Đề tài Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của chuyển dịch kinh tế nông nghiệp ngoại thành Hà Nội

MỤC LỤC Lời mở đầu Nội dung I - CƠ SỞ LÝ LUẬN 1. Bản chất của cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kin tế nông nghiệp 1.1. Bản chất cơ cấu kinh tế nông nghiệp 1.1.1. Cơ cấu kinh tế theo ngành và nội bộ ngành 1.1.2. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo vùng kinh tế lãnh thổ và nội bộ vùng kinh tế lãnh thổ 1.1.3. Cơ cấu kinh tế theo thành phần kinh tế 1.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp 1.3. Định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta 2. Đặc điểm của nông nghiệp ngoại thành Hà Nội 3.Những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ngoại thành Hà Nội 3.1. Vị trí địa lý 3.2. Đất đai 3.3. Dân số 3.4. Ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ngoại thành Hà Nội. 3.4.1. Ảnh hưởng đến cơ cấu kinh tế ngành ở khu vực nông thôn ngoại thành 3.4.2. Ảnh hưởng đến cơ cấu kinh tế vùng 3.4.3. Ảnh hưởng của đô thị hóa đến nguồn lao động nông nghiệp II - CƠ SỞ THỰC TIỄN 1. Kinh nghiệm về giải quyết vấn đề dư thừa lao động trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của Trung Quốc 1.1. Phát triển các xí nghiệp địa phương để thu hút việc làm, giảm sức ép đô thị 1.2. Xây dựng các đô thị quy mô vừa và nhỏ để giảm bớt lao động nhập cư ở các thành phố lớn. 1.2.1. Vai trò của các đô thị nhỏ trong việc giảm bớt lao động nhập cư vào các thành phố lớn 1.2.2. Các lợi thế của đô thị nhỏ trong việc thu hút lao động dư thừa ở nông thôn 2. Nông nghiệp thành phố Hồ Chí Minh 2.1. Cơ cấu sản xuất nông nghiệp 2.2. Kinh nghiệm giải quyết vấn đề đất đai 2.3. Kinh nghiệm tạo việc làm và giải quyết việc làm ở khu vực ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh 2.4. Kinh nghiệm về hạn chế ô nhiễm môi trường ở khu vực ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Trang 3 4 4 4 4 4 5 7 8 11 11 13 13 13 17 19 19 22 24 26 27 27 27 27 28 28 28 33 35 37 41 42 thắc mắc gì về bài viết bạn liên hệ tới số ***********

doc42 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4686 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của chuyển dịch kinh tế nông nghiệp ngoại thành Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
á trị kinh tế cao. Ngoài những vùng kinh tế sinh thái cơ bản, nông nghiệp đã hình thành những vùng chuyên canh sản xuất nông sản hàng hóa tập trung đó là: Vùng lúa đồng bằng sông Cửu Long, vùng cà phê ở Tây Nguyên, vùng cao su Đông Nam Bộ, cây ăn quả Nam Bộ và miền núi phía Bắc, mía ở Duyên Hải miền Trung và Đồng bằng sông Cửu Long… Các vùng sản xuất hàng hóa tập trung có tỷ suất hàng hóa cao, chất lượng ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu thị trường trong và ngoài nước. Chính việc phát triển các vùng chuyên canh sản xuất nông sản hàng hóa tập trung đã góp phần làm đậm nét thêm về phương hướng phát triển các vùng kinh tế sinh thái cơ bản. Để có sản xuất hàng hóa lớn, nông nghiệp, nông thôn nước ta không dừng lại ở kinh tế hộ sản xuất hàng hóa nhỏ, mà phải đi lên phát triển kinh tế hộ sản xuất hàng hóa lớn, kiểu mô hình kinh tế trang trại. Đối với kinh tế hợp tác phải nhanh chóng hoàn thiện việc đổi mới HTX kiểu cũ theo luật HTX. Đồng thời khuyến khích mở rộng và phát triển các hình thức hợp tác kiểu mới, đó là những hợp tác xã có hình thức và tính chất đa dạng, quy mô và trình độ khác nhau. HTX và hộ nông dân cùng tồn tại, phát triển trên nguyên tắc tự nguyện của các hộ thành viên và đảm bảo lợi ích thiết thực giữa các bên. Kinh tế quốc doanh trong nông nghiệp về tỷ trọng có xu hướng giảm song cần rà soát, sắp xếp lại và củng cố các đơn vị kinh tế quốc doanh phát triển có hiệu quả. Những đơn vị kinh tế quốc doanh yếu kém cần có những giải pháp đổi mới tích cực như: thực hiện khoán, bán và cho thuê các doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ hoặc là chuyển sang các hình thức sở hữu khác nhau phù hợp (công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn…). Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp mang tính chiến lược, ảnh hưởng đến mức độ và tính bền vững của việc tăng trưởng và phát triển bền vững của ngành nông nghiệp. Vì vậy việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là cần thiết bởi: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất, thúc đẩy phân công lao động xã hội phát triển hình thành cơ cấu kinh tế mới phù hợp với trình độ sản xuất mới. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu sản phẩm nông nghiệp ngày càng tăng về số lượng, phong phú về chủng loại, chất lượng cao. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp đảm bảo khai thác sử dụng hợp lý mọi tiềm năng lợi thế để đảm bảo khả năng xuất khẩu. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp còn xuất phát từ thực trạng cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở nước ta còn lạc hậu, do đó cần đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở nước ta. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp thực sự tạo được những điều kiện giải phóng mọi sức sản xuất, giải quyết việc làm, tăng thu nhập, nâng cao đời sống và tăng trưởng kinh tế góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. 1.3. Định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở nước ta: Để đẩy nhanh phát triển nông nghiệp theo hướng hàng hóa thì phải đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo định hướng XHCN. - Đẩy nhanh phát triển ngành chăn nuôi, đưa chăn nuôi trở thành ngành sản xuất chính trong nông nghiệp, giá trị sản xuất ngành chăn nuôi chiếm từ 30% - 35% giá trị sản xuất nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi, dịch vụ nông nghiệp). Hiện nay, ngành chăn nuôi mới chiếm 22,5% giá trị sản xuất ngành nông nghiệp. Ngành chăn nuôi phải phát triển theo hướng đa dạng hóa để tạo ra nhiều sản phẩm phong phú chất lượng cao. - Ngành trồng trọt phát triển nhanh theo hướng nâng cao chất lượng sản xuất ngành trồng trọt. Về tỷ trọng, giá trị sản xuất ngành trồng trọt chiếm khoảng 65% giá trị sản xuất ngành nông nghiệp. Trong ngành trồng trọt phải giảm tỷ trọng giá trị sản xuất lương thực nhưng vẫn phải đảm bảo an ninh lương thực cho đất nước và mỗi năm trên dưới 4 triệu tấn gạo. Mở rộng và đầu tư thâm canh cây ngô, sắn để làm thức ăn chăn nuôi và đáp ứng nhu cầu chế biến. Đồng thời tăng tỷ trọng giá trị sản xuất các cây trồng khác có giá trị kinh tế cao, có khả năng sản xuất và xuất khẩu lớn và mở rộng sản xuất các cây trồng để thay thế nhập khẩu. - Ngành thủy sản phải phát triển nhanh theo hướng mạnh xuất khẩu vì thủy sản có thế mạnh và là ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước. Ngành thủy sản cần phát triển toàn diện bao gồm nuôi trồng khai thác đánh bắt và chế biến. - Đối với ngành lâm nghiệp phát triển mạnh cả trồng rừng, khai thác và chế biến lâm sản để tăng nhanh giá trị sản xuất lâm nghiệp góp phần bảo vệ cân bằng sinh thái phát triển nông nghiệp bền vững. 2. Đặc điểm của nông nghiệp ngoại thành Hà Nội: Nói đến Hà Nội, mọi người thường nghĩ đến một thành phố phát triển với các khu công nghiệp hiện đại, những dịch vụ tiện ích, với những danh lam lịch sử nổi tiếng chứ ít nhắc đến nông nghiệp Hà Nội. Bởi nông nghiệp Hà Nội một mặt chỉ chiếm một phần nhỏ bé trong tổng GDP toàn thành phố khoảng trên dưới 10%, mặt khác nông nghiệp Hà Nội cũng có những đặc trưng rất khác biệt so với các vùng miền trong cả nước. Nông nghiệp Hà Nội tập trung chủ yếu ở khu vực ngoại thành: Thanh Trì, Từ Liêm, Gia Lâm, Đông Anh, Sóc Sơn với các sản phẩm chủ yếu là rau xanh, rau thơm, hoa tươi, các loại quả đặc sản như cam Canh, bưởi Diễn, hồng xiêm Xuân Đỉnh… Diện tích canh tác nông nghiệp của Hà Nội cũng chiếm một phần khiêm tốn trong tổng quỹ đất toàn thành phố và có xu hướng ngày càng bị thu hẹp do quá trình đô thị hóa diễn ra mạnh như hiện nay. Sở dĩ, nông nghiệp Hà Nội có những đặc điểm trên là do diện tích đất của Hà Nội không có nhiều mà chủ yếu được dùng cho phát triển cơ sở hạ tầng, giao thông, nhà ở phục vụ cho các mục tiêu kinh tế chính trị xứng tầm với vị trí của một thủ đô. Người dân Hà Nội có tri thức, có trình độ tay nghề cao nên ít làm nông nghiệp mà được sử dụng cho các ngành nghề khác có thu nhập cao hơn. Và vì có thu nhập cao nên người dân Hà Nội cũng có cách thức thưởng thức các sản phẩm từ nông nghiệp khác với các vùng khác. Đó là các sản phẩm nông sản không chỉ đảm bảo về chất dinh dưỡng mà còn phải hướng đến sức khỏe và đến những giá trị thẩm mỹ khác. Vì vậy mà nông nghiệp Hà Nội chủ yếu tập trung vào phát triển những vùng rau, hoa tươi, cây ăn quả có giá trị kinh tế cao chứ ít tập trung vào các cây lương thực thực phẩm. Các sản phẩm nông nghiệp tiêu thụ trên thị trường Hà Nội chủ yếu là do các tỉnh lân cận chuyển vào thủ đô, còn nông sản do nông nghiêp Hà Nội sản xuất ra chỉ chiếm một phần nhỏ. Ngoài ra các huyện ngoại thành Hà Nội thường có các làng nghề truyền thống rất nổi tiếng, tạo nguồn thu nhập lớn hơn rất nhiều so với thu nhập từ các sản phẩm nông nghiệp nên người dân cũng không quá mặn mà với công việc đồng áng. Hơn nữa, khi nước ta đã gia nhập vào WTO thì nông nghiệp ngoại thành Hà Nội lại càng phải tập trung vào các lĩnh vực trên để phát triển đáp ứng không chỉ thị hiếu của người tiêu dùng mà còn góp phần vào bảo vệ và cải tạo môi trường sống ngày càng trong sạch, tươi đẹp hơn. Với những đặc điểm trên, nông nghiệp ngoại thành Hà Nội cần chuyển dịch cơ cấu kinh tế để tránh lãng phí các nguồn lực và phát triển nông nghiệp thủ đô hài hòa với sự phát triển các ngành khác trong cơ cấu kinh tế toàn thành phố. 3. Những nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ngoại thành Hà Nội: 3.1. Vị trí địa lý: Hà Nội nằm ở vị trí trung tâm Đồng bằng Bắc Bộ, tiếp giáp với 5 tỉnh: Thái Nguyên ở phía Bắc, Bắc Ninh và Hưng Yên ở phía Đông, Vĩnh Yên và Hà Tây ở phía Tây và phía Nam. Hà Nội có diện tích tự nhiên 920,97 km2 , trong đó diện tích các huyện ngoại thành khoảng 836,67 km2. Hà Nội có 9 quận nội thành và 5 huyện ngoại thành là Sóc Sơn, Đông Anh, Gia Lâm, Thanh Trì và Từ Liêm. Các huyện ngoại thành nằm bao bọc lấy các quận nội thành, tạo nên một vành đai nông nghiệp bao quanh các khu đô thị và công nghiệp. Đại bộ phận diện tích của Hà Nội nằm trong vùng Đồng bằng châu thổ sông Hồng (với độ cao từ 5-20m so với mực nước biển). Một phần nhỏ ở phía Bắc và Tây Bắc huyện Sóc Sơn là khu vực đồi núi thuộc rìa phía Nam của dãy núi Tam Đảo (cao từ 200-400m so với mực nước biển). Nhìn chung, địa hình thấp dần từ Bắc xuống Nam và từ Tây sang Đông. Sự chênh lệch độ cao không lớn, địa hình bằng phẳng, đất đai màu mỡ rất thuận lợi cho hoạt động sản xuất nông nghiệp. 3.2. Đất đai: Hà Nội có 4 loại đất chính: + Nhóm đất bạc màu phát triển chủ yếu trên đất phù sa cổ, tập trung ở huyện Đông Anh và Sóc Sơn. + Nhóm đất phù sa phân bố đều khắp các huyện, nhưng chiếm hầu hết diện tích của các huyện Gia Lâm, Thanh Trì, Từ Liêm. + Nhóm đất đồi núi tập trung chủ yếu ở huyện Sóc Sơn, bị xói mòn nghiêm trọng do cây rừng bị chặt phá, tầng đất mỏng, nhiều nơi trơ sỏi đá. Đến năm 2002, khu vực ngoại thành Hà Nội gồm 5 huyện với 118 xã và 8 thị trấn, tổng diện tích đất đai là 83.667ha, chiếm 90,85% tổng diện tích đất tự nhiên toàn thành phố, năm 1995 diện tích của khu vực này là 86.839ha, chiếm 94,58%. Như vậy, quỹ đất đã giảm 4.350ha. Bảng 1: Tình hình biến động đất đai ở khu vực ngoại thành Đơn vị: ha Năm Các loại đất Huyện Đất nông nghiệp Đất lâm nghiệp Đất chuyên dùng Đất ở Đất chưa sử dụng Đô thị Nông thôn 1995 Từ Liêm 5.332 20 1.236 145 1.283 1.430 Gia Lâm 9.158 44 3.942 191 1.545 2.370 Đông Anh 9.989 6 3.482 103 1.972 2.650 Sóc Sơn 12.874 6.674 5.273 26 3.089 2.652 Thanh Trì 5.622 - 2.082 38 1.192 1.055 Tổng 42.975 6.717 16.015 503 9.081 10.157 2000 Từ Liêm 4.071 16 1.497 49 931 749 Gia Lâm 9.144 59 4.172 213 1.570 2.273 Đông Anh 9.942 5 3.741 109 1.941 2.419 Sóc Sơn 12.963 6.045 5.483 27 3.142 2.798 Thanh Trì 5.189 - 2.377 32 1.233 990 Tổng 41.309 6.125 17.270 430 8.817 9.229 2005 Từ Liêm 3.751 12 1.518 34 875 465 Gia Lâm 9.022 63 4.260 223 1.598 2.121 Đông Anh 9.931 4,5 3.938 111 1.932 2.239 Sóc Sơn 12.975 5.976 5.541 28 3.267 2.865 Thanh Trì 5.001 - 2.684 26 1.311 786 Tổng 40.680 6.055,5 17.941 422 8.983 8.476 Nguồn: Đinh hướng sử dụng đất đai thành phố Hà Nội đến năm 2010 Số liệu trên cho thấy sự biến động đất đai trong những năm qua (1991 - 2000) là tương đối lớn và không đều. + Đất nông nghiệp: Nhìn chung thời kỳ 1990 - 2000 đất nông nghiệp giảm. Năm 1995 giảm 617ha so với năm 1990, năm 2000 giảm 1.666ha so với năm 1995. Nguyên nhân chủ yếu là do nhiều xã của Từ Liêm đã chuyển sang các phường để thành lập các quận mới, trong đó 8 xã chuyển về quận Cầu Giấy và 4 xã về quận Tây Hồ. + Đất lâm nghiệp: Từ năm 1995 đến năm 2000 đất lâm nghiệp ở các huyện biến động không đáng kể. Riêng huyện Sóc Sơn diện tích đất lâm nghiệp giảm mạnh (năm 2000 giảm 602ha so với năm 1995). Nguyên nhân chính là do lấy đất mở đường và xây dựng… + Đất chuyên dùng: Từ năm 1995 đến năm 2000, diện tích đất chuyên dùng của các huyện tăng lên tương đối đồng đều, nguyên nhân chủ yếu là do đất xây dựng, đất giao thông, đất thủy lợi…tăng lên. + Đất ở: Nhìn chung đất ở cũng tăng lên qua các năm, đặc biệt là từ năm 1995 đến năm 