Đề tài Một số giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản trị công ty cổ phần

MỤC LỤC Trang Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về quản trị công ty cổ phần . 3 I. Quan niệm về quản trị công ty cổ phần. 3 II. Quản trị công ty cổ phần xét theo phương diện kết hợp hài hòa lợi ích của các bên 4 III. Các yếu tố chủ yếu của quản trị công ty cổ phần. 6 1.3.1. Về quyền của các cổ đông. 6 1.3.2. Về Hội đồng quản trị 6 1.3.3. Về quản trị điều hành, thù lao và hiệu quả hoạt động. 7 1.3.4. Về công khai hóa thông tin và sự minh bạch. 8 Chương 2: Thực trạng điều chỉnh pháp luật về quản trị công ty cổ phần 9 I. Thực trạng điều chỉnh pháp luật về quyền của cổ đông. 9 1. Các quyền của cổ đông nói chung theo quy định của pháp luật9 2. Về vấn đề bảo vệ các cổ đông thiểu số 9 II. Thực trạng điều chỉnh pháp luật Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát của công ty. 10 1. Thực trạng điều chỉnh pháp luật về Hội đồng quản trị 10 2. Thực trạng điều chỉnh pháp luật về Ban kiểm soát12 3. Về quản trị điều hành, thù lao và hiệu quả hoạt động. 13 4. Đảm bảo minh bạch và công khai thông tin trong CTCP. 15 Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản trị công ty cổ phần 17 1. Những yêu cầu về tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản trị công ty cổ phần17 2. Một số kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản trị công ty cổ phần 18 Phụ lục. 20 Tài liệu tham khảo 24

doc26 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2696 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản trị công ty cổ phần, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đông và tất cả các bên có quyền và lợi ích liên quan, tạo ra môi trường minh bạch và thuận lợi cho đầu tư, kinh doanh. Xét về khía cạnh quản trị công ty, LDN năm 2005 đã phát triển thêm những đổi mới và tiến bộ về bảo vệ quyền lợi của cổ đông so với LDN năm 1999. Trong Luật có các quy định bảo vệ và tạo điều kiện cho việc thực hiện các quyền hạn chính đáng của các chủ sở hữu; bảo đảm đối xử công bằng giữa các chủ sở hữu; công khai thông tin và minh bạch hoá cơ chế quản trị công ty; các quyền của HĐQT và cơ chế giám sát HĐQT của chủ sở hữu trong cơ chế quản trị công ty... Đó là cơ sở pháp lý quan trọng và cụ thể nhất cho hoạt động của quản trị doanh nghiệp hiện nay. Cụ thể, LDN năm 2005 đã thiết lập được những cơ chế hợp lý để bảo vệ cổ đông phổ thông (bao gồm cả cổ đông sáng lập), thừa nhận các quyền cơ bản của cổ đông phổ thông, cụ thể: - Được nhận cổ tức với mức theo quyết định của ĐHĐCĐ - Được tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho cổ đông khác và cho người không phải là cổ đông, trừ trường hợp cổ đông phổ thông của cổ đông sáng lập chỉ có thể chuyển nhượng cổ phần phổ thông của mình cho người không phải là cổ đông sáng lập nếu được sự chấp thuận của ĐHĐCĐ. - Quyền nhận và cung cấp thông tin - Quyền của cổ đông không giới hạn tỷ lệ sở hữu cổ phần phổ thông: i) quyền yêu cầu tòa án xem xét và hủy bỏ các quyết định của ĐHĐCĐ; ii) Quyền yêu cầu công ty mua lại cổ phần khi biểu quyết phản đối quyết định về việc tổ chức lại công ty hoặc thay đổi quyền và nghĩa vụ của cổ đông quy định tại Điều lệ; iii). Khi công ty giải thể hoặc phá sản, được nhận một phần tài sản còn lại tương ứng với số cổ phần góp vốn vào công ty - Bảo vệ cổ đông lớn, như bảo đảm cho họ quyền tham gia quản lý, điều hành và chi phối công ty. - Quy định về kiểm soát giao dịch tư lợi, như hợp đồng, giao dịch phải được ĐHĐCĐ hoặc HĐQT chấp thuận (Điều 120). - Các quyền tham gia vào hoạt động quản lý của công ty 2. Về vấn đề bảo vệ các cổ đông thiểu số Bên cạnh việc tạo cơ sở pháp lý cho các cổ đông có điều kiện và cơ hội thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu công ty, thì LDN năm 2005 cũng bảo vệ mạnh hơn quyền và lợi ích của cổ đông thiểu số như: - Cổ đông có quyền xem xét, tra cứu, trích lục hoặc sao chụp Điều lệ công ty, sổ biên bản họp ĐHĐCĐ và các nghị quyết của ĐHĐCĐ (điểm e khoản 1 Điều 79); nhóm cổ đông sở hữu trên 10% tổng số cổ phần phổ thông trong thời hạn liên tục ít nhất sáu tháng hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty có các quyền sau đây: Xem xét và trích lục sổ biên bản và các nghị quyết của HĐQT, báo cáo tài chính giữa năm và hằng năm theo mẫu của hệ thống kế toán Việt Nam và các báo cáo của Ban kiểm soát; yêu cầu triệu tập họp ĐHĐCĐ; yêu cầu Ban kiểm soát kiểm tra từng vấn đề cụ thể liên quan đến quản lý, điều hành hoạt động của công ty khi xét thấy cần thiết. - Một số cơ chế khá hiệu quả nhằm bảo vệ quyền của cổ đông đã được áp dụng rộng rãi trên thế giới được thừa nhận trong LDN năm 2005. - Quy định cho phép cổ đông ủy quyền bằng văn bản cho bên thứ ba để chủ thể này biểu quyết thay mình tại các cuộc họp ĐHĐCĐ. - Quy định cho phép nhóm cổ đông sở hữu trên 10% tổng số cổ phần phổ thông trong thời hạn liên tục ít nhất sáu tháng hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty có quyền kiến nghị vấn đề đưa vào chương trình họp ĐHĐCĐ cho người triệu tập họp ĐHĐCĐ. Người triệu tập họp ĐHĐCĐ phải chấp nhận và đưa kiến nghị này vào dự kiến chương trình và nội dung cuộc họp (trừ trường hợp kiến nghị được gửi đến không đúng thời hạn hoặc không đủ, không đúng nội dung; vấn đề kiến nghị không thuộc thẩm quyền quyết định của ĐHĐCĐ; và các trường hợp khác theo quy định của Điều lệ công ty). Kiến nghị được chính thức bổ sung vào chương trình và nội dung cuộc họp nếu được ĐHĐCĐ chấp thuận. Với trường hợp cổ đông biểu quyết phản đối quyết định về việc tổ chức lại công ty hoặc thay đổi quyền, nghĩa vụ của cổ đông quy định tại Điều lệ công ty có quyền yêu cầu công ty mua lại cổ phần của mình. Yêu cầu phải bằng văn bản, trong đó nêu rõ tên, địa chỉ của cổ đông, số lượng cổ phần từng loại, giá dự định bán, lý do yêu cầu công ty mua lại. Yêu cầu phải được gửi đến công ty trong thời hạn mười ngày làm việc, kể từ ngày ĐHĐCĐ thông qua quyết định. Đây là một công cụ hữu hiệu mà tất cả các cổ đông đều có quyền sử dụng để bảo vệ lợi ích của mình theo các điều kiện quy định. II. Thực trạng điều chỉnh pháp luật về Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát của công ty Thực trạng điều chỉnh pháp luật về Hội đồng quản trị Theo thông lệ quốc tế, HĐQT là một cơ quan có quyền lực cao nhất của doanh nghiệp - nơi vạch ra những chiến lược và giám sát hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. HĐQT được xác định là "cơ quan quản lý công ty" và "có toàn quyền nhân danh công ty để giải quyết tất cả các vấn đề, trừ các vấn đề thuộc thẩm quyền của ĐHĐCĐ", khoản 2 Điều 108 LDN năm 2005 đã quy định khá đầy đủ quyền