Đề tài Quản trị hoạt động ngân hàng 2

Đề tài 6: CÁC VẤN ĐỀ LỚN NHẤT TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA CÁC NGÂN HÀNG VIỆT NAM LÀ GÌ? SẮP XẾP THEO THỨ TỰ ƯU TIÊN CÁC VẤN ĐỀ NÀY? GIẢI PHÁP CHUNG CHO TẤT CẢ CÁC VẤN ĐỀ NÀY VÀ GIẢI PHÁP RIÊNG CHO TỪNG VẤN ĐỀ? I.Các vấn đề lớn nhất trong hoạt động cho vay của các ngân hàng Việt Nam: 1. Hoạt động cho vay của các Ngân hàng chịu sự tác động của các chính sách kinh tế vĩ mô: - Các Ngân hàng Việt Nam chịu sự tác động của chính sách tiền tệ, Ngân hàng trung ương điều tiết nền kinh tế, quản lý hoạt động của hệ thống ngân hàng thông qua các công cụ của chính sách tiền tệ, bao gồm các công cụ trực tiếp(ấn định mức lãi suất, hạn mức tín dụng, mức tồn quỹ tối thiểu) và các công cụ gián tiếp(dự trữ bắt buộc, tái cấp vốn, nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất, tỷ giá hối đoái). a, Lãi suất: [IMG]file:///C:/DOCUME~1/THAORO~1/LOCALS~1/Temp/msohtml1/01/clip_image001.gif[/IMG] Ấn định lãi suất trần, lãi suất sàn: - Việc NHNN ấn định lãi suất tác động trực tiếp đến hoạt động huy động vốn,hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng, đặc biệt là cho vay. Từ tháng 6/2002 cho đến nay, Ngân hàng Nhà nước quyết định thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận, các tổ chức tín dụng tự ấn định lãi suất huy động vốn và lãi suất cho vay trên cơ sở cung cầu vốn thị trường và mức độ tín nhiệm đối với từng khách hàng. Ngân hàng Nhà nước chấm dứt phần nào việc can thiệp vào lãi suất kinh doanh của các tổ chức tín dụng. Trong thực tế, các ngân hàng đã chuyển các khoản cho vay ngắn hạn chịu qui định trần lãi suất cho vay sang cho vay trung, dài hạn để áp dụng lãi suất thoả thuận cao hơn, lãi suất cơ bản chỉ còn đóng vai trò tâm lý như tín hiệu là NHNN Việt Nam sẽ thắt chặt hay nới lỏng chính sách tín dụng nói riêng và chính sách tiền tệ nói chung. - Với tình hình kinh tế khó khăn và áp lực cạnh tranh lớn,mức chênh lệch giữa lãi suất huy động và cho vay rất bé, huy động vốn rất khó khăn (nhưng lại không đồng đều trong toàn hệ thống mà khó khăn tập trung chủ yếu vào các Ngân hàng nhỏ và mới thành lập) nên cho vay bằng VND tăng rất thấp do lãi suất thoả thuận ở mức quá cao. [IMG]file:///C:/DOCUME~1/THAORO~1/LOCALS~1/Temp/msohtml1/01/clip_image001.gif[/IMG] Lãi suất tái cấp vốn: - Đây là tác động gián tiếp của ngân hàng trung ương, thay đổi lãi suất tái cấp vốn để tác động đến lãi suất thị trường. Tăng lãi suất tái cấp vốn để tăng lãi suất cho vay nhằm điều tiết mức tăng trưởng nóng của nền kinh tế và ngược lại. b, Quy định về hạn mức tín dụng: - Hạn mức tín dụng là một công cụ để thực thi chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước, nhằm hạn chế mức dư nợ tín dụng tối đa đến với nền kinh tế của tổ chức tín dụng . Điều này cũng làm ảnh hưởng hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng . - Hạn mức tín dụng được giao căn cứ tổng hạn mức tín dụng của các TCTD đối với nền kinh tế, được Thống đốc phê duyệt cho các TCTD theo các chỉ tiêu: + HMTD của NHNN đối với các TCTD thông qua hình thức tái cấp vốn. + HMTD của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế. - Chỉ tiêu HMTD đối với nền kinh tế giao cho tổ chức tín dụng là chỉ tiêu khống chế tối đa, tổ chức tín dụng không được phép vi phạm trong suốt quá trình thực hiện.(theo điều 3,chương I, Quy chế về mua bán hạn mức tín dụng giữa các tổ chức tín dụng) - HMTD cho từng tổ chức tín dụng được xác định bởi Vụ tín dụng(theo điều 20,chương III của quy chế trên) - Vì vậy, gia tăng dư nợ tín dụng của các Ngân hàng được giới hạn nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, hạn chế tình trạng tăng trưởng nóng dư nợ tín dụng cùng với rủi ro tiềm ẩn đối với những khoản vay có vấn đề, tăng cường cho vay vì mục tiêu quy mô và lợi nhuận(phần lớn là các ngân hàng nhỏ, chất lượng thẩm định chưa cao). Nhưng đây cũng là bất lợi đối với các ngân hàng lớn khi tăng trưởng tín dụng bị giới hạn,có thể ảnh hưởng đến mục tiêu của chính ngân hàng. Yêu cầu hiện nay là kiểm soát tốc độ tăng tín dụng dưới 20% và tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán khoảng 15%-16% theo Chỉ thị số 01/CT-NHNN về việc thực hiện giải pháp tiền tệ và hoạt động ngân hàng nhằm kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội đã ban hành ngày 01/03/2011, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN). c, Quy định tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu:

doc30 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2300 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quản trị hoạt động ngân hàng 2, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ước cho các thành phần kinh tế… Hoạt động cho vay là hoạt động rất đa dạng, là một hoạt động kinh doanh hàng hoá phức tạp. Tính phức tạp của nó chính là đối tượng kinh doanh tức là tiền tệ, ở đây tiền tệ được tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng khi cho vay. - Người ta cho rằng quyền cho vay là của người cho vay và quyền trả nợ thực tế là của người đi vay. Chính vì vậy đòi hỏi người cho vay phải tìm mọi cách để kiểm soát được khả năng trả nợ của người đi vay, dự tính, phán đoán khả năng, mức độ rủi ro. Quan hệ cho vay là quan hệ kinh tế bình đẳng giữa người đi vay và người cho vay, là sự cam kết thoả thuận bằng các điều khoản thi hành thể hiện trong các hợp đồng cho vay. Sự cam kết này chính là cơ sở pháp lý cơ bản để thực hiện nghĩa vụ của hai bên tham gia hoạt động cho vay. Nó là cơ sở pháp lý để đảm bảo tín dụng. Bên cạnh đó cũng có các cam kết khác bằng các hành vi hay năng lực kinh tế, thể hiện bằng vật chất, uy tín như tài sản thế chấp, cầm cố, ký quỹ bảo lãnh. - Trong cho vay một bên là người cho vay vốn, một bên là người đi vay vốn và một bên là cho vay giữa hai bên là hợp đồng tín dụng. Vốn ở đây được thể hiện bằng tiền chứ không bằng tài sản hay bất cứ gì khác. Rủi ro vẫn xảy ra mặc dù bên đi vay cam kết sẽ trả đầy đủ và đúng hạn cho bên cho vay theo các điều khoản của hợp đồng cho vay. Nhưng tình trạng vi phạm cam kết đó xảy ra khá phổ biến kể cả trong trường hợp người đi vay có đủ năng lực tài chính. - Mặt khác rủi ro cho vay cũng có thể xảy ra ngay cả khi bên đi vay thực hiện nghiêm chỉnh các điều khoản cam kết trong hoạt động cho vay, thanh toán đầy đủ tiền vay (gốc và lãi) cho bên cho vay nhưng do biến động của lãi suất, rủi ro trong trường hợp mà số tiền cho vay thu về không bằng chi phí cơ hội của khoản vay đó ở thời điểm cho vay. - Rủi ro trong cho vay là một