Đề tài Nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng ngắn hạn tại ngân hàng thương mại cổ phần kỹ thương Việt Nam chi nhánh Thăng Long

LỜI MỞ ĐẦU Bất cứ hoạt động kinh doanh nào cũng chứa đựng những rủi ro tiềm ẩn và hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng không phải là một ngoại lệ. Hoạt động cho vay đối với khách hàng doanh nghiệp của ngân hàng mang lại lợi nhuận cao nhất nhưng lại hàm chứa nhiều rủi ro hơn so với các hoạt động khác. Trong hoạt động tài trợ vốn cho doanh nghiệp, các khoản vay thường lớn, trong khi chênh lệch giữa thu nhập và chi phí của chúng ngày càng nhỏ do sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng. Do đó, chỉ cần một khoản vay không thu được không chỉ làm cho lợi nhuận của ngân hàng từ khoản vay đó bị mất đi mà rất có thể sẽ ảnh hưởng đến các khoản vay khác. Để ngăn ngừa và hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng tới mức thấp nhất, đòi hỏi công tác tín dụng nói chung và hoạt động thẩm định tín dụng nói riêng phải được xem xét, nghiên cứu kỹ hơn và toàn diện hơn phù hợp với điều kiện của nền kinh tế và của mỗi ngân hàng. Techcombank Thăng Long là chi nhánh cấp một của ngân hàng thương mại cổ phần kỹ thương Việt Nam - một trong những ngân hàng cổ phần phát triển nhất hiện nay. Với phương châm “an toàn - hiệu quả”, Techcombank Thăng Long luôn cố gắng hoàn thiện và nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng ngắn hạn, hạn chế tối đa rủi ro cho khách hàng và cho chính ngân hàng. Mặc dù đã có nhiều cố gắng song công tác thẩm định tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh vẫn còn nhiều bất cập. Trong quá trình thực tập, khảo sát thực tế, thu thập số liệu tại chi nhánh Techcombank Thăng Long, em đã lựa chọn đề tài: “Nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng ngắn hạn tại NHTMCP kỹ thương Việt Nam chi nhánh Thăng Long” để nghiên cứu. Nội dung nghiên cứu chuyên đề thực tập tốt nghiệp của em bao gồm 4 phần: Chương 1: Giới thiệu khái quát về đề tài thẩm định tín dụng ngắn hạn tại ngân hàng thương mại Chương 2: Tổng quan về thẩm định tín dụng ngắn hạn tại ngân hàng thương mại Chương 3: Thực trạng chất lượng thẩm định tín dụng ngắn hạn tại ngân hàng thương mại cổ phần kỹ thương Việt Nam chi nhánh Thăng Long Chương 4: Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh Techcombank Thăng Long Do kiến thức và kinh nghiệm thực tập của em còn nhiều hạn chế nên đề tài không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp, chỉ bảo của thầy cô và các bạn sinh viên quan tâm đến đề tài này.

doc94 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5510 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng ngắn hạn tại ngân hàng thương mại cổ phần kỹ thương Việt Nam chi nhánh Thăng Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xuất kinh doanh thuộc thẩm quyền của chi nhánh, chi nhánh được quyền chủ động thẩm định và ra quyết định cho vay. Nếu các phương án, kế hoạch sản xuất kinh doanh vượt quá mức ủy quyền phán quyết của chi nhánh hoặc không bảo đảm điều kiện cho vay thông thường, chi nhánh tiến hành thực hiện thẩm định và trình lên khối thẩm định và quản trị rủi ro của hội sở để tái thẩm định. Tại chi nhánh, cán bộ tín dụng được phân công thẩm định các hồ sơ vay vốn theo ngành, nhóm ngành và có sự hỗ trợ của khối thẩm định và quản trị rủi ro trong khâu định giá tài sản đảm bảo. Việc bố trí như vậy giúp các chuyên viên phân tích tín dụng hiểu rõ về ngành, nhóm ngành mình phụ trách, giúp nâng cao chất lượng công tác thẩm định. 3.2.3.2. Thời gian thẩm định Hiểu rõ sự cần thiết của thời gian đối với cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp, các chuyên viên tín dụng tại chi nhánh luôn cố gắng hoàn thành công tác thẩm định trong thời gian ngắn nhất nhưng vẫn phải đảm bảo chất lượng thẩm định. Nhờ có sự phân công cụ thể rõ ràng công việc và sự hỗ trợ của các bộ phận liên quan, các trang thiết bị công nghệ hiện đại, thời gian thẩm định tín dụng ngắn hạn đã được rút ngắn đáng kể so với trước đây. Điều này được thể hiện rõ qua số lượng hồ sơ đề nghị vay vốn và số lượng hồ sơ được phê duyệt vay vốn trình bày trong bảng 3.6. Số lượng các hồ sơ đề nghị vay vốn và các hồ sơ được duyệt vay vốn tăng lên qua các năm cho thấy thời gian thẩm định tín dụng đã được cải thiện khá nhiều so với trước đây. Thời gian bình quân để cán bộ thẩm định một phương án vay vốn (kể cả thời gian khảo sát thực tế đánh giá tình hình doanh nghiệp) trung bình là 4,5 ngày làm việc, trong khi đó, con số này 5 năm trước là 7 ngày làm việc. Nếu quyết định không cho vay thì ngân hàng sẽ thông báo với khách hàng bằng văn bản trong đó nêu rõ lý do không cho vay. Đối với các khoản vay vượt quyền phán quyết của chi nhánh, thời gian thẩm định không quá 4 ngày làm việc kể từ khi nhận được đầy đủ hồ sơ vay vốn hợp lệ và các thông tin cần thiết từ khách hàng, sau đó chi nhánh sẽ làm thủ tục trình lên hội sở thẩm định. Việc rút ngắn thời gian thẩm định không chỉ hạn chế được các trường hợp không đáp ứng được nhu cầu về thời gian của khách hàng mà còn thể hiện sự chuyên nghiệp trong phong cách phục vụ khách hàng của chi nhánh. Tuy nhiên, đối với các khách hàng lần đầu đặt quan hệ với ngân hàng, các chuyên viên tín dụng cần một khoảng thời gian nhiều hơn để có thể thu thập thông tin đánh giá về năng lực tài chính, năng lực kinh doanh, uy tín khách hàng cũng như tính khả thi, hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh của khách hàng. 3.2.3.3. Chi phí thẩm định tín dụng ngắn hạn Chi phí thẩm định tín dụng nhiều hay ít phụ thuộc rất nhiều vào sự sẵn có và độ tin cậy của các nguồn thông tin. Trong những năm qua, nhờ sự phát triển của công nghệ thông tin, sự xuất hiện của mạng thông tin điện tử và sự ra đời của CIC - trung tâm thông tin tín dụng, cộng với kho dữ liệu khách hàng được Techcombank thường xuyên cập nhật và bổ sung, nguồn thông tin về khách hàng ngày càng sẵn có và có độ tin cậy cao hơn. Nhờ đó, Techcombank Thăng Long có thể tìm thấy các nguồn thông tin cần thiết nhanh hơn và với chi phí rẻ hơn. Mặt khác, việc bố trí và phân công quản lý khách hàng theo mạng lưới địa lý của các chi nhánh và theo ngành nghề kinh doanh đã giảm thiểu được chi phí đi lại. Hơn nữa, việc chuẩn bị tốt trước mỗi lần đi thẩm định của cán bộ tín dụng cũng hạn chế được chi phí do phải đi lại nhiều lần. Thêm vào đó, việc giảm thời gian thẩm định cũng góp phần làm giảm chi phí thẩm định bởi đây là hai đại lượng có quan hệ tỷ lệ thuận với nhau. Thời gian thẩm định một phương án sản xuất kinh doanh càng lâu thì chắc chắn sẽ có những khoảng thời gian không cần thiết, không đem lại hiệu quả cho công tác thẩm định. Mặt khác, thời gian thẩm định cũng có thể coi là một loại chi phí cơ hội. Giảm thiểu được thời gian thẩm định đối với các phương án, kế hoạch kinh doanh mà cán bộ đã quen thuộc và hiểu rõ về khách hàng thì sẽ có nhiều thời gian hơn để thẩm định đối với các khách hàng mới, thu hút thêm được khách hàng, gia tăng thu nhập cho ngân hàng. 3.2.3.4. Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn Như đã trình bày cụ thể trong mục 3.2.1 và bảng số liệu 3.8, tổng nợ quá hạn trong thời gian qua của chi nhánh tuy có gia tăng (lần lượt các năm là 18.793 triệu đồng, 19.319 triệu đồng và 26.326 triệu đồng) song tỷ lệ nợ ngắn hạn quá hạn luôn nằm trong mức kiểm soát từ 6,5% dến 8% và đang có xu hướng giảm xuống. Tỷ lệ nợ quá hạn thấp hơn so với nhiều chi nhánh khác của Techcombank. Đồng thời, tỷ lệ nợ xấu cũng được duy trì ở mức thấp, năm 2007 là 3% và hai năm 2008, 2009 tỷ lệ này là 2,5% (xấp xỉ tỷ lệ nợ xấu chung của toàn Techcombank là 2,52% và 2,49%). Các khoản nợ quá hạn và nợ xấu thường tập trung chủ yếu vào các công ty xây dựng, công ty thương mại mà sản phẩm chịu nhiều ảnh hưởng của biến động kinh tế và các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Quan điểm mở rộng tín dụng đi kèm nâng cao chất lượng tín dụng, chất lượng thẩm định luôn được chi nhánh quán triệt. Để hạn chế nợ quá hạn phát sinh, cán bộ tín dụng chủ động bám sát các đơn vị, thực hiện tốt các khâu thẩm định và duy trì kiểm tra trước, trong và sau khi cấp tín dụng cho khách hàng. Hầu hết các khoản nợ xấu đã được trích lập dự phòng theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN hoặc được xử lý ngoài bảng tổng kết tài sản để theo dõi ngoại bảng theo chủ trương của Techcombank. Mặt khác, chi nhánh cũng chưa có thống kê, theo dõi các phương án, kế hoạch sản xuất kinh doanh mà chi nhánh đã từ chối cấp vốn tài trợ nhưng chủ doanh nghiệp đã tìm nguồn tài trợ khác và triển khai hoạt động có hiệu quả. Vì vậy, chưa có cơ sở đánh giá một cách chính xác xem từ việc sử dụng kết quả thẩm định tín dụng ngắn hạn, chi nhánh có bỏ lỡ cơ hội kinh doanh hay không. 3.3. ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÍN DỤNG NGẮN HẠN TẠI CHI NHÁNH TECHCOMBANK THĂNG LONG 3.3.1. Kết quả đạt được Cùng với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của nền kinh tế Việt Nam nói chung, của địa bàn quận Đống Đa nói riêng, chi nhánh Techcombank Thăng Long đã không ngừng đổi mới, lớn mạnh và đạt được vị thế ngày càng cao. Đạt được kết quả như vậy là do sự đóng góp của hoạt động tín dụng nói chung và sư đóng góp của công tác thẩm định tín dụng ngắn hạn nói riêng. Qua phân tích thực trạng thẩm định tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh, đối chiếu với các chỉ tiêu đánh giá chất lượng cho thấy hoạt động thẩm định có chất lượng khá tốt và không ngừng được nâng cao. Hoạt động thẩm định tín dụng ngắn hạn của chi nhánh đã đạt được những kết quả sau: Thứ nhất, chi nhánh đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong hoạt động thẩm định tín dụng ngắn hạn, không những đáp ứng tốt nhu cầu kinh doanh của mình mà ngày càng phục vụ tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Hoạt động thẩm định tín dụng ngắn hạn không chỉ nhằm mục đích phát hiện những sai sót, bất hợp lý trong hồ sơ, phương án vay vốn của ngân hàng mà còn nhằm tư vấn cho khách hàng có biện pháp triển khai kế hoạch, phương án kinh doanh có hiệu quả. Nhờ vậy, uy tín của chi nhánh cũng như mối quan hệ với khách hàng ngày càng được củng cố, số lượng hồ sơ đề nghị vay vốn không ngừng tăng lên qua các năm. Thứ hai, công tác tổ chức thẩm định tín dụng ngắn hạn được thực hiện tương đối hợp lý. Quy trình thẩm định và phân công trách nhiệm rõ ràng, cụ thể, công tác thẩm định luôn có sự hỗ trợ của các bộ phận có liên quan. Nội dung thẩm định được thực hiện theo trình tự logic, khoa học và linh hoạt theo tính chất từng khoản vay. Tính chuyên môn hóa trong thẩm định ngày càng cao, mỗi cán bộ được phân công thực hiện thẩm định tín dụng ngắn hạn thuộc từng lĩnh vực ngành nghề riêng nên đã tạo điều kiện cho các cán bộ thẩm định tích lũy kinh nghiệm, hiểu biết rõ hơn về lĩnh vực ngành nghề được phân công. Tuy chi nhánh chưa xây dựng được phần mềm chuyên dùng cho hoạt động thẩm định tín dụng ngắn hạn nhưng đội ngũ chuyên viên phân tích tín dụng tại chi nhánh đã khai thác tối đa các tiện ích của máy tính, thiết bị công nghệ hiện đại nên đã tiết kiệm được thời gian cũng như giảm thiểu chi phí mà vẫn đảm bảo chất lượng thẩm định. Thứ ba, thành công trong công tác thẩm định tín dụng ngắn hạn của Techcombank Thăng Long giúp cho chất lượng hoạt động tín dụng luôn ở mức cao. Điều này thể hiện qua chỉ tiêu dư nợ tín dụng ngắn hạn, doanh số cho vay ngắn hạn tăng mạnh qua các năm, tỷ lệ nợ quá hạn và nợ xấu tương đối ổn định và đang ngày càng giảm xuống. Từ năm 1993 đến nay, lợi nhuận của chi nhánh từ hoạt động tín dụng ngắn hạn ngày càng được cải thiện và tăng trưởng tích cực, tổng lợi nhuận của chi nhánh đạt 67,924.18 triệu đồng năm 2009. Tỷ lệ nợ xấu ngắn hạn đã có sự chuyển biến theo hướng khả quan hơn chỉ còn chưa tới 2,5%, đây là thành tích đáng khích lệ của bộ phận tín dụng, là biểu hiện của chất lượng thẩm định ngày càng nâng cao. Thứ tư, hoạt động tín dụng ngắn hạn của chi nhánh là đòn bẩy kinh tế quan trọng thúc đẩy quá trình sản xuất kinh doanh hàng hóa trên địa bàn. Hàng năm, bằng việc thẩm định tín dụng ngắn hạn nhằm lựa chọn phương án, kế hoạch sản xuất kinh doanh có hiệu quả giúp doanh nghiệp duy trì, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh. Qua đó, chi nhánh đã góp phần giải quyết khối lượng công ăn việc làm lớn, cải thiện thu nhập cho người lao động, phát triển kinh tế khu vực. Các kết quả trên đạt được là nhờ những cố gắng sau: Đội ngũ cán bộ thẩm định của chi nhánh đều có trình độ chuyên môn cao (trình độ đại học và trên đại học, đã được ngân hàng đào tạo về nghiệp vụ và thường xuyên bồi dưỡng, kiểm tra nâng cao nghiệp vụ thẩm định), có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc và tuân thủ nghiêm túc quy trình thẩm định. Đây chính là những yếu tố quyết định tới thành công đạt được trong công tác thẩm định tín dụng ngắn hạn tại ngân hàng. Nhận thức được vai trò quan trọng của thông tin đối với chất lượng thẩm định tín dụng ngắn hạn, chi nhánh luôn chú trọng công tác thu thập, quản lý, phân tích và lưu trữ thông tin cũng như đầu tư các máy móc hiện đại phục vụ cho công tác thẩm định. Do Techcombank đã có hướng dẫn thống nhất về nội dung, quy trình nghiệp vụ và các hoạt động liên quan đến thẩm định tín dụng ngắn hạn nên giúp cho hoạt động thẩm định tại chi nhánh được thống nhất, khoa học, đảm bảo kiểm soát hoạt động nghỉệp vụ góp phần phòng ngừa, hạn chế rủi ro tín dụng. 3.3.2. Hạn chế và nguyên nhân Bên cạnh những kết quả đã được nêu trên, hoạt động thẩm định tín dụng ngắn hạn tại Techcombank Thăng Long vẫn còn một