và nhiệm vụ của HĐQT. So với quyền và nhiệm vụ được quy định trong LDN năm 1999 thì quyền và nhiệm vụ của HĐQT được quy định ở LDN năm 2005 (khoản 2 Điều 108) có quy định thêm thẩm quyền về giám sát của HĐQT, cụ thể: giám sát, chỉ đạo Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và người quản lý khác trong điều hành công việc kinh doanh hằng ngày của công ty. Tuy nhiên, các quy định về quyền và nhiệm vụ của HĐQT vẫn nghiêng về khía cạnh quản lý trực tiếp và còn mờ nhạt về vấn đề giám sát. So với LDN năm 1999, thì LDN năm 2005 quy định về cách thức tổ chức và vận hành của cơ quan này đã có một số thay đổi cơ bản theo hướng cởi mở, tạo sự yên tâm cho các nhà đầu tư trong phần vốn của mình bỏ ra để kinh doanh và tiếp cận gần hơn với các qui tắc được thừa nhận rộng rãi, cụ thể: Về HĐQT, LDN năm 1999 không quy định tiêu chuẩn của thành viên HĐQT. Trong điều kiện và thực tế ở Việt Nam, điều này là hoàn toàn phù hợp với các công ty cổ phần khu vực tư nhân. Tuy nhiên đối với các CTCP lớn, CTCP có sự tham gia vốn của đối tác nước ngoài hoặc CTCP có sự tham gia vốn của Nhà nước, nhất là vốn đa số thì nảy sinh nhiều vấn đề không thể kiểm soát được. Vấn đề này, LDN năm 2005 áp dụng thống nhất cho bốn loại hình cơ bản của doanh nghiệp (đại bộ phận số doanh nghiệp hiện nay), gồm công ty trách nhiệm hữu hạn, CTCP, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân, không phân biệt tính chất sở hữu và thành phần kinh tế (khác với LDN năm 1999), vì thế sẽ có các CTCP có sự tham gia vốn của đối tác nước ngoài hoặc CTCP có sự tham gia vốn của Nhà nước, nhất là vốn đa số. Do đó, để tránh những vấn đề nảy sinh không thể kiểm soát được, LDN năm 2005 đã quy định rõ tiêu chuẩn của thành viên HĐQT. "1. Thành viên HĐQT phải có các tiêu chuẩn và điều kiện sau đây: a) Có đủ năng lực hành vi dân sự, không thuộc đối tượng bị cấm quản lý doanh nghiệp theo quy định của Luật này; b) Là cổ đông cá nhân sở hữu ít nhất 5% tổng số cổ phần phổ thông hoặc người khác có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm trong quản lý kinh doanh hoặc trong ngành, nghề kinh doanh chủ yếu của công ty hoặc tiêu chuẩn, điều kiện khác quy định tại Điều lệ công ty. 2. Đối với công ty con là công ty mà Nhà nước sở hữu số cổ phần trên 50% vốn điều lệ thì thành viên Hội đồng quản trị không được là người liên quan của người quản lý, người có thẩm quyền bổ nhiệm người quản lý công ty mẹ" (Điều 110) Về nhiệm kỳ và số lượng thành viên HĐQT, Luật quy định cụ thể như sau: (i) HĐQT có không ít hơn 3 thành viên, không quá 11 thành viên, nếu Điều lệ công ty không có quy định khác. Số thành viên HĐQT phải thường trú ở Việt Nam do Điều lệ công ty quy định. Nhiệm kỳ của HĐQT là 5 năm. Nhiệm kỳ của thành viên HĐQT không quá 5 năm; thành viên HĐQT có thể được bầu lại với số nhiệm kỳ không hạn chế. (ii) HĐQT của nhiệm kỳ vừa kết thúc tiếp tục hoạt động cho đến khi HĐQT mới được bầu và tiếp quản công việc. (iii) Trường hợp có thành viên được bầu bổ sung hoặc thay thế thành viên bị miễn nhiệm, bãi nhiệm trong thời hạn nhiệm kỳ thì nhiệm kỳ của thành viên đó là thời hạn còn lại của nhiệm kỳ HĐQT. (iv) Thành viên HĐQT không nhất thiết phải là cổ đông của công ty. Quy định như trên là hợp lý và phù hợp với đặc thù của mỗi doanh nghiệp, ĐHĐCĐ được tự quyền quyết định số thành viên HĐQT phải thường trú tại Việt Nam và được thể hiện cụ thể trong Điều lệ công ty. Để tạo áp lực cho các thành viên HĐQT phải hoàn thành nhiệm vụ được giao, thực hiện đúng các nghĩa vụ và trách nhiệm theo luật định, LDN năm 2005 đưa ra quy định "…thành viên HĐQT có thể bị miễn nhiệm bất cứ lúc nào theo quyết định của ĐHĐCĐ mà không cần nêu lý do" (khoản 2 Điều 115). [khoản 1 Điều 84 LDN năm 1999 quy định hai trường hợp theo đó thành viên HĐQT bị miễn nhiệm (bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự, hoặc từ chức); còn các trường hợp khác do Điều lệ công ty quy định. Như vậy, kết quả là thành viên HĐQT chỉ có thể bị thay thế khi hết nhiệm kỳ, không phụ thuộc vào năng lực, hiệu quả và mức độ hoàn thành các nghĩa vụ của họ. Sự thiếu vắng quy định thay thế thành viên HĐQT của cổ đông, nhóm cổ đông đa số sẽ gây tổn thất cho nhóm này, khi thành viên HĐQT có những quyết định không phù hợp trái với ý định của "ông chủ lớn". Rõ ràng cơ cấu này chưa tạo đủ áp lực buộc thành viên HĐQT phải hoạt động với hiệu năng cao nhất, thực hiện đầy đủ nhất các nghĩa vụ và trách nhiệm của họ]. Liên quan đến thành viên HĐQT độc lập, thực tế hoạt động của các CTCP thời gian qua cho thấy, thành viên HĐQT đều tham gia điều hành; không có thành viên “độc lập” như thường thấy trong các công ty cổ phần ở các nước theo trường phái Thông luật. Chính vì vậy, khả năng của HĐQT giám sát ban điều hành thông qua một uỷ ban giám sát, hay thông qua đơn vị kiểm toán nội bộ của doanh nghiệp, là vấn đề rất yếu kém, thậm chí, HĐQT chưa làm được việc đó. Tránh vết xe đổ PJICO bằng quản trị tốt Một trong những bài học mà các chủ sở hữu PJICO rút ra sau vụ việc Tổng giám đốc bị bắt là do HĐQT và ban kiểm soát đều làm việc kiêm nhiệm, thời gian dành cho công ty quá ít dẫn đến sai phạm cũng không biết. Vấn đề này đang được nhiều công ty cổ phần Việt Nam rút kinh nghiệm. [46, 20/6/2005, 11:20 GMT+7] Nhằm giám sát sự lạm quyền của ban giám đốc, khoản 4 Điều 109 LDN năm 2005 quy định: "Thành viên Hội đồng quản trị không nhất thiết phải là cổ đông của công ty". Thành viên HĐQT độc lập là những người không có liên quan gì đến các thành viên HĐQT giữ chức vụ điều hành, họ không có quan hệ kinh doanh hay quan hệ gì khác với công ty, quan chức công ty. Do không tham gia trực tiếp vào việc quản lý nên họ không có cơ hội như ban giám đốc để lạm dụng chức vụ vì lợi ích riêng. Tuy nhiên họ phải là những người “có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm trong quản lý kinh doanh hoặc tiêu chuẩn, điều kiện khác quy định tại điều lệ công ty” (khoản 1 Điều 110). Luật mới còn quy định “cuộc họp của HĐQT được tiến hành khi có từ ba phần tư tổng số thành viên trở lên” (khoản 8 Điều 112), là cao hơn luật cũ (chỉ cần hai phần ba). Đồng thời, một số yêu cầu liên quan đến họp HĐQT nay đã được nâng lên thành luật, gồm các đề nghị của Ban kiểm soát, tổng giám đốc, của năm người quản lý và của hai thành viên HĐQT. Vậy, dù HĐQT có 11 người thì cũng chỉ cần hai người yêu cầu là phải họp. (Trong các quy định của LDN năm 1999, ngoài Chủ tịch HĐQT thì không nhắc gì đến các đối tượng khác được quyền triệu tập cuộc họp HĐQT. Vì vậy, trong thời gian qua có nhiều vấn đề lộn xộn ở các CTCP, hiện tượng phổ biến là Chủ tịch đã trì hoãn hoặc từ chối triệu tập họp HĐQT ngay cả khi có yêu cầu từ các thành viên khác. Hậu quả tiềm ẩn là các thành viên không có cùng quan điểm với Chủ tịch HĐQT nên không thể hoàn thành nghĩa vụ, trách nhiệm của mình theo luật định, ảnh hưởng tiêu cực đến quản trị công ty). Luật mới cũng quy định việc bầu HĐQT theo thể thức bầu dồn phiếu (điểm c khoản 3 Điều 104). 