2000 do tác động của quá trình phát triển đô thị. Nguyên nhân cơ bản là do sự chuyển đổi từ đất canh tác sang đất ở, do xây dựng các khu đô thị mới, do lấn chiếm… Riêng huyện Từ Liêm, đất ở năm 2000 giảm đi 448ha so với năm 1995. Nguyên nhân là do nhiều xã của Từ Liêm chuyển sang các quận mới. + Đất chưa sử dụng: Đất chưa sử dụng ngày càng giảm so với năm 1990. Năm 2000 so với năm 1995, đất chưa sử dụng của các huyện đều giảm, trong đó huyện Từ Liêm giảm mạnh nhất, giảm 681ha (47,3%) so với năm 1995. Nguyên nhân là do thành phố lấy đất để xây dựng và phát triển đô thị. 3.3.Dân số: Dân số trung bình năm 2002 của Hà Nội là 2.847.000 người, tăng gần 1,2 lần so với năm 1995 và 1,042 lần so với năm 2000, trong đó dân số các huyện ngoại thành là 1.325.800 người, chiếm 46,56% dân số toàn Thành phố, tăng gần 1,183 lần so với năm 1990. Dân số nội thành năm 2002 là 1.521.200 người, tăng gần 1,634 so với năm . Tỷ lệ này năm 2000 so với năm 1990 là 1,6 và 1,2 lần. Bảng 2: Dân số trung bình của thành phố Hà Nội thời kỳ 1990 - 2005 Đơn v ị: 1.000 người Năm 1990 1995 2000 2005 Dân sô toàn thành phố 2051,9 2335,4 2731,1 2876,3 - Nội thành 931,2 1082,4 1460,4 2056,4 - Ngoại thành 1120,7 1235,0 1273,7 1278,8 - Thành thị 1057,9 1221,2 1578,7 1871,6 - Nông thôn 994,0 1114,2 1155,4 1188,9 - Nông nghiệp 681,2 751,5 842,9 921,3 - Phi nông nghiệp 1370,7 1583,9 1891,2 2102,7 Nguồn: Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội Hà Nội thời kỳ 2001 - 2010 So với năm 1990, dân số thành thị năm 1995 tăng 15,7%, năm 2000 tăng 49%,năm 2005 tăng 76%. Trong khi đó so với năm 1990, dân số nông thôn năm 1995 tăng 12%, năm 2000 tăng 16,2%, năm 2005 tăng 16,9%. Dân số khu vực nông nghiệp năm 1995 tăng 0,3%, năm 2000 tăng 23,7%, năm 2005 tăng 35,2% so với năm 1990. Dân số phi nông nghiệp năm 1995 tăng 15,5%, năm 2000 tăng 37,9%, năm 2005 tăng 53,4% so với năm 1990. Theo số liệu thống kê, năm 1991 quận Hoàn Kiếm có mật độ dân số cao nhất (37.646 người/km2), gấp 55 lần so với nơi có mật độ dân số thấp nhất của thành phố là huyện Sóc Sơn (681 người/km2). Năm 2000, quận Đống Đa có mật độ dân số cao nhất (34.367 người/km2), gấp 42,5 lần so với huyện Sóc Sơn - nơi có mật độ dân số thấp nhất (808 người/km2). Ở các quận nội thành, trong 10 năm gần đây, quận Đống Đa có mật độ dân số tăng nhanh nhất (năm 2000 tăng 12.004 người/km2, gấp 1,5 lần so với năm 1991). Thời gian gần đây, dân số Hà Nội có tăng nhưng chậm hơn mức tăng dân số của cả nước. Tuy nhiên, ở các huyện ngoại thành mức tăng dân số cao hơn nội thành. Vì vậy, Hà Nội vẫn là địa phương có số dân đông, lực lượng lao động dồi dào. Mức độ tăng dân số làm cho mật độ dân số không chỉ cao ở khu vực nội thành mà ở cả khu vực ngoại thành. 3.4. Ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ngoại thành Hà Nội: 3.4.1. Ảnh hưởng đến cơ cấu kinh tế ngành ở khu vực nông thôn ngoại thành: Cơ cấu kinh tế ở các huyện ngoại thành Hà Nội chịu sự tác động của rất nhiều nhân tố, trong đó có quá trình đô thị hóa. Có thể nói cơ cấu kinh tế của các huyện nông thôn ngoại thành Hà Nội vừa là nguyên nhân, vừa là sản phẩm, vừa là kết quả của quá trình đô thị hóa. Vì vậy, phân tích cơ cấu kinh tế và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế có thể thấy rõ ảnh hưởng của đô thị hóa trên các mặt, đồng thời thấy rõ mối quan hệ đó để thông qua quá trình xác định mô hình chuyển đổi cơ cấu kinh tế, xác định đúng hướng cho quá trình đô thị hóa. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố Hà Nội lần thứ XIII đã chỉ rõ: “Phát triển kinh tế nông thôn ngoại thành phù hợp với tiến trình đô thị hóa, phấn đấu giảm dần sự cách biệt giữa thành thị và nông thôn…” và “chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn ngoại thành theo hướng tăng nhanh tỷ trọng các ngành công nghiệp, dịch vụ, phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, tăng tỷ trọng các loại nông sản phẩm có chất lượng và giá trị kinh tế cao”. Trong những năm qua, cơ cấu kinh tế nông thôn ngoại thành có sự chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng các ngành nông nghiệp. Trong 10 năm, cơ cấu giá trị sản xuất của công nghiệp và xây dựng trong các ngành sản xuất tăng 16,08%, bình quân mỗi năm có sự chuyển dịch theo hướng tăng là 1,61%; cơ cấu giá trị sản xuất các ngành dịch vụ có sự biến động không ổn định (vì tỷ trọng của các ngành này ở mức cao) và có xu thế giảm nhẹ, trong khi đó tỷ trọng các ngành nông nghiệp giảm tương đối nhanh (giảm 15,16% trong vòng 10 năm, bình quân mỗi năm giảm 15,16%). Bảng 3: Cơ cấu giá trị sản xuất các ngành khu vực nông thôn ngoại thành Hà Nội (Tính theo giá thực tế) Đơn vị: % Các ngành 1990 1992 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Tổng số 100 100 100 100 100 100 100 100 100 1.Công nghiệp, xây dựng 31,7 29,2 36,5 39,3 40,6 41,6 45,1 46,44 47,78 2.Nông nghiệp 21,8 15,7 10,9 10,4 10 9,2 9 7,72 6,64 3.Dịch vụ 46,5 55,2 52,6 50,3 49,4 49,1 46 45,84 45,58 Nguồn: Báo cáo đề tài: Nghiên cứu phân tích động thái của cơ cấu kinh tế Thủ đô…Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội Điểm nổi bật về sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế các huyện ngoại thành Hà Nội là sự tác động của đô thị hóa. Ở đây, đã có sự tương đồng giữa tốc độ của đô thị hóa với tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Có thể thấy rõ điều này qua sự phân tích sau: Những năm trước đây, tốc độ đô thị hóa diễn ra còn chậm do sự cản trở của các cơ chế và chính sách về đất đai, về sự thu hút vốn đầu tư nước ngoài và việc hình thành các khu công nghiệp tập trung. Nhưng từ năm 1993 trở lại đây, trên cơ sở Luật Đất đai sửa đổi năm 1993, các chính sách về đất đai được ban hành với nhiều quy định thông thoáng hơn đối với sử dụng đất đai, nhất là sự chuyển đổi đất nông nghiệp sang các mục đích khác. Điều này cũng góp phần tạo điều kiện để đô thị hóa diễn ra với tốc độ nhanh hơn, dẫn đến cơ cấu kinh tế của các huyện có sự chuyển dịch nhanh. Nếu ở giai đoạn 1990 - 1992, tỷ trọng các ngành nông nghiệp và xây dựng có xu hướng giảm và có xu hướng tăng lên vào năm 1993 thì ở giai đoạn 1994 - 2000 lại có tốc độ tăng rất cao. Tỷ trọng các ngành công nghiệp và xây dựng thời kỳ 1990 - 1992 giảm 4,4% tính theo GDP và giảm 2,5% tính theo giá trị sản xuất trong cơ cấu các ngành. Giai đoạn 1994 -2000 tỷ trọng các ngành công nghiệp và xây dựng tăng 11,6% tính theo GDP và 15,9% tính theo giá trị sản xuất. Bảng 4: Cơ cấu ngành kinh tế Thủ đô (theo GDP) Đơn vị: (%) TT Ngành, lĩnh vực kinh tế 1985 1990 1995 2000 2005 1 Tổng số 100 100 100 100 100 2 Công nghiệp mở rộng 27,9 29,04 33,01 36,99 40,8 3 Dịch vụ 66,5 61,95 61,6 