số hạn chế sau: 3.3.2.1. Hạn chế Thứ nhất, thiếu sót trong khâu thẩm định tài chính doanh nghiệp. Thẩm định tài chính doanh nghiệp là một khâu quan trọng trong công tác thẩm định tín dụng, nó cho thấy sức khỏe tài chính của doanh nghiệp có đáp ứng được việc thực hiện phương án, kế hoạch sản xuất kinh doanh hay không. Với bất kỳ một loại hình doanh nghiệp nào, hoạt động sản xuất kinh doanh trong bất kỳ lĩnh vực nào thì ngân hàng cũng phải lấy một mốc nhất định làm cơ sở, căn cứ để đánh giá xem xét tình hình tài chính doanh nghiệp đó tốt hay xấu. Thế nhưng, trong khâu thẩm định tài chính doanh nghiệp ở Techcombank Thăng Long, các hệ số tài chính mới chỉ được xem xét đánh giá so với thời gian trước mà không được so sánh với mức trung bình ngành hay với bất kỳ doanh nghiệp nào trong ngành. Mặt khác, trong quá trình phân tích tài chính khách hàng, chi nhánh chưa đánh giá đầy đủ về nội dung cần thiết như điểm hòa vốn, báo cáo lưu chuyển tiền tệ, vốn lưu động ròng… Thứ hai, thời gian thẩm định tín dụng ngắn hạn tuy đã giảm xuống so với trước đây song khi so sánh với thời gian thẩm định của một số ngân hàng khác thì vẫn còn quá lâu. Thời gian thẩm định trung bình của Techcombank Thăng Long là 4,5 ngày trong khi của Vietcombank trung bình chỉ mất 3 ngày làm việc. Với khách hàng lần đầu đặt quan hệ với chi nhánh thì thời gian thẩm định còn lâu hơn nữa. Trong giai đoạn cạnh tranh ngân hàng gay gắt hiện nay, hạn chế về thời gian thẩm định sẽ đem lại nhiều bất lợi trong việc thu hút khách hàng của Techcombank. Thứ ba, thẩm định phương án sản xuất kinh doanh còn sơ sài, chưa chú trọng công tác dự báo thẩm định thị trường. Các dự báo về doanh thu chi phí thường chủ yếu dựa vào sự tính toán của chủ doanh nghiệp mà sự tính toán này nhiều khi cũng chỉ dựa trên ước lượng theo cảm tính và thường bị bóp méo để đẹp kết quả phương án trình ngân hàng. Thứ tư, thẩm định tín dụng ngắn hạn ở Techcombank Thăng Long mới chỉ đề cập tới giai đoạn ban đầu trước khi cho vay, còn việc thường xuyên đánh giá thẩm định tình hình tài chính doanh nghiệp, tình hình sử dụng vốn chưa được quan tâm thường xuyên. Hầu như hoạt động thẩm định tín dụng dừng lại khi chuyên viên phân tích tín dụng lập xong báo cáo thẩm định trình lãnh đạo phê duyệt. Nếu phương án, kế hoạch sản xuất kinh doanh của khách hàng được duyệt cho vay thì sau khi giải ngân, hồ sơ khách hàng sẽ được lưu trữ và quản lý bởi ban kiểm soát và hội thẩm kinh doanh của chi nhánh và chuyên viên khách hàng có nghĩa vụ thường xuyên kiểm tra việc sử dụng vốn, theo dõi hợp đồng khách hàng. Xong trên thực tế, các chuyên viên khách hàng một mặt do bận rộn với các khách hàng khác, một mặt nguồn thông tin về tình hình tài chính doanh nghiệp khó có thể tiếp xúc (do không có quy định nào buộc khách hàng sau khi tiếp nhận vốn vay phải trình tiếp báo cáo tài chính các kỳ kế tiếp), chỉ có khả năng nhắc nhở khách hàng trả lãi và nợ gốc khi đến kỳ hạn. Do đó, có nhiều phương án, kế hoạch sản xuất kinh doanh đến khi khách hàng không trả nợ, các chuyên viên khách hàng mới phát giác ra doanh nghiệp đang hoạt động không có hiệu quả, lúc đó mới tìm biện pháp xử lý. 3.3.2.2. Nguyên nhân Chất lượng công tác thẩm định tín dụng ngắn hạn của Techcombank Thăng Long tồn tại mặt hạn chế nêu trên là do một số nguyên nhân sau: Nguyên nhân khách quan Thứ nhất, cơ chế thị trường chưa hoàn thiện. Thị trường là một trong những vấn đề quan tâm khi xem xét đánh giá một doanh nghiệp, nó bao gồm cả thị trường đầu vào và thị trường đẩu ra. Việt Nam chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường đã được hơn 20 năm song nhìn lại toàn diện nền kinh tế có thể thấy: Thị trường nước ta còn kém phát triển, thiếu đồng bộ và bị chia cắt. Hiện nay mới chỉ có thị trường hàng hóa và dịch vụ là phát triển, song trong thị trường này vẫn còn tồn tại những mặt hàng, dịch vụ vẫn theo cơ chế cũ, nghĩa là doanh nghiệp nhà nước độc quyền cung ứng như điện, nước, xăng… Các loại thị trường khác còn sơ khai, chưa phát triển nhất là các thị trường đầu vào như vốn, đất đai, công nghệ, lao động. Thị trường đầu ra còn khó khăn do hàng ngoại nhập lậu tràn lan, phần lớn hàng tiêu dùng trong nước bị chiếm lĩnh, thiếu thông tin hướng dẫn thị trường. Cơ chế thị trường mới bắt đầu được thừa nhận và bước đầu xác lập nên còn đan xen giữa cơ chế chỉ huy và cơ chế thị trường. Quan hệ kinh tế thị trường chưa được xác lập đầy đủ và đồng bộ nên chưa phát huy được hết tính ưu việt của nó. Trong khi đó, các doanh nghiệp Việt Nam năng lực sản xuất còn yếu, còn thiếu kinh nghiệm, chưa thực sự chủ động trong kinh doanh nên chưa thích ứng với cơ chế thị trường. Thứ hai, môi trường pháp lý chưa đồng bộ. Thời gian qua Nhà nước đã có nhiều nỗ lực trong việc tạo khuôn khổ pháp lý cho các doanh nghiệp hoạt động. Tuy vậy, hệ thống pháp luật chung cho nền kinh tế chưa hoàn chỉnh, thiếu đồng bộ, còn chung chung, mỗi lần ban hành sửa đổi luật thường mất một thời gian dài để luật được cụ thể thành các văn bản dưới luật đi vào cuộc sống. Đồng thời qua việc ban hành, thực thi pháp luật còn bộc lộ những nhược điểm như: môi trường pháp lý thiếu ổn định, những quy định pháp lý đối với doanh nghiệp thường xuyên thay đổi gây ra tác động xấu đến môi trường đầu tư. Hơn nữa, trong những năm trở lại đây, thực tế cho thấy chỉ đổi mới và hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp chưa đủ giải quyết hết các rào cản đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Mặc dù Luật doanh nghiệp 2005 được ban hành đã có những tác động tích cực đến các doanh nghiệp nhưng việc thực thi luật doanh nghiệp đang bị hạn chế bởi sự không đồng bộ, không thống nhất với các văn bản pháp luật khác, nhất là các văn bản liên quan trực tiếp đến hoạt động của các doanh nghiệp như pháp luật về quyền sử dụng đất, pháp luật về huy động vốn, pháp luật về thuế… Các văn bản pháp quy thường không được ban hành kịp thời, thiếu đồng bộ, nhiều văn bản pháp lý không còn phù hợp chưa được điều chỉnh kịp thời, vừa gây khó khăn trói buộc hoạt động của các doanh nghiệp, vừa tạo khe hở để cho các doanh nghiệp lợi dụng, làm mất hiệu lực pháp lý của Nhà nước, đặc biệt là những quy định về thủ tục đăng ký kinh doanh, thủ tục vay vốn, thuê đất. Việc thực thi pháp luật chưa nghiêm chỉnh và xử lý vi phạm thiếu nghiêm minh dẫn đến tình trạng kinh doanh thiếu lành mạnh, gây rối loạn trong hoạt động. Năng lực quản lý của bộ máy Nhà nước vẫn chưa đồng bộ, chậm thay đổi; thái độ tâm lý làm việc, phương thức và công cụ quản lý chưa có thay đổi một cách rõ nét để phù hợp với cơ chế, chính sách mới. Thứ ba, những yếu kém của bản thân doanh nghiệp. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến nhiều hạn chế trong công tác tín dụng và thẩm định tín dụng ngắn hạn tại Techcombank Thăng Long. Năng lực quản lý, kinh doanh và khả năng cạnh tranh của nhiều doanh nghiệp còn hạn chế, thể hiện qua các chỉ tiêu về vốn, quy mô tài sản, công nghệ,… nên hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp này kém hiệu quả, làm ăn thua lỗ, dẫn đến các doanh nghiệp không thể trả nợ. Khi các doanh nghiệp này xây dựng phương án sản xuất kinh doanh thì rất có hiệu quả nhưng do năng lực quản lý yếu kém nên không tính hết những biến động của thị trường, hàng hóa của họ sản xuất ra không được thị trường chấp nhận hoặc sản phẩm khó tiêu thụ dẫn đến tìnht trạng sản xuất kinh daonh thua lỗ. Một nguyên nhân nữa thường gặp ở các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đó là tình trạng thiếu vốn nên các doanh nghiệp thường chiếm dụng vốn của nhau gây nên nợ nần dây dưa ách tắc đồng thời nó cũng làm hạn chế khả năng mở rộng và phát triển sản xuất, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Vốn tự có thấp nên doanh nghiệp khó đầu tư vào các dự án lớn, vào việc đổi mới máy móc thiết bị công nghệ sản xuất nên các doanh nghiệp thường sản xuất các sản phẩm kém sức cạnh tranh, khiến cho nhiều ngân hàng ngần ngại khi cấp vốn cho họ. Bên cạnh đó, một số doanh nghiệp cố tình sử dụng sai mục đích, không đúng với thỏa thuận trong hợp đồng với ngân hàng gây ra nhiều bất lợi cho ngân hàng. Nguyên nhân chủ quan Thứ nhất, vai trò quản lý của NHNN và hiệu quả thanh tra giám sát còn hạn chế, thiếu kiên quyết, do đó chưa phát huy được tác dụng trong việc củng cố sự phát triển của các NHTM. Hoạt động ngân hàng là hoạt động nhạy cảm nhất đối với những biến động của tình hình kinh tế xã hội, điều đó đòi hỏi có một cơ chế quản lý hết sức nhạy bén. Nhưng trên thực tế, một số cơ chế quản lý của NHNN chậm phát hành, hoặc chậm được củng cố bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với tình hình thực tế (các quy chế về cấp tín dụng, quy chế về an toàn vốn, dự phòng bù đắp rủi ro, về tài sản thế chấp…). Thứ hai, đội ngũ cán bộ thẩm định tín dụng của chi nhánh hầu hết là những cán bộ trẻ có trình độ, được đào tạo cơ bản tốt, năng động song vì một số lý do về thời gian, trình độ chuyên môn còn hạn chế hoặc chưa đủ kinh nghiệm thực tế nên đánh giá các yếu tố đầu vào, đầu ra trong phương án sản xuất kinh doanh chưa phản ánh thực tế thị trường, doanh thu chi phí kế hoạch lại qua tin tưởng vào con số doanh nghiệp cung cấp dẫn đến khi xét duyệt cho vay, cán bộ thẩm định chưa thể dự đoán được những rủi ro có thể xảy ra, làm cho hiệu quả vốn cho vay sử dụng không hợp lý. Một số cán bộ giỏi của chi nhánh khi đã được đào tạo lại có xu hướng chuyển tới một số ngân hàng nước ngoài hoặc các ngân hàng lớn có điều kiện tốt hơn. Thứ ba, tuy chi nhánh luôn chú trọng tới công tác thu thập, quản lý, phân tích và lưu trữ dữ liệu song trên một số khía cạnh, chất lượng thông tin chưa cao và chưa đầy đủ, đặc biệt là các thông tin thu thập từ bên ngoài liên quan đến thị trường sản phẩm đầu ra nên việc đánh giá doanh thu của phương án còn sơ sài, các giả định chưa có độ thuyết phục cao. Nguồn thông tin mà chi nhánh khai chủ yếu là nguồn thông tin khách hàng cung cấp, rất ít thông tin từ các nguồn khác như thông tin từ trung tâm thông tin tín dụng, các thông tin báo chí, các thông tin từ các ngân hàng khác. Việc chưa khai thác các nguồn thông tin này một phần là do thói quen làm việc từ trước là rất ít khai thác các nguồn thông tin từ bên ngoài, chỉ chú trọng trong việc khai thác trong cùng hệ thống và bản thân doanh nghiệp vay vốn. Tất cả những điều đó đều làm giảm mức độ chính xác và tăng chi phí thẩm định cho chi nhánh Thứ tư, sự chuyên môn hóa chưa cao, việc tách rời giữa chức năng thẩm định tín dụng với chức năng quản lý tín dụng đã khiến cho chất lượng công tác thẩm định chưa cao. Thời gian bố trí cho thẩm định nhiều khi không hợp lý do cán bộ thẩm định phải đồng thời làm nhiệm vụ theo dõi và quản lý khoản vay. Hơn nữa, yêu cầu về trình độ của thẩm định và theo dõi, quản lý khoản cho vay là khác nhau nên việc bố trí cán bộ tín dụng làm thẩm định đã làm giảm hiệu quả thẩm định tại chi nhánh. Áp lực cạnh tranh giữa các NHTM trong nền kinh tế thị trường ngày càng gay gắt buộc các ngân hàng phải rút ngắn thời gian thẩm định, thậm chí nhiều trường hợp phải nới lỏng một số điều kiện trong thẩm định và quyết định cho vay, nhất là với những khách hàng quan trọng của ngân hàng dẫn đến kết quả thẩm định chưa sâu, chưa chính xác. Ngoài ra, còn có thể kể đến một số nguyên nhân khác như: Các dịch vụ tư vấn chưa phát triển, dịch vụ thông tin phòng ngừa rủi ro còn ít tác dụng. Thủ tục cho vay của ngân hàng còn khá rườm rà phức tạp, hạn chế việc kiểm soát chặt chẽ tính đúng đắn hồ sơ vay vốn của các doanh nghiệp. Do không thiết lập được thông tin hai chiều giữa ngân hàng và doanh nghiệp nên việc thẩm định của chi nhánh gặp nhiều khó khăn, nhất là công tác thẩm định tình hình tài chính doanh nghiệp sau khi cấp vốn vay. Nguồn vốn huy động của chi nhánh tăng trưởng qua các năm nhưng vẫn không thể đáp ứng đủ vốn cho nhu cầu sản xuất kinh của các doanh nghiệp nên kết quả thẩm định tín dụng ngắn hạn chịu nhiều ảnh hưởng về điều kiện về tài sản đảm bảo, quan hệ hợp tác lâu dài và chương trình chính sách phát triển kinh tế xã hỗi của Nhà nước. Cơ sở vật chất phục vụ cho công tác thẩm định tín dụng ngắn hạn tuy đang từng bước được thay thế đổi mới nhưng số lượng này còn rất ít, hầu hết trong số chúng thường bị hư hỏng trong quá trình hoạt động, các phần mềm phân tích thì lạc hậu, thậm chí các cán bộ thẩm định tín dụng còn tính toán thủ công rất mất thời gian và công sức. Như vậy, cùng với sự phát triển của ngân hàng, hoạt động thẩm định tín dụn ngắn hạn tại chi nhánh Techcombank Thăng Long đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, bên cạnh đó, công tác này vẫn bộc lộ nhiều hạn chế, vướng mắc cần sớm được khắc phục, tháo gỡ với những biện pháp hữu hiệu để đạt được mục tiêu phát triển đưa Techcombank trở thành ngân hàng hàng đầu ở Việt Nam và trở thành một ngân hàng quốc tế trong khu vực. CHƯƠNG 4: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÍN DỤNG NGẮN HẠN TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẤN KỸ THƯƠNG VIỆT NAM CHI NHÁNH THĂNG LONG 4.1. ĐỊNH HƯỚNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG NGẮN HẠN TẠI CHI NHÁNH TECHCOMBANK THĂNG LONG 4.1.1. Định hướng hoạt động chung Trên cơ sở định hướng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và của địa phương cũng như định hướng phát triển và hoạt động của ngành ngân hàng Việt Nam trong những năm tới; đồng thời trên cơ sở kế hoạch chiến lược giai đoạn và tầm nhìn đến 2015 của Techcombank, Techcombank Thăng Long đã đề ra định hướng hoạt động của chi nhánh như sau: - Hoạt động đầu tư: Giai đoạn tới Techcombank sẽ tiếp tục đầu tư cho