Đề tà Hồ sơ ngành hàng hạt điều

Tình hình sản xuất ngành hàng trong nước và trên thế giới: 1.1. Lịch sử phát triển của ngành hàng Cây điều bắt đầu được biết đến như một loại cây trồng có giá trị kinh tế ở nước ta mới chỉ trong vòng 20 năm nay. Ðặc biệt, trong sáu năm qua kể từ khi có Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về đề án phát triển điều đến năm 2010, ngành sản xuất điều đã phát triển mạnh mẽ cả về diện tích, năng suất, sản lượng điều thô, nhân điều và kim ngạch xuất khẩu. Cây điều được trồng ở Việt Nam từ thế kỷ 18, nhưng việc khai thác tiềm năng kinh tế của cây điều ở Việt Nam thực sự khởi đầu từ thập niên 80, người dân được khuyến khích trồng điều lấy hạt xuất khẩu. Năm 1975 Việt Nam mới có 500 ha điều (nghiên cứu ứng dụng cho ngành lâm nghiệp), năm 1995 có 190.300 ha và năm 2005 đã đạt 433.000 ha (tăng hơn 800 lần so với năm 1975); năng suất đạt 1,06 tấn/ha (tăng hai lần so với giai đoạn 1995-2000); sản lượng hạt điều đạt 350.000 tấn. Năm 1988, Việt Nam xuất ra thị trường thế giới 33 tấn nhân điều. Ðến năm 2005 nước ta đã có hơn 200 nhà máy chế biến với tổng công suất khoảng 600.000 tấn hạt điều nguyên liệu/năm, xuất khẩu được 110.000 tấn nhân điều thô, giá trị kim ngạch là 500 triệu USD, đứng hàng thứ hai trên thế giới về nhân điều thô xuất khẩu. 1.2. Đặc điểm sinh thái, sinh sản của cây điều Cây điều dễ trồng, vốn đầu tư thấp, tính chịu hạn cao vừa có giá trị thực phẩm, vừa sản xuất được dầu điều, phục vụ cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Phát triển diện tích điều ở những vùng có điều kiện, kết hợp cải tạo, thâm canh vườn điều hiện có với trồng mới, giải quyết việc làm. Ðó là những hướng rất phù hợp điều kiện phát triển của nước ta. Cây điều trồng được ở bốn vùng sinh thái nông nghiệp: Ðông Nam Bộ, Tây Nguyên, duyên hải Trung Bộ và đồng bằng sông Cửu Long; trong đó riêng diện tích điều ở Ðông Nam Bộ chiếm 70% diện tích điều toàn quốc. Cây điều trồng được trên ba nhóm đất chính là: đất đỏ vàng (76%), đất xám (20%) và đất cát biển (4%). Từ sau năm 1999, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã cho phép trồng khu vực hóa mười giống điều như PN1, LG1, MH4/5, MH5/4 v.v. được nhân giống bằng phương pháp ghép, cho năng suất 2-3 tấn/ha ở nhiều tỉnh của Ðông Nam Bộ. Hàng chục giống điều mới khác có năng suất, chất lượng cao hơn so với giống điều nêu trên được tuyển chọn mới từ trong nước hoặc nhập nội được chuẩn bị đưa ra sản xuất. Với chiều hướng phát triển như vậy, năng suất vườn điều Việt Nam có điều kiện vươn lên đứng hàng đầu thế giới. Cùng với việc giới thiệu các giống điều mới, các nhà khoa học đã đưa ra ba quy trình: Nhân giống điều, thâm canh điều và cải tạo các vườn điều cũ. Các biện pháp kỹ thuật bón phân hữu cơ và vô cơ, phòng trừ sâu bệnh hại điều, tỉa cành tạo tán, làm cỏ v.v. đã được nhiều nông dân áp dụng có kết quả, góp phần quyết định tăng năng suất, chất lượng vườn điều ở nước ta, nhất là ở các tỉnh: Bình Phước, Bà Rịa-Vũng Tàu, Ðồng Nai. 1.3. Các sản phẩm chính của ngành hàng hoặc là nguyên liệu thô cho những sản phẩm nào Sản phẩm chính của ngành hàng là nhân điều, tức là nhân hạt, được tách từ hạt điều thô (quả). Nhân hạt điều qua chế biến đã được rang chín, có mùi vị thơm ngon rất đặc trưng, dùng để ăn như là một dạng hạt (tương tự như hạt dẻ, các loại hạt khác ở các nước phương Tây) hoặc làm các loại bánh kẹo. Sản phẩm thứ hai của ngành hàng là dầu hạt điều. Đây là dầu trích ra từ vỏ hạt điều (sau khi tách nhân), có giá trị sử dụng công nghiệp rất cao như dùng chế biến sơn công nghiệp. Hiện nay, nước ta đã có mười cơ sở chế biến dầu điều từ vỏ hạt điều với sản lượng dao động từ 12.000 - 15.000 tấn/năm. Giá xuất khẩu đạt 425 – 450 USD/tấn. Sản lượng dầu ước tính nếu chế biến toàn bộ hơn 310 ngàn tấn vỏ hạt là 46,4 ngàn tấn. Như vậy, lượng vỏ hạt điều đưa vào chế biến dầu chỉ khoảng 100 ngàn tấn, 29% lượng vỏ hạt có được. Lượng còn lại chủ yếu các cơ sở chế biến dùng làm chất đốt, vừa gây ô nhiễm vừa lãng phí nguồn nguyên liệu quý giá này. 1.4. Tình hình diện tích, năng suất và sản lượng của ngành hàng trong nước theo chuỗi thời gian hàng năm (có thể từ 1996 đến 2005) Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, diện tích trồng điều ở Việt Nam tăng từ 70 ngàn ha vào năm 1990 lên đến 327,8 ngàn ha năm 2005, tức là tăng 4,68 lần trong vòng 15 năm (bảng 1). Nhưng theo báo cáo rà soát quy hoạch ngành điều của Viện Quy hoạch Thiết kế nông nghiệp, diện tích thực sự năm 2005 lên đến 433.546 ha. Tuy nhiên, hiện nay chưa thống kê được diện tích đang cho thu hoạch.

doc28 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2637 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tà Hồ sơ ngành hàng hạt điều, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HỒ SƠ NGÀNH HÀNG HẠT ĐIỀU Nhóm chuyên gia ngành hàng 1. Tình hình sản xuất ngành hàng trong nước và trên thế giới: 1.1. Lịch sử phát triển của ngành hàng Cây điều bắt đầu được biết đến như một loại cây trồng có giá trị kinh tế ở nước ta mới chỉ trong vòng 20 năm nay. Ðặc biệt, trong sáu năm qua kể từ khi có Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về đề án phát triển điều đến năm 2010, ngành sản xuất điều đã phát triển mạnh mẽ cả về diện tích, năng suất, sản lượng điều thô, nhân điều và kim ngạch xuất khẩu. Cây điều được trồng ở Việt Nam từ thế kỷ 18, nhưng việc khai thác tiềm năng kinh tế của cây điều ở Việt Nam thực sự khởi đầu từ thập niên 80, người dân được khuyến khích trồng điều lấy hạt xuất khẩu. Năm 1975 Việt Nam mới có 500 ha điều (nghiên cứu ứng dụng cho ngành lâm nghiệp), năm 1995 có 190.300 ha và năm 2005 đã đạt 433.000 ha (tăng hơn 800 lần so với năm 1975); năng suất đạt 1,06 tấn/ha (tăng hai lần so với giai đoạn 1995-2000); sản lượng hạt điều đạt 350.000 tấn. Năm 1988, Việt Nam xuất ra thị trường thế giới 33 tấn nhân điều. Ðến năm 2005 nước ta đã có hơn 200 nhà máy chế biến với tổng công suất khoảng 600.000 tấn hạt điều nguyên