2. Thực trạng điều chỉnh pháp luật về Ban kiểm soát Theo thông lệ quốc tế chung, thì giám sát công tác quản lý điều hành là chức năng của HĐQT; còn Ban kiểm soát nếu có là “tai mắt” của chủ sở hữu với chức năng giám sát HĐQT, Tổng Giám đốc và của những người quản lý điều hành khác. Trước khi có LDN năm 2005, thực tế cho thấy vai trò thực sự của Ban kiểm soát còn yếu hơn cả trong quy định của pháp luật. Trong hoạt động, Ban kiểm soát thường mới chỉ thực hiện những yêu cầu, đề nghị của HĐQT, chưa thật sự khẳng định được tính độc lập trong quá trình công tác thực tế. Ban kiểm soát thường bị HĐQT chi phối. Bởi vì, thành viên HĐQT đều đồng thời là những cổ đông lớn; và cũng chính họ đã lựa chọn và bầu các thành viên Ban kiểm soát; đồng thời, quyết định cả về công ăn việc làm, về địa vị của thành viên Ban kiểm soát trong công ty, về tiền lương và thu nhập khác của các thành viên Ban kiểm soát [xem phụ lục 2]. Theo LDN năm 2005, CTCP có trên mười một cổ đông là cá nhân hoặc có cổ đông là tổ chức sở hữu trên 50% tổng số cổ phần của công ty phải có Ban kiểm soát. Về địa vị pháp lý, Ban kiểm soát là "cơ quan" của ĐHĐCĐ, được các cổ đông ủy nhiệm giám sát, đánh giá hoạt động của HĐQT. Ban kiểm soát thực hiện giám sát HĐQT, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc trong việc quản lý và điều hành công ty; chịu trách nhiệm trước ĐHĐCĐ trong thực hiện các nhiệm vụ được giao. Ban kiểm soát có các quyền và nhiệm vụ sau: (Điều 123) - Kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp, tính trung thực và mức độ cẩn trọng trong quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh, trong tổ chức công tác kế toán, thống kê và lập báo cáo tài chính. - Thẩm định báo cáo tình hình kinh doanh, báo cáo tài chính hằng năm và sáu tháng của công ty, báo cáo đánh giá công tác quản lý của HĐQT. Trình báo cáo thẩm định báo cáo tài chính, báo cáo tình hình kinh doanh hằng năm của công ty và báo cáo đánh giá công tác quản lý của HĐQT lên ĐHĐCĐ tại cuộc họp thường niên. - Xem xét sổ kế toán và các tài liệu khác của công ty, các công việc quản lý, điều hành hoạt động của công ty bất cứ khi nào nếu xét thấy cần thiết hoặc theo quyết định của ĐHĐCĐ hoặc theo yêu cầu của cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu trên 10% tổng số cổ phần phổ thông trong thời hạn liên tục ít nhất sáu tháng hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty. - Khi có yêu cầu của cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu trên 10% tổng số cổ phần phổ thông trong thời hạn liên tục ít nhất sáu tháng hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty, Ban kiểm soát thực hiện kiểm tra trong thời hạn bảy ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày kết thúc kiểm tra, Ban kiểm soát phải báo cáo giải trình về những vấn đề được yêu cầu kiểm tra đến HĐQT và cổ đông hoặc nhóm cổ đông có yêu cầu. Việc kiểm tra của Ban kiểm soát quy định tại khoản này không được cản trở hoạt động bình thường của HĐQT, không gây gián đoạn điều hành hoạt động kinh doanh của công ty. - Kiến nghị HĐQT hoặc ĐHĐCĐ các biện pháp sửa đổi, bổ sung, cải tiến cơ cấu tổ chức quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh của công ty. - Khi phát hiện có thành viên HĐQT, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc vi phạm nghĩa vụ của người quản lý công ty quy định tại Điều 119 của Luật này thì phải thông báo ngay bằng văn bản với HĐQT, yêu cầu người có hành vi vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm và có giải pháp khắc phục hậu quả. - Thực hiện các quyền và nhiệm vụ khác theo quy định của Luật này, Điều lệ công ty và quyết định của ĐHĐCĐ. - Ban kiểm soát có quyền sử dụng tư vấn độc lập để thực hiện các nhiệm vụ được giao. Ban kiểm soát có thể tham khảo ý kiến của HĐQT trước khi trình báo cáo, kết luận và kiến nghị lên ĐHĐCĐ. Liên quan đến qui trình hoạt động của Ban kiểm soát, LDN năm 2005 có quy định Ban kiểm soát có thể tham khảo ý kiến của HĐQT trước khi trình báo cáo, kết luận và kiến nghị lên ĐHĐCĐ (khác với LDN năm 1999 quy định bắt buộc là yêu cầu Ban kiểm soát phải thường xuyên thông báo với HĐQT về kết quả hoạt động, tham khảo ý kiến của cơ quan này trước khi trình các báo cáo, kết luận, kiến nghị lên ĐHĐCĐ). Bên cạnh đó, để tạo ra cơ chế giám sát HĐQT, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc trong việc quản lý và điều hành công ty có hiệu quả đối với hoạt động kinh doanh của công ty, LDN năm 2005 quy định "Ban kiểm soát có quyền sử dụng tư vấn độc lập để thực hiện các nhiệm vụ được giao" Về cung cấp thông tin cho Ban kiểm soát, LDN năm 2005 quy định: "1. Thông báo mời họp, phiếu lấy ý kiến thành viên Hội đồng quản trị và các tài liệu kèm theo phải được gửi đến thành viên Ban kiểm soát cùng thời điểm và theo phương thức như đối với thành viên Hội đồng quản trị; 2. Báo cáo của Giám đốc hoặc Tổng giám đốc trình Hội đồng quản trị hoặc tài liệu khác do công ty phát hành được gửi đến thành viên Ban kiểm soát cùng thời điểm và theo phương thức như đối với thành viên Hội đồng quản trị; 3. Thành viên Ban kiểm soát có quyền tiếp cận các hồ sơ, tài liệu của công ty lưu giữ tại trụ sở chính, chi nhánh và địa điểm khác; có quyền đến các địa điểm nơi người quản lý và nhân viên của công ty làm việc; 4. Hội đồng quản trị, thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, người quản lý khác phải cung cấp đầy đủ, chính xác và kịp thời thông tin, tài liệu về công tác quản lý, điều hành và hoạt động kinh doanh của công ty theo yêu cầu của Ban kiểm soát" (Điều 124). Để bảo đảm cho HĐQT, Tổng giám đốc/Giám đốc thực hiện đúng các nghĩa vụ mà ĐHĐCĐ đề ra cũng như tránh sự lạm dụng quyền lực, vị thế để trục lợi, LDN năm 2005 đã quy định tương đối chi tiết về Ban kiểm soát, tiêu chuẩn và điều kiện làm thành viên Ban kiểm soát (Điều 90 LDN năm 1999 quy định những người không được làm thành viên Ban kiểm soát nhưng không quy định tiêu chuẩn của thành viên Ban kiểm soát), cụ thể: thành viên của Ban kiểm soát phải là những người độc lập với các thành viên của HĐQT, Giám đốc/tổng giám đốc và người quản lý khác trong công ty; không được giữ các chức vụ quản lý trong công ty; thành viên Ban kiểm soát không nhất thiết phải là cổ đông hoặc người lao động của công ty. Ban kiểm soát phải có ít nhất một thành viên là kế toán hoặc kiểm toán viên. (Điều 121, 122). 