hệ thống hạ tầng, áp dụng công nghệ hiện đại trong quản lý và kinh doanh với các dự án: nâng cấp hệ thống T24, T-RISK, DataWare; Đầu tư mua đất đai xây trụ sở, chi nhánh, mua sắm POS, ATM... Với kế hoạch đầu tư tổng tài sản dự kiến sẽ là 1.264 triệu VND. - Phát triển cơ sở khách hàng và sản phẩm: Đẩy mạnh phát triển phân khúc khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ SME. Tạo đột phá và cách biệt trong việc triển khai chiến lược ngân hàng bán lẻ, trọng tâm khai thác phân khúc khách hàng có thu nhập khá trong xã hội. Phát triển có trọng điểm cho phân khúc khách hàng doanh nghiệp lớn, hướng tới mục tiêu cung ứng bộ sán phẩm dịch vụ nhằm đáp ứng toàn diện nhu cầu khách hàng. - Hoàn thiện công nghệ hiện đại hóa ngân hàng: Ưu tiên xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu Data Warehouse, Business Intelligence, Cash Management, Risk Rating, Sale Force... nhằm hỗ trợ hoạt động kinh doanh của các khối. Nâng cấp toàn diện hệ thống T24r7 lên T24r9 theo kiến trúc mở đảm bảo sự phát triển dài hạn theo quy mô lớn với tốc độ nhanh của ngân hàng trong 5 năm tới đây. - Công tác truyền thông: Thực hiện các cải cách cần thiết nhằm nâng cao uy tín thương hiệu và khả năng nhận diện thương hiệu ngân hàng, đặc biệt tại thị trường miền Nam để thúc đẩy tăng trưởng trong khu vực này. Xác định khách hàng mục tiêu, các sản phẩm chiến lược, giá trị cốt lõi từ đó định vị thương hiệu, nâng cao giá trị thương hiệu. - Công tác quản trị rủi ro: Phấn đấu tỷ lệ nợ 3-5 xuống còn 1,98% tổng dư nợ. Cải thiện công tác tái thẩm định. Rà soát và cập nhật các chính sách quản lý rủi ro thị trường trên cả hai phương diện rủi ro lãi suất và rủi ro thanh khoản, có kế hoạch kiểm soát chặt chẽ rủi ro thanh khoản. - Hoàn thiện hệ thống thông tin quản trị: Xây dựng cơ chế điều chuyển vốn nội bộ rõ ràng, minh bạch, trở thành một công cụ quản lý đắc lực giúp việc xác định hiệu quả kinh doanh các khối, đơn vị, cá nhân chính xác. Từng bước triển khai công tác quản trị tài sản Nợ-Có, tạo ra những hỗ trợ quan trọng giúp ban lãnh đạo, hội đồng ALCO có những chiến lược, quyết định đúng đắn. - Công tác tuyển dụng và đào tạo nguồn nhân lực: Nâng cao các chỉ tiêu tuyển dụng nhân sự kết hợp với việc tiếp tục đào tạo chuyên sâu đội ngũ cán bộ có đạo đức nghề nghiệp, tinh thông nghiệp vụ. Phát huy tính kế thừa và tiếp nối giữa các lớp thế hệ cán bộ. Các chỉ tiêu kế hoạch cụ thể năm 2010: Tổng tài sản tăng 40% so với năm 2009, đạt 1.200 tỷ đồng. Trong đó, vốn huy động dân cư đạt 700.000 triệu đồng và các tổ chức kinh tế 350.000 triệu đồng. Thu nhập dịch vụ đạt 40.000 triệu đồng, tỷ lệ thu nhập dịch vụ/thu nhập hoạt động thuần là 20%. Dư nợ cho vay đạt 580.000 triệu đồng (tăng 30%). Tỷ lệ nợ loại 3-5 ≤ 1.98% tổng dư nợ. Lợi nhuận trước thuế đạt 90.000 triệu đồng. 4.1.2. Định hướng hoạt động tín dụng ngắn hạn Trong năm 2010 và những năm tiếp theo, tín dụng ngắn hạn được xác định là một trong những hoạt động quan trọng của Techcombank Thăng Long. Ban lãnh đạo chi nhánh đề ra chiến lược phát triển tín dụng: Gắn hoạt động tín dụng với định hướng, cơ cấu phát triển của ngành, lĩnh vực trên địa bàn. Tích cực khai thác, tiếp thị các phương án sản xuất kinh doanh mới, chỉ cấp tín dụng ngắn hạn cho phương án hội đủ điều kiện tín dụng, kiên quyết không hạ thấp các điều kiện tín dụng. Mở rộng tín dụng đồng thời thực hiện đúng quy trình nghiệp vụ, thẩm định kỹ lưỡng trước, trong và sau khi cho vay đối với mọi đối tượng khách hàng. Thường xuyên nắm bắt nhu cầu khách hàng, tăng cường công tác đánh giá phân loại khách hàng để có hướng đầu tư thích hợp đảm bảo việc mở rộng tín dụng gắn liền với chất lượng tín dụng. Mặt khác, thực thi chiến lược về công tác tổ chức cán bộ, quản trị điều hành: Thực hiện tốt chính sách tuyển dụng, đào tạo bồi dưỡng cán bộ và sử dụng, bố trí nhân sự đủ về số lượng, có cơ cấu hợp lý, được đào tạo cơ bản và thường xuyên cập nhật kiến thức, đảm bảo đáp ứng nghiệo vụ thẩm địn tín dụng ngắn hạn trong tình hình mới. Đảm bảo việc bố trí sắp xếp nhân lực theo hướng phát huy tối đa năng lực, sở trường của từng cá nhân, đồng thời cử cán bộ tham dự các lớp tập huấn của ngân hàng về chuyên đề liên quan đến nghiệp vụ thẩm định tín dụng nhằm nâng cao năng lực công tác cho cán bộ. Khuyến khích cán bộ tự liên hệ đào tạo, tự nghiên cứu học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn. Đào tạo nâng cao năng lực quản lý và quản trị rủi ro đối với cán bộ lãnh đạo. Hoàn thiện chiến lược nâng cao chất lượng hoạt động ngân hàng: Nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác kiểm tra, kiểm soát để phát hiện và ngăn ngừa rủi ro trong hoạt động ngân hàng. Khai thác có hiệu quả hệ thống thông tin kinh tế, tín dụng, quản lý công nghệ thông tin. Phân tích đánh giá đúng thực trạng các khoản nợ từ đó trích lập dự phòng rủi ro đầy đủ, xây dựng phương án thu nợ, giảm dần lãi treo. 4.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÍN DỤNG NGẮN HẠN Trên cơ sở phân tích những hạn chế và tìm ra các nguyên nhân dẫn tới hạn chế về chất lượng thẩm định tín dụng ngắn hạn tại Techcombank Thăng Long, em xin đề xuất một số giải pháp cơ bản để góp phần nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh: 4.2.1. Hoàn thiện về tổ chức và nhân lực Trong xu thế mở cửa hội nhập, bên cạnh cơ hội phát triển, các NHTM còn phải đối mặt trước không ít khó khăn thử thách. Để có thể tồn tại, phát triển và có một vị thế vững chắc, đòi hỏi Techcombank Thăng Long phải có một đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp về nghiệp vụ ngân hàng biết vận dụng khoa học công nghệ một cách sang tạo và linh hoạt. Đặc biêt, trong lĩnh vực thẩm định đòi hỏi cán bộ thẩm định phải có phẩm chất đạo đức tốt, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, năng động, nhiệt tình và có tinh thần trách nhiệm cao. Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, nhân viên, kể cả về chuyên môn và năng lực về công nghệ, ngoại ngữ… là một trong những nhiệm vụ quan trọng của chi nhánh. Để làm được như thế thì chi nhánh Techcombank Thăng Long cần thực hiện một số biện pháp sau: Thứ nhất, xây dựng chính sách tuyển dụng hợp lý: Việc tuyển dụng phải được tổ chức một cách nghiêm túc và công bằng, đảm bảo về chất lượng tuyển dụng. Bên cạnh đặt ra một số yêu cầu tối thiểu như phải có kinh nghiệm làm việc, thì chi nhánh cần có cá chính sách linh hoạt cho các sinh viên sắp ra trường chưa có kinh nghiệm, tạo điều kiện giúp đỡ họ có dịp cọ sát thực tế vì đây sẽ là lực lượng cán bộ kế cận trong tương lai. Thứ hai, khuyến khích cán bộ thẩm định tín dụng tự học tập, nâng cao kiến thức chuyên môn, ngoại ngữ, tin học… Chi nhánh thường xuyên có các kế hoạch cho các cán bộ được đào tạo và đào tạo lại. Hướng dẫn, tổ chức, tập huấn cho các cán bộ về kiến thức chuyên môn. Tạo điều kiện để cán bộ tín dụng được đi học nâng cao kiến thức không chỉ là kiến thức về nghiệp vụ mà cả kiến thức về lĩnh vực kinh tế, kỹ thuật, xã hội… để thẩm định một cách chính xác và nhanh nhất. Thứ ba, chi nhánh cũng cần có chính sách khen thưởng, trợ cấp phù hợp đối với từng cá nhân để họ tích cực chủ động tìm kiếm khách hàng và thực thi tốt công tác, nhiệm vụ được giao. Đồng thời, cần tăng cường kiểm tra, giám sát cán bộ tín dụng đảm bảo công tác thẩm định được thực hiện nghiêm túc chặt chẽ. Ngoài ra, chi nhánh cần có chính sách thích hợp thu hút và ưu đãi các chuyên gia, cán bộ thẩm định giỏi về làm việc tại ngân hàng hoặ làm cố vấn, cộng tác viên hỗ trợ công tác thẩm định tín dụng ngắn hạn. 4.2.2. Tăng cường thu thập xử lý và khai thác các nguồn thông tin phục vụ cho công tác thẩm định tín dụng ngắn hạn Thông tin là vấn đề quan trọng, là cơ sở hoạt động kinh doanh của ngân hàng, đặc biệt là hoạt động tín dụng ngân hàng. Thông tin đầy đủ là phương tiện trợ giúp đắc lực cho cán bộ thẩm định tín dụng đánh giá, phân tích, dự báo và đưa ra nhận định chính xác hơn về doanh nghiệp và phương án vay vốn, từ đó tránh được các rủi ro tín dụng cho ngân hàng. Vì vậy công tác thông tin cần phải được chú trọng đúng mức, cập nhập nhanh chóng, chính xác kịp thời về khách hàng và thị trường. Muốn nâng cao chất lượng thu thập thông tin ngân hàng cần thực hiện một số giải pháp sau: Thứ nhất, với thông tin do khách hàng cung cấp. Mặc dù chi nhánh có thể khai thác thông tin từ nhiều nguồn khác nhau nhưng đây vẫn là nguồn thông tin quan trọng mà cán bộ thẩm định thường chủ yếu để dựa vào để phân tích đánh giá. Bởi hơn ai hết, các chủ doanh nghiệp là người hiểu rõ nhất về tình hình tài chính doanh nghiệp cũng như tính khả thi và hiệu quả của phương án kinh doanh, đồng thời họ cũng là người thực hiện và am hiểu về lĩnh vực mình sản xuất. Tuy nhiên có một thực tế mà không ai có thể phủ nhận, mọi khách hàng vay vốn với mục đích được ngân hàng chấp nhận tài trợ cho nên bao giờ cũng có xu hương làm tăng hiệu quả phương án và che giấu những rủi ro có thể xảy ra. Vì vậy cần nghiên cứu kiểm tra và đánh giá kĩ lưỡng tất cả các dự liệu về khách hàng và phương án đầu tư để tìm ra những điểm bất hợp lý, những vấn đề cần lưu tâm hoặc những nội dung cần thiết mà trong hồ sơ vay vốn khách hàng chưa đề cập tới. Trên cơ sở đó cán bộ thẩm định tìm kiếm thông tin qua những nguồn khác ( thông tin nội bộ hoặc thông tin bên ngoài) để có đầy đủ các dữ liệu chính xác về khách hàng và phương án. Và một cách làm không thể thiếu và thường được áp dụng là xuống tận nơi cơ sở sản xuất kinh doanh của khách hàng để khảo sát thực tế, đòng thời phỏng vấn trực tiếp khách hàng trên cơ sở chương trình phỏng vấn được xây dựng thật chi tiết xoay quanh các điểm bất hợp lý hoặc thiếu xót khi nghiên cứu dữ liệu về khách hàng và phương án. Qua đó cán bộ thẩm định có thể có đánh giá sơ bộ về tình hình sản xuất kinh doanh, năng lực và trình độ quản lý, chất lượng sản phẩm... Thứ hai, chi nhánh cần xây dựng một lưu trữ các thông tin thu thập được và đã được xử lý phân tích, đồng thời thường xuyên bổ sung, cập nhập các thông tin trong kho dữ liệu này. Các thông tin được lưu giữ bao gồm: Thông tin liên quan đến khách hàng có quan hệ với chi nhánh (tình hình sản xuất kinh doanh, năng lực pháp lý,...), thông tin liên quan đến lĩnh vực phương án cho vay, thông tin về môi trường kinh tế xã hội ( bao gồm môi trường vĩ mô và kinh tế xã hội của từng địa phương, môi trường vi mô và các đối thủ cạnh tranh), thông tin về các phương án đã, đang và sẽ triển khai của từng lĩnh vực để phục vụ cho việc thẩm định các phương án sản xuất kinh doanh tiếp theo. Tất cả các hồ sơ tài liệu và thông tin phải được lưu trữ bằng hệ thống tin học điện tử để tiện tra cứu và có thể sử dụng qua hệ thống mạng thông tin nội bộ để giúp các bộ phận trong chi nhánh và giữa các chi nhánh trong hệ thống vừa chia sẻ, trao đổi thông tin với nhau một cách thuận tiện nhanh chóng vừa tiết kiệm thời gian và chi phí thẩm định. Thứ ba, Bên cạnh các nguồn thông tin thu thập được từ khách hàng hoặc khai thác từ các thông tin sẵn có trong nội bộ ngân hàng, một nguồn thông tin quan trọng nữa là thông tin từ các phương tiện truyền thông, các bộ ngành cơ quan liên quan (tổng cục thống kê, bộ kế hoạch và đầu tư, cơ quan thuế, cơ quan kiểm toán và các bộ ngành quản lý), các tổ chức tín dụng khác. Với nhiều nguồn cung cấp thông tin thì thông tin thu thập được sẽ đầy đủ và chính xác hơn, tuy nhiên có thể có sự khác biệt giữa các nguồn thông tin, vì vậy đòi hỏi người xử lý thông tin phải biết chắt lọc, điều chỉnh để sử dụng sao cho hợp lý nhất. Các thông tin này cũng được xử lý và lưu trữ trong kho dữ liệu của ngân hàng. Để xây dựng và duy trì được kho dữ liệu, chi nhánh phải phân công cụ thể trách nhiệm của từng bộ phận và cá nhân trong việc thu thập và xử lý thông tin. Riêng với thông tin phục vụ thẩm định có thể giao cho phòng tín dụng, phòng thẩm định và quản lý tín dụng phối hợp với bộ phận về tin học đảm nhiệm. Việc thu thập và xử lý thông tin được thực hiện theo nguyên tắc tiết kiệm tối đa các khoản chi phí, tuy nhiên chi nhánh cũng cần phải đầu tư một khoản kinh phí hợp lý dành cho việc mua thông tin, nhất là thông tin từ các đơn vị chuyên cung cấp dịch vụ điều tra và cung cấp số liệu. 4.2.3. Hoàn thiện nội dung và quy trình thẩm định tín dụng ngắn hạn Nội dung, quy trình thẩm định tín dụng ngắn hạn đầy đủ, rõ ràng vô cùng quan trọng vì kết quả của quá trình này dẫn tới quyết định có cho doanh nghiệp vay vốn hay không và từ đó ảnh hưởng tới lợi nhuận của ngân hàng. Khi đánh giá về khách hàng, cán bộ thẩm định cần chú trọng đến thẩm định tài chính doanh nghiệp và thẩm định tính khả thi và hiệu quả của phương án sản xuât kinh doanh. Cụ thể, khi đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp, cán bộ thẩm định cần đi sâu nghiên cứu kỹ số liệu, phát hiện và thảo luận với khách hàng những điểm bất hợp lý trong báo cáo tài chính, đồng thời khảo sát thực tế hoạt động tại doanh nghiệp để có cái nhìn cụ thể về tình hình doanh nghiệp. Bên cạnh việc tính toán các chỉ tiêu phản ánh khả năng hoạt động, khả năng sinh lời và khả năng thanh toán cần quan tâm đến việc phân tích diễn biến nguồn vốn và việc sử dụng vốn. Các chỉ tiêu tài chính không thể chỉ độc lập nói lên vấn đề của doanh nghiệp mà cần được so sánh với quá khứ và các doanh nghiệp khác. Vì vậy, Techcombank Thăng Long cần phải xây dựng cho mình bộ thông tin về ngành nghề, các số liệu bình quân ngành và số liệu của các doanh nghiệp cùng ngành để đánh giá chính xác doanh nghiệp. Mặt khác, khi thẩm định phương án sản xuất kinh doanh cần tham khảo ý kiến của các chuyên gia về kinh tế xã hội để nắm bắt được các nhân tố ảnh