ như đầm, ao, hồ, vịnh, vũng, suối... Theo đó, địa danh chỉ địa hình thiên nhiên ở Quảng Ngãi cho ta thấy ở vùng này, kiểu địa hình cao chiếm ưu thế và phân bố rộng rãi hơn so với kiểu địa hình thấp. Hơn nữa, kiểu địa hình cao ở Quảng Ngãi còn quy tụ nhiều cảnh đẹp, khu du lịch, khu nghỉ mát rất có tiềm năng cho phát triển dịch vụ du lịch của tỉnh. Có thể kể ra đây một vài ví dụ tiêu biểu như bãi biển Mỹ Khê (ST), núi Thiên Ấn (có chùa Thiên Ấn, ST), cửa biển Sa Cần (BS), bãi biển Khe Hai (BS), bãi biển Sa Huỳnh (ĐP), thác Trắng (ML), thác Cà Đú (TB)... 4.2.2.2. Phản ánh thực vật Địa danh Quảng Ngãi cũng phản ánh những loại cây cối hiện hữu trên từng địa phương khác nhau với những cách thể hiện khác nhau. Việc định danh địa danh theo tên cây cỏ có nhiều trong vùng là một cách thức khá phổ biến. Cách thức đặt tên này tương đối dân dã, dễ nhớ khiến cho địa danh trở nên gần gũi và quen thuộc đối với không chỉ người dân ở địa phương mà cả những người ở nơi khác đến làm ăn sinh sống. Cây cỏ sinh tồn trong một vùng miền nào đó vừa có ý nghĩa về tự nhiên lại vừa đáp ứng nhu cầu kinh tế, thực phẩm cho người dân nên tầm quan trọng của chúng luôn được khẳng định. Điều đó thể hiện qua một loạt địa danh mang tên cây cối ở Quảng Ngãi như : đồi Đồng Tranh (ST), gò Chè (ML), gò Tranh (ML), núi Quýt Lâm (MĐ, núi có rừng mọc rất nhiều cây quýt), vũng Quất (BS, biến âm từ vũng Quýt, nơi đây có nhiều quýt mọc), hòn Me (ĐP), cù lao Ré (LS, trên đảo này có rất nhiều cây ré- giống chuối nước- dùng làm dây rất bền), làng Ba La (TN, làng trồng nhiều cây mít), vùng Gò Quánh (NH, gò có nhiều cây quánh, tên cây này chưa được các từ điển ghi nhận), ao Sen (ĐP), hang Câu (LS, người dân hay câu cá ở đây hoặc có thuyết cho rằng ở đây có nhiều rau câu), vùng Bàu Súng (MĐ), vùng Cây Quýt (MĐ), vùng Cây Sung (MĐ), vùng Cây Gạo (MĐ)... 4.2.2.3. Phản ánh động vật Cũng tương tự như địa danh phản ánh thực vật, trong địa danh Quảng Ngãi chúng tôi cũng tìm thấy được một bộ phận địa danh được đặt tên theo tên của các loài động vật sống hoặc nuôi trồng nhiều ở khu vực đó. Cũng như cây cỏ, động vật cũng gắn bó với con người, chúng tồn tại chủ yếu để phục vụ cho nhu cầu thực phẩm và trao đổi buôn bán của con người nên những loài nào mang dấu ấn đặc biệt đều được thể hiện thành địa danh. Về loại này chúng tôi sưu tầm được không nhiều nhưng nhìn chung vẫn có thể khẳng định được giá trị phản ánh động vật của địa danh Quảng Ngãi : hòn Khỉ (ĐP, hòn có nhiều khỉ sinh sống), núi Khỉ (ST), vũng Nước Nai (TB, vào mùa hè rất nhiều nai tập trung về vũng này uống nước nên có tên gọi như vậy), hang Cò (LS, nơi đây tập trung nhiều loài chim nhàn có thân hình màu trắng giống chim cò), đèo Chim Hút (NH), suối Chình (LS), suối Ốc (LS)... 