loại rủi ro tín dụng. Rủi ro tín dụng vốn là loại rủi ro phức tạp, để đánh giá rủi ro tín dụng là việc làm rất khó khăn đối với ngân hàng. Rủi ro tín dụng có thể xảy ra với bất kỳ món tiền nào, bất cứ nơi nào. Chính vì vậy rủi ro cho vay đòi hỏi các ngân hàng thương mại có cách nhìn cụ thể về rủi ro, có những giải pháp đồng bộ, hữu hiệu mới có thể ngăn ngừa bớt rủi ro. - Ở nước ta vấn đề rủi ro trong kinh doanh ngân hàng và vấn đề quản lý nói chung cũng mới mẻ. Với sự non yếu về nghiệp vụ ngân hàng đồng thời hoạt động trong môi trường đầy rủi ro, vấn đề nhận thức rủi ro đặc thù và quản lý nó đang là vấn đề cấp bách trong hệ thống ngân hàng cả nước. Rủi ro ngân hàng không những là nổi ám ảnh của hệ thống ngân hàng một nước mà còn là nỗi ám ảnh chung của hệ thống ngân hàng trên thế giới. Những bất ngờ luôn xảy ra ngay cả đối với các ngân hàng có đội ngũ nhân sự giỏi nhất, nhiều kinh nghiệm nhất cũng khó lường trước được rủi ro. Vì thế nhận thức được rủi ro trong cho vay là những vấn đề thời sự cho hệ thống ngân hàng. Có hai loại rủi ro chính thường xảy ra trong hoạt động cho vay trong hệ thống ngân hàng. - Rủi ro trong hoạt động cho vay bao gồm: + Rủi ro thanh toán tiền vay: Khi người đi vay không thanh toán hoặc không thanh toán đầy đủ tiền vay khi đến hạn do tình hình kinh doanh gặp khó khăn, dẫn đến mất khả năng thanh toán tạm thời hoặc vĩnh viễn hay người đi vay cố ý không trả tiền vay do ý đồ chiếm dụng hoặc lừa đảo. + Số tiền thu về (cả gốc và lãi) không bù đắp được số vốn mà ngân hàng cho vay đó bỏ ra để cho vay. + Rủi ro khi có sự thay đổi tỷ giá hối đoái: Do các khoản cho vay bằng ngoại tệ ngày càng tăng, cùng với các nghiệp vụ khác nên các ngân hàng phải trực tiếp tham gia vào thị trường hối đoái. Từ lúc ký hợp đồng cho vay đến khi giải ngân, ngân hàng cần có một khoảng thời gian nhất định. Do đó khó tránh khỏi những rủi ro xảy ra khi tỷ giá hối đoái thay đổi. + Rủi ro khi có sự thay đổi lãi suất bình quân trên thị trường ảnh hưởng đến mức lãi suất ngân hàng đang áp dụng trong các giao dịch cho vay.Lãi xuất cho vay của các ngân hàng thương mại được xác định trên lãi suất bình quân trên thị trường và chính sách lãi suất của ngân hàng. Mức lãi xuất này được áp dụng cho người đi vay trong suốt thời gian vay (hợp đồng vay lãi suất cố định). Vì vậy trong thời gian đó, nếu có sự biến động lớn về lãi suất sẽ gây ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của ngân hàng đặc biệt là khả năng cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường. +Rủi ro về tài sản đảm bảo biến động về giá cả: rủi ro này xảy ra khi các tài sản đảm bảo bị thay đổi hoặc bị chiếm đoạt hay mất trộm ….điều này gây cho ngân hàng tổn thất khi thanh lý để bù đắp khoản vay. + Rủi ro thanh khoản: - Khi ngân hàng cho các cá nhân tổ chức tín dụng, doanh nghiệp vay xảy ra sự lệch pha giữa kỳ hạn tiền gửi và kỳ hạn tiền vay VD: người dân phần lớn ưu chuộng gửi tiền với các kỳ hạn ngắn, chủ yếu dưới 12 tháng và tập trung phần lớn ở kỳ hạn từ 1 tháng tới 3 tháng. Trong khi đó, các khoản cho vay thì phần lớn lại có kỳ hạn trên 12 tháng. Với sự lệch pha đó, chỉ cần NHTW có động thái hút tiền về từ lưu thông về thì các ngân hàng TM có tỷ lệ cho vay trên tổng huy động cao sẽ gặp khó khăn về vấn đề thanh khoản Việc ngân hàng cho vay quá mức không quan tâm đến nguồn quỹ dự trữ hay những tài sản có tính lỏng cao thì khi người gửi tiền đột ngột rút tiền trước hạn và cả khi đến hạn khiến Ngân hàng không sẵn có nguồn vốn để thanh toán → tính thanh khoản kém Chủ yếu phát sinh liên quan đến việc thực hiện các cam kết tín dụng, cho vay. Có cam kết tín dụng cho phép người vay vốn tiến hành rút tiền bất cứ lúc nào trong thời hạn theo thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Khi một người vay yêu cầu Ngân hàng thực hiện cam kết tín dụng thì NH phải đảm bảo đủ tiền ngay lập tức để đáp ứng nhu cầu của khách hàng nếu không NH sẽ phải đối mặt với uy tín trên thương trường, thậm chí đối mặt với mất khả năng thanh toán. Bất cân xứng giữa nhiều khoản dư nợ cho vay trung dài hạn với thời hạn vốn huy động và vốn đi vay. Tỷ lệ sử dụng vốn huy động ngắn hạn sang cho vay trung dài hạn tại nhiều Ngân hàng có thể vẫn đảm bảo theo quy định của NHNN, song nếu vận dụng ở mức tối đa thì khi tình hình thanh khoản chung có vấn đề thì những Ngân hàng dạng này sẽ gặp khó khăn đầu tiên. Việc sử dụng quá nhiều vốn vay ngắn hạn trên thị trường liên NH để mở rộng dư nợ cho vay trong danh mục tài sản có. Tỷ lệ này đối với một số Ngân hàng cổ phần cao gấp 1,5 - 2 lần số vốn huy động trên thị trường, nên khi tình hình chung các Ngân hàng đều gặp khó khăn về thanh khoản Để thực hiện việc cho vay một cách cho vay có hiệu quả, điều không thể không làm là phòng ngừa và hạn chế rủi ro xuống mức thấp nhất, vừa đảm bảo cho vay có điều kiện phát triển sản xuất kinh doanh trong khi bên cho vay vẫn thu hồi được gốc và lãi. Khó khăn trong sàn lọc khách hàng: - Căn cứ vào quy định của Luật các tổ chức tín dụng và các văn bản hướng dẫn kèm theo, tất cả các ngân hàng đều xây dựng cho mình quy trình tín dụng tách bạch giữa khâu thẩm định và quyết định cho vay. Tuy nhiên trong thực tế, việc sàng lọc, lựa chọn khách hàng, dự án, có hiệu quả, đủ độ tin cậy, có mức độ rủi ro thấp, đảm bảo khả năng trả nợ ngân hàng là một thách thức rất lớn đối với các tổ chức tín dụng. Độ tin cậy và tính chính xác của trong kết quả đánh giá, thẩm định khách hàng, thẩm định dự án tại các tổ chức tín dụng còn rất nhiều điều phải bàn. Hầu như không có tổ chức tín dụng nào đủ tự tin quyết định cấp tín dụng chỉ dựa vào bảng kết quả này mà không dựa vào tài sản đảm bảo hoặc những căn cứ khác. - Đối với Việt Nam, do những điều kiện thực tiễn cộng với thời gian chuyển sang kinh tế thị trường chỉ mới khoảng hai thập kỷ, văn hoá, tập quán kinh doanh của doanh nghiệp chưa được hình thành. Nhiều doanh nghiệp có tư tưởng kinh doanh theo kiểu "đánh quả". Do đó, đây là một khó khăn rất lớn đối với các ngân hàng trong việc sàng lọc, lựa chọn khách hàng. - Để có thể kiểm tra giám sát, đảm bảo việc sử dụng vốn vay đúng mục đích đòi hỏi các tổ chức tín dụng phải biết được dòng tiền vào và dòng tiền ra trong quá trình sử dụng vốn vay của bên vay. Đây là một vấn đề rất lớn đang đặt ra đối với các tổ chức tín dụng Việt Nam nói chung và các ngân hàng nói riêng vì việc kiểm soát dòng tiền bảo đảm bên vay sử dụng vốn đúng mục đích không phải là vấn đề đơn giản vì khác với các nền kinh tế phát triển, đối với Việt Nam, tỷ lệ thanh toán bằng tiền mặt vẫn ở mức rất cao. Đây chính là khó khăn rất lớn trong việc giám sát chi tiêu của người vay vốn. - Mặt khác, trong khi hệ thống thông tin trong nội bộ các tổ chức tín dụng, giữa các tổ chức tín dụng chưa được thông suốt, mà các doanh nghiệp được mở tài khoản ở rất nhiều các tổ chức tín dụng khác nhau và các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp hết sức đa dạng, rất khó phân biệt nên việc "qua mặt" các ngân hàng trong việc sử dụng vốn vay sai mục đích là điều rất dễ xảy ra. Hoặc trường hợp một dự án, hợp đồng có thể vay ở nhiều tổ chức tín dụng là điều rất hay xảy ra. Chúng ta cùng xem xét một số vấn đề mà các ngân hàng có thể gặp phải trong hoạt động tín dụng của mình: + Lòng vòng vay mượn: - Doanh nghiệp ABC hoạt động sản xuất kinh doanh tổng hợp (xây lắp, sản xuất vật liệu xây dựng, đầu tư bất động sản…) cho rằng thị trường bất động sản đang ấm dần lên, nếu đầu tư ngay thì khả năng sẽ có lợi trong tương lai. Nhưng hiện tại, ABC không có đủ vốn, việc vay vốn ngân hàng để đầu tư vào bất động sản là không thể được vì ngân hàng đánh giá đây là loại hình kinh doanh quá rủi ro. Làm thế nào để ABC có tiền để đầu tư vào dự án bất động sản nêu trên? Hiện tại ABC đang là nhà thầu thi công công trình có quy mô lớn. ABC vay vốn ngân hàng để mua nguyên vật liệu của công ty XYZ (ABC chuyển tiền trả cho XYZ). XYZ là nhà phân phối chính của ABC. XYZ tiếp tục ký hợp đồng mua sản phẩm của ABC, XYZ chuyển tiền ngược trở lại cho ABC. Bây giờ tiền của ABC là doanh thu chứ không phải là vốn vay. Vậy là ABC có thể dùng khoản tiền này để thực hiện đầu tư dự án bất động sản nêu trên. Điều gì sẽ xảy ra nếu thời gian sau đó thị trường bất động sản bị đóng băng. Việc chuyển tiền, thanh toán nêu trên có thể thực hiện tinh vi hơn qua một vài doanh nghiệp nữa. Đây cũng là cách mà một số doanh nghiệp có thể thực hiện để thay những khoản nợ quá hạn bằng những khoản nợ mới mà trong giới tài chính ngân hàng gọi là đảo nợ. +Một hợp đồng có thể vay bao nhiêu ngân hàng? NH 2’ Ngân hàng 1 Ngân hàng 1 Ngân hàng 1 Doanh nghiệp hợp đồng A DN thành viên Hợp đồng phụ 1 DN thành viên 2 Hợp đồng phụ 2 NH 1’ NH n’ NH n'’ NH 1'’ NH 2'’ - Doanh nghiệp ABC trúng thầu xây dựng một công trình hạ tầng H. ABC ký hợp đồng phụ với các đơn vị thành viên của mình hoặc một số đơn vị khác làm B' cho mình. Các đơn vị này lại ký hợp đồng tiếp với các đơn vị khác nữa làm B''... Khi đó, tất cả các đơn vị có hợp đồng xây dựng công trình H đem đến các ngân hàng vay vốn. Do không có hệ thống thông tin kiểm tra một cách đầy đủ, khả năng tất cả các hợp đồng thi công nêu trên đều được vay vốn là có thể xảy. Những khoản tiền vay được vượt quá nhu cầu phục vụ cho việc thi công dự án H đã bị sử dụng sai mục đích. Vấn đề này có thể mô tả theo sơ đồ sau: Tình trạng bất cân xứng thông tin trong hoạt động cho vay: a, Thực trạng: -Trong hoạt động cho vay của các Ngân hàng Việt Nam, tình trạng bất cân xứng thông tin luôn hiện diện, ở đó ngân hàng luôn là người bất lợi hơn về mặt thông tin so với người đi vay. Đứng ở góc độ tổng thể người ta thừa nhận rằng lãi suất cao sẽ góp phần loại bỏ những doanh nghiệp làm ăn tồi và những dự án kém hiệu quả. Tuy nhiên, thật khó để phân biệt được một dự án tốt một dự án xấu khi ngân hàng không có được thông tin đầy đủ về người đi vay. - Dựa trên thông tin không đầy đủ, quyết định của ngân hàng là đưa ra một mức lãi suất nhất định trên cơ sở rủi ro kỳ vọng về khách hàng. Với mức lãi suất đã ấn định, những dự án có suất sinh lợi kỳ vọng thấp hơn sẽ không hiệu quả nên không đi vay, trong khi những dự án có suất sinh lợi kỳ vọng cao hơn mới có khả năng vay. Suất sinh lợi kỳ vọng cao hơn hàm ẩn mức độ rủi ro lớn hơn trong khi không đảm bảo một suất sinh lợi thực tế cao. - Những người đã vay vốn thì có động cơ tìm kiếm những dự án rủi ro cao trong khi ngân hàng cũng không thể giám sát và ngăn ngừa hết mọi khả năng sử dụng vốn của bên đi vay được. Hiện tượng này được gọi là lựa chọn ngược hay lựa chọn bất lợi vốn dĩ tồn tại trong hầu hết các giao dịch có sự bất cân xứng thông tin giữa các bên. Nghịch lý này không chỉ phản ánh qua tình trạng méo mó lãi suất ở mức độ cao giữa các ngân hàng hiện nay mà hơn thế nó tiềm ẩn nguy cơ nợ xấu và đe doạ tính bền vững của hệ thống ngân hàng b, Nguyên nhân: Các cơ sở hạ tầng và điều kiện cần thiết trong hoạt động tín dụng còn nhiều hạn chế Hệ thống thông tin kế toán và báo cáo tài chính: - Hệ thống thông tin kế toán và báo cáo tài chính là một cơ sở cực kỳ quan trọng giúp cho các bên có liên quan nắm bắt được tình hình tài chính của doanh nghiệp. Nếu một hệ thống thông tin kế toán và báo cáo tài chính không được tổ chức tốt và không minh bạch và có độ tin cậy cao sẽ rất khó có thể căn cứ để xem xét "sức khoẻ" của doanh nghiệp. Tuy nhiên, hiện nay các DN vừa và nhỏ thường xây dựng báo cáo tài chính mang tính chất đối phó với cơ quan thuế; báo cáo chính thức thường thấp hơn tình trạng thực tế, không đảm bảo đủ điều kiện vay vốn ngân hàng. - Những vấn đề nêu trên đã tạo ra kẽ hở để một doanh nghiệp có nhiều hệ thống sổ sách báo cáo kế toán (thường là 3). Một dùng để báo cáo thuế (kết quả kinh doanh thấp hơn thực tế). Một dùng để vay vốn ngân hàng (kết quả báo cáo thường hơn thực tế). Một dùng cho nội bộ (số liệu thực). Với tình trạng như vậy, khi doanh nghiệp gặp khó khăn thì ngân hàng rất khó nhận biết tình trạng thực của doanh nghiệp là như thế nào. Hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu: Hệ thống thông tin phục vụ đánh giá xếp loại khách hàng - Một hệ thống thông tin đầy đủ về khách hàng như: lịch sử hình thành và quá trình phát triển, năng lực tài chính, mức độ tín nhiệm, đội ngũ điều hành là cơ sở hết sức quan trọng giúp cho việc thẩm định,xếp loại, lựa chọn khách hàng trong hoạt động của các tổ chức tín dụng. - Trên thực tế, các thông tin hiện có của CIC (Trung tâm tín dụng thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ) có độ cập nhật không cao và các chỉ tiêu còn chung chung. Những thông tin cần thiết để xác định lịch sử, độ tin cậy của ban điều hành doanh nghiệp hầu như không có. Mặt khác, do chưa thực sự ý thức về tầm quan trọng của tính cập nhật và chính xác về thông tin nên các tổ chức tín dụng chưa có sự quan tâm đúng mức đến các thông tin, dữ liệu khi báo cáo cho CIC. Khi thẩm định doanh nghiệp, rất ít ngân hàng lấy thông tin từ CIC. Hệ thống thông tin nội bộ của từng tổ chức tín dụng: - Hiện nay, bản thân trong một tổ chức tín dụng, hệ thống lưu trữ, xử lý thông tin cũng chưa hiệu quả và tính hệ thống gần như không có. Thậm chí việc kiểm soát tổng dự nợ của một khách hàng (kể cả các đơn vị trực thuộc hạch toán báo sổ) là một vấn đề rất khó khăn đối với các tổ chức tín dụng. Hệ thống thông tin phục vụ cho việc thẩm định dự án: - Ngoài hệ thống thông tin dùng để đánh giá khách hàng, khi thẩm định dự án, phương án kinh doanh, các tổ chức tín dụng cần phải có hệ thống thông tín nhằm xác định, kiểm tra các thông số đầu vào và đầu ra của dự án, nhất là các thông số về thị trường các nguyên liệu đầu vào và thị trường đàu ra của sản phẩm… - Thực tế, hiện nay các tổ chức tín dụng thường sử dụng các thông lấy được trên mạng internet với tính hệ thống không cao. Việc truy cập, tìm kiếm những số liệu này phụ thuộc rất nhiều vào trình độ của các bộ tín dụng với yêu cầu phải có khả năng đọc tốt tiếng Anh. Do vấn đề về hệ thống thông tin phục vụ cho công tác thẩm định dự án của các tổ chức tín dụng hiện nay vẫn đang là vấn đề rất lớn. Những biến số quan trọng nhất quyết định đến hiệu quả của dự án như giá nguyên vật liệu, giá bán, khả năng tiêu thụ …lại thiếu thông tin nhất trong quá trình thẩm định. Hệ thống các tiêu chuẩn và kỹ thuật đánh giá: Các tiêu chuẩn đánh giá năng lực khách hàng: - Theo quy định đối với những người điều hành doanh nghiệp đồi hỏi phải có một số tiêu chuẩn nhất định nào đó (về bằng cấp). Nhưng thực tế những quy định này nặng về hình thức hơn. Những căn cứ, tiêu chuẩn để dựa vào đó đánh giá khả năng điều hành của một doanh nghiệp, một tổ chức gần như không có. Các tiêu chuẩn phân tích báo cáo tài chính: - Hai điều kiện cơ bản nhất để phân tích báo cáo tài chính nhằm đưa ra các đánh giá, kết luận có độ tin cậy là phải có hệ thống thông tin báo cáo tài chính đủ độ tin cậy và có hệ thông các chỉ tiêu, chuẩn mực đánh giá. Phần thứ nhất đã được trình bày ở phần trên. - Hiện nay chưa có các tiêu chuẩn, chuẩn mực được cho là hiệu quả để so sánh đánh giá một báo cáo tài chính của một khách hàng là tốt hay không tốt, đủ tiêu chuẩn hay chưa đủ tiêu chuẩn. Trên cơ sở những tiêu chí của Ngân hàng Nhà nước đưa ra, các tổ chức tín dụng cũng xây dựng hệ thống chỉ tiêu đấnh giá, xếo lọi khách hàng. Nhưng việc đánh giá dựa vào các tiêu chuẩn này đang ở trong quá trình thử nghiệm chưa thực sự đi vào cuộc sống. Các tiêu chuẩn thẩm đinh dự án đầu tư: - Đây là những thông số, nhưng tiêu chuẩn vô cùng cần thiết như hệ số chiết khấu, mức độ rủi ro …Trong quá trình thẩm định một sự án, có rất nhiều tiêu chuẩn để đánh giá dự án, nhưng hai tiêu chuẩn thông dụng nhất là dự vào giá trị hiện tại ròng (NPV) và suất thu hồi vốn nội bộ (IRR). Một dự án có NPV dương hay suất thu hồi vốn nội bộ lớn hơn một ngưỡng yêu cầu là có thể quyết định đầu tư hoặc cấp tín dụng cho dự án đó. Vấn đề khó khăn đầu tiên đối với các tổ chức tín dụng khi tính NPV hoặc đánh giá theo tiêu chuẩn IRR thì suất chiết khấu nào được sử dụng ở đây. Cơ thể sử dụng mô hình định giá tài sản vốn (CAPM)5 hoặc các mô hình khác để xác định giá trị này. Điều này là bất khả thi vì các hệ số gần như không thể xác định được hoặc nếu có xác định được thì chúng không có ý nghĩa xác thực để lấy đó làm căn cứ. - Thực tế tại các tổ chức đang làm là lấy lãi suất cho vay trung dài hạn của chính tổ chức tín dụng đó cộng (+) thêm một tỷ lệ nữa để có được suất chiết khấu. Với phương thức này có thể tạm chấp nhận được vì dù sao cũng có cơ sở. Nhưng cở sở này là rất cảm tính. Các kỹ thuật phân tích báo cáo tài chính, thẩm định dự án: - Hiện nay ở Việt Nam, các kỹ thuật phân tích báo cáo tài chính, thẩm định dự án tiên tiến chưa được áp dụng và phổ biến rộng rãi tại Việt nam do điều kiện về công nghệ và những người am hiểu về nó còn rất hạn chế. Vì vậy việc áp dụng đại trà gặp rất nhiều khó khăn. Tổ chức đánh giá tín dụng độc lập: - Hiện tại ở Việt nam đã có Trung tâm tín dụng CIC của Ngân hàng Nhà nước và một số đơn vị khác như các công ty chứng khoán đã làm công tác xếp loại khách hàng. Tuy nhiên để đảm bảo độ tin cậy, tổ chức này cần phải có các điều kiện sau: Tính khách quan, Tính độc lập, Tính tin cậy, Khả năng tiếp cận quốc tế/ Tính minh bạch…. - Nếu căn cứ vào các tiêu chuẩn nêu trên, rõ ràng hiện nay ở Việt Nam chưa có tổ chức nào đủ điều kiện và có khả năng xếp hạng tín dụng một cách độc lập. Tuy nhiên, với những lợi thế của mình, Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) là một tổ chức có thể có khả năng đáp ứng các điều kiện này tại sao. Khả năng trong thời gian tới, khi CIC phát triển có thể trở thành một cơ quan cung cấp thông tin và xếp hạng tín dụng khách hàng tin cậy là nền tảng cho một hạ tầng thông tin tốt phục vụ cho hoạt động tín dụng của các ngân hàng Việt Nam. Ngoài ra với mô hình Trung tâm xếp hạng tín nhiệm thuộc VASC cũng có khả năng trở thành một tổ chức xếp hạng tín nhiệm tin cậy. Hệ thống đăng ký tài sản: - Hiện nay, việc đăng ký tài sản đã có quy định, nhưng nhìn chung việc thực hiện chưa được triệt để và rộng khắp. Nguyên nhân của vấn đề này là do thực tế khách quan có rấtnhiều loại tài sản không thực hiện đúng các trình tự, thủ tục và không có đầy đủ các giấy tờ cần thiết nên việc đăng ký chứng nhận quyền sở hữu là rất khó. Đặc biệt là các bất động sản tại khu vực nông thôn, rất nhiều hộ làm nhà tự phát mà không có bất kỳ một giấy tờ nào. Đối với những loại này, chỉ là những công cụ, phương tiện phục vụ cho cuộc sống hàng ngày của người dân mà rất khó biến thành tài sản đưa vào chu chuyển trong nền kinh tế. Do hệ thống đăng ký tài sản hoạt động không hiệu quả nên hoạt động tín dụng ở Việt Nam đã gặp nhiều khó khăn. Liệu ngân hàng có thể tin được khách hàng sẽ đảm bảo có đủ nguồn vốn "tự có" tham gia vào dự án như cam kết. Dù khách hàng có đưa ra các bằng chứng như sau thì độ tin cậy vẫn rất hạn chế: Xác nhận có tiền gửi ngân hàng: - Liệu có ngân hàng có tin chắc rằng bên vay vốn không "vay nóng" ở đâu đó rồi gửi vào ngân hàng để nhờ xác nhận. Thậm chí, bên vay có bằngchứng khoản tiền gửi đó là 5 năm hay 20 năm thì ngân hàng cũng rất khó có thể tin đượcđó là tiền của bên vay vì hoạt động tài chính ngân hàng ở Việt Nam có một ngoại lệ là bất cứ loại tiền gửi nào khách hàng đều có quyền rút trước hạn. Do đó hôm nay mua một chứng chỉ tiền gửi 5 năm ngày mai rút lại là điều hoàn toàn có thể. Chứng minh có lợi nhuận giữ lại: - Đây cũng là vấn đề rất khó khăn đối với ngân hàng vì lợi nhuận của doanh nghiệp hoàn toàn phụ thuộc vào các khoản phải thu, các loại chi phíchờ phân bổ … Với