60,02 57,5 4 Nông-lâm-thủy sản 5,6 9,01 5,39 2,99 1,7 Nguồn: Cục Thống kê Hà Nội, năm2005 Về thực chất, sự biến đổi về tỷ trọng các ngành là do sự tác động trực tiếp của quá trình đô thị hóa. Chính quá trình đô thị hóa đã làm cho tốc độ phát triển của các ngành công nghiệp và dịch vụ tăng với tốc độ nhanh hơn tốc độ tăng của ngành nông nghiệp. Theo tổng kết của Thành ủy Hà Nội (vào tháng 5 năm 2001): trong vòng 10 năm, kinh tế ngoại thành đã có bước phát triển mạnh mẽ, toàn diện. Nếu tính cả các ngành kinh tế của Trung ương đóng trên địa bàn tốc độ tăng giá trị sản xuất bình quân của thời kỳ 1990 - 2000 là 11,5%/năm, trong đó công nghiệp và xây dựng tăng 13,9%, dịch vụ tăng 16,5%, nông nghiệp tăng 4,31%. Sự tăng trưởng nhanh, đặc biệt là sự tăng trưởng nhanh của hai nhóm ngành công nghiệp - xây dựng và dịch vụ là nguyên nhân trực tiếp của sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo xu hướng biến động trên. Đô thị hóa là nguyên nhân trực tiếp của sự tăng trưởng này. Những chuyển biến trong nông nghiệp Hà Nội giai đoạn này gắn liền với bối cảnh chuyển sang nền kinh tế thị trường và chịu sự tác động ngày càng mạnh của quá trình đô thị hóa. Ở đây đã có sự thay đổi cả về tính chất và động lực phát triển. Nông nghiệp đang từng bước chuyển sang nền nông nghiệp hàng hóa với cấu trúc đa dạng và năng động. Tốc độ tăng giá trị sản lượng tuy cao nhưng chưa có bước tiến đặc biệt trong cơ cấu. Năm 2000 so với năm 1999 cơ cấu giữa trồng trọt và chăn nuôi khu vực ngoại thành Hà Nội chưa có sự thay đổi đáng kể. Tỷ trọng ngành trồng trọt giảm nhưng vẫn chiếm tỷ lệ tương đối cao, từ 64,8% xuống còn 60,25%, ngành chăn nuôi tăng từ 35,2% lên 39,75%. Sự thu hẹp của ngành trồng trọt và sự tăng trưởng của ngành chăn nuôi trong cơ cấu nông nghiệp do tác động cảu nhiều nhân tố, nhưng phần lớn do ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa. Ngành trồng trọt với đặc điểm cơ bản là sản xuất gắn liền với đất đai trên cả phương diện số lượng, chất lượng đất đai, vì vậy chịu ảnh hưởng lớn của quá trình đô thị hóa. Đồng thời diện tích đất nông nghiệp giảm cũng là một nguyên nhân làm cho một số hộ nông nghiệp chuyển sang phát triển ngành chăn nuôi. 3.4.2. Ảnh hưởng đến cơ cấu kinh tế vùng Sự tác động của quá trình đô thị hóa đã hình thành nên các vùng chuyên môn hóa sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ cũng như cơ cấu vùng xét theo từng ngành chuyên môn hóa hẹp. Đối với các vùng chuyên môn hóa nông nghiệp: Do tác động của đô thị hóa cùng với những nhân tố tác động khác, nông nghiệp ngoại thành có sự biến đổi khá sâu sắc. Trước đây, nông nghiệp ngoại thành dưới sự tác động của cơ chế kế hoạch hóa tập trung dã hình thành một số vùng chuyên môn hóa như: chuyên môn hóa trồng rau (rau lá ở Thanh Trì, Từ Liêm; rau ăn củ và quả chủ yếu ở Gia Lâm, Đông Anh); trồng lúa, nuôi trồng thủy sản ở Thanh Trì. Nhưng, những năm gần đây do sự tác động của cơ chế thị trường và quá trình đô thị hóa, những vùng chuyên môn hóa này bị thu hẹp (ví dụ vùng rau, vùng lúa Thanh Trì, Từ Liêm, Gia Lâm) hoặc chuyển sang kinh doanh tổng hợp làm cho tính chất chuyên môn hóa bị giảm sút, đồng thời lại hình thành một cách tự phát một số vùng chuyên môn hóa mới như vùng hoa Vĩnh Tuy, Định Công ở Thanh Trì, Phú Thượng ở Tây Hồ, vùng nuôi bò sữa ở Gia Lâm, vùng cây ăn quả ở Sóc Sơn, Từ Liêm… Theo đánh giá của một số chuyên gia kinh tế, sự tác động của Nhà nước đến việc hình thành các vùng chuyên môn hóa những năm gần đây chưa nhiều, kể cả việc tác động quy hoạch, kế hoạch, qua đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, qua xây dựng cơ chế chính sách…Vừa qua thành phố có chương trình sản xuất rau sạch, trong đó có quy hoạch vùng sản xuất, đầu tư kết cấu hạ tầng và khuyến khích hỗ trợ vốn, nhưng hiệu quả chưa cao do giá rau sạch còn thấp, việc tiêu thụ còn khó khăn. Vì vậy, quy mô chương trình còn hạn hẹp. Sự tác động của đô thị hóa làm quy mô đất đai của nông nghiệp bị thu hẹp, chia cắt. Sự thiếu quy hoạch làm cho nông dân không yên tâm đầu tư với quy mô lớn, thậm chí còn để lãng phí đất sản xuất nông nghiệp. Nhìn chung, nông nghiệp ngoại thành còn mang nặng tính chất phân tán, manh mún, không có sản phẩm chủ lực với quy mô lớn ở từng vùng theo hướng khai thác tiềm năng và lợi thế so sánh của từng vùng. Vì vậy, chưa có được những vùng chuyên môn hóa tập trung với các nông sản có chất lượng cao, quy mô lớn cho chế biến và xuất khẩu. Quỹ đất đai hạn hẹp của các huyện là một trong các nguyên nhân đã tác động đến thực trạng trên. Sự thiếu chủ động trong quy hoạch các vùng chuyên môn hóa cũng đã làm hạn chế đến việc hình thành các vùng chuyên môn hóa. 3.4.3. Ảnh hưởng của đô thị hóa đến nguồn lao động nông nghiệp Thực tế hiện nay cho thấy quá trình giảm dần quỹ đất canh tác do đô thị hóa đang kéo theo một bộ phận lao động nông nghiệp phải chuyển sang các hoạt động phi nông nghiệp. Lao động nông nghiệp giảm dần từ 86,6% năm 1990 xuống 83,1% năm 1995 và còn 80,9% năm 2000, trong khi đó lao động công nghiệp và lao động trong ngành thương mại, dịch vụ tăng. Tuy nhiên, sự chuyển dịch lao động còn mang tính tự phát. Các ngành nghề phi nông nghiệp có quy mô nhỏ. Bảng 5: Cơ cấu lao động ngoại thành Hà Nội giai đoạn 1990 - 2005 Đơn vị: % Ngành 1990 1995 2000 2005 1. Nông, lâm nghiệp 86,6 83,1 80,9 78,7 2. Công nghiệp - tiểu công nghiệp - xây dựng 8,6 9,6 9,2 8,9 3. Thương mại - dịch vụ 4,8 7,3 9,9 12,4 Tổng số 100 100 100 100 Để tạo chuyển biến thực sự cho nông nghiệp ngoại thành Hà Nội, cần phải cơ cấu lại lao động, chuyển dần lao động nông nghiệp hiện nay sang các hoạt động phi nông nghiệp. Lực lượng phi nông nghiệp cần phải được tổ chức lại để khắc phục những hạn chế trong tình trạng nông nghiệp vẫn còn manh mún và kém đa dạng về sản phẩm như hiện nay. a) Về số lượng lao động nông nghiệp Đô thị hóa đã tạo ra dòng di dân từ nông thôn đến đô thị, nhất là vấn đề di dân giữa nội thị và ngoại thị. Cùng với vấn đề di dân, lao động nông nghiệp cũng có sự thay đổi đáng kể. Tỷ lệ lao động nông nghiệp trong dân số nông nghiệp khá cao, từ . Mức độ tăng số lượng lao động ở khu vực ngoại thành nói chung và từng huyện ngoại thành nói riêng đều khá cao, khoảng 4% - 5% trong giai đoạn 1990 - 2000. Bảng 6: Lao động nông nghiệp ngoại thành Hà Nội (tại thời điểm 1 - 7 hàng năm) 1990 1995 2000 2005 Ngoại thành 269.945 326.377 416.301 506.225 - Sóc Sơn 71.377 97.372 118.069 138.766 - Đông Anh 67.700 85.558 105.644 125.730 - Gia Lâm 55.711 55.420 83.171 110.922 - Từ Liêm 37.164 38.698 47.171 55.644 - Thanh Trì 37.993 49.329 62.246 75.163 Nguồn: Niên giám Thống kê Hà Nội, năm 1990, 2000, 2005 