liệu/năm, xuất khẩu được 110.000 tấn nhân điều thô, giá trị kim ngạch là 500 triệu USD, đứng hàng thứ hai trên thế giới về nhân điều thô xuất khẩu. 1.2. Đặc điểm sinh thái, sinh sản của cây điều Cây điều dễ trồng, vốn đầu tư thấp, tính chịu hạn cao vừa có giá trị thực phẩm, vừa sản xuất được dầu điều, phục vụ cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Phát triển diện tích điều ở những vùng có điều kiện, kết hợp cải tạo, thâm canh vườn điều hiện có với trồng mới, giải quyết việc làm. Ðó là những hướng rất phù hợp điều kiện phát triển của nước ta. Cây điều trồng được ở bốn vùng sinh thái nông nghiệp: Ðông Nam Bộ, Tây Nguyên, duyên hải Trung Bộ và đồng bằng sông Cửu Long; trong đó riêng diện tích điều ở Ðông Nam Bộ chiếm 70% diện tích điều toàn quốc. Cây điều trồng được trên ba nhóm đất chính là: đất đỏ vàng (76%), đất xám (20%) và đất cát biển (4%). Từ sau năm 1999, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã cho phép trồng khu vực hóa mười giống điều như PN1, LG1, MH4/5, MH5/4 v.v. được nhân giống bằng phương pháp ghép, cho năng suất 2-3 tấn/ha ở nhiều tỉnh của Ðông Nam Bộ. Hàng chục giống điều mới khác có năng suất, chất lượng cao hơn so với giống điều nêu trên được tuyển chọn mới từ trong nước hoặc nhập nội được chuẩn bị đưa ra sản xuất. Với chiều hướng phát triển như vậy, năng suất vườn điều Việt Nam có điều kiện vươn lên đứng hàng đầu thế giới. Cùng với việc giới thiệu các giống điều mới, các nhà khoa học đã đưa ra ba quy trình: Nhân giống điều, thâm canh điều và cải tạo các vườn điều cũ. Các biện pháp kỹ thuật bón phân hữu cơ và vô cơ, phòng trừ sâu bệnh hại điều, tỉa cành tạo tán, làm cỏ v.v. đã được nhiều nông dân áp dụng có kết quả, góp phần quyết định tăng năng suất, chất lượng vườn điều ở nước ta, nhất là ở các tỉnh: Bình Phước, Bà Rịa-Vũng Tàu, Ðồng Nai. 1.3. Các sản phẩm chính của ngành hàng hoặc là nguyên liệu thô cho những sản phẩm nào Sản phẩm chính của ngành hàng là nhân điều, tức là nhân hạt, được tách từ hạt điều thô (quả). Nhân hạt điều qua chế biến đã được rang chín, có mùi vị thơm ngon rất đặc trưng, dùng để ăn như là một dạng hạt (tương tự như hạt dẻ, các loại hạt khác ở các nước phương Tây) hoặc làm các loại bánh kẹo. Sản phẩm thứ hai của ngành hàng là dầu hạt điều. Đây là dầu trích ra từ vỏ hạt điều (sau khi tách nhân), có giá trị sử dụng công nghiệp rất cao như dùng chế biến sơn công nghiệp. Hiện nay, nước ta đã có mười cơ sở chế biến dầu điều từ vỏ hạt điều với sản lượng dao động từ 12.000 - 15.000 tấn/năm. Giá xuất khẩu đạt 425 – 450 USD/tấn. Sản lượng dầu ước tính nếu chế biến toàn bộ hơn 310 ngàn tấn vỏ hạt là 46,4 ngàn tấn. Như vậy, lượng vỏ hạt điều đưa vào chế biến dầu chỉ khoảng 100 ngàn tấn, 29% lượng vỏ hạt có được. Lượng còn lại chủ yếu các cơ sở chế biến dùng làm chất đốt, vừa gây ô nhiễm vừa lãng phí nguồn nguyên liệu quý giá này. 1.4. Tình hình diện tích, năng suất và sản lượng của ngành hàng trong nước theo chuỗi thời gian hàng năm (có thể từ 1996 đến 2005) Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, diện tích trồng điều ở Việt Nam tăng từ 70 ngàn ha vào năm 1990 lên đến 327,8 ngàn ha năm 2005, tức là tăng 4,68 lần trong vòng 15 năm (bảng 1). Nhưng theo báo cáo rà soát quy hoạch ngành điều của Viện Quy hoạch Thiết kế nông nghiệp, diện tích thực sự năm 2005 lên đến 433.546 ha. Tuy nhiên, hiện nay chưa thống kê được diện tích đang cho thu hoạch. Bảng 1. Diện tích, sản lượng và xuất khẩu điều Việt Nam Năm Diện tích (ha) Sản lượng (tấn) Xuất khẩu (tấn) loại sản phẩm Trị giá (triệu USD) Ghi chú 1975 500 1990 70.000 28.000 27.000 hạt 14,00 Xuất khẩu nhân điều: 286 tấn 1991 75.000 31.000 30.000 hạt 23,00 Xuất khẩu nhân điều: 360 tấn 1992 78.973 32.004 51.700 hạt 46,53 Xuất khẩu nhân điều: 1.400 tấn 1993 122.530 69.089 47.700 hạt 49,00 Xuất khẩu nhân điều: 6.000 tấn 1994 172.740 87.957 49.500 hạt 75,00 Xuất khẩu nhân điều: 9.526 tấn 1995 187.553 92.512 18.257 nhân 90,00 1996 194.900 59.200 23.791 nhân 110,00 1997 202.500 70.100 33.300 nhân 133,33 1998 191.800 54.000 25.200 nhân 116,95 nhập khẩu: 10.000 tấn hạt 1999 189.102 55.028 18.390 nhân 109,75 nhập khẩu: 20.000 tấn hạt 2000 195.576 67.599 34.200 nhân 167,32 nhập khẩu: 35.000 tấn hạt 2001 198.914 70.006 43.709 nhân 151,75 nhập khẩu: 50.000 tấn hạt 2002 240.300 128.800 62.207 nhân 209,00 nhập khẩu: 50.000 tấn hạt 2003 257.900 159.300 83.399 nhân 284,50 nhập khẩu: 60.000 tấn hạt 2004 282.113 206.407 105.051 nhân 435,89 nhập khẩu: 75.000 tấn hạt 2005 327.800 232.000 108.790 nhân 501,51 nhập khẩu: 110.000 tấn hạt Nguồn: Tổng cục Thống kê 1.5. Tình hình diện tích, năng xuất và sản lượng ngành hàng tại một số quốc gia chính sản xuất ngành hàng trên thế giới theo chuỗi thời gian Sản lượng hạt điều thế giới mấy năm qua liên tục tăng, phản ánh xu hướng sản lượng của châu Phi và Việt Nam, mà nguyên nhân chính là tăng diện tích trồng điều. Theo số liệu của FAO, diện tích điều cho thu hoạch năm 2004 của 20 nước có diện tích điều lớn nhất vào khoảng 3,1 triệu ha so với 2,1 triệu ha trong năm 1993 (bảng 2 và hình 1). Trong đó, năm nước có diện tích điều đang thu hoạch lớn nhất là Ấn Độ (730 ngàn ha, 23,8%); Brazil (691 ngàn ha, 22,5%); Nigeria (324 ngàn ha, 10,6%; Việt Nam (282 ngàn ha, 9,2%) và Indonesia (260 ngàn ha, 8,5%). Trong vòng 10 năm qua, sản lượng điều thế giới tăng gấp hơn 2 lần, đạt gần 2 triệu tấn. Trong đó, hai nước có sản lượng lớn nhất là Ấn Độ và Việt Nam. Theo số liệu của FAO, năng suất điều trên thế giới khá thấp. Hầu hết các nước trồng điều đạt dưới 1 tấn/ha. Điều này cũng phản ảnh thực tế là cây điều vốn chưa được coi là cây trồng có tiềm năng kinh tế cao và được thâm canh. Nhiều nước vẫn trồng điều phân tán với mục đích phủ xanh đất trống đồi trọc, có nghĩa là đóng vai trò như cây lâm nghiệp là chính. Ở Việt Nam ta trước đây, quan niệm này cũng rất phổ biến. Nông dân trồng điều hoàn toàn không chăm sóc, bón phân, tưới nước. Chỉ từ các năm 90 trở lại đây, khi sản phẩm