4.2.3. Phản ánh kinh tế Khi khảo sát địa danh Quảng Ngãi, chúng tôi còn tìm thấy một bộ phận địa danh phản ánh nền kinh tế khá đa dạng của vùng này với đầy đủ nông- lâm- ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp và công nghiệp nặng. Điều này cho thấy hoạt động kinh tế ở Quảng Ngãi, mặc dù chưa thể sánh kịp với nhiều nơi khác trong nước nhưng cũng đã đi vào quỹ đạo và có nhiều khởi điểm quan trọng, hứa hẹn sẽ phát triển vượt bậc trong tương lai. Về nông- lâm- ngư nghiệp: cũng như nhiều địa phương khác trong nước, người dân Quảng Ngãi xuất thân từ nghề trồng cây lúa nước nên các hoạt động nông nghiệp diễn ra khá tự nhiên và phổ biến. Lâm nghiệp và ngư nghiệp cũng có cơ hội phát triển vì vùng được thiên nhiên ưu đãi với nhiều kiểu địa hình đa dạng, có núi rừng, có sông biển nên thuận lợi cho người dân địa phương phát triển ba ngành kinh tế trọng điểm này. Chúng tôi khảo sát được một số địa danh phản ánh các hoạt động kinh tế của vùng, tuy không đầy đủ nhưng vẫn phần nào thể hiện được hoạt động kinh tế tiêu biểu của người dân nơi đây, phần nhiều các địa danh kiểu này đã chuyển hóa thành địa danh hành chính như thôn Cổ Lũy Làng Cá (TN), thôn Gỗ (TT), thôn Tre (TT), hang Câu (LS, người dân hay câu cá ở đây), thôn Quế (TB, người dân trồng và buôn bán quế), thôn Gò Gạo (SH), thôn Ruộng Gò (ML) ... Về tiểu thủ công nghiệp: tuy không nhiều nhưng địa danh Quảng Ngãi cũng phản ánh vài nét về các làng nghề thủ công phục vụ kinh tế của bà con một số địa phương. Chẳng hạn như trường hợp thôn Chú Tượng (MĐ, làng làm nghề đúc đồng), làng Diêm Điền (ST, làng có nghề truyền thống là làm muối), làng Lò Thổi (BS, làng có nghề truyền thống là rèn)... Ngoài ra, ở một số vùng bãi bồi ven các sông lớn như Trà Khúc, Phước Giang, sông Vệ... còn có nghề trồng dâu nuôi tằm. Về thương nghiệp: việc mua bán thông thương, trao đổi hàng hóa ở Quảng Ngãi với các nơi khác diễn ra khá suông sẻ nhờ nơi đây tập trung nhiều cửa biển rất thuận lợi cho thương nghiệp như cửa Sa Cần (BS, hay còn gọi là cửa Sơn Trà, cửa Kẽm, cửa Thể Cần), cửa Sa Kỳ (ST-BS), cửa Đại Cổ Lũy (TN), cửa Mỹ Á (ĐP, cũng gọi là Mỹ Ý), cửa Sa Huỳnh (ĐP, cũng gọi là Sa Hoàng). Nhắc đến thương nghiệp Quảng Ngãi, người xưa thường hay nhắc đến một địa danh đã trở nên vô cùng nổi tiếng một thời, đó chính là phố Thu Xà. Về mặt hành chính, phố Thu Xà trước đây thuộc thôn Thu Xà, xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, có diện tích tự nhiên hơn một cây số vuông, dân số chừng 2500 người. Trước kia, nơi đây vốn có tên gọi là Vạn Thu Xà, thuộc làng Tiên Sà- tên làng đầu tiên khi người Việt đến khai phá và định cư tại vùng đất này. Theo sự lí giải của các cụ già trong thôn thì tên Tiên Sà có nghĩa là làng có đầu tiên và làng có nhiều bè rớ (tiên là trước, sà là bè- bè rớ). Trong sách Quảng Ngãi tỉnh chí xuất bản năm 1933, tác giả Nguyễn Bá Trác từng viết : « Xưa nay sự buôn bán rất thuận lợi là ở phố Thu Xà vì món độc tôn xuất cảng ở Quảng Ngãi là đường... Thu Xà đã tiện lợi về đường sông, những đường xuyên ngang của sông Trà Khúc và sông Vệ đều có thể vận tải về Thu Xà được, mà muốn chở đường xuất cảng thì cũng phải do đàng Thu Xà chở ra cửa Cổ Lũy ». Đúng vậy, Thu Xà có vị trí địa lí khá đặc biệt, phía nam giáp sông Vực Hồng- một nhánh của sông Vệ bị tách dòng chảy trước khi đổ ra biển qua cửa Lở- cách phố Thu Xà chừng một cây số ; phía Bắc- cách Thu Xà chừng bốn cây số là cửa Cổ Lũy (còn gọi là Cửa Đại) nơi dòng Trà Khúc đổ ra biển, rất thuận lợi cho thông thương đường thủy nên người dân Thu Xà xưa đã biết lợi dụng vị thế này để mở rộng giao lưu buôn bán các sản vật với bên ngoài, và biến Thu Xà thành một thương cảng lớn trong khu vực, có