Quá trình đô thị hóa đã làm mất diện tích đất nông nghiệp khá lớn, lao động nông nghiệp khu vực ngoại thành lại tăng với tốc độ tương đối cao. Điều này không thể không dẫn tới tình trạng dôi dư trong lao động nông nghiệp. Dư thừa lao động tương đối trong nông nghiệp do tác động của quá trình đô thị hóa, theo các chuyên gia nông nghiệp, năm 2000 là khoảng 7.000 người và tỷ lệ sử dụng thời gian lao động mới đạt khoảng 75% đang là vấn đề xã hội bức xúc cần giải quyết. b) Về chất lượng lao động nông nghiệp Lực lượng lao động nông nghiệp ngoại thành Hà Nội hiện nay được đánh giá là tương đối trẻ, phần lớn đã có trình độ văn hóa cấp II trở lên. Do vậy, trình độ nhận thức tương đối khá và đồng đều. Đây là yếu tố thuận lợi cho nền sản xuất hàng hóa đòi hỏi ngày càng cao các tri thức về tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ mới. Thực tế là nông nghiệp Hà Nội đã đi trước nhiều địa phương khác trong cả nước, đó là nền sản xuất nông nghiệp hàng hóa đang phát triển ở mức độ ngày càng cao. Điều đó đã có tác động chi phối tới tư duy, nhận thức và điều hành, quản lý sản xuất của hộ nông dân, của lao động nông nghiệp. Do đó, lao động nông nghiệp ngoại thành Hà Nội có nhiều cơ hội tiếp thu và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất, và hình thành nền tảng cho nền sản xuất hàng hóa gắn với thị trường có yêu cầu cao về chất lượng nông sản hàng hóa. Tuy nhiên, chất lượng lao động nông nghiệp ngoại thành Hà Nội vẫn còn thấp so với yêu cầu phát triển nền nông nghiệp đô thị. Tỷ lệ lao động nông nghiệp có trình độ từ trung cấp trở lên chỉ chiếm khoảng 1,5% lực lượng lao động nông nghiệp. Các tiến bộ kỹ thuật mới, tiên tiến chưa được phổ biến rộng rãi tới người lao động. Đầu tư cho việc nâng cao chất lượng lao động nông nghiệp còn hạn chế. Vì vậy, còn một bộ phận không lao động nông nghiệp tỏ ra lúng túng và phản ứng chậm trước yêu cầu của kinh tế thị trường. II - CƠ SỞ THỰC TIỄN Quá trình thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp cả nước nói chung và Hà Nội nói riêng đòi hỏi giải quyết nhiều vấn đề liên quan rất phức tạp. Vì vậy để có thể thực hiện được các mục tiêu kinh tế - xã hội đã đề ra, trong quá trình xây dựng và thực hiện chuyển dịch, chúng ta nên tham khảo kinh nghiệm của các quốc gia và các vùng đã tiến hành thành công. Dưới đây là một số kinh nghiệm có thể học hỏi: 1. Kinh nghiệm về quản lý và giải quyết vấn đề dư thừa lao động trong quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp của Trung Quốc 1.1. Phát triển các xí nghiệp địa phương để thu hút việc làm, giảm sức ép thất nghiệp Cho đến nay, các doanh nghiệp địa phương đóng vai trò chính trong việc thu hút lực lượng lao động dôi dư. Các chính sách đầu tư của nhà nước đã thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp địa phương. Trong những năm đầu tiên có tới 20% trong số tổng thu nhập của người dân nông thôn là từ các doanh nghiệp địa phương. Ở những vùng phát triển hơn, tỷ lệ này lên tới trên 50%. Năm 1992, tổng giá trị sản lượng công nghiệp nông thôn lần đầu tiên chiếm trên 50% tổng giá trị sản lượng xã hội, số lượng lao động làm việc trong khu vực này cũng tăng lên đáng kể, lên đến hàng trăm triệu người. Đây là dấu hiệu cất cánh của công nghiệp hóa nông thôn Trung Quốc mà ưu tiên hàng đầu là tạo ra cơ hội việc làm cho lao động dư thừa. Tốc độ tăng trưởng cao của các doanh nghiệp địa phương đã tạo ra rất nhiều cơ hội việc làm cho lực lượng lao động dôi dư ở khu vực nông thôn. Đã xuất hiện hai mô hình công nghiệp hóa nông thôn đó là mô hình các nhân ở phía Nam tỉnh Giang Tô và mô hình tập thể ở thành phố Giang Châu. Khuyến khích xây dựng các doanh nghiệp địa phương là một trong những giải pháp quan trọng của Trung Quốc nhằm giải quyết vấn đề việc làm nông thôn, góp phần giảm sức ép về việc làm. Đây là một bài học bổ ích cho chúng ta trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn hiện nay. 1.2. Xây dựng các đô thị quy mô vừa và nhỏ để giảm bớt lao động nhập cư ở các thành phố lớn 1.2.1. Vai trò của các đô thị nhỏ trong việc giảm bớt lao động nhập cư vào các thành phố lớn Sự phát triển các đô thị nhỏ ở các vùng nông thôn sẽ thu hút lao động dư thừa, góp phần tối đa hóa việc phân bổ các nguồn lực ở các khu vực và thu hẹp khoảng cách giữa các thành phố và vùng nông thôn. Các đô thị mới được thành lập ở các vùng nông thôn thúc đẩy nhu cầu về phát triển công nghiệp nông thôn và là nền tảng cho quá trình chuyển đổi bộ mặt xã hội của nông thôn. Vai trò của các thành phố nhỏ là phân bổ các sản phẩm nông nghiệp và các sản phẩm phụ, trong vòng 10 trở lại đây, các đô thị nhỏ đã trở thành trung tâm sản xuất, dịch vụ, giải trí cũng như giáo dục và thông tin. Do vậy, người nông dân không còn phải quan tâm nhiều đến quy mô của đô thị là lớn hay nhỏ như trước kia. Sự phát triển của các đô thị nhỏ thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và thu hẹp khoảng cách giữa thành thị và nông thôn. 1.2.2. Các lợi thế của đô thị nhỏ trong việc thu hút lao động dư thừa ở nông thôn Trước tiên, ở các đô thị nhỏ có nhiều cơ hội việc làm hơn bởi các đô thị này có dân số thấp. Những ngành công nghiệp mới sẽ có khả năng thu hút nhiều lao động hơn. Những người nông dân có kỹ năng sẽ có cơ hội tham gia vào các ngành công nghiệp và dịch vụ mà không phải tham gia vào sản xuất nông nghiệp. Những đô thị nhỏ nằm giữa các thành phố và khu vực nông thôn sẽ đem lại cho nó những đặc trưng về lối sống của cả hai khu vực nên những người nông dân ở đây sẽ dễ dàng định cư hơn là các thành phố lớn. Các chi phí ở đây cũng thấp hơn các thành phố lớn và đặc biệt hơn, về mặt giao thông, những đô thị này sẽ thuận lợi hơn cho việc gia nhập của nông dân ở các vùng lân cận. Những người nhập cư vào các đô thị nhỏ có thể dễ tìm được việc làm nhanh hơn so với các đô thị lớn. Ngoài ra, ở các đô thị nhỏ, người nông dân sẽ dễ dàng hơn trong việc khởi sự kinh doanh, vì ở đây có điều kiện cạnh tranh thấp hơn và yêu cầu vốn ít hơn. 2. Nông nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh: 2.1. Cơ cấu sản xuất nông nghiệp: Có thể thấy biến động cơ cấu sản xuất nông nghiệp của ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh trước hết qua biến động cơ cấu đất nông nghiệp nói chung và đất canh tác một số nhóm cây trồng chính nói riêng. Bảng 7 : Tình hình sử dụng đất ở thành phố Hồ Chí Minh thời kỳ 1999 - 2000 Đơn vị: 1.000 ha Loại đất 1990 1995 2000 Chênh lệch 2000 - 1995 2000 - 1990 Tổng diện tích 209,376 209,377 209,501 126 126 I. Đất nông nghiệp 101,461 99,164 95,288 -3,876 -6,173 - Đất trồng cây hàng năm 80,824 75,289 68,712 -6,577 -12,112 - Đất vườn tạp 12,068 12,068 