hạt điều xuất khẩu được và trở nên có giá trị cao thì cây điều mới được coi là cây trồng nông nghiệp, có vai trò, vị trí tương tự như cây cà phê, cao su. Mặc dù vậy, năng suất điều ở một số nước lại khá cao. Thống kê của FAO năm 2004 (bảng 3) cho thấy có 6/20 nước được thống kê có năng suất điều từ 1 tấn/ha trở lên. Đặc biệt, năng suất điều của Kenya rất cao, đạt 5 tấn/ha. Ở những năm trước nữa, năng suất điều của Kenya đạt đến hơn 6 tấn/ha (?). Riêng Việt Nam, FAO thống kê năng suất bình quân ở mức 2,92 tấn/ha năm 2004. Tuy nhiên, số liệu của Viện Quy hoạch Thiết kế nông nghiệp là 1,06 tấn/ha. Mặc dù chưa có những căn cứ xác đáng để tính năng suất chính xác, nhất là diện tích điều đang cho thu hoạch, nhưng ở một số vùng trồng điều của Việt Nam, đã có hộ nông dân đạt năng suất trên dưới 4 tấn hạt/ha. Bảng 2. Diện tích điều đang thu hoạch ở các nước trồng điều chủ yếu trên thế giới Đơn vị: nghìn ha Stt Nước 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 1 Benin 130 165 165 180 185 185 185 185 185 2 Brazil 547,72 582,21 621,42 612,74 651,17 638,56 665,01 682,5 691,06 3 Burkina Faso 6,5 7 9 9 9 9 9 9 9 4 Côte d'Ivoire 70 70 95 95 120 120 110 128 125 5 El Salvador 5,32 3,5 3,5 3,5 3,5 3,6 3,6 3,6 3,6 6 Ghana 3 13 13 13 13 13 13 13 13 7 Guinea-Bissau 105 150 160 190 210 210 212 212 212 8 India 635 659 675 706 686 720 740 730 730 9 Indonesia 229,79 234,15 236,87 250 260 260 260 260 260 10 Kenya 1,6 1,4 2,3 2 2 2 2 2 2 11 Madagascar 16 16,5 16 16,5 16 16 16 16 16 12 Malaysia 7 7 7 7 7 7 7 7 7 13 Mozambique 75 60 65 66 50 50 50 50 50 14 Nigeria 175 243 243,2 278 291 291 321 321 324 15 Philippines 7 18 15 17 17 17 17 17 17 16 Senegal 9,5 9,5 25 55 25 15 16 16 16 17 Sri Lanka 20,81 21,14 20,64 21,2 23,06 23,58 23,75 22,39 22,64 18 Tanzania 65 60 80 85,43 90 90 80 80 80 19 Thailand 20 20 21 22 22 22 23 23 24 20 Viet Nam 194,9 202,5 191,8 143,7 195,6 199,2 240,2 261,5 282,3 Nguồn: FAO Stat, 1990-2004 Bảng 3. Năng suất điều (hạt thô) ở các nước trồng điều chính trên thế giới Đơn vị: tấn/ha Nước 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 Benin 0,15 0,15 0,15 0,17 0,22 0,22 0,22 0,22 0,22 Brazil 0,31 0,22 0,09 0,24 0,21 0,19 0,25 0,27 0,26 Burkina Faso 0,38 0,36 0,28 0,39 0,39 0,39 0,39 0,39 0,39 Côte d'Ivoire 0,45 0,52 0,41 0,43 0,65 0,67 0,63 0,66 0,72 El Salvador 0,72 0,75 0,75 0,72 0,72 0,72 0,72 0,72 0,72 Ghana 0,5 0,58 0,58 0,58 0,58 0,58 0,58 0,58 0,58 Guinea-Bissau 0,37 0,39 0,4 0,39 0,35 0,4 0,38 0,38 0,38 India 0,66 0,65 0,53 0,65 0,76 0,63 0,62 0,64 0,63 Indonesia 0,29 0,31 0,37 0,36 0,32 0,35 0,45 0,46 0,46 Kenya 6,25 6,25 6,32 6,13 6,25 6,25 5,02 5 5 Madagascar 0,41 0,42 0,41 0,42 0,41 0,41 0,41 0,41 0,41 Malaysia 1,86 1,86 1,86 1,86 1,86 1,86 1,86 1,86 1,86 Mozambique 0,89 0,72 0,8 0,89 1,16 1,16 1,16 1,16 1,16 Nigeria 0,63 0,51 0,63 0,63 0,63 0,64 0,58 0,65 0,66 Philippines 0,43 0,44 0,4 0,41 0,41 0,41 0,41 0,41 0,41 Senegal 0,26 0,26 0,28 0,27 0,28 0,27 0,28 0,28 0,28 Sri Lanka 0,26 0,23 0,34 0,25 0,2 0,23 0,22 0,25 0,27 Tanzania 1,26 1,09 1,17 1,25 1,35 1,35 1,25 1,25 1,25 Thailand 1 1 1 1 1 1 1 1 1 Viet Nam 1,21 1,32 1,13 1,15 1,38 1,47 2,14 2,51 2,92 Nguồn: FAO Stat, 1990-200 1.6. Chi phí sản xuất trên một đơn vị sản phẩm (trong nước và một số nước khác trên thế giới) thay đổi theo chuỗi thời gian hằng năm, có thể từ 1996 đến 2005 Theo số liệu nghiên cứu của Viện Quy hoạch Thiết kế nông nghiệp (2006) và kế thừa số liệu của đề tài KC.06.04.NN (2005) do Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam thực hiện, chi phí sản xuất qua từng các công đoạn của ngành hàng điều như sau: Bảng 4. Phân tích chi phí - lợi nhuận của các công đoạn sản xuất – thu mua – chế biến và xuất khẩu điều (tính bình quân 1 tấn hạt điều) Đơn vị: nghìn VNĐ Hạng mục Năm 2004 Năm 2005 Công đoạn sản xuất ở nông hộ Tổng chi phí sản xuất bình quân 4.122,50 3.578,50 Giá trị sản lượng bình quân 7.880,00 10.000,00 Lãi bình quân 3.757,50 6.421,50 Công đoạn thu mua (thương lái, đại lý) Thương lái mua gom Tổng chi phí, trong đó: 8.316,20 10.498,00 - Mua của nông hộ 7.880,00 10.000,00 - Chi phí khác 436,20 498,00 Giá trị bán ra (cho đại lý) 8.660,00 11.049,00 Lãi bình quân 343,80 551,00 Đại lý thu mua hạt điều Tổng chi phí, trong đó: 9.191,18 11.631,00 - Mua của thương lái 8.660,00 11.049,00 - Chi phí khác 531,18 582,00 Giá trị bán ra (cho cơ sở chế biến) 10.060,00 12.600,00 Lãi bình quân 865,80 969,00 Cơ sở chế biến xuất khẩu Tổng chi phí, trong đó: 14.474,41 18.496,50 - Hạt điều 10.060,00 13.696,00 - Lao động 2.447,36 2.691,70 - Chi phí khác + VAT 1.967,05 2.163,80 Tổng giá trị xuất khẩu 15.856,53 16.942,54 Lãi lỗ 1.382,13 -1.551,96 Nguồn: Viện Quy hoạch Thiết kế nông nghiệp (2006) Theo kết quả nghiên cứu mang tính sơ bộ này, chi phí sản xuất, chế biến xuất khẩu điều và phân phối lợi nhuận giữa các tác nhân tham gia ngành hàng điều tương đối hợp lý trong năm 2004, bảo đảm tất cả các bên đều có lợi nhuận. Số liệu năm 2005 lại cho thấy sự bất hợp lý khi các doanh nghiệp phải cạnh tranh thu mua nguyên liệu với giá rất cao, phải chịu lỗ trong công đoạn chế biến - xuất khẩu thì nông dân lại có lợi cao (do giá thu mua cao bất hợp lý). Các thương lái mua gom từ nông dân và đại lý thu mua hạt điều lại có lợi nhuận cao và ổn định. Diễn biến phân phối lợi nhuận nội bộ ngành hàng có lẽ vẫn tiếp diễn theo xu hướng này trong năm 2006 và 2007, khi tình trạng cạnh tranh thu mua nguyên liệu của các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu không giảm (do năng lực chế biến quá chênh lệch với cung nguyên liệu) và giá xuất khẩu chưa được cải thiện. 