vị trí quan trọng trong sự phát triển kinh tế, giao lưu văn hóa của tỉnh Quảng Ngãi xưa kia. Ngày nay, phố Thu Xà tuy không còn vị thế độc tôn như trước nhưng vẫn từng ngày thay da đổi thịt và năng động trong kinh tế. Thay vào đó, Quảng Ngãi giờ đây đang trở mình vươn xa với những khu công nghiệp mọc lên, làm tiền đề phát triển không chỉ cho địa phương mà cho các vùng lân cận và cả nước như khu công nghiệp Tịnh Phong (ST), khu công nghiệp- giờ là khu kinh tế Dung Quất (BS)... Người dân vùng quê Ấn – Trà ngày ngày vẫn truyền nhau bài ca dao ca ngợi các đặc sản của quê mình gắn liền với các địa danh nổi tiếng : Chim mía Xuân Phổ Cá bống Sông Trà Kẹo gương Thu Xà Mạch nha Mộ Đức Như vậy, tồn tại như một minh chứng sống động của hiện thực, địa danh phản ánh quá trình sinh sống, an cư lạc nghiệp của dân chúng, trong đó có các hoạt động kinh tế là điều dễ hiểu. Qua đấy chúng tôi nhận thấy rằng, các địa danh phản ánh kinh tế ở Quảng Ngãi tuy không nhiều nhưng về cơ bản cũng đã giới thiệu được vài nét cơ bản về phương thức làm ăn sinh sống của người dân nơi đây. 4.2.4. Phản ánh văn hóa Khi một địa danh bất kì ra đời, con người có nhu cầu đặt tên cho nó với mục đích để gọi tên và phân biệt với những đối tượng là địa danh khác. Địa danh vì thế có giá trị phản ánh rất cao về đời sống văn hóa xã hội của con người nơi mà nó sinh ra và tồn tại. Điều này thể hiện ở vài điểm sau : 4.2.4.1. Phản ánh tín ngưỡng, tôn giáo a. Phản ánh tín ngưỡng Như một đặc điểm chung của cả dân tộc, người dân Quảng Ngãi cũng tôn sùng những đấng tôn kính thiêng liêng mà tín ngưỡng dân gian tin rằng đã phù trợ cho họ có được cuộc sống an lành, hạnh phúc. Người dân tin tưởng và gởi gắm lòng tôn sùng và ước nguyện của mình vào từng tên sông, tên núi, tên bản làng... để tỏ lòng ghi nhớ công ơn của các bậc hiển linh. Do đó, địa danh Quảng Ngãi cũng phần nào phản ánh một góc đời sống tâm linh này của người dân với các địa danh mang tên một trong « tứ linh » là Long, Lân, Quy, Phụng. Kiểu này tập trung chủ yếu ở loại địa danh chỉ địa hình thiên nhiên như : núi Long Phụng (MĐ), núi Kỳ Lân (NH), núi Phượng Hoàng (BS), núi Long Đầu (ST)... Ngoài ra, ngư dân Quảng Ngãi còn có tục thờ cá Ông (cá voi). Cá Ông hiền lành, có khi đỡ thuyền bị nạn, ngư dân tin đó là thần linh. Khi cá chết dạt vào bờ, ngư dân tổ chức lễ mai táng, cúng tế và lập đền thờ. Lúc mai táng và ngày rằm tháng 7 hàng năm có tổ chức lễ cúng và hát bá trạo, là một lễ hội phổ biến của dân vạn chài Quảng Ngãi. b. Phản ánh tôn giáo Ở Quảng Ngãi có sự tồn tại song song của nhiều tôn giáo như Phật giáo, Thiên Chúa giáo, Tin Lành... Trong số đó, đạo Phật được phổ biến hơn cả. Địa hạt tôn giáo ở Quảng Ngãi được thể hiện ở nhiều đình, chùa, miếu mạo, nhà thờ... song số địa danh phản ánh tôn giáo không đáng kể bởi phần nhiều biến mất do bị chiến tranh tàn phá và phần lớn các hiệu danh này đã chuyển hóa thành địa danh chỉ công trình xây dựng và địa danh hành chính như chợ Chùa (TN) à thị trấn Chợ Chùa (TN), thôn Xóm Đình (ST)... 