11,294 -0,774 -0,774 - Đất trồng cây lâu năm 6,186 7,822 10,856 3,034 4,670 - Đất có dùng vào chăn nuôi 0,063 0,276 0,277 0,001 0,214 - Đất có mặt nước trồng thủy sản 2,320 3,710 4,149 0,440 1,829 II. Đất lâm nghiệp 33,360 34,658 33,472 -1,185 -158 - Rừng tự nhiên 12,962 10,150 -2,811 10,150 - Rừng trồng 21,694 23,322 1,628 23,322 - Đất ươm cây trồng 0,002 0,000 -0,002 0,000 III. Đất chuyên dùng 28,132 32,399 40,530 8,132 12,398 IV. Đất chưa sử dụng 44,650 43,156 40,211 -2,945 -4,439 - Đất có mặt nước chưa sử dụng 1,839 1,567 3,143 1,576 1,304 - Sông suối 33,427 34,011 32,586 -1,426 -841 - Đất chưa sử dụng khác 9,384 7,577 4,482 -3,095 -4,902 Nguồn: Số liệu thống kê của Sở Địa chính - Nhà đất thành phố Hồ Chí Minh năm 2001 Qua bảng trên, nhìn tổng có thể thấy đất nông nghiệp đã bị giảm hơn 6.000 ha, sau 10 năm. Trong đó có một nhóm cây có biến động mạnh mẽ về diện tích canh tác: đất trồng lúa giảm hơn 6.000 ha; đất trồng cây hàng năm khác cũng giảm hơn 6.000 ha; đất cây lâu năm tăng hơn 4.500 ha, đất nuôi trồng thủy sản tăng gần 2.000 ha. Các loại cây có giá trị kinh tế thấp hoặc sử dụng nhiều lao động sống đang có xu hướng giảm dần diện tích. Cây cao su, cây dứa là những cây cần ít lao dộng hơn, cho giá trị kinh tế cao hơn đang được tăng dần diện tích canh tác. Trong quá trình đô thị hóa, song song với việc giảm diện tích những loại cây trồng cần nhiều lao động, hoặc cho giá trị thu nhập không cao, là sự gia tăng diện tích nuôi trồng thủy sản và quy mô đàn vật nuôi. Trong đó phải kể đến sự gia tăng với tốc độ cao của đàn bò sữa từ 4.153 con năm 1999 lên đến 25.089 con năm 2000 và đàn lợn tương ứng là 157.457 con và 211.719 con; đàn gia cầm đang có xu hướng tăng chậm dần… Kết quả của sự chuyển dịch về các nhân tố như: diện tích canh tác, diện tích gieo trồng, số đàn gia súc… là sự thay đổi về cơ cấu giá trị sản xuất của ngành nông nghiệp. Sau 10 năm, từ năm 1990 đến năm 2000, tỷ trọng giá trị sản xuất của ngành trồng trọt mỗi năm giảm được gần 1,7%, ngành chăn nuôi tăng hơn 1,1% và ngành dịch vụ nông nghiệp cũng tăng gần 1% mỗi năm. Tỷ trọng giá trị của ngành trồng trọt giảm từ 56,2% xuống 39,9%; chăn nuôi tăng từ 22,8% lên 39,9%; ngành dịch vụ nông nghiệp tăng từ 1,7% lên 9,6% trong tổng giá trị sản xuất của các ngành nông, lâm, thủy sản của thành phố Hồ Chí Minh. Có thể kết luận bước đầu về sự phát triển nông nghiệp của thành phố Hồ Chí Minh như sau: Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng sản xuất nông nghiệp bình quân hàng năm đang có xu hướng chậm dần. Giá trị sản xuất giai đoạn 1990 - 2000 tăng trưởng bình quân 2,84%/năm; trong đó giai đoạn 1996 - 2000 chỉ tăng 0,63%/năm. Thứ hai, trong cơ cấu cây trồng của thành phố Hồ Chí Minh đang có xu hướng chuyển sang trồng các loại cây tốn ít lao động sống. Điều này cho thấy thành phố đang có xu hướng khan hiếm lao động trong nông nghiệp. Sự khan hiếm đó cho thấy, một mặt, là sự phát triển rất mạnh của các ngành phi nông nghiệp, do vậy đã tạo ra sức hút khá mạnh nguồn lao động từ nông nghiệp của thành phố, mặt khác đó là sự giảm sút sức hấp dẫn của nông nghiệp đối với lao động. Thứ ba, nhìn một cách tổng thể, sự mất đất nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa ở thành phố Hồ Chí Minh không gây khó khăn cho nông nghiệp, nông thôn của ngoại thành. Thứ tư, cơ cấu sản xuất nông nghiệp của thành phố Hồ Chí Minh đang chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy nhiên, phạm vi tác động của quá trình này chưa toàn diện, chủ yếu tập trung trong ngành chăn nuôi. Thứ năm, so với Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh có tiềm năng rất lớn về nuôi trồng thủy sản, về phát triển nông, lâm nghiệp gắn với phát triển du lịch sinh thái. Thứ sáu, kinh nghiệm về chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp của thành phố Hồ Chí Minh cho thấy vai trò quan trọng của các cơ quan quản lý nhà nước, của doanh nghiệp nhà nước trong quá trình phát triển đàn bò sữa, sản xuất và cung cấp giống lợn, giống tôm nhằm đẩy mạnh phát triển ngành chăn nuôi và thủy sản. Huớng tác động chinh của Nhà nước là khâu công nghệ. Ngoài ra, ở một số huyện ngoại thành còn có vai trò cung cấp tín dụng ưu đãi của Nhà nước cho các hộ nông dân. Điều đó cho phép họ có điều kiện thuận lợi hơn tiếp cận với các tiến bộ công nghệ mới. Thứ bảy, trong bài học về phát triển đàn bò sữa của thành phố Hồ Chí Minh còn cho thấy vai trò có ý nghĩa quyết định của thành phần kinh tế nhà nước trong việc giải quyết vấn đề tiêu thụ sản phẩm cho nông dân. Đồng thời cũng cho thấy vai trò chỉ đạo của lãnh đạo thành phố trong quá trình thúc đẩy Vinamilk đến với các hộ chăn nuôi bò sữa. 2.2. Kinh nghiêm giải quyết vấn đề đất đai: Theo tinh thần của Nghị định 22/HĐCP, thành phố Hồ Chí Minh không ban hành các văn bản triển khai Nghị định 22, mà tuân thủ theo đúng những quy định của Nghị định. Giá đền bù đất đai mà Nhà nước thu hồi được quy định bằng giá chuyển nhượng đất nông nghiệp thực tế tại thời điểm khi dự án được phê duyệt. Tuy nhiên, đa phần các dự án đều được thẩm định giá đền bù thấp hơn giá thị trường 10 - 15%. Mặc dù vậy, các hộ có đất bị thu hồi vẫn tự giác chấp hành, vì bên cạnh mức đền bù thiệt hại về đất, người có đất bị thu hồi còn được đền bù thiệt hại về tài sản trên đất, trợ cấp đời sống và xã hội cho sự di chuyển chỗ ở và địa điểm kinh doanh, chi phí chuyển đổi nghề nghiệp…Như vậy, họ nhận được tổng số tiền cao hơn giá chuyển nhượng thực tế tại địa điểm và thời điểm có đất bị thu hồi. Đây là lý do chính làm cho vấn đề giải quyết mặt bằng ở thành phố Hồ Chí Minh không trở thành vấn đề bức xúc như ở một số địa phương khác. Trong quá trình thực hiện, với tư cách là cơ quan quản lý nhà nước về đất đai, Sở Địa chính - Nhà đất thường theo dõi sát sao diễn biến thực tế để chủ động đề xuất với Ủy ban nhân dân thành phố điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất một cách hợp lý ở một số địa điểm. Bên cạnh việc chủ động điều chỉnh một cách hợp lý quy hoạch sử dụng đất, Sở Địa chính - Nhà đất thành phố Hồ Chí Minh cũng chủ động kiến nghị với Ủy ban nhân dân thành phố về trình tự, thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất đồng thời với chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp thành đất phi nông nghiệp. Cách làm này vừa góp phần quan trọng trong việc đưa các sự thay đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp vào trật tự, vừa góp phần tăng thu cho ngân sách nhà nước qua thu thuế chuyển quyền sử dụng đất, qua thu lệ phí trước bạ theo giá đất phi nông nghiệp. Từ thực tiễn giải quyết vấn đề đất đai của thành phố Hồ Chí Minh, có thể rút ra một số