hưởng đến nhu cầu thị trường, giá cả, thị phần, các chi phí đầu vào của phương án vay vốn; từ đó, sẽ có những dự báo chính xác hơn về doanh thu, chi phí, hiệu quả sản xuất kinh doanh của phương án, kế hoạch sản xuất kinh doanh của khách hàng. Quy trình thẩm định tín dụng ngắn hạn có rất nhiều bước nên trong quá trình thẩm định nếu quá đi sâu vào từng bước nhỏ thì không những tốn nhiều thời gian, chi phí và công sức của cán bộ thẩm định mà đôi khi có thể thừa, lặp lại chồng chéo lên nhau. Vì thế cán bộ tín dụng nên vận dụng linh hoạt và sáng tạo trong thẩm định khách hàng. 4.2.4. Các giải pháp khác Hoàn thiện quy định về thời gian thẩm định Ở chi nhánh Techcombank Thăng Long hiện nay vẫn chưa có quy định về thời gian thẩm định tín dụng ngắn hạn. Chính vì thế mà cán bộ tín dụng không kiểm soát được thời gian thẩm định cho các phương án, kế hoạch sản xuất kinh doanh. Ban lãnh đạo chi nhánh cần có các văn bản hướng dẫn cập nhật hơn, chi tiết hơn về thời gian thẩm định tín dụng ngắn hạn. Đồng thời cần thường xuyên kiểm soát, kiểm tra việc thực hiện quy trình và nội dung thẩm định tín dụng ngắn hạn của cán bộ thẩm định để từ đó hiểu rõ các vướng mắc cán bộ tín dụng hay gặp phải để có phương hướng giải quyết rút ngắn thời gian thẩm định. Tăng cường chính sách khách hàng Dịch vụ tư vấn khách hàng là một dịch vụ khá mới mẻ ở Việt Nam. Dịch vụ tư vấn là việc ngân hàng cung cấp cho doanh nghiệp những lời khuyên có chất lượng để doanh nghiệp có thể đưa ra các quyết định phù hợp nhất trong hoạt động của mình, tháo gỡ những khó khăn, đạt được những mục tiêu đề ra như hạn chế rủi ro, tối đa hóa lợi nhuận, có đủ điều kiện vay vốn ngân hàng, mở rộng sản xuất kinh doanh. Nó không chỉ mang lại lợi ích cho doanh nghiệp mà bản thân các ngân hàng - những người cũng cấp dịch vụ này cũng thu được những lợi ích không nỏ như: thu lệ phí phục vụ tư vấn, thu hút được khách hàng mở rộng thị phần, tăng cường củng cố uy tín của ngân hàng. Mà quan trọng hơn cả là ngân hàng có cái nhìn chính xác và trung thực nhất về tình hình hiện nay của doanh nghiệp. Do khách hàng có những khó khăn trong sản xuất nên tìm đến ngân hàng xin tư vấn, vì vậy họ không cần phải cố gắng che dấu những điểm yếu kém của mình. Nhờ vậy, ngân hàng có thể đánh giá chính xác tình hình doanh nghiệp. Mặt khác, sau khi doanh nghiệp được ngân hàng tư vấn thì tình hình tài chính của họ đã tốt hơn trước rất nhiều, khi này nếu các doanh nghiệp đề nghị ngân hàng cấp tín dụng, các cán bộ thẩm định sẽ không còn mất quá nhiều thời gian trong đánh giá năng lực tài chính và năng lực kinh doanh của doanh nghiệp nữa mà chỉ cần tập trung đánh giá tính khả thi và hiệu quả của phương án, kế hoạch sản xuất kinh doanh. 4.3. KIẾN NGHỊ 4.3.1. Kiến nghị với Chính phủ, các bộ ngành và chính quyền địa phương Để nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng ngắn hạn ở Việt Nam hiện nay, cần phát huy vai trò của Nhà nước trong lĩnh vực: Thứ nhất, hình thành khuôn khổ pháp lý. Có khuôn khổ pháp lý hoàn thiện là điều quan trọng đầu tiên làm cơ sở pháp lý cho hoạt động thẩm định tín dụng ngắn hạn, khuôn khổ pháp lý bao gồm những quy định có liên quan đến việc thành lập và hoạt động của doanh nghiệp nói chung và các quy định đối với ngân hàng nói riêng. Cụ thể cần thực hiện một số biện pháp như sau: - Ban hành, bổ sung và chỉnh sửa các chính sách, quy định hiện hành có liên quan đến doanh nghiệp nhằm loại bỏ sự mâu thuẫn, sự thiếu đồng bộ trong văn bản quy phạm pháp luật. Định kỳ xem xét, sửa đổi bổ sung những điều không phù hợp với thực tiễn. Thay đổi quy trình xây dựng và ban hành các văn bản tạo điều kiện đồng bộ từ văn bản pháp quy đến thông tư hướng dẫn để doanh nghiệp thực hiện được ngay, tránh tình trạng chờ đợi thông tư hướng dẫn. - Xây dựng hệ thống các quy định cụ thể với các chế tài xử phạt nghiêm minh về việc góp vốn kinh doanh thành lập doanh nghiệp, ngành nghề kinh doanh, các số liệu báo cáo quyết toán trên giấy tờ, sổ sách của doanh nghiệp. - Sửa đổi ban hành các luật và các quy định nhằm xây dựng một khung pháp luật toàn diện và hiện đại về hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động thẩm định tín dụng ngắn hạn nói riêng để tạo điều kiện dẽ dàng hơn cho các ngân hàng thực hiện và thực thi các chức năng của mình. Thứ hai, Chính phủ phải tăng cường kiểm soát nền kinh tế duy trì môi trường kinh tế chính trị, xã hội ổn định. Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng rất lớn của môi trường kinh tế vĩ mô, một sự thay đổi nhỏ cũng có thể làm cho doanh nghiệp không thích nghi dẫn đến làm ăn thua lỗ không trả được nợ ngân hàng và kết quả thậm định tín dụng của cán bộ thẩm định là không chính xác. Vì vậy, Chính phủ cần duy trì chính sách kinh tế nhất quán đảm bảo cho môi trường kinh tế ổn định. Với các chính sách bảo hộ, chính sách thuế cần có lộ trình cụ thể, công khai để doanh nghiệp và các NHTM đánh giá chính xác thị trường, từ đó có phương hướng hoạt động thích hợp. Cần thiết lập một cơ quan chuyên nghiên cứu thị trường để xác định sự biến động cung cầu và đưa ra các mô hình kinh tế đối với các ngành kinh tế, vùng kinh tế từ đó định hướng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thứ ba, hoàn thiện hệ thống kế toán, kiểm toán. Công tác quản lý nhà nước và pháp lệnh kế toán và kiểm toán còn chưa được quan tâm đúng mức. Đội ngũ kiểm toán viên còn non trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm. Chính vì thế mà nhà nước cần ban hành các chính sách, sắc lệnh đi kèm với các chế tài bắt buộc để mọi doanh nghiệp phải áp dụng một cách thống nhất, đồng bộ chế độ kế toán, thống kê và thông tin báo cáo. Các báo cáo tài chính của doanh nghiệp cần phải tiến hành kiểm soát thường xuyên để cho kết quả thẩm định tín dụng của các cán bộ tín dụng có độ chính xác cao. 4.