4.2.4.2. Phản ánh sự giao lưu văn hóa- ngôn ngữ giữa các dân tộc trong địa bàn tỉnh Quảng Ngãi Như ở các phần trên đã đề cập, vùng đất Quảng Ngãi được hình thành từ rất xa xưa, đầu tiên là địa hạt của vương quốc Chămpa, sau trở thành lãnh thổ của vương triều phong kiến Đại Việt. Chính quá trình thay đổi nhà cầm quyền ấy đã làm thành phần dân tộc trong địa bàn tỉnh trở nên đa dạng hơn bởi những lần di dân khai khẩn đất hoang. Tuy những địa danh vay mượn từ ngôn ngữ các dân tộc khác không nhiều nhưng giá trị phản ánh của chúng không phải là không đáng kể. Các địa danh như dấu tích thành cổ Châu Sa nay thuộc huyện Sơn Tịnh phản ánh những nét văn hóa Chăm ; phố Thu Xà xưa nay là địa phận xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa còn lưu giữ nhiều dấu ấn văn hóa của người Hoa ; những nét văn hóa- ngôn ngữ đặc sắc của các tộc người sinh sống trong vùng như Cor, Hre, Ca Dong... hòa quyện vào nhau tạo nên một bức tranh văn hóa đa cung bậc và khá đặc sắc. Bộ phận địa danh phản ánh sự giao lưu văn hóa- ngôn ngữ giữa các dân tộc trong vùng chủ yếu tập trung ở kiểu địa danh hỗn hợp. Đó là những địa danh được tạo bởi ít nhất một thành tố thuần Việt kết hợp với một thành tố Hán Việt hoặc thành tố thuộc ngôn ngữ khác đã được Việt hóa, cũng như các thành tố thuộc các ngôn ngữ khác đã được Việt hóa kết hợp với nhau. Chúng có thể được cấu tạo theo những loại sau : - Thuần Việt + Hán Việt : núi Quýt Lâm (MĐ), kênh Ông Cát (ST), vùng Cửa Đông, vùng Cửa Tây, vùng Cửa Bắc (QN), sông Bàu Giang (QN), vùng Giếng Vương (BS), núi Đá Sơn (TN)... - Hán Việt + thuần Việt : núi Long Đầu (ST)... - Chăm + Hán Việt : huyện Trà Bồng, suối Trà Cân (TB), sông Trà Câu (ĐP), xã Trà Tân (TB), sông Trà Ích (TT)... - Ca Dong + thuần Việt : thôn Huy Em (S Tây), thôn Mang Rễ (S Tây)... Kiểu địa danh này trong hệ thống địa danh Quảng Ngãi không nhiều nhưng nhìn chung vẫn đảm bảo được giá trị phản ánh mối quan hệ giao lưu, tiếp biến văn hóa và ngôn ngữ giữa các tộc người trong tỉnh. 4.2.4.3. Phản ánh truyền thống hiếu học của người Quảng Ngãi Không chỉ được biết đến là nơi sơn thủy hữu tình, nhiều cảnh trí thiên nhiên tươi đẹp, Quảng Ngãi còn được mến mộ bởi là vùng đất đã sản sinh ra những con người cần mẫn, siêng năng cả trong lao động lẫn trong học hành. Truyền thống hiếu học của người Quảng Ngãi đã được khẳng định từ vài trăm năm trước khi khoa bảng triều Nguyễn nhiều lần xướng tên các bậc tiến sĩ, tú tài, cử nhân... từ miền quê Ấn- Trà ra kinh đô dự thi và đỗ đạt cao. Sự thành tài của các sĩ tử được người thời ấy lưu truyền trong câu ca rằng : Tiếc công Bình Định xây thành Để cho Quảng Ngãi vô giành thủ khoa (Từ khoa thi Nhâm tý 1852 trở về sau, sĩ tử Quảng Ngãi thi tại trường thi Bình Định thay cho trường Thừa Thiên) Theo tác giả Cao Chư trong công trình Các nhà khoa bảng Nho học Quảng Ngãi 1819- 1918, trong một trăm năm ấy triều đình tổ chức 42 khoa thi hương với 139 người Quảng Ngãi đỗ cử nhân (so với 5.232 người cả nước). Con số này tuy còn hạn chế song vẫn phản ánh được truyền thống hiếu học của người Quảng Ngãi không thua kém những địa phương khác trong nước. Trong đó, dòng họ có số người thi đỗ nhiều nhất có lẽ là họ Trương gốc Mỹ Khê (nay thuộc xã Tịnh Khê, ST) với 6 người đỗ cử nhân trở lên : Trương Đăng Quế, Trương Đăng Trinh, Trương Quang Phùng, Trương Quang Kỳ, Trương Đăng Tuyển, Trương Quang Quỳ ; gia đình có nhiều người thi đỗ như gia đình