2. Tình hình thị trường trong nước 2.1. Các kênh marketing của sản phẩm Theo kết quả nghiên cứu của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam (2005), hiện có 5 kênh tiêu thụ sản phẩm hạt điều thô (hình 2). Đại lý kinh doanh nông sản Hộ thu gom Doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu Người trồng điều Thị trường trong và ngoài nước Công ty thương mại các tỉnh, huyện Hình 2. Sơ đồ kênh tiêu thụ điều Kênh tiêu thụ điều hiện nay có 5 kênh chính : Kênh (1): Người trồng điều – Doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu Kênh (2): Người trồng điều - Hộ thu gom - Đại lý kinh doanh nông sản – Doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu Kênh (3): Người trồng điều - Đại lý kinh doanh nông sản – Doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu Kênh (4) Người trồng điều – Hộ thu gom - Công ty thương mại các huyện, tỉnh – Doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu Kênh (5): Người trồng điều - Hộ thu gom – Doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu Trong đó kênh (2) là phổ biến nhất: sản phẩm điều hạt đi từ các tác nhân là người trồng điều, qua hộ thu gom, Đại lý kinh doanh nông sản và Doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu điều. 2.2. Qui mô và nhu cầu của thị trường nội địa đối với ngành hàng Cũng theo đánh giá của Viện Quy hoạch Thiết kế nông nghiệp (2006), thị trường tiêu thụ nhân điều đã qua chế biến trong nước chiếm tỷ lệ nhỏ, từ 1,81% đến 2,2% sản lượng nhân chế chế biến. Số liệu cho biết lượng tiêu thụ cụ thể như sau: Bảng 5: Lượng tiêu thụ điều nội địa (1995-2005) Năm Sản lượng tiêu thụ nội địa (tấn) Tỷ lệ so Tổng sản lượng (%) 1995 600 2,2 2000 700 2,01 2001 800 1,81 2002 1.300 2,05 2004 2.100 1,96 2005 2.075 1,87 Dạng sản phẩm tiêu thụ nội địa chủ yếu là các loại thực phẩm có chứa nhân hạt điều, mà chủ yếu là bánh kẹo (điều rang muối, chao dầu, kẹo, bánh). Ngoài nhân hạt điều, ngành hàng điều còn cung cấp gỗ cây điều, chủ yếu là nhiên liệu (củi đốt) cho các cơ sở sản xuất gạch và gốm sứ. Các địa phương sử dụng nhiều là Bình Thuận, Bình Dương, Đồng Nai. Giá gỗ nhiên liệu vào khoảng 50-70 ngàn đồng/m3. 2.3. Số lượng cơ sở sản xuất chính của ngành hàng Hiện nay chưa có số liệu thống kê chính thức về số lượng các nông hộ, doanh nghiệp tham gia trong chuỗi ngành hàng điều ở Việt Nam. Trên thực tế, hầu hết nông hộ trồng điều có diện tích canh tác từ 1-3 ha. Mặc dù vậy, nông dân thường xen canh hoặc trồng đa canh nhiều loại cây trồng ngắn và dài ngày khác nhau trên đất sản xuất của họ. Nếu ước tính mỗi hộ trồng điều có bình quân 1 ha cho cây điều, số hộ nông dân liên quan sẽ là 433 ngàn hộ, tương ứng với diện tích canh tác là 433 ngàn ha. Số liệu của Viện Quy hoạch Thiết kế nông nghiệp cho biết có 219 cơ sở, nhà máy chế biến hạt điều (năm 2005); với tổng công suất chế biến là 674 ngàn tấn/năm; số người tham gia mua, bán điều nguyên liệu vào khoảng 3.000. Số lao động trong ngành chế biến xuất khẩu vào khoảng 210 ngàn. Cũng theo nguồn thông tin này, ngành điều Việt Nam tạo ra 450 ngàn công ăn việc làm, trong đó nông nghiệp có 135 ngàn; chế biến và xuất khẩu 300 ngàn lao động và dịch vụ cung ứng đầu vào, tiêu thụ sản phẩm có 15 ngàn lao động. 3. Tình hình thị trường quốc tế 3.1. Qui mô thị trường nước ngoài của ngành hàng (sức mua của một số thị trường chính trong vài năm gần đây và/hoặc lượng nhập khẩu của các thị trường này) Hiện nay, Việt Nam đang tiến sát Ấn Độ về sản xuất điều. Sản lượng điều thô Ấn Độ tài khoá 2005/06 đạt 573.000 tấn, so với 544.000 tấn tài khoá 2004/05 và 535.000 tấn tài khoá trước đó. Xuất khẩu nhân điều Ấn Độ năm 2005/06 đạt 114.143 tấn, so với 126.667 tấn năm 2004/05. Trong khi đó, Việt Nam bắt đầu vượt qua mức 100.000 tấn nhân điều xuất khẩu từ năm 2004 và đạt khoảng 109.000 tấn nhân điều xuất khẩu năm 2005. Khác biệt cơ bản là Việt Nam xuất khẩu hầu hết nhân hạt điều sản xuất được trong khi Ấn Độ tự tiêu thụ gần một nửa sản lượng. Chính vì sự gia tăng liên tục của diện tích trồng và sản lượng nhân điều, cạnh tranh gia tăng làm cho giá điều hạt và nhân hạt điều có xu hướng giảm. Đồng thời, diễn biến giá điều trên thị trường thế giới còn phụ thuộc vào sản lượng hàng năm và cạnh tranh từ những loại hạt khác. Đặc trưng của thị trường điều xuất khẩu điều thế giới năm 2006 là gia tăng cạnh tranh trên thị trường đẩy giá mặt hàng này liên tục giảm từ đầu năm. Trong khi nguồn cung nhân hạt điều từ các nước sản xuất đều tăng lên thì nhu cầu liên tục giảm từ đầu năm tới nay, đặc biệt là Mỹ - thị trường tiêu thụ điều lớn nhất thế giới. Giá quả hạnh trên thị trường thế giới giảm, và tiêu thụ những loại hạt khác tăng lên trên những thị trường tiêu thụ lớn cạnh tranh trực tiếp với hạt điều. 3.2. Kim ngạch xuất khẩu ngành hàng của các nước xuất khẩu chính theo chuỗi thời gian hàng năm (có thể từ 1996 đến 2005) Theo ước tính của Bộ Thương mại, năm 2006 ngành điều sẽ xuất khẩu được khoảng 130 ngàn tấn nhân điều các loại và đạt kim ngạch xuất khẩu khoảng 520 triệu USD. Như vậy so với năm 2005 thì xuất khẩu nhân điều tăng trên 20% về lượng nhưng chỉ tăng trên 3% về trị giá. So với kế hoạch xuất khẩu năm 2006 chỉ đạt 87% chỉ tiêu kim ngạch xuất khẩu. Về giá bình quân xuất khẩu năm nay dự kiến sẽ giảm hơn giá bình quân xuất khẩu năm 2005 khoảng 13 – 14%. Theo số liệu thống kê của Bộ Thương mại đến 10/12/2006, toàn ngành đã xuất khẩu được 118.269 tấn nhân hạt điều các loại và đạt kim ngạch 471.222.730 USD. Giá xuất khẩu bình quân là 3.984 USD/tấn. Bảng 6: Thống kê xuất khẩu nhân hạt điều Việt Nam 2000-2006 Năm Số lượng (1.000 tấn) Kim ngạch (triệu USD) Giá xuất khẩu bình quân (USD/tấn) Ghi chú 2000 34,10 167,20 4.903 2001 43,60 151,70 3.479 2002 62,20 209,00 3.360 2003 84,50 286,10 3.386 2004 105,30 437,50 4.155 2005 108,80 501,50 4.609 2006 118,27 471,22 3.984 đến 10/12/2006 Nguồn: số liệu 2000-2005: theo số liệu của Trung tâm Tin học Thống kê, Tổng cục Hải quan, dẫn trong báo cáo của Viện Quy hoạch Thiết kế nông nghiệp; số liệu 2006: theo số liệu thống kê xuất nhập khẩu của Bộ Thương mại, website vinanet.com.vn Về tiến độ xuất khẩu, lượng xuất tương đối ổn định qua từng tháng và kéo dài trong suốt năm. và dao động ở mức 10.000 – 11.000 tấn/tháng. Đến cuối năm 2006, lượng giao dịch mới giảm dần. Theo Hiệp Hội Điều Việt Nam, lượng giao