3. Về quản trị điều hành, thù lao và hiệu quả hoạt động Sự phát triển của các CTCP phụ thuộc rất lớn vào đạo đức kinh doanh, kiến thức và khả năng cũng như tinh thần trách nhiệm của đội ngũ những người quản lý, điều hành doanh nghiệp. LDN năm 2005 đã có những quy định gắn trách nhiệm của người quản lý, điều hành doanh nghiệp với số phận của CTCP cũng như tạo ra cơ chế để các thành viên công ty hoặc chủ sở hữu giám sát các hoạt động quản lý và điều hành. Cụ thể: Luật doanh nghiệp năm 2005 cũng xác định rõ hơn các nghĩa vụ của người quản lý, nhất là đối với thành viên HĐQT và Giám đốc, đặc biệt là nghĩa vụ trung thành, trung thực và cẩn trọng (LDN năm 1999 chưa có cơ chế pháp lý nào buộc những người quản lý phải tuân thủ những nghĩa vụ này). Đó chính là tiền đề cho việc xem xét đến hành vi vượt quá phạm vi của sự ủy quyền. Thực tiễn hoạt động kinh doanh ở nước ta đã có những vụ việc có khuynh hướng cần tới các quy định như vậy. Chẳng hạn các vụ án sau: 1. Tranh chấp tại CTCP Hàm Long Bà Nguyễn Thị Minh Hà, nguyên là thành viên HĐQT kiêm phó Giám đốc công ty Hàm Long được công ty giao trực tiếp phụ trách kinh doanh tại Trung tâm Thương mại Hàm Long, trong quá trình điều hành đã để trung tâm thua lỗ nặng. Ngày 13/4/2002, CTCP Hàm Long đã tiến hành họp ĐHĐCĐ thường kỳ và ra quyết định bãi nhiệm chức danh thành viên HĐQT của bà Hà và đề ra phương án xử lý số cổ phần của bà để thu hồi nợ. Nghị quyết của ĐHĐCĐ đã giao cho HĐQT tiến hành bán cổ phần của bà Hà trong công ty. Tiếp đó HĐQT đã mang toàn bộ 2950 cổ phiếu gốc của bà Hà ra bán cho người nhà của Chủ tịch HĐQT với giá 170.000 đồng/cổ phiếu. Bà đã khởi kiện ra TAND thành phố Hà Nội. Tòa cho rằng, việc CTCP Hàm Long đem bán cổ phần của bà Hà để trừ nợ trong tình trạng không có phiếu gốc, không có sự đồng ý của người có tài sản là tước đi quyền làm cổ đông của bà Hà, trái với LDN. Còn việc bà Hà nợ công ty, theo Tòa, công ty có thể sử dụng các quyết định hành chính buộc bà Hà phải trả nợ hoặc khởi kiện ra Tòa chứ không thể xiết nợ bằng cổ phần như việc công ty Hàm Long đã làm như trên [24, tr.45] 2. Tranh chấp tại công ty Nhiếp ảnh Hà Nội Một số cổ đông của CTCP Nhiếp ảnh Hà Nội đã kiện Chủ tịch HĐQT (kiêm Giám đốc CTCP) Phạm Thị Minh Ngọc vì bà đã có nhiều sai phạm trong điều hành, vi phạm Điều lệ công ty và LDN như: Tổ chức thu mua cổ phiếu để thâu tóm quyền lực; tự ý giải tán và cho thuê với giá thấp hai cửa hàng tại 18 Hàng Gai và 22 Tràng Thi; không thông qua ĐHĐCĐ khi mua sắm máy phóng ảnh cỡ lớn hơn 1 tỷ đồng…Ngoài ra, bà Ngọc còn bị kiện về nội dung bản Nghị quyết của ĐHĐCĐ do một mình bà dựng lên [24, tr.47]. Bên cạnh đó, LDN năm 2005 cũng đưa ra quy định giám sát đối với các giao dịch tư lợi, nhằm hạn chế việc người quản lý, điều hành công ty lợi dụng các vị trí trong doanh nghiệp để trục lợi cá nhân, làm hại cho công ty. Ngoài ra, LDN năm 2005 cũng thiết lập chế độ thù lao, tiền lương gắn với kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. LDN quy định thẩm quyền quyết định lương và thù lao cho HĐQT và Ban kiểm soát do ĐHĐCĐ quyết định; còn lương của Giám đốc (Tổng giám đốc) do HĐQT quyết định (khoản 2 Điều 117). Luật cũng quy định cụ thể nguyên tắc xác định hợp lý tiền lương và các lợi ích khác mà những người quản lý được hưởng. Đây sẽ là động lực mạnh mẽ cho họ phát huy hết tài năng, sáng kiến, hết lòng và tận tâm quản lý công ty. Điều đó kết hợp với việc công khai hóa tiền lương và thu nhập hàng năm sẽ là công cụ giám sát hiệu quả hoạt động của họ; ngăn ngừa được họ lạm dụng quyền lực thu vén cho lợi ích cá nhân. Điều này đặc biệt cần thiết, khi những người quản lý tách biệt độc lập khỏi chủ sở hữu; và tiền lương trở thành động lực vật chất cơ bản thúc đẩy ứng xử của họ, cụ thể: "1. Công ty có quyền trả thù lao, tiền lương cho thành viên HĐQT, Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc và người quản lý khác theo kết quả và hiệu quả kinh doanh. 2. Trong trường hợp Điều lệ công ty không có quy định khác thì thù lao, tiền lương và lợi ích khác của thành viên HĐQT, Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc được trả theo quy định sau đây: a) Thành viên HĐQT được hưởng thù lao công việc và tiền thưởng. Thù lao công việc được tính theo số ngày công cần thiết hoàn thành nhiệm vụ của thành viên HĐQT và mức thù lao mỗi ngày. HĐQT dự tính mức thù lao cho từng thành viên theo nguyên tắc nhất trí. Tổng mức thù lao của HĐQT do ĐHĐCĐ quyết định tại cuộc họp thường niên; b) Thành viên HĐQT có quyền được thanh toán các chi phí ăn, ở, đi lại và chi phí hợp lý khác mà họ chi trả khi thực hiện nhiệm vụ được giao; c) Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc được trả lương và tiền thưởng. Tiền lương của Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc do HĐQT quyết định. 3. Thù lao của thành viên HĐQT và tiền lương của Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc và người quản lý khác được tính vào chi phí kinh doanh của công ty theo quy định của pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp và phải được thể hiện thành mục riêng trong báo cáo tài chính hằng năm của công ty, phải báo cáo ĐHĐCĐ tại cuộc họp thường niên". (Điều 117) Tuy vậy, làm được việc này trong bối cảnh hiện nay ở nước ta là hoàn toàn không dễ. Khác với các nước khác, nhất là các nước phát triển, các doanh nghiệp không thể đồng thời tuân thủ đúng pháp luật và duy trì, phát triển được hoạt động kinh doanh. Họ thường phải đút lót, thông đồng với một số công chức trong bộ máy nhà nước có liên quan; họ phải lập hai thậm chí ba loại chứng từ, sổ sách kế toán, phải khai báo sai lệch về doanh thu, chi phí và lợi nhuận.v.v…Trong bối cảnh nói trên, mọi thước đo hay căn cứ để xác định tiền lương và thu nhập của người quản lý đều có thể phản ánh không đúng sự thực. 4. Đảm bảo minh bạch và công khai thông tin trong CTCP Minh bạch và công khai thông tin là đòi hỏi đầu tiên để nhà đầu tư có thể đánh giá hoạt động của doanh nghiệp. Tiếp theo đó là các quyền liên quan tới khả năng kiểm soát của nhà đầu tư đối với các hoạt động của doanh nghiệp. Các hành vi trục lợi từ người điều hành và cổ đông chi phối phải có cơ chế để kiểm soát bằng pháp luật và tự nguyện một cách hiệu quả để nhà đầu tư có thể yên tâm về tài sản của mình. Vấn đề minh bạch hóa và công khai thông tin trong CTCP được thực hiện thông qua các hoạt động của Ban kiểm soát với tính chất là một cơ quan chuyên môn và chủ yếu qua các cơ chế cung cấp, báo cáo hay tiếp cận các thông tin trong CTCP. Việc tiếp cận hay cung cấp thông tin không chỉ đơn thuần là vấn đề minh bạch; quan trọng hơn thế, phạm