bài học sau đây: Thứ nhất, việc đặt ra các mốc thời gian cho việc xác định khung giá đất nhảy vọt là kẽ hở cho nạn tham nhũng. Do vây, cần tạo ra một khuôn khổ pháp lý để điều chỉnh giá đất dần dần bám sát sự biến động của giá thị trường. Thứ hai, việc phân biệt đất đô thị, đất nông thôn theo ranh giới hành chính là không hợp lý. Tại một khu vực, với hai lô đất thuộc hai đơn vị hành chính khác nhau sẽ khác nhau về thẩm quyền giao đất, khác nhau về quy định giá đất. Thực tế là hai lô này cùng mặt bằng giá. Do đó, cần có một khuôn khổ pháp lý để định giá đất và quản lý đất cho khu vực đô thị hóa, mà không phụ thuộc vào ranh giới đơn vị hành chính. Thứ ba, về quan điểm chính sách đền bù khi thu hồi đất, trong đó có hai quan điểm trái ngược nhau: quan điểm thứ nhất cho rằng nên đền bù theo giá thị trường, mua bán sòng phẳng giữa Nhà nước và nông dân. Theo đó nông dân cảm thấy thỏa đáng, và Nhà nước không cần tốn nhiều công sức để lo cho dân về công ăn việc làm, mà tự dân lo liệu. Quan điểm khác cho rằng, có thể đền bù theo giá thấp hơn giá thị trường và Nhà nước sẽ hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp cho nông dân. Khi đó, ngoài cơ quan thẩm định giá đất, Nhà nước cần có thêm cơ quan lo chuyển đổi nghề cho nông dân. Theo đó thì quan điểm thứ nhất là hợp lý hơn. Vì thực tế Nhà nước cũng không thể lo chuyển đổi nghề nghiệp cho từng người dân. Trong điều kiện kinh tế thị trường, Nhà nước chỉ nên tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động tự tìm kiếm công ăn việc làm, chứ không thể là người trực tiếp bố trí công ăn việc làm cho từng người lao động cụ thể. 2.3. Kinh nghiệm tạo việc làm và giải quyết việc làm ở khu vực ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh: Khi thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tất yếu sẽ dẫn đến một bộ phận lao động nông nghiệp bị dư thừa. Giải quyết việc làm cho bộ phận lao động này là vấn đề quan trọng để ổn định cuộc sống cho người dân. Để từng bước tạo việc làm, cải thiện thu nhập cho bộ phận nông dân và lao động không có việc làm, các cấp chính quyền thành phố đã thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau đây: Một là, tăng cường quản lý nguồn lao động ở khu vực ngoại thành và xác định nhu cầu nghề nghiệp và việc làm. Từ năm 1995, hàng năm thành phố đều tổ chức điều tra về lao động, việc làm ở khu vực ngoại thành. Trên cơ sở đó, các cấp chính quyền và các tổ chức xã hội nắm bắt được danh sách lao động chưa có việc làm và nhu cầu tìm việc làm của lao động. Việc đánh giá về sự chuyển dịch lao động, trình độ nghề nghiệp, chuyên môn kỹ thuật, nhu cầu và khả năng học nghề tạo cơ sở cho việc thực hiện các chương trình việc làm và phối hợp có hiệu quả các chương trình phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn thành phố. Hai là, thực hiện chương trình việc làm ở khu vực ngoại thành trong quá trình đô thị hóa. Chương trình này được thực hiện bằng một số biện pháp cụ thể sau: - Tổ chức đào tạo nghề gắn với bố trí việc làm theo các ngành nghề mới phát triển ở nông thôn, các khu công nghiệp mới. Trong những năm 1993 - 2000, thành phố đã xây dựng mới 10 trung tâm dạy nghề ở 5 huyện ngoại thành cũ, nâng cấp 1 trường công nhân kỹ thuật ở huyện Củ Chi, 1 trường trung học nghề ở quận 7; thành lập mới 1 trường cao đẳng nghề ở khu chế xuất Tân Thuận. Các cơ sở dạy nghề ở ngoại thành đã có khả năng đào tạo lao động tại chỗ với số lượng 20.000 học viên/năm và hàng năm có thể thu hút 6.000 - 8.000 lao động ở khu vực nông thôn vào các nghề: sửa chữa xe máy, ô tô, lái xe, may công nghiệp, may gia dụng, cơ khí, điện tử, điện công nghiệp, sơn mài, mộc, mỹ nghệ, các nghề thủ công, v.v… - Gắn hoạt động dạy nghề với tổ chức hướng nghiệp, thông tin lao động, tư vấn và giới thiệu việc làm cho lao động ở nông thôn. Ở hầu hết các huyện ngoại thành đã hình thành và phát triển các loại hình văn phòng, chi nhánh, trung tâm tư vấn việc làm. Mỗi năm, các cơ sở này đã tìm việc làm cho khoảng 30.000 lao động, trong đó có trên 10.000 lao động ở khu vực nông thôn có việc làm trong các doanh nghiệp, khu chế xuất. - Gắn đào tạo nghề ở khu vực ngoại thành với chương trình xuất khẩu lao động. - Giải quyết việc làm cho lao động ở khu vực ngoại thành theo dự án nhỏ, vay vốn từ quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm. Ngoài ra, thành phố đã hình thành các nguồn quỹ hỗ trợ việc làm ở khu vực ngoại thành như quỹ xóa đói giảm nghèo, quỹ CEP của Liên đoàn lao động thành phố, quỹ của Hội liên hiệp phụ nữ thành phố, quỹ hỗ trợ đào tạo nghề của các hội và tổ chức đoàn thể (Hội nông dân, Hội cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, v. v…) Từ đó có thể rút ra một số bài học như sau: Một là, không ngừng hoàn thiện cơ chế chính sách tập trung giải quyết việc làm ở khu vực ngoại thành, coi đó là một trong những nhiệm vụ trọng tâm cấp bách của các ngành, các cấp. Hai là, thúc đẩy các hoạt động phi nông nghiệp tạo việc làm mới tại chỗ ở khu vực nông thôn. Ba là, tăng cường đầu tư xây dựng các cơ sở đào tạo nghề, đặc biệt chú trọng lao động trẻ ở khu vực nông thôn. Bốn là, xây dựng cơ chế phối hợp đồng bộ giữa đào tạo nghề với thông tin, tư vấn giới thiệu việc làm. Năm là, thực hiện đồng bộ cơ chế phối hợp giữa doanh nghiệp, các khu công nghiệp, khu chế xuất với chính quyền địa phương trong việc ưu tiên tuyển dụng lao động ở địa phương do bị thu hồi đất sản xuất nông nghiệp. 2.4. Kinh nghiệm về hạn chế ô nhiễm môi trường ở khu vực ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh: a) Tăng cường công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường: - Hoàn thiện quy chế quản lý và bảo vệ môi trường trên địa bàn thành phố. Sở Khoa học - Công nghệ và Môi trường nghiên cứu áp dụng các tiêu chuẩn, chính sách cụ thể và quy trình trong công tác quản lý nhà nước về môi trường. - Tăng cường vai trò và nhiệm vụ quản lý nhà nước về môi trường của Ủy ban nhân dân quận, huyện, phường, xã cụ thể. + Ủy ban nhân dân thành phố hướng dẫn, chỉ đạo Ủy ban quận, huyện xây dựng chương trình, kế hoạch phù hợp với yêu cầu quản lý và sử dụng đất trên địa bàn. + Xây dựng các dự án chuyên đề, tổ chức triển khai mô hình mẫu về quản lý môi trường để rút kinh nghiệm, nhân rộng trong nhiều lĩnh vực như quản lý rác thải đô thị, xử lý nước thải, khí thải công nghiệp… + Thực hiện có hiệu quả các dự án nhằm giải quyêt những vấn đề bức xúc về rác thải, ô nhiễm công nghiệp, sự cố môi trường…nhằm phục vụ tốt yêu cầu quản lý và bảo vệ môi trường. - Xây dựng và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống quan trắc chất lượng môi trường nước mặt, nước ngầm và không khí trên địa