hệ thống sổ sách kế toán không đủ độ minh bạch, không có kiểmtoán thì rất khó có thể xác định được doanh nghiệp lãi thật hay lãi giả. - Nói chung, khi thẩm định khả năng góp vốn tự có của khách hàng trong việc thực hiện dựán ngân hàng chủ yếu tín vào sự trung thực của khách hàng. rất khó khẳng định là kháchhàng có thực sự bỏ vốn vào thực hiện dự án hay toàn bộ là vốn vay. Một phương thức màcác doanh nghiệp có thể "qua mặt" các tổ chức tín dụng là sử dụng biện pháp nâng giátrong các hợp đồng. - Với sự không minh bạch và khó xác định tính xác thực, hợp lý, hợp lệ cũng như giá trịcủa các loại tài sản đã gây rất nhiều khó khăn cho các ngân hàng trong việc đưa ra quyếtđịnh cấp tín dụng của mình. Hệ thống đăng ký giao dịch đảm bảo: - Để tránh tình trạng khách hàng sử dụng một tài sản thế chấp, cầm cố vay vốn nhiều ngân hàng hoặc tạo điều kiện cho khách hàng có một tài sản có giá trị lớn có thể vay vốn nhiều tổ chức tín dụng, hiện nay có các cơ quan đăng ký Cơ quan đăng ký tàu biển và thuyền viên khu vực; Cục Hàng không dân dụng Việt Nam; Sở Địa chính hoặc Tài nguyên mô trường; Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Mỗi cơ quan nêu trên thực hiện đăng ký giao dịch đảm bảo mỗi loại tài sản theo quy định. Thiếu minh bạch trong niêm yết lãi suất và thẩm định cho vay của các Ngân hàng a, Thiếu minh bạch trong niêm yết lãi suất: - Theo quy định hiện hành, các ngân hàng phải ấn định lãi suất huy động tiền đồng (bao gồm cả khuyến mãi, thưởng) không quá 14% một năm. Trên thực tế,nhiều ngân hàng kể cả ngân hàng quy mô lớn, dùng nhiều “chiêu” để lách trần lãi suất huy động, đẩy lãi suất thực trả khách hàng lên sát 17% một năm. Hình thức “ủy thác vốn đầu tư” áp dụng cho khách hàng lớn hoặc khách hàng tổ chức là một ví dụ. Theo đó, khách hàng ký với ngân hàng hợp đồng “ủy thác vốn đầu tư”, hình thức này không giống như sổ gửi tiết kiệm nhưng bản chất lại giống hệt và muốn lãi suất bao nhiêu là do hai bên thỏa thuận. - Một kiểu khác tinh vi hơn để áp dụng cho khách hàng cá nhân là ghi “khống” vào sổ tiết kiệm. Ví dụ, khách hàng gửi 100 triệu đồng, muốn nhận lãi suất 17%/năm thì ngân hàng có thể ghi vào “dư có” trên sổ tiết kiệm là 103 triệu đồng, còn lãi suất trên sổ vẫn là 14%/năm. Dĩ nhiên, hình thức này còn kèm theo thỏa thuận hai bên nếu khách hàng rút tiền trước hạn. Tất nhiên, các ngân hàng cũng rất cảnh giác để tránh “sập bẫy” thanh tra, nếu không phải người quen, hoặc được giới thiệu từ mối quen thì khách hàng không thể gửi được ở mức giá vốn như nói trên. - Nhiều đơn vị khác áp dụng khuyến mãi, tặng quà cho khách dù đã trả lãi suất 14% một năm. Việc huy động lãi suất cao, đương nhiên ngân hàng cũng phải nâng lãi suất cho vay. Điều này gây ra làn sóng tăng lãi suất giữa các ngân hàng với nhau. Chính vì thế, lãi suất cho vay tại các ngân hàng đang được đẩy lên mức 20 - 22%/năm, thậm chí có ngân hàng chào lãi suất đến 26%/năm khiến cho DN và người dân “sợ” giao dịch vay với ngân hàng vì dù có vay được thì cũng không biết kinh doanh gì để sinh lợi trả lãi vay. - Việc để mức lãi suất tái cấp vốn ở mức thấp, 11%, 12% rồi 13% , trong khi lãi suất cho vay của các Ngân hàng lên tới xấp xỉ 20% sẽ không ngăn chặn được vấn đề rủi ro đạo đức. Tức là, khi Ngân hàng cho rằng NHNN sẽ cho phép thực hiện nghiệp vụ tái cấp vốn với giá rẻ thì Ngân hàng sẽ ít thận trọng hơn với các quyết định kinh doanh có khả năng gây thiếu hụt thanh khoản. Giả sử lãi suất cho vay là 20%, thì cứ mỗi một hợp đồng tín dụng được chấp nhận qua cửa sổ tái cấp vốn, Ngân hàng sẽ có thêm khoảng 7 điểm phần trăm tiền lãi. Vì thế mà NH ít quan tâm tới những rủi ro làm thiếu hụt thanh khoản. - Cơ chế lãi suất cho vay thỏa thuận hiện nay giúp tăng tính công khai, minh bạch về lãi suất của tổ chức tín dụng và chi phí vay vốn của khách hàng vay; khiến tổ chức tín dụng tiết giảm chi phí kinh doanh, áp dụng lãi suất cho vay hợp lý phù hợp với chỉ đạo Chính phủ. Nhưng trong bối cảnh thị trường Việt Nam chưa thực sự cạnh tranh lành mạnh, còn cơ chế xin cho, đưa quan hệ vào công việc, cơ chế lãi suất thỏa thuận có thể biến tướng, dễ phát sinh tiêu cực. - Công khai niêm yết lãi suất tại các ngân hàng giúp khách hàng và các cơ quan quản lý kiểm soát và tiếp cận thông tin lãi suất dễ dàng hơn. Chính vì thế, để tăng tính công khai minh bạch về niêm yết lãi suất tín dụng, (10/3/2011), NHNN ban hành Thông tư số 05, yêu cầu tổ chức tín dụng (TCTD) không được thu các loại phí liên quan đến khoản cho vay đối với khách hàng, trừ các khoản phí trả trong trường hợp khách hàng trả nợ trước hạn; phí thu xếp để thực hiện ký kết hợp đồng đồng tài trợ theo phương thức cho vay hợp vốn...Bên cạnh đó, NHNN yêu cầu cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng và Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố tiến hành kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thu phí liên quan đến khoản cho vay của tổ chức tín dụng. Cùng ngày, ngân hàng nhà nước cũng ban hành Thông tư số 04 quy định lãi suất áp dụng trong trường hợp tổ chức, cá nhân rút tiền gửi trước hạn tại tổ chức tín dụng. Theo đó, TCTD áp dụng lãi suất tối đa bằng mức lãi suất tiền gửi không kỳ hạn thấp nhất của tổ chức tín dụng trong trường hợp tổ chức, cá nhân rút tiền gửi trước hạn. Và tổ chức tín dụng phải niêm yết công khai lãi suất áp dụng trong trường hợp tổ chức, cá nhân rút tiền gửi trước hạn tại các địa điểm huy động vốn. - Như vậy, tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định của NHNN của các Ngân hàng là điều rất thiết và là giải pháp hữu hiệu để tăng tính công khai, minh bạch trong niêm yết lãi suất. b, Không rõ ràng, thiếu minh bạch trong thẩm định cho vay: - Thẩm định được hiểu nom na như việc xem xét đề nghị vay vốn của khách hàng, đánh giá dự án của khách hàng nhằm xác định khả năng chắc chắn của việc thu nợ và lãi từ dòng tiền của dự án. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng cho vay và hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. Ngân hàng cho vay không phụ thuộc vào cái mà khách hàng đưa mà lại phụ thuộc vào cái mình thẩm định. Trong khi đó, cán bộ tín dụng là người đóng vai trò rất quan trọng, ảnh hưởng rất lớn đến quyết định cho vay của ngân hàng. Có thể nói rằng, chất lượng của các hợp đồng cho vay phụ thuộc khá nhiều vào trình độ, năng lực, đạo đức của cán bộ tín dụng. Vì thế, có một số vấn đề khó tránh khỏi: Cán bộ tín thực hiện cho vay không hợp lý, bỏ qua ủy ban cho vay, chỉ dựa vào quan hệ giữa họ với khách hàng. Đánh giá TSBĐ mang tính chủ quan, chủ yếu dựa vào quan hệ, đánh giá thế nào phụ thuộc rất lớn vào quan hệ cán bộ tín dụng và doanh nghiệp. Có nhiều doanh nghiệp thỏa thuận với cán bộ tín dụng để dẫn đến nợ quá hạn. Với ngân hàng cổ phần, ngân hàng được quyền quyết định khi mức rủi ro là cho phép. Vì vậy có một số cán bộ tín dụng rất nhởn nhơ khi họ có nợ quá hạn. Họ bảo họ làm đúng quy trình. - Không minh bạch không chỉ nằm ở việc đánh giá của cán bộ tín dụng mà còn nằm ở cả những thông tin mà khách hàng cung cấp. Tài chính là do doanh nghiệp tự khai nên có thể nói độ minh bạch là không có. Theo luật, doanh nghiệp tư nhân đăng ký kinh doanh rất dễ dàng. Chỉ cần ít vốn, vài ba người là đã có thể thành lập doanh nghiệp được rồi. Điều đó dẫn đến chuyện thành lập tràn lan, có doanh nghiệp ảo. Chủ sở hữu là ai: có nhiều chủ thực sự lại là các công chức nhà nước nhờ người khác đứng tên. Như vậy là không minh bạch về chủ sở hữu, làm cho việc thẩm tra và đánh giá của ngân hàng gặp khó khăn. Ngân hàng luôn phải phân biệt chủ trên giấy tờ và chủ thực tế để xem ai thực sự quản lý, uy tín và năng lực đến đâu. Việc này mất thêm thời gian. - Bên cạnh đó, tính minh bạch trong các báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh luôn là vấn đề. Ví dụ: nhiều doanh nghiệp khai thấp lợi nhuận để trốn thuế. Nếu xét về tình hình tài chính của doanh nghiệp này thì có thể cho vay được nhưng lại không có cơ sở về mặt giấy tờ pháp lý để cho vay. Ngược lại, có doanh nghiệp không làm ăn ra gì khai khống thì không cho vay được. Có thể nói rằng hầu hết các doanh nghiệp hiện nay đều có sự không minh bạch trong vấn đề tài chính. Kể cả khi họ minh bạch về tài chính thì vẫn còn yếu để cho vay, ví như không đủ tài sản đảm bảo, năng lực tài chính yếu. Chính vì thế mà các ngân hàng không có đầy đủ thông tin về phía khách hàng của mình mặc dù đã có nhiều nỗ lực trong công tác thẩm định. Đây là một trong những nguyên nhâ dẫn đến tỷ lệ nợ xấu ngày càng cao. Lãi suất cho vay ở mức cao: a,Thực trạng: - Cuộc đua lãi suất giữa các ngân hàng cuối năm 2010 đã gác lại với mức lãi suất huy động tạm ổn định ở mức “đồng thuận” 14%/năm. Trong khi đó, lãi suất cho vay – cái mà các doanh nghiệp vay vốn quan tâm – lại không có được hai chữ “đồng thuận” như vậy. “Trăm dâu đổ đầu tằm” là câu tục ngữ mô tả đúng tình cảnh mà các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay đang phải gánh chịu đối với những khoản vay ngân hàng. - Với mức lãi suất cho vay hiện nay của hầu hết các ngân hàng từ 18% đến 20%/năm thì mức lãi gộp của ngân hàng đã lên đến 4 – 6% (thay vì chỉ 2% như thông điệp chính sách ở trên), là mức quá cao so với điều kiện bình thường cũng như so với các ngành sản xuất khác đang gặp nhiều khó khăn hiện nay. Trong điều kiện lạm phát càng cao, với một chỉ tiêu lợi nhuận nhất định, thì khe hở giữa lãi suất huy động – cho vay càng được ngân hàng đẩy lên càng lớn. b, Nguyên nhân: - Các chuyên gia tài chính cho rằng việc Ngân hàng Nhà nước siết chặt nguồn tín dụng để kiềm chế lạm phát đã gây ra hậu quả ngoài ý muốn. Đây là một trong những lý do khiến lãi suất ở Việt Nam hiện ở mức ‘cao nhất thế giới’. Việc NHNN thắt chặt tín dụng đã buôc các ngân hàng phải huy động lãi suất cao dẫn dến cho vay cao, từ đó tạo ra vòng luẩn quẩn không thoát ra được. - Lãi suất gia tăng bắt nguồn từ cuộc đua huy động tiền gửi do các ngân hàng nhỏ khơi mào. Các ngân hàng này buộc phải dựa vào nguồn vốn từ thị trường tự do để tăng thanh khoản, họ đẩy lãi suất tiền gửi lên cao để thu hút nguồn tiền nhàn rỗi của dân. Vì huy động tiền với giá cao, lãi suất cho vay cũng buộc phải đẩy lên theo. Điều này gây ra làn sóng tăng lãi suất giữa các ngân hàng với nhau. - Mức lãi suất cao hiện nay không chỉ phản ánh tình trạng lạm phát của nền kinh tế, vốn có nguồn gốc sâu xa ở những bất cập về mặt cơ cấu kinh tế, về khía cạnh tài khoá, vấn đề đầu tư công và lĩnh vực tiền tệ mà còn là những yếu kém về năng lực quản trị ngân hàng cũng như sự khập khiễng trong cấu trúc của hệ thống tài chính. 7.Bất cập về năng lực và trình độ của các cán bộ tín dụng: - Kết quả thẩm định doanh nghiệp, dự án, giám sát hoạt động của doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào năng lực và trình độ của đội ngũ cán bộ tín dụng. Tuy nhiên ở nước ta hiện nay, việc đào tạo cán bộ tín dụng có nhiều điều phải bàn: +Nặng về lý thuyết, ít cập nhật: - Học viện Ngân hàng tại Hà Nội và Trường ĐH Ngân hàng tại TP.HCM là những nơi đào tạo nhân lực chủ yếu cho ngành ngân hàng. Để làm việc trong ngành ngân hàng, sinh viên còn có thể học tại một số khoa tương tự của Trường ĐH Kinh tế quốc dân, Học viện Tài chính, ĐH Ngoại thương (Hà Nội), ĐH Kinh tế TP.HCM, ĐH Kinh tế Đà Nẵng, Học viện Chính trị quốc gia TP.HCM... Thế nhưng, tiến sĩ Đặng Ngọc Đức (ĐH Kinh tế quốc dân) cho biết nội dung đào tạo ở hầu hết các cơ sở này chủ yếu vẫn là lý thuyết. PGS-TS Nguyễn Thị Mùi (Học viện Tài chính) cho rằng có quá nhiều môn học cơ bản trong khi các môn chuyên ngành lại nặng về truyền đạt lý thuyết,thiếu các bài tập tình huống cũng như thực hành, giáo trình chậm được bổ sung cho phù hợp với thông lệ quốc tế và thực tiễn nước ta. - TS Hà Quang Đào (ĐH Ngân hàng TP.HCM) bổ sung: "Các môn học quá rộng, dàn trải, trong khi lại thiếu các môn nghiệp vụ chuyên sâu, có tính cập nhật thực tiễn hoạt động của các tổ chức tín dụng. Phương pháp đào tạo vẫn mang tính nhồi nhét, ít khuyến khích tranh luận, nghiên cứu và sáng tạo của sinh viên". PGS-TS Ngô Hướng (Phó hiệu trưởng Trường ĐH Ngân hàng TP.HCM) nhận xét: "Hoạt động ngân hàng mang tính quốc tế rất cao, đòi hỏi phải có sự tiếp cận các phương tiện giao dịch hiện đại. Vậy mà đội ngũ giảng viên của các trường hầu hết được đào tạo trong nước, nhiều người chưa một lần ra nước ngoài để tham quan, học tập, xem xét những nhân viên ngân hàng nước ngoài làm việc như thế nào. Sinh viên hiện phải học trên sách vở là chủ yếu vì lấy kinh phí đâu để mua các phần mềm kế toán và ngoại hối của nước ngoài có giá từ vài trăm nghìn đến cả triệu USD!". - Vấn đề thực tập của sinh viên năm cuối: Nhiều ngân hàng thường không nhiệt tình trong việc tiếp nhận sinh viên đến thực tập. Không được thực hành nhiều, việc thực tập chỉ mang tính hình thức nên nhiều sinh viên sau khi tốt nghiệp rất bỡ ngỡ với công việc chuyên môn và những tình huống thực tế khi đi làm. + Vấn đề đạo đức nghề nghiệp: - Trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ cho vay yếu kém dẫn đến cán bộ cho vay không đánh giá chính xác về khách