vi và chất lượng thông tin được cung cấp hay tiếp cận sẽ có tác động không nhỏ đến việc thực hiện quyền của mỗi chủ thể (đặc biệt là quyền ra quyết định). Về minh bạch thông tin: theo đánh giá của World Bank, nếu thang điểm đánh giá mức độ công khai thông tin qua điều tra môi trường kinh doanh tại 157 quốc gia là từ 1 tới 6 (càng cao thì càng minh bạch) thì Việt Nam được xếp hạng 1, thấp hơn tất cả các nước trong khu vực trừ Campuchia (hạng 0). Chỉ số của một số nước khác như Malaysia (hạng 5), Thái Lan (6), Đài Loan (6), Indonesia (4), Trung Quốc (4), Singapore (5), Ấn Độ (4). Chỉ số về phổ biến thông tin Nguồn: Cơ sở dữ liệu nghiên cứu hoạt động kinh doanh Thực tiễn hoạt động công khai thông tin đối với cổ đông trong thời gian qua (trước khi LDN năm 2005 có hiệu lực) mặc dù cũng được thực hiện song chúng không được phổ biến rộng rãi và công khai, hoặc trong các trường hợp được phổ biến thì khả năng tiếp cận của các nhà đầu tư khác nhau cũng không giống nhau, dẫn đến tình trạng mất đối xứng thông tin và bất bình đẳng về khả năng tiếp cận các thông tin này giữa các nhà đầu tư. Điều này có thể được lý giải bởi những lý do sau: Một là, chính sách thuế thường xuyên phải thay đổi, không rõ ràng và phụ thuộc quá nhiều vào cán bộ thuế; hai là, cơ chế quản lý xã hội chưa có cơ chế khuyến khích, thúc đẩy và bảo hộ cho những doanh nghiệp cố gắng nâng cao tính minh bạch trong quản lý; ba là, hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ của các công ty chưa được phát triển; bốn là, yếu tố tâm lý - nhiều nhà quản lý không muốn công khai tài chính doanh nghiệp vì sợ các đối thủ cạnh tranh sẽ lợi dụng thông tin công bố để gây bất lợi cho họ; năm là, các công ty tư nhân thường xuyên phải đối mặt với tệ quan liêu quá lớn; sáu là, đại đa số người quản lý chưa hiểu được giá trị và tầm quan trọng của quản trị minh bạch đối với sự tồn tại, phát triển và nâng cao uy tín và sức cạnh tranh của doanh nghiệp … Trong một môi trường như vậy, các công ty đã tự co mình lại và việc này đã cản trở mức độ công khai và tính minh bạch. Việc này làm tăng thêm rủi ro cho các nhà đầu tư do báo cáo tài chính thiếu chính xác và có khi gian lận trong công ty thì các cổ đông khó mà nhận biết được. Về vấn đề này, LDN năm 2005 cũng đã có sự quan tâm nhất định thông qua việc dự liệu các cơ chế thông tin khác nhau, cụ thể: - Cơ chế thông tin cho cổ đông; - Cơ chế thông tin cho các cơ quan quản lý trong công ty cổ phần; - Cơ chế thông tin cho các chủ thể bên ngoài công ty (cơ chế công khai báo cáo tài chính hàng năm cho cơ quan thuế và cơ quan đăng ký kinh doanh); quy định về việc kiểm soát các hợp đồng với người có liên quan. Chương III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUẢN TRỊ CÔNG TY CỔ PHẦN 1. Những yêu cầu về việc tiếp tục hoàn thiện các quy định về quản trị công ty cổ phần Những năm qua, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, nền kinh tế nước ta đã có những bước phát triển vượt bậc với tốc độ tăng trưởng cao, liên tục trong nhiều năm góp phần cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân. Trong thành tựu chung đó, có sự đóng góp đáng kể của cộng đồng doanh nghiệp, đặc biệt là sự tác động của hàng loạt cơ chế và chính sách khuyến khích đầu tư, thúc đẩy kinh doanh, tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp thuộc tất cả các thành phần kinh tế phát triển và khẳng định vai trò của mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Thực tế những năm qua cho thấy, việc xây dựng hành lang pháp lý ngày càng hoàn thiện, đầy đủ và ổn định, phù hợp với các cam kết quốc tế của Nhà nước Việt Nam là cơ sở quan trọng để hình thành các cơ chế quản trị doanh nghiệp, thúc đẩy phát triển doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, đảm bảo cho nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao và bền vững. Yêu cầu lớn nhất hiện nay trong việc đề ra các cơ chế quản trị doanh nghiệp là xác định đúng những vấn đề cấp thiết đặt ra trong việc hoàn thiện hệ thống các quy định về quản trị doanh nghiệp và đưa ra những giải pháp mang tính đột phá, góp phần huy động tối đa các nguồn lực cho đầu tư phát triển, phù hợp với các thông lệ và cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết. Xét về khía cạnh quản trị doanh nghiệp, LDN năm 2005 đã xác định nền tảng cho cơ chế quản trị công ty. So với LDN năm 1999, LDN năm 2005 quy định đầy đủ, toàn diện hơn, có nhiều quy định tương đối rõ, phù hợp và góp phần tạo lập khung pháp lý để hình thành một cơ chế quản trị có hiệu quả cho các doanh nghiệp, nhất là đối với loại hình công ty phổ biến hiện nay là CTCP. Cụ thể, trong Luật có các quy định bảo vệ và tạo điều kiện cho việc thực hiện các quyền hạn chính đáng của các chủ sở hữu; bảo đảm đối xử công bằng giữa các chủ sở hữu; công khai thông tin và minh bạch hoá cơ chế quản trị công ty; các quyền của HĐQT và cơ chế giám sát HĐQT của chủ sở hữu trong cơ chế quản trị công ty... Đó là cơ sở pháp lý quan trọng và cụ thể nhất cho hoạt động của quản trị doanh nghiệp hiện nay, đồng thời quy định cụ thể về quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm của các bên liên quan như cổ đông, HĐQT, giám đốc điều hành trong đó đã chú ý bảo vệ quyền lợi của cổ đông thiểu số... Đi đôi với quyền lợi thì LDN cũng xác định rõ hơn các nghĩa vụ của người quản lý, nhất là đối với thành viên HĐQT và Giám đốc, đặc biệt là nghĩa vụ trung thành, trung thực và cẩn trọng; thiết lập chế độ thù lao, tiền lương gắn với kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; yêu cầu công khai và minh bạch hoá, nhất là đối với những người quản lý... Tuy vậy, kiến thức về quản trị doanh nghiệp cũng như thực tế triển khai về quản trị doanh nghiệp vẫn còn rất mới mẻ. Nhiều CTCP (cả Nhà nước và dân doanh) đã và đang gặp phải các vấn đề liên quan đến quản trị doanh nghiệp. Thực tế thi hành cho thấy, trong thời gian qua đã xảy ra không ít vi phạm các quyền cơ bản của cổ đông. Một số công ty không niêm yết, vì một số lý do thực tiễn, có xu hướng hạn chế việc các cổ đông nắm giữ một lượng nhỏ cổ phiếu tham gia vào ĐHĐCĐ thường niên, thông qua việc qui định số lượng cổ phiếu tối thiểu. Điều lệ không ít công ty, kể cả công ty niêm yết, đã qui định cổ đông, nhóm cổ đông có sở hữu ít nhất 1% (hoặc có lượng giá trị tuyệt đối như 50, 100 hoặc 500 triệu đồng) số cổ phần mới có quyền dự họp ĐHĐCĐ,… Việc phần lớn cổ đông không tiếp cận được với thông tin của công ty hoặc không tiếp cận được thông tin đầy đủ, chính xác và trung thực là hiện tượng phổ biến. Cổ đông thiểu số hầu như không nhận được thông báo về các quyết định của ĐHĐCĐ, không nhận được tóm tắt báo