bàn phục vụ yêu cầu nghiên cứu, dự báo và ra quyết định. b) Thực hiện các chương trình phối hợp liên ngành về quản lý và bảo vệ môi trường như: thực hiện chương trình vận động, hỗ trợ xây dựng nhà vệ sinh hợp quy cách ở các phường, xã; xóa dần nhà vệ sinh trên các kênh, rạch để bảo vệ nguồn nước mặt… c) Chương trình phòng, chống và khắc phục ô nhiễm môi trường trong ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp: Sở Khoa học - Công nghiệp và Môi trường đã thực hiện một số biện pháp cụ thể để hạn chế ô nhiễm môi trường như: - Lập “sách đen” đối với các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp gây ô nhiễm môi trường. Thành phố đã tổ chức khảo sát, phân tích, đánh giá mức độ ô nhiễm môi trường và công bố “sách đen” gồm 87 xí nghiệp, nhà máy trong các ngành sản xuất bột giấy, dệt, nhuộm, thuộc da… Đến năm 2001, đã có 1/3 số doanh nghiệp này thực hiện các biện pháp khắc phục ô nhiễm hoặc di chuyển đến địa điểm thích hợp. - Lập “sách xanh” giới thiệu rộng rãi các mô hình tiêu biểu với các giải pháp kỹ thuật xử lý chất thải, thực hiện tốt các quy định về bảo vệ môi trường. - Xây dựng quy hoạch phát triển các khu công nghiệp tập trung ở vùng ngoại thành… d) Tích cực triển khai có hiệu quả các chương trình, dự án về quản lý và bảo vệ môi trường: Trong những năm gần đây, thành phố đã thu hút và triển khai có hiệu quả nhiều dự án quốc tế về quản lý và bảo vệ môi trường như: - Dự án “Nâng cao năng lực quản lý môi trường” do UNDP tài trợ. - Dự án “Quy hoạch cải thiện môi trường” vay vốn của ADB. - Dự án “Sản xuất sạch hơn” do SIDA - Thụy Điển tài trợ. - Dự án “Quy hoạch thoát nước đô thị và cải tạo kênh Tàu Hủ” do JICA tài trợ. - Dự án “Cải tạo kênh Tân Hóa - Lò gốm” do chính phủ Bỉ tài trợ. e) Đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền, nâng cao nhận thức và năng lực bảo vệ môi trường: - Thành phố tập trung tổ chức các chương trình tập huấn về nghiệp vụ quản lý kỹ thuật, phổ biến pháp luật về môi trường cho đội ngũ cán bộ cáccấp. - Hướng dẫn các huyện, xã, tổ dân phố thực hiện các chương trình hành động về môi trường nhằm lôi cuốn đông đảo các tầng lớp dân cư tham gia tích cực các phong trào bảo vệ môi trường. - Xây dựng mạng lưới cán bộ chuyên trách môi trường ở các địa phương và đơn vị cơ sở. Tóm lại, từ những bài học thành công và chưa thành công trong công tác quản lý và bảo vệ môi trường ở thành phố Hồ Chí Minh, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau đây: Một là, tăng cường quản lý nhà nước về quản lý và bảo vệ môi trường, bao gồm các biện pháp sau: - Thiết lập hệ thống quản lý nhà nước về môi trường đến cấp phường - xã. Ở cấp huyện, xã cần có đội ngũ cán bộ chuyên trách, đủ năng lực, được đào tạo, bồi dưỡng về quản lý môi trường. - Tăng cường phân cấp, nâng cao trách nhiệm, thẩm quyền cho cấp quận, huyện và phường, xã trong việc quản lý, thẩm định dự án, xử phạt hành chính về môi trường. - Thiết lập cơ chế quản lý nhà nước và bảo vệ môi trường liên ngành. Hai là, thực hiện có hiệu quả các chính sách khuyến khích bảo vệ môi trường, như: - Miễn hoặc giảm thuế nhập khẩu đối với các thiết bị mới, áp dụng công nghệ không gây ô nhiễm môi trường. - Cho vay ưu đãi với lãi suất thấp cho các công trình xử lý chất thải. - Kiên quyết di dời hoặc đình chỉ sản xuất đối với các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. - Phát hành “nhãn xanh” cho sản phẩm, cơ sở dịch vụ kinh doanh và công trình đạt tiêu chuẩn môi trường. - Đánh thuế phí ô nhiễm môi trường đối với các cơ sở gây ô nhiễm môi trường… Ba là, tăng cường đầu tư cho quản lý và bảo vệ môi trường. - Thực hiện các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chuyên trách và cán bộ có liên quan về quản lý và bảo vệ môi trường. - Tăng cường đầu tư từ nguồn vốn ngân sách để trang bị các phương tiện hiện đại phục vụ cho công tác khảo sát, đánh giá tác động môi trường phục vụ đắc lực kịp thời cho công tác nghiên cứu và ra quyết định. Thực hiện xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường nhằm thu hút các nguồn lực. Với những kinh nghiệm của các nước bạn và của thành phố HCM, Hà Nội đã có được những bài học quý báu để xây dựng và thực hiện tốt hơn kế hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế của mình. KẾT LUẬN Với sự phân tích những cơ sở khoa học trên cùng những kinh nghiệm của các nước và thành phố trên thế giới và ở Việt Nam, Hà Nội đã có cơ sở lý luận vững chắc để tiến hành chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ngoại thành nhằm đưa nền nông nghiệp thủ đô đạt được những hiệu quả tốt nhất. Tuy nhiên, quá trình này còn gặp rất nhiều khó khăn và cản trở cả về mặt khách quan lẫn chủ quan. Vì vậy rất cần sự quan tâm hỗ trợ của thành phố và của nhà nước thông qua nhiều biện pháp kinh tế như: huy động và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư, đào tạo phát triển nguồn nhân lực và có chính sách thu hút nhân tài, đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu khoa học và ứng dụng KHCN vào sản xuất, phát triển và nâng cấp cơ sở hạ tầng, hoàn thiện quy hoạch phát triển kinh tế thủ đô, nghiên cứu và mở rộng thị trường… Ngoài ra, với đặc điểm là nông nghiệp của một thành phố lớn, nông nghiệp Hà Nội cũng cần tập trung phát triển các loại hình du lịch sinh thái để khai thác hết tiềm năng vốn có của nông nghiệp, cần chú trọng vào vấn đề bảo vệ và cải tạo môi trường, và vấn đề thẩm mỹ nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng thủ đô. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ngoại thành Hà Nội là một chủ trương đúng đắn và hợp với xu thế phát triển của kinh tế đất nước và yêu cầu hội nhập. Chúng ta cần thực hiện tốt để đảm bảo sự phát triển bền vững của nền kinh tế. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Ảnh hưởng của đô thị hóa đến nông thôn ngoại thành Hà Nội - NXB Chính trị quốc gia. Giáo trình kinh tế phát triển nông thôn - NXB Thống kê Nông nghiệp Việt Nam trên con đường CNH, HĐH - NXB Thành phố HCM Tạp chí Kinh tế và phát triển - Số 82 tháng 4/2004 Tạp chí Kinh tế và phát triển - Số 86 tháng 8/2004 Tạp chí Kinh tế và phát triển - Số 88 tháng 10/2004 Tạp chí Kinh tế và phát triển - Số 99 tháng 9/2005 Tạp chí Kinh tế và phát triển - Số 112 tháng 10/2006 Tạp chí Kinh tế và phát triển - Số 114 tháng 12/2006 Tạp chí Phát triển kinh tế - Số 191 tháng 9/2006 Tạp chí Nông nghiệp&phát triển nông thôn - Số 2 năm 2006 Tạp chí Nông nghiệp&phát triển nông thôn - Số 15 năm 2006 Tạp chí Thương mại - Số 26(436) tháng 9 - 10 năm 2006

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của chuyển dịch kinh tế nông nghiệp ngoại thành Hà Nội.DOC
Luận văn liên quan