có ba cha con đều thi đỗ cử nhân là Lê Trung Lượng (cha), Lê Trung Đình (con) và Lê Trung Kinh (con) ; gia đình có ba thế hệ liên tiếp đỗ cử nhân trở lên là Tạ Tuyên (ông), Tạ Tương (cha- tiến sĩ) và Tạ Hàm (con- giải nguyên)... Trong quá trình khảo sát địa danh Quảng Ngãi, chúng tôi nhận thấy rằng, một bộ phận địa danh nơi đây mang giá trị phản ánh tinh thần hiếu học của người Quảng Ngãi thể hiện qua các địa danh chỉ đường mang tên các nhà khoa bảng thời kì trước. Kiểu địa danh này chủ yếu tập trung ở tuyến đường đô thị, nằm trong cách thức định danh địa danh theo người nổi tiếng ở địa phương. Ví dụ đường Lê Trung Đình (QN, đỗ cử nhân khoa Giáp Thân 1884), đường Nguyễn Thụy (QN, đỗ cử nhân khoa Quý Mão 1903), đường Lê Đình Cẩn (QN, đỗ cử nhân khoa Quý Mão 1903), đường Nguyễn Tự Tân (QN, đỗ tú tài khoa Mậu Thìn 1868), đường Lê Ngung (QN, đỗ tú tài khoa Đinh Dậu 1897), đường Trần Toại (BT, đỗ tú tài khoa Mậu Ngọ 1918)... 4.2.5. Phản ánh ngôn ngữ Về bản chất, địa danh được cấu tạo từ những chất liệu của ngôn ngữ nên tất yếu, địa danh phải chịu sự tác động của những nguyên tắc, quy luật của ngôn ngữ học. Do đó, địa danh ngoài giá trị phản ánh về mặt lịch sử, kinh tế, văn hóa xã hội thì còn có giá trị phản ánh ngôn ngữ. Địa danh Quảng Ngãi còn lưu giữ lại vài từ cổ, lớp từ chỉ đối tượng trong quá khứ, ngày nay không còn tồn tại tiếng Việt hiện đại hoặc không có từ thay thế hoặc đã được sử dụng bằng những từ mới. Ví dụ : · Nghè : từ lịch sử, dùng trong dân gian để gọi người đỗ tiến sĩ thời phong kiến : cấm Ông Nghè (TN)... · Huyện : chức quan thời xưa, đứng đầu một huyện lớn : núi Quan Huyện (MĐ)... · Hội đồng : người có chức sắc và nhiều ruộng đất hồi xưa : cầu Hội đồng Canh (ĐP)... Địa danh Quảng Ngãi còn lưu giữ những danh từ chung là từ địa phương hay từ có ý nghĩa hẹp (chỉ xuất hiện ở phạm vi giao tiếp hẹp). Kiểu địa danh này tập trung ở loại địa hình chỉ điều kiện thiên nhiên như : · Cấm : vùng đất cấm không cho chặt cây, không cho hoặc hạn chế người qua lại, sau trở thành danh từ chung chỉ một loại địa danh vùng. Ví dụ : cấm Ông Nghè (TN), cấm Bầm Buông (TN, bầm buông là từ tượng thanh, mô phỏng tiếng trống, tiếng chuông vì ở đây có những tảng đá lớn, khi gõ vào nghe như tiếng vang của trống, chuông), cấm Ông Thi (NH)... · Truông : vùng đất hoang, rộng, có nhiều cây cỏ. Ví dụ : truông Ba Gò (BS- ST)... · Cù lao : từ gốc Mã Lai là pulaw, mượn âm tiếng Việt « cù lao » (chỉ công lao khó nhọc của cha mẹ nuôi con) tức là đảo nhỏ. Ví dụ : cù lao Bờ Bãi (LS), cù lao Ré (đảo Lý Sơn, QN)... Ngoài ra, địa danh Quảng Ngãi còn phản ánh ngôn ngữ các dân tộc di cư đến hoặc các dân tộc là người bản địa sinh sống lâu đời ở tỉnh. Ví dụ : yếu tố Chăm trong các địa danh sông Trà Bồng (TB), sông Trà Câu (ĐP)... ; tiếng Ca Dong trong các địa danh thôn Huy Em (S Tây, Huy tiếng Ca Dong có nghĩa là bạn bè), sông Huy Măng (S Tây), thôn Mang Tu La, thôn Mang Ta Bể (Mang Ta Bể có nghĩa là bãi bằng ở ngã ba), thôn Mang Rễ, thôn Mang Trẫy (S Tây, Mang tiếng Ca Dong có nghĩa là bãi bằng)... MỤC LỤC DẪN NHẬP............................................................................................................. 3 1. Lí do chọn đề