hàng và phương án vay vốn, từ đó làm phát sinh những hợp đồng cho vay kém an toàn. Mức độ rủi ro trong trường hợp này sẽ ngày càng tăng dần trong suốt quá trình kể từ khi xét duyệt đến khi giám sát và cuối cùng là thu nợ. Cùng với sự hạn chế về trình độ là vấn đề phẩm chất đạo đức của cán bộ cho vay. Đặc thù nghề nghiệp buộc một cán bộ tín dụng phải không những có trình độ mà cũng phải có đạo đức tốt. Trước sự cám dỗ của vật chất, nhiều cán bộ cho vay đã sa ngã, có thể hành động vô nguyên tắc, vô tổ chức, làm trái quy định, móc ngoặc với khách hàng, ngây tổn thất to lớn với ngân hàng cho vay. II. Giải pháp chung cho tất cả các vấn đề và giải pháp riêng cho từng vấn đề: Giải pháp chung: + Điều chỉnh chính sách tín dụng: nhằm đạt được mục tiêu cân bằng giữa tối đa hoá lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro, đảm bảo tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, từng bước phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Xây dựng chính sách khách hàng hiệu quả, các khách hàng chiến lược truyền thống phải được hưởng các ưu đãi về lãi suất phí và chính sách chăm sóc cần thiết của Ngân hàng. Áp dụng chính sách lãi suất cho vay linh hoạt, mức lãi suất cho vay không giống nhau đối với các khoản cho vay khác nhau tuỳ thuộc vào kỳ hạn, loại tiền, dự án vay vốn và khách hàng vay vốn cụ thể. Hoạt động quản lý tín dụng phải đảm bảo các tỷ lệ an toàn, cơ cấu tín dụng phải phù hợp với chiến lược khách hàng, ngành hàng, chính sách quản lý rủi ro, cơ cấu nguồn vốn, đảm bảo mức tăng trưởng tín dụng phù hợp với năng lực, quản lý, điều hành và trình độ nghiệp vụ của cán bộ tín dụng. + Các giải pháp đối với vấn đề quy trình cho vay: * Thẩm định: - Từ phân tích dự án, phương án xin vay, cho đến việc xác định doanh thu, nguồn trả nợ từ dự án, phương án phải chính xác, chính vì vậy công tác dự báo phải tốt (dự báo về thị trường, giá cả, tỷ giá....) - Khả năng tài chính của khách hàng: Phải chuẩn hoá công tác kế toán tài chính, trong điều kiện có thể áp dụng kiểm toán bắt buộc đối với các doanh nghiệp có quan hệ tín dụng. - Về tài sản bảo đảm tiền vay: Đánh giá tài sản bảo đảm phải qua tổ chức trung gian có tư cách pháp nhân, có tính chất chuyên nghiệp, đảm bảo yếu tố pháp lý của tài sản bảo đảm, giấy tờ tài sản bảo đảm, thủ tục bảo đảm tiền vay. Cơ chế chính sách của Nhà nước phải rõ ràng hơn, đảm bảo quyền chủ nợ (Ngân hàng) trong việc xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ - Đảm bảo yếu tố pháp lý của tất cả hồ sơ vay vốn (Hồ sơ pháp lý, dự án, phương án xin vay, tài sản bảo đảm tiền vay...) * Quyết định cho vay thiết lập hợp đồng: - Thiết lập các hợp đồng tín dụng, bảo đảm tiền vay phải đảm bảo chặt chẽ, chú trọng tính pháp lý, lưu ý quyền hạn của các bên ký hợp đồng, tránh trường hợp hợp đồng vô hiệu * Giải ngân, kiểm soát trong khi cấp tín dụng: - Các hợp đồng, các chứng từ giải ngân, kiểm tra đối chiếu với đơn xin vay, khách hàng nhận tiền vay, các điều kiện giải ngân. * Kiểm soát sau khi cho vay: - Kiểm tra việc sử dụng vốn vay có phù hợp với mục đích xin vay không. - Kiểm tra các dự án, tiến bộ phương án sản xuất kinh doanh, hiện trạng tài sản bảo đảm tiền vay. + Giải pháp xử lý tín dụng: Phát hiện món vay có rủi ro có thể áp dụng các giải pháp sau: - Chuyển nợ quá hạn, thu nợ trước hạn . - Xử lý tài sản bảo đảm tiền vay. - Khởi kiện và một số giải pháp khác. + Đa dạng hoá các dịch vụ Ngân hàng: - Đa dạng hoá và đẩy mạnh tốc độ phát triển các dịch vụ Ngân hàng, đó là dịch vụ thanh toán với tiện ích ngày càng cao, nhanh chóng, chính xác và an toàn, thủ tục thuận tiện để thu hút khách hàng đến với Ngân hàng ngày càng nhiều không những giúp Ngân hàng tăng lợi nhuận, gia tăng cạnh tranh mà còn phát triển mối quan hệ khách hàng – Ngân hàng qua đó góp phần hạn chế các vấn đề phát sinh trong hoạt động cho vay. B. Giải pháp riêng: 1. Giải pháp đối với các chính sách kinh tế vĩ mô: Lãi suất là một công cụ điều tiết vĩ mô cơ bản nhưng hết sức nhạy cảm, có tác động lớn đến nhiều đối tượng trong nền kinh tế, vì vậy, để đảm hiệu quả tối ưu khi sử dụng công cụ này thì các nhà làm chính sách cần: - Có lộ trình, giải pháp khuyến khích phát triển đồng bộ các thị trường tài chính, đa dạng hóa các kênh huy động vốn trong nền kinh tế để nhằm đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tăng của DN, hạn chế tình trạng tín dụng đen, thị trường tài chính ngầm phát triển tự do không có kiểm soát.      - Điều hành chính sách lãi suất một cách linh hoạt, kịp thời, duy trì mặt bằng lãi suất ổn định, phù hợp cơ chế thị trường trên cơ sở xử lý tốt mối quan hệ về lợi ích của người gửi tiền, các Ngân hàng và người vay tiền.    - Hạn chế sử dụng các biện pháp hành chính trong điều hành lãi suất, làm biến dạng sự vận động của lãi suất để đảm bảo lãi suất trong nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường, giúp cho các chủ thể tham gia thị trường có thể dự báo, đưa ra các giải pháp đối phó phù hợp. - Tăng cường năng lực dự báo kinh tế và sớm đưa ra các giải pháp điều tiết mang tính đón đầu để tránh các cú sốc về lãi suất, gây tổn thương cho các chủ thể trong nền kinh tế nói chung và các Ngân hàng nói riêng. 2. Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng: - Rủi ro là vấn đề không thể tránh khỏi trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ với những thông tin bất cân xứng trong nền kinh tế thị trường. Vì thế khi rủi ro xảy ra các ngân hàng cho vay phải có biện pháp khắc phục để hoạt động kinh doanh của mình được tiếp diễn. Các biện pháp đó là: - Đảo nợ: Là những khoản vay có thời hạn đã đến hạn nhưng khách hàng hiện tại không có khả năng tài chính để trả nợ nên ngân hàng cho vay và khách hàng ngồi lại với nhau đưa ra biện pháp đảo nợ để biến các khoản nợ đến hạn đó thành khoản nợ kỳ hạn khác với các điều kiện thoả thuận giữa ngân hàng cho vay và khách hàng. - Giảm nợ: Là những khoản vay của khách hàng trong hạn hoặc đến hạn nhưng khách hàng gặp phải rủi ro bất khả kháng như thiên tai, lũ lụt, hạn hán hay các đại dịch như H5N1…làm cho khách hàng rơi vào tình trạng tài chính yếu kém không thể trả đầy đủ những món vay. Ngân hàng cho vay có thể giảm một phần trong khoản vay để tạo điều kiện cho khách hàng có thể trả nợ cho ngân hàng cho vay. - Xóa nợ: Đây là những khoản vay của khách hàng đang trong hạn hoặc hết hạn, ngân hàng đó sử dụng 2 biện pháp trên nhưng khách hàng không thể trả nợ hay cùng với chính sách chỉ định của chính phủ xoá nợ cho những đối tượng khách hàng