dịch mới trong quý 4/2006 rất ít do các doanh nghiệp chế biến đã hết nguyên liệu và chủ yếu tập trung giao hàng cho những hợp đồng đã ký. Vào cuối quý 4/2006, do đã cạn nguồn điều hạt nguyên liệu, nhiều doanh nghiệp phải nhập nguyên liệu từ các nước khác về để duy trì hoạt động của nhà máy và hoàn tất các hợp đồng xuất khẩu đã ký. Hạt điều thô nhập về chủ yếu qua cảng TP. Hồ Chí Minh với nguồn nhập khẩu là từ Châu Phi và một số lô nhập khẩu từ Indonesia. Theo đánh giá chung của cơ quan giám định thì các lô điều thô nhập khẩu về Việt Nam năm nay đa số chất lượng phù hợp, hợp đồng nhập khẩu ít có tranh chấp xảy ra. 3.3. Thị phần sản lượng ngành hàng do Việt Nam sản xuất so với tổng sản lượng thế giới theo chuỗi thời gian hàng năm (có thể từ 1996 đến 2005) Hạt điều Việt Nam đã xuất sang hơn 30 thị trường; trong đó, xuất sang Mỹ đạt cao nhất. Kế đó là các thị trường Trung Quốc, Hà Lan, Úc, Hà lan, Anh, Canada. Các thị trường Trung Quốc, Hà Lan, Australia đều có tốc độ tăng trưởng cao. Tính đến cuối tháng 11/2006, bốn nước chiếm thị phần cao nhất đối với nhân hạt điều Việt Nam là Mỹ (35%); Trung Quốc (20%); Australia (11%); Hà Lan (10%). Các nước còn lại chiếm khoảng 25% khối lượng xuất khẩu. Nguồn: số liệu xuất khẩu nhân hạt điều 11 tháng đầu năm 2006, Bộ Thương mại Nguồn: số liệu xuất khẩu nhân hạt điều 11 tháng đầu năm 2006, Bộ Thương mại Đánh giá so năm 2005, các thị trường có mức tăng trưởng cao là Mỹ, Italia, Pháp, Australia, Ả rập Xê Út, Hồng Kông, Nauy. Tuy nhiên xuất khẩu sang một số thị trường như Tây Ban Nha, Canada và New Zealand giảm. 4. Dữ liệu về chính sách phát triển ngành hàng 4.1. Các chính sách quốc tế liên quan đến phát triển ngành hàng: các chính sách và thoả thuận chung, chính sách của một số quốc gia sản xuất chính ngành hàng (hỗ trợ nông nghiệp, thuế, quota, kiểm dịch chất lượng…) Hiện nay, các nước trồng điều trên thế giới chưa thành lập được một tổ chức đại diện chung cho ngành trên tầm thế giới. Do đó, các nguồn thông tin về nguồn cung, dự trữ, chất lượng, giá cả, giao nhận hàng, tình hình thương mại gần như rất khó tiếp cận và nắm bắt được một cách chính xác và có hệ thống. Tương tự như vậy, qua các kênh thông tin hiện có, rất khó tìm hiểu được các chính sách về sản xuất, thương mại ngành điều của các nước ngoài Việt Nam. Hiện nay, liên quan đến thương mại ngành điều Việt Nam, đang nổi lên vấn đề tiêu chuẩn chất lượng nhân hạt xuất khẩu. Trước nay, tiêu chuẩn nhân điều vẫn thường được áp dụng cho thị trường châu Âu là tiêu chuẩn do UNECE (United Nations Economics Commission for Europe) ban hành (Tiêu chuẩn UNECE DF-17). Đối với thị trường Mỹ, tiêu chuẩn của Hiệp hội Công nghiệp Thực phẩm Hoa Kỳ AFI (Association of Food Industries, Inc.) được áp dụng theo yêu cầu của cơ quan quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ FDA (Food and Drug Administration). Do nhu cầu của thị trường Hoa Kỳ đối với sản phẩm nhân hạt điều nhập khẩu ngày càng cao, AFI càng quan tâm nhiều hơn đến chất lượng nhân điều nhập khẩu. Do đó, AFI đang công bố dự thảo tiêu chuẩn AFI mới cho nhân điều (tháng 4/2007) để lấy ý kiến. Việc áp dụng tiêu chuẩn mới sẽ bắt buộc các nhà xuất khẩu điều Việt Nam quan tâm nhiều hơn đến công nghệ sau thu hoạch, chế biến, lưu trữ sản phẩm 4.2. Chính sách trong nước liên quan đến phát triển ngành hàng: đầu tư cơ sở hạ tầng, hỗ trợ, chuyển đổi cơ cấu, chính sách thương mại. Kể từ khi nhận thức giá trị của sản phẩm điều và vai trò của ngành điều trong phát triển kinh tế - xả hội ở các vùng nông thôn miền Trung, Tây Nguyên và Nam Bộ, Chính phủ đã phê duyệt Đề án phát triển điều đến năm 2010 theo Quyết định số 120/1999/QĐ-TTg ngày 07 tháng 5 năm 1999. Triển khai Quyết định này, Nhà nước đã áp dụng nhiều chính sách hỗ trợ phát triển ngành điều quốc gia. Cụ thể là: - Quy hoạch sản xuất, hình thành vùng nguyên liệu tập trung phục vụ chế biến xuất khẩu - Thực hiện Dự án Phát triển giống điều, nhằm xây dựng các vườn cây giống tại dòng tại các tỉnh trong vùng dự án - Chi ngân sách hỗ trợ giá cây giống (cây ghép) cho các hộ trồng theo dự án với các đối tượng các hộ ở vùng biên giới, các xã nghèo trồng điều tại các dự án rừng phòng hộ, đồng bào dân tộc thiểu số, hộ nghèo có xác nhận của UBND xã. - Chi hỗ trợ chi phí trồng điều trong các dự án trồng rừng phòng hộ - Đầu tư nghiên cứu khoa học công nghệ và chuyển giao kỹ thuật đối với cây điều. Quyết định số 39/2007/QĐ-BNN, ngày 02 tháng 5 năm 2007 về việc Phê duyệt Quy hoạch phát triển ngành Điều đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. Theo quyết định này, diện tích trồng điều cả nước năm 2010 là 450.000 ha; diện tích thu hoạch: 360.000 ha; năng suất bình quân: 1,4 tấn/ha; vùng cao sản đạt trên 2,0 tấn/ha; sản lượng hạt điều thô: 500.000 tấn. Tổng công suất chế biến vẫn giữ nguyên tổng công suất chế biến như hiện nay là 715.000 tấn hạt thô/năm; số lượng hạt điều thô đưa vào chế biến: 625.000 tấn, trong đó có 125.000 tấn nhập khẩu. Sản lượng nhân điều 140.000 tấn và kim ngạch xuất khẩu: 670 triệu USD. Quy hoạch cũng định hướng đến năm 2020, diện tích trồng điều ổn định khoảng 400.000 ha kim ngạch xuất khẩu khoảng 820 triệu USD. Quyết định này cũng khẳng định phát triển diện tích điều trên những địa bàn có điều kiện, nhất là các vùng đất xám ở Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Duyên hải nam Trung Bộ; tập trung thâm canh và thay thế giống điều cũ bằng giống mới có năng suất, chất lượng cao; đổi mới thiết bị và công nghệ chế biến theo hướng hiện đại hoá, chế biến sâu để nâng cao giá trị và hiệu quả sản xuất. 5. Nhận định chuyên gia và đề xuất 5.1. Kết luận về cung cầu trong nước và quốc tế đã diễn ra và dự đoán cung cầu trong tương lai cả thị trường trong nước và quốc tế Tình hình sản xuất, chế biến hạt điều Nối tiếp năm 2005, một năm thua lỗ kỷ lục của ngành chế biến và xuất khẩu điều Việt Nam, tình hình năm 2006 đã được cải thiện đôi chút, mặc dù còn nhiều khó khăn. Theo đánh giá của