cáo tài chính hàng năm, không nhận được cả thông báo về việc trả cổ tức, [xem phụ lục 3]… Bên cạnh các quyền cơ bản của cổ đông đang bị vi phạm, thì còn hiện tượng lạm dụng quyền cổ đông. Có hai hiện tượng lạm dụng khá phổ biến. Một là, khi diễn biến đại hội cổ đông không tiến triển như ý muốn, một số cổ đông thiểu số đã quấy rối, cản trở tiến trình đại hội cổ đông bằng cả những cách không liên quan đến quyền cổ đông (như giật micro, vứt tài liệu, giật giấy tờ của chủ tọa, cản trở chủ tọa điều khiển họp đại hội, quấy rối đại hội từ bên ngoài và bên trong phòng họp). Hiện tượng thứ hai, liên quan đến cổ đông là Nhà nước, khi một số cán bộ, cơ quan nhà nước có liên quan không phân biệt rạch ròi quyền cổ đông, quyền quản lý hành chính, đã can thiệp trực tiếp vào các công việc quản trị nội bộ của công ty như không cho phép triệu tập ĐHĐCĐ, hoặc chỉ đạo triệu tập ĐHĐCĐ, chỉ định bổ nhiệm, thay thế thành viên HĐQT... Thực tiễn ở Việt Nam cho thấy các doanh nghiệp trong nước cần nghiên cứu và tiến tới áp dụng những chuẩn mực về quản trị doanh nghiệp trong hoạt động của mình, bởi những lý do sau: thứ nhất, quản trị doanh nghiệp theo kiểu “công ty gia đình” hay theo “sự thuận tiện” khá phổ biến trong nhiều doanh nghiệp Việt Nam hiện không còn phù hợp, không thể đáp ứng yêu cầu phát triển và cạnh tranh trong thời gian tới; Thứ hai, hệ thống luật pháp Việt Nam đang phát triển theo hướng hoàn thiện thể chế thị trường, phù hợp các cam kết và luật pháp, thông lệ quốc tế. Hệ thống này chỉ phát huy hiệu lực và hiệu quả khi bộ máy nhà nước và doanh nghiệp đều có tinh thần và thói quen tuân thủ cao. Thói quen hành xử dựa vào quan hệ phải được thay thế bằng thói quen hành xử theo pháp luật; thứ ba, trước ngưỡng cửa WTO, doanh nghiệp trong nước cần hiểu những quy định pháp lý, những thông lệ, tập quán được áp dụng ở các nước bạn hàng để làm ăn với họ, đồng thời ứng dụng dần những tập quán tốt, nâng dần trình độ và năng lực nhằm tạo vị thế cạnh tranh. Về phương diện lý luận, sự hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản trị công ty luôn có tính tương đối, thích ứng với từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế. Vì vậy, việc xây dựng, hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản trị công ty phải được xác định là một quá trình liên tục, lâu dài với những bước đi và giải pháp thích hợp. Việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản trị công ty một mặt nhằm khắc phục kịp thời những khó khăn cho việc tổ chức vận hành doanh nghiệp, mặt khác phải hướng tới việc tạo dựng hành lang pháp lí đầy đủ và phù hợp, đáp ứng nhu cầu phát triển ổn định lâu dài của loại hình CTCP. Với cách tiếp cận như vậy, từ những cơ sở lí luận và thực tiễn ở Việt Nam, chúng tôi cho rằng việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản trị công ty cần được thực hiện theo những định hướng sau: - Hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản trị CTCP phải căn cứ vào những đặc điểm của nền kinh tế thị trường Việt Nam. - Các quy định của pháp luật về quản trị CTCP phải phù hợp với đặc điểm văn hóa kinh doanh của người Việt Nam. - Các quy định về quản trị công ty phải đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. - Việc hoàn thiện các quy định về quản trị công ty cần được đặt trong giải pháp tổng thể hoàn thiện pháp luật kinh tế. 2. Một số kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản trị công ty cổ phần Luật Doanh nghiệp năm 2005 có hiệu lực từ ngày 1/7/2006; Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định thành lập ban công tác thi hành LDN và Luật Đầu tư nhằm đẩy mạnh việc triển khai Luật này trong thực tế. Tuy chưa có đủ cơ sở để tổng kết một cách đầy đủ các vướng mắc đã và đang nảy sinh trong quá trình thực hiện Luật này (vì thời gian mà LDN năm 2005 đi vào thực tế chưa nhiều), xong sau khi nghiên cứu các vướng mắc đã được trình bày ở chương II và dựa trên những định hướng cơ bản trên, chúng tôi đưa ra một số kiến nghị sau: Một là, về quyền tiếp cận thông tin Hai là, quyền mua lại cổ phần theo yêu cầu của cổ đông (Điều 90) Ba là, cần sửa đổi, bổ sung hoặc làm rõ liên quan đến ĐHĐCĐ để cơ quan này thực sự là công cụ quyền lực của cổ đông trong công ty đồng thời đóng góp vào sự vận hành chung của công ty. Bốn là, để tăng cường chức năng giám sát của HĐQT, đảm bảo sự cân bằng về quyền lực, nâng cao tính độc lập, trách nhiệm cá nhân trong quản lý, điều hành công ty bằng cách phân tách rõ ràng vai trò của Chủ tịch HĐQT và Giám đốc (Tổng giám đốc) điều hành để không một ai trong hai người trên bị hạn chế về quyền lực trong việc ra quyết định. Năm là, tăng cường tính minh bạch trong các thoả thuận giữa cổ đông và công ty thông qua Điều lệ công ty PHỤ LỤC 1 Tranh quyền lãnh đạo, cổ đông bị thiệt Ngày 15-5-2006, Công ty cổ phần Sản xuất - Dịch vụ - Thương mại đay Sài Gòn (Sajuco) tổ chức đại hội đồng cổ đông bất thường. Việc bãi nhiệm (trước thời hạn) HĐQT và ban kiểm soát đã được đại hội đồng cổ đông thông qua, nhưng khâu bầu cử lại gặp rắc rối. Một số cổ đông cho rằng, đại hội chưa thông qua (đánh giá năng lực) danh sách ứng cử mà tiến hành bỏ phiếu bầu là vi phạm quy chế tổ chức và điều lệ của doanh nghiệp. Chủ tọa đại hội thừa nhận sai sót nên quyết định tạm dừng và dời đại hội vào ngày 22-5-2006 để tiếp tục bầu HĐQT và ban kiểm soát mới. Nhưng ông Nguyễn Văn Khảm, Phó Chủ tịch HĐQT, cho rằng đã có danh sách ứng cử thì đại hội cần được tiếp tục. Khi ban tổ chức, chủ tọa, thư ký... ra về (hơn 20 giờ), nhóm cổ đông ủng hộ ông Khảm (chiếm 51,3 cổ phần) tiếp tục tổ chức đại hội đến khuya... Ông Khảm đã được bầu làm Chủ tịch HĐQT (mới) nên đã giành quyền kiểm soát Sajuco bằng cách thuê lực lượng vệ sĩ đến chiếm giữ trụ sở. Thế là ông Trần Hải Âu, Chủ tịch HĐQT (cũ) và nhóm cổ đông ủng hộ ông đã khởi kiện ông Khảm ra tòa yêu cầu hủy kết quả đại hội cổ đông do nhóm ông Khảm tổ chức. Ngược lại, ông Khảm cũng đã khởi kiện ông Âu, yêu cầu trao quyền kiểm soát công ty. Cuộc tranh chấp quyền kiểm soát doanh nghiệp giữa các cổ đông ủng hộ ông Nguyễn Văn Khảm, Phó Chủ tịch HĐQT và các cổ đông ủng hộ ông Trần Hải Âu, Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Sản xuất - Dịch vụ - Thương mại đay Sài Gòn (Sajuco) tại cuộc họp đại hội đồng cổ đông bất thường hôm 15-5-2006 đã làm cho uy tín của công ty này giảm sút, hoạt động kinh doanh ngưng trệ, cơ hội làm ăn bị bỏ lỡ... Theo ông Trương Kế Châu, Phó tổng Giám đốc Sajuco, dự kiến trong tháng 6 này Sajuco khởi công xây dựng bốn lô chung cư 16 tầng nhưng phải dừng lại, nhiều hợp đồng khác cũng không thể triển khai... Cụ thể, kết quả kinh doanh trong tháng 