tài................................................................................................... 3 2. Lịch sử vấn đề....................................................................................................... 5 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu........................................................................ 7 4. Mục đích nghiên cứu............................................................................................. 7 5. Phương pháp nghiên cứu...................................................................................... 7 6. Kết cấu của đề tài.................................................................................................. 8 CHƯƠNG I. NHỮNG TIỀN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN......................... 9 1.1. Những tiền đề lí luận.......................................................................................... 9 1.2. Những tiền đề thực tiễn.................................................................................... 14 TIỂU KẾT............................................................................................................... 25 CHƯƠNG II. ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO ĐỊA DANH QUẢNG NGÃI............... 26 2.1. Phương thức định danh.................................................................................... 26 2.1.1 Phương thức tự tạo................................................................................... 26 2.1.2 Phương thức chuyển hóa.......................................................................... 34 2.2. Đặc điểm cấu tạo dịa danh Quảng Ngãi........................................................... 39 2.2.1. Cấu tạo địa danh Quảng Ngãi.................................................................. 39 2.2.2. Vấn đề danh từ chung và thành tố chung trong địa danh Quảng Ngãi... 42 TIỂU KẾT............................................................................................................... 46 CHƯƠNG III. Đặc điểm về mặt chuyển biến của địa danh Quảng Ngãi......... 48 3.1. Nguyên nhân tồn tại hay mất đi của một địa danh........................................... 48 3.1.1. Nhóm nguyên nhân xã hội....................................................................... 48 3.1.2. Nhóm nguyên nhân ngôn ngữ.................................................................. 52 3.2. Đặc điểm chuyển biến của các loại địa danh..................................................... 53 TIỂU KẾT............................................................................................................... 71 CHƯƠNG IV. Đặc điểm về nguồn gốc- ý nghĩa và giá trị phản ánh hiện thực 72 4.1. Nguồn gốc- ý nghĩa của một số địa danh Quảng Ngãi..................................... 72 4.2. Giá trị phản ánh hiện thực của địa danh Quảng Ngãi....................................... 76 TIỂU KẾT............................................................................................................... 90 KẾT LUẬN............................................................................................................ 91

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdflv_ngon_ngu_hoc_9__0402.pdf