Hiệp hội Điều Việt Nam (Vinacas), trong 6 tháng đầu năm, tình hình thu mua, chế biến và xuất khẩu gặp một số khó khăn do mùa vụ tới trễ, mưa sớm, sâu bệnh nhiều, chất lượng hạt kém, tỷ lệ thu hồi nhân thấp, tỷ lệ hạt trắng thấp. Yếu kém chung của các doanh nghiệp là vẫn thu mua tự phát, không áp dụng tiêu chuẩn thu mua chung, chưa xây dựng vùng nguyên liệu, chưa có đại lý thu mua riêng. Tình trạng gian lận thương mại còn phổ biến (trộn bã trái, ngâm ủ hạt, độn tạp chất…) do một số doanh nghiệp tranh mua nguyên liệu, không chú trọng tiêu chuẩn hạt và khuyến cáo áp giá thu mua chung của Vinacas (bình quân 8.000 đồng/kg hạt điều nguyên liệu cho năm 2006). Về chế biến, khó khăn chung của ngành là thiếu lao động, chi phí chế biến tăng khoảng 20% do nhiều loại chi phí đầu vào tăng (nhân công, bao bì, vận chuyển, điện nước, công cụ sản xuất). Ngoài ra, vẫn chưa có các tiến bộ về công nghệ chế biến. Các công đoạn cắt, tách vỏ hạt, bóc vỏ lụa, phân loại vẫn chủ yếu sử dụng lao động thủ công, năng suất thấp. Sản phẩm chính vẫn là nhân hạt điều thô, chưa đa dạng hoá được. Tình hình chung là năng suất thấp, giá thấp, cả nông dân và nhà máy đều không có lãi. Tình hình nổi bật trong quý 4/2006 là Hội thảo Ngành Điều Việt Nam, do Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn tổ chức. Hội thảo đã nghe báo cáo tóm tắt một số nội dung chính rà soát quy hoạch phát triển ngành điều Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. Từ các kết quả nghiên cứu, có thể thấy hạn chế lớn nhất của ngành điều Việt Nam là phát triển quá nóng, thiếu định hướng thị trường, kể cả về diện tích canh tác lẫn năng lực chế biến; gây ảnh hưởng xấu đến lợi nhuận chung và sự phát triển bền vững của ngành. Theo báo cáo của Viện Quy hoạch Thiết kế nông nghiệp, diện tích canh tác điều năm 2005 của Việt Nam là 433.546 ha, phân bố chủ yếu ở Đông Nam Bộ và Tây Nguyên. Diện tích đang cho thu hoạch là 223.918 ha, năng suất bình quân 1,06 tấn/ha, sản lượng điều thô 238.368 tấn (theo số liệu của ngành Thống kê). Các vùng sinh thái được đánh giá là phù hợp cho trồng cây điều là Đông Nam Bộ và Tây Nguyên. Về xây dựng vùng nguyên liệu, một điểm yếu của ngành điều trong các năm qua là chưa xác định đúng vùng nguyên liệu phù hợp về sinh thái ở một số địa phương cụ thể, từ đó gây ra lãng phí đầu tư; giá thành sản xuất cao, hiệu quả kém ở những vùng không phù hợp. Theo kết quả nghiên cứu trên, giá thành hạt điều nguyên liệu tại nông trại biến thiên trong khoảng từ 3.200 đồng đến 5.000 đồng/kg. Ở các vùng sinh thái phù hợp, hoặc điều trồng thâm canh, giá thành thường từ 3.200 – 3.400 đồng/kg so với mức giá bán ổn định trong 6 tháng đầu năm 2006 là khoảng 10.700 đồng/kg. Ở những vùng sinh thái ít phù hợp, năng suất điều hạt thấp, giá thành cao, sản xuất kém hiệu quả. Điểm yếu thứ hai của ngành điều là có sự chênh lệch quá lớn giữa năng lực chế biến và sản lượng thu hoạch. Hiện nay, với 219 cơ sở chế biến, tổng công suất thiết kế của ngành chế biến điều đã đạt 674.200 tấn điều nguyên liệu/năm. Trong khi đó sản lượng trong nước chỉ có trên dưới 350 ngàn tấn (sản lượng điều theo báo cáo của Hiệp hội Điều) và khả năng nhập khẩu chỉ là 100 ngàn tấn/ năm. Điều này có nghĩa sẽ cạnh tranh nguyên liệu giữa các doanh nghiệp, nhà máy sẽ rất khốc liệt trong thời gian tới. Trong thời gian qua, mặc dù Hiệp Hội Điều Việt Nam đã có nhiều cố gắng để thống nhất mua điều nguyên liệu từ nông dân với một mức giá phù hợp, bảo đảm lợi nhuận cho nông dân và ngành chế biến, xuất khẩu, nhưng trên thực tế vẫn tồn tại hiện tượng tranh mua điều nguyên liệu khi vào vụ thu hoạch, đẩy giá điều nguyên liệu lên mức cao bất hợp lý. Với số lượng cơ sở chế biến quá lớn như hiện nay, và đầu tư dư thừa công suất chế biến so khả năng cung nguyên liệu trong nước và nguồn nhập khẩu, chắc chắn ngành điều sẽ khó bình ổn giá điều nguyên liệu, bảo đảm cân bằng lợi ích giữa các thành phần trong ngành hàng điều và nâng cao chất lượng sản phẩm. Có khả năng một số nhà máy chế biến kém hiệu quả sẽ bị đào thải trong cuộc cạnh tranh này. Điểm yếu thứ ba là chi phí chế biến điều đang tăng do giá lao động tăng, không chủ động được nguồn lao động và bị các ngành khác cạnh tranh lao động. Hiệu quả chế biến cũng thấp một phần do thiếu đa dạng hóa sản phẩm và tận dụng các sản phẩm chế biến khác từ vỏ hạt điều. Với mức giá điều hạt nguyên liệu nhập khẩu (790 – 800 USD/tấn), các nhà máy chế biến xuất khẩu sẽ gặp khó khăn vì chi phí chế biến hiện khá cao. Theo số liệu nghiên cứu của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam và Viện Quy hoạch Thiết kế nông nghiệp, chi phí chế biến hạt điều (gồm nhân công và các loại phí khác) đã vào khoảng 1,01 USD/kg nhân hạt điều. Nếu cộng cả chi phí nguyên liệu (giá nhập nguyên liệu 800 USD/tấn hạt thô, tương đương 2,67 USD/kg nhân hạt điều), giá thành tối thiểu đã là 3,68 USD/kg nhân hạt điều. Thông tin điều tra của Viện Quy hoạch Thiết kế Nông nghiệp cho thấy trong năm 2005, giá thành 1kg nhân điều thô của một số cơ sở chế biến khẩu đã là 77,9 ngàn đồng/kg. Trong khi đó, giá xuất khẩu bình quân của các doanh nghiệp cũng chỉ vào khoảng 4 USD/kg nhân hạt điều. Điểm yếu thứ tư là thiếu vốn. Nhiều doanh nghiệp chế biến xuất khẩu điều đang thiếu vốn lưu động. Có khả năng trong mùa vụ thu mua điều năm 2007, nhiều nhà máy sẽ không được ngân hàng đầu tư do đã 2 năm liền sản xuất kinh doanh kém hiệu quả. Cũng theo thông tin Hiệp Hội Điều, có nhiều nhà máy nhỏ đang thiếu nguyên liệu trầm trọng, và đang thua lỗ trong chế biến xuất khẩu do thiếu vốn mua hàng tồn trữ sản xuất ngay từ đầu vụ, lại chưa có điều kiện nhập khẩu hạt điều thô, nên phải phải mua lại điều thô để sản xuất do nguồn trong nước cung cấp. Phần lớn họ đều bị lỗ khi sản xuất các lô hàng này do định mức chế biến rất cao và do chi phí chế biến tăng cao. Về thị trường xuất khẩu Giá cả thu mua nội địa và xuất khẩu Theo số liệu bảng 1, mức giá bình quân năm 2006 thấp hơn giá năm 2005 là 625 