5-2006 cho thấy: nửa tháng đầu (chưa xảy ra tranh chấp) doanh thu của công ty gần 2 tỉ đồng; nửa tháng sau (đã xảy ra tranh chấp) doanh thu của công ty chỉ trên 500 triệu đồng. ( 15/6/2006) PHỤ LỤC 2 Không thấy "mặt mũi" của Ban kiểm soát Về những sai phạm tại CTCP AUDV Du lịch Ba Đình, ông Nguyễn Đình Cung, Trưởng ban Nghiên cứu chính sách vĩ mô (Viện Quản lý Kinh tế Trung ương) cho rằng, 3 năm mà công ty không đại hội cổ đông là sự việc rất bất thường, vì luật lệ quy định ít nhất là một năm phải đại hội một lần. Ông Cung nhận xét, trong trường hợp này các cổ đông cũng đã sai sót. Họ đã không nhận thức được quyền lợi của mình. Việc ông Giám đốc Lương Tuấn Hải đem tài sản của công ty cho thuê lại để hưởng chênh lệch, theo ông Cung, là có dấu hiệu của giao dịch tư lợi. Theo LDN, bất cứ hoạt động nào của doanh nghiệp liên quan đến bên có liên quan với doanh nghiệp cần phải xin phép HĐQT hoặc ĐHĐCĐ, để xem giá giao dịch ở đây có đúng với giá thị trường hay không. Trong trường hợp có vi phạm (tức giá giao dịch thấp hơn so quy định của Nhà nước), cổ đông có quyền: 1/kiện ra tòa án về việc HĐQT vi phạm nghiêm trọng quyền hạn của mình, gây thiệt hại cho công ty, phải bồi hoàn lại cho công ty; 2/ triệu tập ĐHĐCĐ bãi miễn HĐQT. Trong trường hợp HĐQT đồng thời là cổ đông đa số thì phải kiện ra tòa án kinh tế đòi bồi thường thiệt hại cho công ty và cổ đông thiểu số. Ông Nguyễn Đình Cung thắc mắc, trước những sai phạm rành rành như vậy đã không nhìn thấy "mặt mũi" của Ban kiểm soát trong công ty đâu cả. Cổ đông hoàn toàn có quyền yêu cầu Ban kiểm soát kiểm tra xem tình hình tài chính công ty như thế nào để ngăn chặn những hành vi gian lận, vì để càng lâu, sự việc càng trở nên nghiêm trọng. Áp lực của cổ đông đối với HĐQT sẽ ngày càng giảm và người ta có cảm nhận rằng, cổ đông đã không làm gì cả.  [vnexpress.net, 14:43' 06/10/2005 (GMT + 7)] PHỤ LỤC 3 Ví dụ 1: CTCP Đại Dương là một doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa, kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ, du lịch và khách sạn. Ngày 1/9/1999, Ủy ban nhân dân thành phố K có quyết định cho phép chuyển doanh nghiệp nhà nước Đại Dương thành CTCP Đại Dương. Ngày 25/9/1999, công ty triệu tập cuộc họp ĐHĐCĐ đầu tiên, 150 cổ đông (100% số cổ đông này là cổ đông phổ thông và là công nhân viên của công ty) đã tiến hành bầu ra HĐQT (gồm 7 người) và thông qua Điều lệ. Ngày 1/11/1999, Phòng Đăng ký kinh doanh thành phố K cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho CTCP Đại Dương với số vốn điều lệ là 1,5 tỷ đồng và số cổ phần phát hành là 15000 cổ phần (mệnh giá mỗi cổ phần là 100.000 đồng và 100% cổ phần được bán hết cho công nhân viên của công ty). Là doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa, do vậy, giống như trước đây, hàng năm (năm 2000 và 2001) công ty thường tổ chức cuộc họp tổng kết cuối năm với sự tham gia của tất cả cán bộ, công nhân viên của công ty (kể cả những người đã nghỉ hưu). Tại những cuộc họp này, Ban Giám đốccông ty và HĐQT trình bày về tình hình hoạt động kinh doanh của công ty năm qua và phương hướng kinh doanh của công ty năm tới cũng như trao phần thưởng cho những nhân viên xuất sắc. Nhằm phát hành thêm cổ phần mới, tăng vốn điều lệ, tiến hành sửa đổi Điều lệ cho phù hợp với LDN và thông qua báo cáo tài chính năm 2001 và kế hoạch kinh doanh năm 2002, CTCP Đại Dương quyết định triệu tập cuộc họp ĐHĐCĐ (đây là cuộc họp ĐHĐCĐ lần thứ hai sau cuộc họp ĐHĐCĐ đầu tiên ngày 25/9/1999). Do CTCP Đại Dương có rất nhiều đơn vị kinh doanh trực thuộc nên ngày 8/3/2002, HĐQT của công ty gửi cho quản lý trưởng các đơn vị trên thông báo về kế hoạch cuộc họp ĐHĐCĐ và yêu cầu mỗi đơn vị kinh doanh tiến hành họp để cử đại biểu đi dự cuộc họp của ĐHĐCĐ toàn công ty. Đồng thời, HĐQT cũng đã gửi cho mỗi quản lý trưởng của các đơn vị đó một bản dự thảo Điều lệ sửa đổi mới của công ty để các đơn vị kinh doanh tổ chức thảo luận trước. Ngày 12/3/2002, công ty đã có văn bản thông báo đến các đơn vị về việc "triệu tập Đại hội đại biểu cổ đông" toàn công ty vào ngày 15/3/2002. Tại cuộc họp ĐHĐCĐ ngày 15/3/2002, chủ tọa cuộc họp đã đọc báo cáo tổng kết năm 2001, phương hướng kinh doanh năm 2002, bản Điều lệ sửa đổi và kế hoạch phát hành cổ phiếu mới. Sau đó, chủ tọa cuộc họp đã tiến hành lấy biểu quyết của các cổ đông tham dự cuộc họp một lần về tất cả các vấn đề được nêu trên. Theo Nghị quyết được công bố tại cuộc họp và đã được biểu quyết thông qua, vốn điều lệ công ty được nâng từ 1,5 tỷ đồng lên 5 tỷ đồng, tất cả các cổ phiếu chỉ được chào bán nội bộ cho các cổ đông trong công ty. Các cổ đông được mua thêm cổ phiếu cao nhất là bằng hoặc nhỏ hơn số cổ phần hiện có của cổ đông đó (theo tỷ lệ 1-1). Mỗi thành viên HĐQT được quyền mua số cổ phiếu tương đương 6% vốn điều lệ. Bản Điều lệ (được cuộc họp ngày 15/3/2002 thông qua) có một số điểm sửa đổi. Điều 17 Điều lệ quy định: "ĐHĐCĐ hoặc Đại hội đại biểu cổ đông là cơ quan quyết định cao nhất của công ty". Điều 20 của Điều lệ công ty quy định "Trong trường hợp công ty tổ chức đại hội đại biểu cổ đông thì cổ đông sở hữu cổ phần chiếm ít nhất 1% vốn điều lệ là đại biểu đương nhiên. Các cổ đông khác tự tập hợp thành một nhóm để có phiếu đủ tiêu chuẩn 1% vốn điều lệ để cử người đi họp". Do bất đồng với HĐQT trong điều hành, quản lý công ty, không đồng hành với kế hoạch phát hành cổ phiếu mới và bản Điều lệ sửa đổi, cho nên một nhóm 10 cổ đông của CTCP Đại Dương đã gửi đơn đến Tòa án nhân dân thành phố K kiện HĐQT CTCP Đại Dương về các vấn đề sau: 1. HĐQT đã vi phạm LDN và Điều lệ công ty về việc triệu tập, thủ tục tiến hành và thông qua các quyết định tại ĐHĐCĐ ngày 15/3/2002. 2. Bản Điều lệ mới của công ty có nhiêu quy định trái với LDN, vi phạm quyền và lợi ích của cổ đông phổ thông của công ty. Trên cơ sở đó, nhóm cổ đông trên đã yêu cầu Tòa án bác bỏ kết quả cuộc họp ĐHĐCĐ ngày 15/3/2002 và bản Điều lệ mới của công ty. Tòa Kinh tế, Tòa án nhân dân thành phố K đã thụ lý hồ sơ và đưa vụ án ra xét xử [28, Tr.57-61]. Ví dụ 2: Cổ đông nhỏ bất mãn về cách điều hành của công ty cổ phần Những Đại hội cổ đông để báo cáo về tình hình lời - lỗ hoặc để bầu lại Hội đồng quản trị khiến nhiều cổ đông bất mãn và nghi ngờ về cách điều hành và tổ chức của công ty. Lý do là vì nhiều công ty cổ phần đã "tự biên, tự diễn" nhiều điều mà luật lệ không quy định. Hội đồng quản trị được các cổ đông bầu bằng hình thức bỏ phiếu. Hội đồng này có 5 người, 7 người hoặc 9 người. Theo đúng luật và nghiệp vụ thì cổ đông có một cổ phiếu cũng được bầu, dù đó chỉ là một lá phiếu. Điều này có nghĩa là cổ đông có nhiều hay ít cổ phiếu vẫn bình đẳng trong việc bỏ phiếu. Tuy nhiên trong thực tế, một số công ty đã đặt ra quy định, cổ đông nào có trên 1.000 cổ phần mới được phép đi họp đại hội (1.000 cổ phần tương đương với 1.000 cổ phiếu trên sàn giao dịch). Vấn đề phân biệt cổ đông "giàu" với cổ đông "nghèo" đã làm nhiều cổ đông thắc mắc và bất mãn. Hơn thế nữa, đã xảy ra những trường hợp phân biệt đối xử với các cổ đông nhỏ (dưới 100 triệu đồng) muốn xin một tập cáo bạch (prospectus) cũng bị công ty từ chối một cách thẳng thừng. [vnExpress, Thứ bảy, 19/5/2001, 11:23 (GMT+7)] tài liỆu tham khẢo VĂN BẢN PHÁP LUẬT: Luật Công ty năm 1990. Luật Doanh nghiệp năm 1999. Luật Doanh nghiệp năm 2005. TÀI LIỆU TRONG NƯỚC: Nguyễn Ngọc Bích (2003), "Luật Doanh nghiệp, vốn và quản lý trong công ty cổ phần", Nxb Trẻ. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (11/2003), "Báo cáo đánh giá tình hình thi hành Luật Doanh nghiệp", Hà Nội. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (5/2005), "Tờ trình về Dự án Luật Doanh nghiệp (thống nhất)", Hà Nội. CIEM, GTZ, UNDP (11/2004), "Thời điểm cho sự thay đổi - Đánh giá Luật Doanh nghiệp và kiến nghị", Hà Nội. Maurice Cozian & Alain Viandier (12/1998), "Tổ chức công ty", Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp. Nguyễn Đình Cung, Tư tưởng chỉ đạo, cơ sở lý luận và thực tiễn của Luật Doanh nghiệp, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Tài liệu hội thảo tháng 9/2000. Trần Tiến Cường (1997), "Cơ sở khoa học của việc chuyển doanh nghiệp nhà nước kinh doanh sang hoạt động theo mô hình công ty của nền kinh tế thị trường", Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Hà Nội. Kim Dung, Quản trị công ty tốt và thực trạng quản trị công ty tại Việt Nam, Tạp chí chứng khoán, số 11/2001. Lê Thế Giới, Nguyễn Xuân Lãn, Nguyễn Hoa Khôi (2003), "Giáo trình Quản trị kinh doanh", Trung tâm Đào tạo Từ xa, Huế. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2000), "Nhìn nhận của xã hội với thị trường và kinh doanh", Nxb Thống kê, Hà Nội. Nguyễn Hưng, Quản trị công ty: tiến tới lành mạnh hóa môi trường hoạt động và phát triển doanh nghiệp, Tạp chí chứng khoán, số 5,6/2001. Cao Đình Lành, Minh bạch và công khai hóa thông tin trong công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp năm 2005, Tạp chí Khoa học, số 2 (36)/2007, tr.115. Cao Đình Lành, Xung đột các nhóm lợi ích trong công ty cổ phần, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 3/2007, tr.22. Hoàng Thế Liên (chủ biên) (2001), "Luật doanh nghiệp – Những điểm mới và một số vấn đề đặt ra trong cơ chế thi hành", Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. "Luật Nhật Bản, Tập II: 1997-1998" (2000), Nxb Thanh Niên. Đinh Thị Hiền Minh, Đằng sau sự sụp đỗ hàng loạt công ty Mỹ, Thời báo kinh tế Sài Gòn, số 28 ngày 4/7/2002. Ngân hàng phát triển Châu Á, "Bộ hướng dẫn thông lệ tốt nhất về quản trị công ty ở Việt Nam", Bản trình lên Chính phủ Việt Nam ngày 19 tháng 10 năm 2001, Dự án TA 3353-VIE. Ngân hàng thế giới (2002), "Báo cáo phát triển thế giới - Xây dựng thể chế hỗ trợ thị trường", Nxb Chính trị Quốc gia. Phạm Duy Nghĩa, Buôn có bạn, bán có phường: Vai trò của truyền thống văn hóa Phương Đông đối với liên kết doanh nghiệp, Tạp chí Nghiên cứu pháp luật, số 2/2003. Phạm Duy Nghĩa (2004), "Chuyên khảo về Luật Kinh tế", Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. Phạm Duy Nghĩa (2004), "Đề cương chi tiết môn học Luật kinh tế", Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. Phạm Duy Nghĩa (chủ biên), "So sánh pháp luật về quản trị doanh nghiệp của một số nước trên thế giới - Bài học kinh nghiệm và kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật công ty ở Việt Nam", Đề tài đặc biệt cấp Quốc gia, Mã số: QG 04.23. Nguyễn Như Phát, Phạm Hữu Nghị (2004), "Giáo trình Luật kinh tế", Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Ngô Viễn Phú (2004), "Nghiên cứu so sánh quản lý công ty cổ phần theo pháp luật Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa", Luận án tiến sĩ luật học, Hà Nội. Ngô Viễn Phú, Bàn về tính chất của quyền cổ đông, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 12/2003. PMRC, UNDP, "Báo cáo tổng hợp - Nghiên cứu rà soát văn bản pháp luật về thành lập, tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp với các tư tưởng chỉ đạo xây dựng Luật Doanh nghiệp thống nhất và Luật Đầu tư chung", trong khuôn khổ Dự án VIE 01/025. Tổ công tác thi hành Luật Doanh nghiệp (2003), "Một số tranh chấp điển hình phát sinh trong quá trình thực hiện Luật Doanh nghiệp", Nxb Thống kê. Đậu Anh Tuấn (2004), "Quản lý, điều hành trong Công ty cổ phần ở Việt Nam", Luận văn Thạc sỹ luật học, Hà Nội. Nguyễn Thị Thu Vân (1998), "Một số vấn đề về công ty và hoàn thiện pháp luật về công ty ở Việt Nam hiện nay", Nxb Chính trị Quốc gia. Viện nghiên cứu Khoa học pháp lý (2000), "Một số điểm mới cơ bản của Luật doanh nghiệp" Thông tin Khoa học pháp lý. Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (1/1999), "Báo cáo nghiên cứu so sánh luật công ty ở bốn quốc gia Đông Nam Á: Thái Lan, Singapore, Malaysia và Philippine", Hà Nội. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương, "Các doanh nghiệp cổ phần hoá của Việt Nam: nghiên cứu so sánh trước và sau cổ phần hoá về hiệu quả hoạt động, những khó khăn và kiến nghị chính sách", Tài liệu hội thảo “Cổ phần hóa và hậu cổ phần hoá – Thực trạng và giải pháp”, Hà Nội, 29-30/8/2002. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (2003), "Quản trị công ty: Nâng cao năng lực cạnh tranh và tiếp cận nguồn vốn trên thị trường toàn cầu", sách do CIEM dịch với sự tài trợ của GTZ, Nxb Giao thông vận tải. TAØI LIEÄU NÖÔÙC NGOAØI Henrry Hansmann, Reinier Kraakman, "The Essential Role of Organizational Law"; Berkeley Program in Law and Economics, 1999. Henry Hansmann, Reinier Kraakman, The End of History for Corporate Law, Georgetown Law Journal, january 2001. Henrry Hansmann, Reinier Kraakman, Richard Squire, "What is Corporate Law"; Havard, 2002. OECD, OECD Principles of corporate governance, 2000. George Shenoy and Pearlie Koh (2001), Corporate Governance in Asia: Some Developments, Asia Business Law Review, No 31, January 2001). ; "Russian Privatization and Corporate Governance: What went wrong?" của Bernal Black, Reinier Kraakman và Anna Tarassova; "A self-enforcing model of Corporate Law" của Bernal Black và Reinier Kraakman; "Separation of ownership and control" của Eugene F.Fama và Michael C. Jensen WEBSITES:

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docMột số giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản trị công ty cổ phần.doc
Luận văn liên quan