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước Ngân hàng nhà nước là cơ quan quản lý vĩ mô về hoạt động ngân hàng. Nhằm giúp đỡ các ngân hàng thương mại nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng ngắn hạn, NHNN cần thực hiện chức năng chỉ đạo và xây dựng các văn bản pháp luật chặt chẽ. NHNN cần thực sự là đầu mối thông tin của các tổ chức tín dụng, cung cấp các thông tin mà ngân hàng cần về doanh nghiệp như tình hình tài chính, thông tin phi tài chính, quan hệ tín dụng của doanh nghiệp với các tổ chức tín dụng khác. Do đó, NHNN cần nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng CIC. CIC được thành lập theo nghị định 88/CP và quyết đinh 69/1999/QĐ-NHNN, sự ra đời của nó đã tạo cho các NHTM một kênh thông tin đáng tin cậy, nhằm cải thiện tình trạng thiếu thông tin của các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, các sản phẩm của CIC vẫn chưa đáp ứng được cả về số lượng và chất lượng đối với nhu cầu của các NHTM bởi nhiều lý do khác nhau trong đó có nguyên nhân các NHTM chưa có thói quen cung cấp, trao đổi thông tin về tình hình khách hàng cho nhau hoặc bởi cạnh tranh giữa các ngân hàng nên chậm trế trong việc cung cấp thông tin cho CIC. Vì vậy, NHNN cần có tuyên truyền về sự cần thiết và tác dụng của CIC để các doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng hiểu rằng CIC là cơ quan phục vụ lợi ích cho chính họ, việc cung cấp thông tin đầu vào cho CIC là cần thiết. Đồng thời, NHNN nên áp dụng các chế tài xử phạt đối với các đơn vị không chấp hành nghiêm túc chế độ báo cáo theo quy định. NHNN cần chỉnh sửa, ban hành một số cơ chế tín dụng phù hợp với môi trường kinh doanh, môi trường kinh tế, pháp lý và hành chính ở Việt Nam như điều chỉnh bổ sung, hoàn chỉnh những điều kiện cho vay phù hợp với thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích, tài sản của ngân hàng nhưng đồng thời cũng góp phần giải quyết các khó khăn, tạo điều kiện cho doanh nghiệp vay vốn mở rộng sản xuất. NHNN cần tăng cường thanh tra kiểm tra và xử phạt nghiêm minh những trường hợp vi phạm quy chế, đảm bảo hoạt động kinh doanh của các NHTM đi đúng quỹ đạo. Có các văn bản hướng dẫn cụ thể các vấn đề liên quan đến thẩm định tín dụng nói chung và thẩm định tín dụng ngắn hạn nói riêng. Đồng thời, NHNN cần hỗ trợ về công tác đào tạo nghiệp vụ ngân hàng, trong đó có nghiệp vụ về thẩm định tín dụng ngắn hạn, cũng như tổ chức các buổi hội nghị trao đổi về nghiệp vụ giữa các ngân hàng. NHNN nên tập trung xây dựng hệ thống các chỉ tiêu trung bình ngành áp dụng cho toàn hệ thống ngân hàng tài chính Việt Nam. Bộ chỉ tiêu này sẽ cung cấp cho ngân hàng cái nhìn khách quan về tình hình của doanh nghiệp đồng thời cũng giúp tiết kiệm thời gian và chi phí của các ngân hàng khi mỗi ngân hàng không cần tự lập cho mình một bộ chỉ tiêu ngành riêng. Bộ chỉ tiêu không chỉ đem lại lợi ích cho ngân hàng mà còn cho chính các doanh nghiệp. Dựa vào các kết quả đánh giá theo bộ chỉ tiêu, các doanh nghiệp biết mình đang ở đâu trong ngành nghề kinh doanh, biết được mình so với các doanh nghiệp khác yếu kém ở đâu từ đó có phương hướng giải quyết. Để xây dựng được bộ chỉ tiêu trung bình ngành, NHNN phải phối hợp với các cơ quan hữu quan và sự đóng góp của các NHTM. 4.3.3. Kiến nghị với ngân hàng thương mại cổ phần kỹ thương Việt Nam NHTMCP Kỹ thương Việt Nam cần thường xuyên rà soát các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ của NHNN để vó những sửa đổi bổ sung kịp thời về các vấn đề trong công tác thẩm định tín dụng ngắn hạn cho phù hợp với hoạt động thực tiễn. Đồng thời, ngân hàng nên có những văn bản hướng dẫn đối với các chi nhánh và các cán bộ thẩm định tín dụng khi có sự thay đổi trong các quy định của nhà nước về các vấn đề liên quan đến công tác thẩm định tín dụng cũng như các hoạt động khác của ngân hàng. Bên cạnh nguồn thông tin từ CIC, Techcombank cũng cần tự xây dựng cho mình kho lưu trữ thông tin điện tử chung cho toàn hệ thống, cũng như hỗ trợ các chi nhánh trong việc vận hành và khai thác kho lưu trữ này, điều phối chung trong việc vận hành kho lưu trữ thông tin đảm bảo dự liên thông giữa các đơn vị trong toàn hệ thống. Mặt khác, Techcombank cần thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo, các buổi trao đổi về nghiệp vụ nhằm hỗ trợ các chi nhánh trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nâng cao trình độ nghiệp vụ thẩm định. Ngân hàng nên có các chế độ ưu đãi, khuyến khích các cán bộ thẩm định tín dụng đúng mức đảm bảo thỏa đáng giữa quyền lợi và trách nhiệm của cán bộ tín dụng. Đồng thời, Techcombank có thể nghiên cứu tự xây dựng hoặc đặt hàng các công ty phần mềm các chương trình phần mềm tiện ích phục vụ công tác thẩm định áp dụng cung cho toàn hệ thống để tiết kiệm thời gian và nâng cao hiệu quả thẩm định tín dụng ngắn hạn. KẾT LUẬN Để đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển ngày càng mạnh mẽ của nền kinh tế hiện nay, cũng như để thực hiện mục tiêu tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả và bền vững của các ngân hàng thương mại nói chung và của Techcombank Thăng Long nói riêng, nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng ngắn hạn được coi là một trong những biện pháp quan trọng hàng đầu. Tuy nhiên, đây cũng là một vấn đề hết sức phức tạp, đòi hỏi phải có sự đầu tư nghiên cứu và thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp khác nhau. Qua nghiên cứu lý thuyết và khảo sát thực tế về công tác thẩm định tín dụng ngắn hạn tại Techcombank Thăng Long, chuyên đề đã tập trung giai quyết được một số vấn đề sau: Một là, chuyên đề đã hệ thống hóa những vấn đề mang tính chất lý luận chung nhất về thẩm định tín dụng ngắn hạn, đồng thời tổng hợp hệ thống các chỉ tiêu đánh giá chất lượng thẩm định tín dụng ngắn hạn và phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động này. Hai là, phân tích và làm rõ thực trạng chất lượng thẩm định tín dụng ngắn hạn tại Techcombank Thăng Long. Từ đó, đánh giá các kết quả đạt được và hạn chế còn tồn tại trong công tác thẩm định tín dụng ngắn hạn, đồng thời lý giải nguyên nhân dẫn tới hạn chế đó. Ba là, chuyên đề cũng đã đề xuất một số giải pháp, kiến nghị với chi nhánh và các cơ quan chức năng có liên quan nhằm nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng ngắn hạn tại Techcombank Thăng Long. Với những kiến thức nhỏ bé của mình, qua chuyên đề này, em mong rằng các giải pháp và kiến nghị của mình có giá trị thực tiễn giúp nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng ngắn hạn tại Techcombank Thăng Long, góp phần mở rộng hoạt động tín dụng theo hướng an toàn, hiệu quả, bền vững. Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn TS. Trần Thị Thanh Tú, cùng các thầy cô trong khoa ngân hàng - tài chính và các anh chị đang công tác tại phòng dịch vụ ngân hàng doanh nghiệp của Techcombank Thăng Long đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PGS.TS Phan Thị Thu Hà (2007), Giáo trình Ngân hàng thương mại, NXB Đại học kinh tế quốc dân. TS. Nguyễn Minh Kiều (2009), Giáo trình Tín dụng và thẩm định tín dụng ngân hàng, NXB Thống kê. TS.Hồ Diệu (2001), Giáo trình Tín dụng ngân hàng, NXB Thống kê. Peter S.Rose, Người dịch: Nguyễn Huy Hoàng (2001), Quản trị ngân hàng thương mại, NXB Tài chính. Nghị định 493/2005/NĐ-NHNN về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng. Báo cáo tổng hợp năm 2007, 2008, 2009; quy trình tín dụng đối với khách hàng doanh nghiệp, hướng dẫn cho vay ngắn hạn của NHTMCP kỹ thương Việt Nam chi nhánh Thăng Long. Các khóa luận tốt nghiệp khóa 46, 47.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNâng cao chất lượng thẩm định tín dụng ngắn hạn tại ngân hàng thương mại cổ phần kỹ thương Việt Nam chi nhánh Thăng Long.doc
Luận văn liên quan