USD/tấn. Về giá trị tương đối, chỉ bằng 86,4% giá năm 2005 (giảm 13,6%), nhưng chưa phải là năm có giá xuất khẩu thấp nhất vì năm 2002, 2003, 2004 giá xuất khẩu còn thấp hơn nữa. Diễn biến giá xuất khẩu bình quân theo tháng cho thấy giá năm 2006 tương đối ổn định. Các tháng đầu năm mức giá nhích hơn 4.000 USD/tấn một chút, sau đó giữ ở mức khoảng trên dưới 3.950 USD/tấn. Trên thị trường Việt Nam, giá điều thô cũng giảm mạnh, từ mức 16.000-17.000 đồng/kg đầu năm 2005 xuống chỉ còn 8.000 đồng/kg trong năm 2006 (giá thu mua do Hiệp hội Điều Việt Nam đề xuất). Trên thực tế, các doanh nghiệp đã mua ở mức trên dưới 10.000 đồng/kg trong thời gian vào vụ thu hoạch (quý 1 và quý 2). Từ quý 3 trở đi, giá điều nguyên liệu ổn định ở mức 8.000 đồng/kg. Tình hình hoạt động của Hiệp hội Điều Việt Nam Trong năm 2006, Hiệp hội Điều Việt Nam đã có nhiều hoạt động tích cực nhằm củng cố hệ thống các doanh nghiệp và hoạt động chung của ngành. Các hoạt động quan trọng là xúc tiến thương mại và liên kết với các ngân hàng để bảo đảm nguồn vốn thu mua và dự trữ nguyên liệu cho năm 2007. Trong tháng 10, Hiệp Hội Điều Việt Nam đã cử 25 thành viên đến dự Hội nghị ngành điều do Hiệp hội các ngành công nghiệp thực phẩm (AFI) tổ chức tại Hoa Kỳ từ ngày 8/10. Tham dự hội nghị lần này có mặt hầu hết các nhà thu mau lớn ở Mỹ và đề tài hạt điều VN được hội nghị nhấn mạnh như một chủ đề quan trọng. Một số khách hàng quốc tế lớn còn cho rằng chất lượng hạt điều VN có thể đứng hàng đầu thế giới và nếu giá thu mua các nước bằng nhau thì họ vẫn ưu tiên mua hàng của VN. Lưu ý rằng Hoa Kỳ hiện là thị trường chủ yếu của sản phẩm điều Việt Nam, chiếm khoảng 40 ngàn tấn nhân điều xuất khẩu, tương đương khoảng 40% sản lượng xuất. Các vấn đề được các khách hàng Hoa Kỳ đặt ra chủ yếu là chất lượng, bao gồm tỷ lệ tạp chất, vết sâu bệnh trên bề mặt hạt, độ đồng nhất của sản phẩm về mùi vị và màu sắc, các phương pháp chế biến và bảo quản. Ngoài ra, Hiệp hội cũng có kế hoạch tiếp tục tổ chức xúc tiến thương mại ở các thị trường Mỹ, Ấn Độ, Trung Quốc, Ả Rập, khảo sát thị trường Australia và châu Âu. Vào cuối năm 2006, Hiệp hội đã vận động các ngân hàng lớn ở Việt Nam tạo điều kiện vay vốn phát triển sản xuất – kinh doanh. Bộ Thương mại cũng có động thái ủng hộ, đề nghị khoanh nợ, dãn nợ và tiếp tục cho vay đối với các doanh nghiệp chế biến hạt điều. Có thể đánh giá chung là trong năm 2006, mặc dù có khó khăn nhưng sản lượng xuất khẩu nhân điều Việt Nam vẫn tăng 10% so với năm 2005. Tuy nhiên, về trị giá lại giảm đôi chút do giá xuất khẩu bình quân giảm khoảng 13,6%. Thị phần xuất khẩu chủ yếu vẫn là các thị trường lớn, quan trọng và thị phần tăng khá, đặc biệt là Mỹ và Úc. Về sản xuất, dự báo về El Nino đã gây ra các lo lắng về dự báo sản lượng điều nguyên liệu 2007. Một số thông tin cho rằng mùa vụ sẽ tới sớm khoảng 01 tháng so với niên vụ 2006. Hiện nay các vùng điều lớn đã có tới 50 – 60% số cây ra nụ và bông, số còn lại đang thay lá và đã ra chồi. Dự kiến thời gian thu hoạch sẽ bắt đầu từ sau Tết Nguyên đán. Một số diện tích điều có thể được thu hoạch từ trước Tết. Tuy nhiên, cần phải có kiểm chứng thực tế về tình hình sản xuất, sâu bệnh hại, sản lượng và thời gian thu hoạch ở các vùng nguyên liệu chính để dự báo cho năm 2007 chắc chắn hơn. Theo những thông tin địa phương, một số hộ nông dân do thiếu vốn sản xuất nên đang bán “điều non”, tức là bán sớm với giá 10.000 đồng/kg, tương đương 625 USD/tấn hạt nguyên liệu. Đây là tín hiệu xác định mức giá thị trường mà nông dân cảm thấy đủ bù đắp chi phí sản xuất và tạo lợi nhuận hợp lý cho nông dân. Năm 2007, thuế xuất hạt điều thô là 0%, thời điểm này là 5% và 7,5%. Thuế xuất nhân điều thô sẽ là 25%, thay bằng 40% như hiện nay. Đây là lộ trình miễn giảm thuế do Việt Nam cam kết khi gia nhập WTO. Thông tin này được trích dẫn từ báo cáo của Viện Quy hoạch Thiết kế nông nghiệp, tại Hội thảo ngành điều Việt Nam được tổ chức tại TP. HCM vào ngày 14/11/2006. Đây cũng là một tín hiệu đáng mừng cho ngành chế biến xuất khẩu điều, vì mức thuế xuất khẩu giảm sẽ thúc đẩy kinh doanh, tăng khả năng cạnh tranh của ngành điều Việt Nam. 5.2. Đề xuất các vấn đề cần nghiên cứu sâu hơn về ngành hàng Trong tình hình tăng cung và giá giảm thấp như hiện nay, ngành điều Việt Nam nên tập trung (1) xem xét lại quy hoạch trồng điều, giữ ổn định diện tích canh tác, thậm chí giảm ở những vùng canh tác không hiệu quả ở vùng Duyên hải miền Trung; (2) giúp nông dân các biện pháp kỹ thuật để giữ ổn định năng suất và sản lượng; (3) tiếp tục tìm kiếm, áp dụng công nghệ chế biến ít sử dụng lao động hơn; (4) có những hoạt động nhằm điều phối, thống nhất việc thu mua xuất khẩu điều giữa các doanh nghiệp để đạt được lợi ích chung cao nhất dựa trên các dự báo, thông tin thị trường chính xác, bảo đảm có lợi cho cả nông dân và doanh nghiệp và (4) liên kết với hệ thống ngân hàng để có đủ vốn thu mua và dự trữ nguyên liệu ngay từ đầu vụ tđể nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của toàn ngành. Về nghiên cứu, đề xuất hình thành hệ thống nghiên cứu kinh tế cho ngành điều bên cạnh hệ thống nghiên cứu về nông học. Cần nhấn mạnh vai trò phối hợp giữa Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam, Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn (Cơ sở phía Nam) và Hiệp hội Điều Việt Nam, dưới sự đầu tư và bảo trợ của các Bộ liên quan và các doanh nghiệp. Nên có kế hoạch phối hợp nghiên cứu dài hạn để kịp thời đề xuất xây dựng chính sách phù hợp cho phát triển bền vững của ngành điều Việt Nam. Ở tầm thế giới, xúc tiến tiếp tục để thành lập Hiệp hội Điều thế giới. Một khi làm việc việc này, chắc chắn sẽ có lợi nhiều mặt có ngành điều Việt Nam (thị trường, công nghệ, điều tiết thu mua, chế biến, xuất khẩu và dự trữ. 5.3. Dự đoán những thách thức và cơ hội của ngành hàng Hiện nay, ngành điều Việt Nam đang đứng trước rất nhiều khó khăn thách thức. Chất lượng phát triển của ngành điều thiếu tính bền vững, luôn tiềm ẩn những bất ổn có thể bùng phát bất cứ lúc nào và không thể khắc phục được ngay, đó là: - Tình hình cơ giới hoá, tự động hoá diễn ra chậm chạp, năng suất lao động rất thấp. Nhà nước ít hỗ trợ đầu tư, doanh nghiệp thiếu vốn và thiếu liên kết với hệ thống ngân hàng tín dụng. - Hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp, kể cả ở khu vực nông nghiệp lẫn khu vực chế biến và xuất khẩu. - Nhân điều Việt Nam vẫn được đánh giá có chất lượng hàng đầu thế giới, nhưng việc tổ chức sản xuất và xuất khẩu hiện nay đang có vấn đề khó kiểm soát được chất lượng sản phẩm và vệ sinh - an toàn thực phẩm. - Phần lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngày càng gặp nhiều khó khăn về vốn thu mua và dự trữ nguyên liệu. - Mất cân đối nghiêm trọng giữa năng lực chế biến và sản lượng sản xuất nội địa tạo ra nguy cơ lãng phí đầu tư, kém hiệu quả trong khai thác chế biến, tăng cạnh tranh không làm mạnh giữa các doanh nghiệp và dẫn đến tình trạng phá sản của các doanh nghiệp yếu. Cơ hội của ngành điều Việt Nam chủ yếu là vai trò ngày càng quan trọng trong ngành hàng trên tầm thề giới với tư cách là nước sản xuất và cung ứng nhân hạt điều dứng hàng thứ hai trên thế giới. Vị thế này đã tạo ra áp lực đủ lớn để các nước xuất khẩu khác như Ấn Độ và Brazil phải quan tâm và đồng ý về nguyên tắc xúc tiến việc thành lập một tổ chức dạng Hiệp hội Điều cho toàn thế giới. Nếu có bước đ đúng, ngành điều Việt Nam sẽ có cơ hội tham gia hội nhập sâu rộng hơn, tăng cường vị trí và vai trò trong điều phối lượng cung và giá cả nhân hạt điều trên thế giới. 5.4. Đề xuất các cơ chế và chính sách tạo điều kiện để phát triển bền vững ngành hàng Do diện tích trồng điều đã tới hạn, và cây điều đang bị một số cây trồng khác như cao su cạnh tranh mạnh nên trong tương lai, khó phát triển thêm diện tích điều. Để bảo đảm cân đối giữa năng lực chế biến và cung nguyên liệu, cải thiện hiệu quả sản xuất hạt điều và tăng thu nhập cho nông dân, cần tiếp tục ổn định diện tích, nâng cao năng suất điều thông qua sử dụng các biện pháp thâm canh, phòng trừ sâu bệnh hại và công tác giống. Nhà nước cũng cần có các hỗ trợ nghiên cứu chế tạo và ứng dụng các công nghệ chế biến, máy móc cơ khí để tăng cường cơ giới hóa trong chế biến nhân hạt điều, nhằm giảm áp lực thiếu lao động thủ công trong các công đoạn bóc, tách vỏ, bóc vỏ lụa và phân loại hạt. Về phía doanh nghiệp, việc tiếp tục củng cố và phát huy vai trò của Hiệp hội Điều là hết sức cần thiết, nhằm điều phối, thống nhất việc thu mua nguyên liệu và xuất khẩu điều giữa các doanh nghiệp để đạt được lợi ích chung cao nhất dựa trên các dự báo, thông tin thị trường chính xác. Đồng thời, có biện pháp liên kết với hệ thống ngân hàng để có đủ vốn thu mua và dự trữ nguyên liệu ngay từ đầu vụ để nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của toàn ngành. Tăng khả năng điều phối của Hiệp hội cũng đồng nghĩa với việc tạo ra môi trường sản xuất kinh doanh minh bạch, đoàn kết, cạnh tranh lành mạnh, tăng uy tín, chất lượng sản phẩm và hiệu quả sản xuất chung của toàn ngành. 6. Cơ sở dữ liệu về tình hình bệnh dịch 1999 Trên cây điều, xuất hiện các loại sâu bệnh chính là: bọ xít muỗi, bệnh thán thư, bệnh rụng lá. Ở 2 tỉnh Lâm Đồng và Bình Phước, diện tích nhiễm các loại sâu bệnh nêu trên là 8347 ha, trong đó chủ yếu là bọ xít muỗi với tỷ lệ chồi bị hại phổ biến là 6068%. Trên cây tiêu ở Bình Phước, Bà Rịa-Vũng Tàu, Kiên Giang, Đồng Nai xuất hiện tuyến trùng rễ, rệp sáp, bệnh thán thư... 2000 Một số loại sâu ăn lá như: sâu ngực to, sâu kèn... hại giai đoạn ra lộc-có hoa, quả non với mật độ trung bình 2-5 con/cành, cục bộ có một số diện tích bị sâu cắn trụi toàn bộ số chồi non, chùm hoa gây giảm năng suất đáng kể (Quảng Ngãi, Gia Lai). 2001 Sâu róm gây thành dịch ở Bình Định với mật độ 800-1000 con/cây, nơi cao 3000 con/cây; diện tích bị nhiễm là 1076 ha, trong đó có 430 ha bị hại nặng (huyện An Lão). Một số loại sâu ăn lá như: sâu ngực to, sâu kèn... hại giai đoạn ra lộc-có hoa, quả non với mật độ trung bình 2-5 con/cành, cục bộ có một số diện tích bị sâu cắn trụi toàn bộ số chồi non, chùm hoa gây giảm năng suất đáng kể. Bọ xít muỗi, sâu đục nõn, bệnh thán thư hại hoa với tỷ lệ hại 10-15%, cao 40-45% (Quảng Ngãi, Gia Lai). 2002 Bọ xít muỗi, sâu đục nõn, bệnh thán thư hại hoa... phát sinh cục bộ và gây hại nhẹ hơn các năm trước. 2003 Bọ xít muỗi có diện tích nhiễm 1372 ha; sâu đục nõn có diện tích nhiễm 1800 ha; sâu róm xuất hiện gây hại ở Bình Định với mật độ 150-200 con/cây. Bệnh thán thư hại hoa, sâu kèn, sâu ăn lá khác xuất hiện và gây hại rải rác. 7. Các trang web và tổ chức có liên quan đến ngành hàng 7.1. Tên các trang web thông tin về ngành hàng 7.2. Tên các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước chuyên nghiên cứu về sản phẩm - Phòng nghiên cứu cây Điều và Hồ tiêu, Viện Khoa học Kỹ thuật nông nghiệp miền Nam - Viện nghiên cứu Nông lâm Tây Nguyên - Viện nghiên cứu Nông Lâm Duyên hải Nam Trung Bộ - Hiệp hội Điều Việt Nam Tài liệu tham khảo - Các bản tin Vinacas tháng tháng 7-12/2006, - Các bản tin website vinanet.com.vn/ của Bộ Thương Mại, - Các bản tin thị trường của Trung tâm thông tin Bộ NN&PTNT - Các nguồn báo, tạp chí Trung ương và các địa phương - Báo cáo “Rà soát quy hoạch phát triển ngành điều Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020” của Viện Quy hoạch Thiết kế nông nghiệp. - Báo cáo Tổng kết Khoa học Kỹ thuật. Đề tài Nghiên cứu các giải pháp khoa học công nghệ và thị trường nhằm phát triển vùng điều nguyên liệu phục vụ chế biến và xuất khẩu. Mã số KC.06.04.NN. Bộ Khoa học Công nghệ và Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam - Quyết định số 120/1999/QĐ-TTg ngày 07 tháng 5 năm 1999 phê duyệt Đề án phát triển điều đến năm 2010 - Quyết định số 39/2007/QĐ-BNN, ngày 02 tháng 5 năm 2007 Phê duyệt Quy hoạch phát triển ngành Điều đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docHồ sơ ngành hàng điều.doc
Luận văn liên quan