gặp rủi ro mà không thể khắc phục lại được như lũ cuốn, lũ quét, động đất, sóng thần… nhằm ổn định xã hội, ổn định đời sống cho nhân dân và những đối tượng gặp rủi ro không thể chống cự này. - Giải pháp cho rủi ro thanh khoản: (+) Cân đối cơ cấu và tỷ trọng tài sản nợ, tài sản có cho phù hợp với năng lực ngân hàng. Việc làm này là cực kỳ quan trọng trong việc giữ vững thanh khoản cho Ngân hàng. Thực hiện cơ cấu huy động và cho vay, đặt ra một tỷ lệ phù hợp về huy động ngắn hạn, cho vay trung và dài hạn, , giữa nguồn huy động ngắn hạn dùng để cho vay trung, dài hạn, điều chỉnh tỷ lệ huy động từ dân cư và từ các tổ chức kinh tế và tỷ lệ tham gia thị trường liên Ngân hàng nhằm hạn chế thấp nhất rủi ro có thể xảy ra   Hạn chế cho vay tập trung vào một số khách hàng lớn, hạn chế tín dụng vào một số ngành nghề hay địa phương cụ thể, đa dạng khách hàng và ngành nghề để tối ưu hóa và hạn chế rủi ro danh mục cho vay. Hạn chế cho vay vào những lĩnh vực có độ rủi ro và có tính đầu cơ cao như chứng khoán, bất động sản. Nghiêm túc thực hiện các Qui định về dự trữ bắt buộc và dự trữ thanh khoản của Ngân hàng Nhà nước. Ưu tiên đầu tư vào các tài sản dễ dàng chuyển đổi thành tiền mặt một cách nhanh chóng nhưng vẫn đảm bảo có hiệu quả kinh doanh. Các nhà quản trị ngân hàng đưa ra những giáp pháp quản trị rủi ro thanh khoản nhằm hạn chế rủi ro thanh khoản của ngân hàng thương mại (+) Thực hiện việc quản lý tốt chất lượng tín dụng, kỳ hạn tín dụng, rủi ro lãi suất và khe hở lãi suất: Giảm tối thiểu tỷ lệ nợ xấu, nợ quá hạn, có kế hoạch tìm hiểu khách hàng và dự trù cho những tình huống xấu nhất. Cần thiết đưa ra một tỷ lệ nhất định về việc lấy nguồn huy động ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn phù hợp với từng Ngân hàng, từng thời kỳ, tránh tỷ lệ quá cao dẫn đến mất an toàn thanh khoản. Có những sản phẩm, dịch vụ phù hợp cho từng loại khách hàng nhằm giữ chân khách hàng cũ và tránh tình trạng rút tiết kiệm trước hạn gây khó khăn cho việc cân đối kỳ hạn huy động và cho vay. 3. Giải pháp cho việc sàn lọc khách hàng: - Khách hàng là một trong những chiến lược quan trọng nhất mà bất kì Ngân hàng nào cũng phải chú trọng. Khách hàng được các Ngân hàng phân thành nhiều loại, mỗi loại khách hàng thì Ngân hàng sẽ có những chính sách khác nhau. - Đối với những khách hàng truyền thống của Ngân hàng thì sẽ được Ngân hàng quan tâm thực hiện tốt chiến lược khách hàng như tặng quà, tặng hoa vào những dịp đặc biệt. - Bên cạnh những khách hàng truyền thống, Ngân hàng nên mở rộng đối với những khách hàng tiềm năng, bằng cách chủ động tìm đến khách hàng là các đơn vị kinh tế như các doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, các hộ sản xuất kinh doanh lớn, chủ động tìm đến họ để mời chào, nhưng phải qua tìm hiểu, điều tra thông tin về các khách hàng này để tránh những rủi ro có thể xảy ra. - Đối với những khách hàng mới như những doanh nghiệp mới đi vào hoạt động (đặc biệt là những doanh nghiệp hoạt động trong những lĩnh vực được Chính phủ chú trọng phát triển, có lợi thế cao để xuất khẩu), chưa biết lựa chọn Ngân hàng nào thì sự chủ động tìm đến họ là một trong những cách tiếp thị hiệu quả. Nên sử dụng thông tin qua các mối quan hệ cá nhân, qua sự giới thiệu của những người có uy tín, đáng tin cậy chứ không nên quyết định cho vay theo cảm tính. - Thực hiện tốt công tác tuyên truyền một cách rộng rãi, hiện nay các Ngân hàng thường hay giới thiệu về lãi suất, các kì hạn gửi, các dịch vụ… thông qua báo chí, truyền hình. Những thông tin chính chủ yếu của hoạt động của Ngân hàng thì chỉ có trên các loại báo chuyên ngành như Tạp chí Ngân Hàng, Tin học Ngân hàng. Một vài loại báo khác thì lâu lâu mới có một bài về Ngân hàng nên rất khó tìm đọc chỉ có Ngân hàng mới có điều này làm hạn chế sự hiểu biết về Ngân hàng của công chúng. Thời đại ngày nay là thời đại của thông tin vì vậy việc truy cập tin tức không mấy khó khăn vả lại ít tốn kém về chi phí. Do đó các Ngân hàng ngoài những thông tin khái quát về Ngân hàng nên thường xuyên cập nhật những thông tin nóng nhất về các lĩnh vực liên quan đến Ngân hàng trên Website của mình. 4. Giải pháp cho tình trạng bất cân xứng thông tin: Ngân hàng Nhà Nước cần Hoàn thiện các quy định pháp lý, văn bản pháp luật liên quan về hoạt động cho vay ở nước ta hiện nay. Các điều kiện cấp tín dụng, Quy định về đảm bảo tiền vay, Quy định về việc thẩm định, xét duyệt cho vay và giám sát thu hồi vốn vay… Tăng cường việc quy định và kiểm tra về các hệ thống kế toán và báo cáo tài chính của các doanh nghiệp đê đảm bảo được tính minh bạch, đủ độ tin cậy phản ánh đúng năng lực tài chính của DN. Các ngân hàng cần phải hoàn thiện Hệ thống thông tin một cách đầy đủ, có độ tin cậy và tính chính xác cao: áp dụng các mô hình kỷ thuật – công nghệ tiên tiến, hiện đại; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ nhân viên ( đặc biệt là bộ phận tín dung và thẩm định)… Các tiêu chuẩn đánh giá xếp loại phải rõ ràng, minh bạch, dễ áp dụng. Thành lập và nâng cao chất lượng các Tổ chức đánh giá, xếp loại tín dụng độc lập. Xây dựng và thực hiện hệ thống đăng ký tài sản một cách triệt để và rộng khắp. 5. Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu minh bạch trong niêm yết lãi suất và thẩm định cho vay: Các NH cần quan tâm tới chất lượng cán bộ của mình, đào tạo và nâng cao năng lực, trình độ cũng như phẩm chất đạo đức của cán bộ tín dụng. Xây dựng quy trình chặt chẽ quản lý cán bộ tín dụng. NH cần liệt kê những hoạt động hoặc những mối quan hệ không hợp lí mà cán bộ tín dụng cần phải tránh. Đó là việc nhận quà có giá trị hoặc những khoản vay từ phía khách hàng, đầu tư vào doanh nghiệp của khách hàng, hoặc những hoạt động khác có sử dụng thông tin đặc quyền để thu lợi cá nhân hoặc sử dụng không hợp lí thông tin tín dụng của khách hàng. Ngân hàng tách bộ phận quản lý khách hàng ra khỏi bộ phận thẩm định để tăng tính khách quan của bộ phận thẩm định. Trong hoạt động tín dụng, các ngân hàng luôn là người có ít thông tin về dự án, về mục đích sử dụng khoản tín dụng được cấp hơn khách hàng. Do đó, để đảm bảo an toàn trong hoạt động của mình, Ngân hàng phải xử lý thông tin không hoàn hảo nhằm cho vay đúng người đúng đối tượng và giám sát chặt chẽ để khách hàng vay vốn có hành vi đúng đắn nhằm đảm việc thu hồi cả gốc và lãi khoản tín dụng đã cấp ra. 6. Giải pháp cho tình trạng mức lãi suất cao: Nguồn thu về lãi suất cho vay là nguồn thu nhập nuôi sống hoạt động của Ngân hàng và theo bản năng, Ngân hàng nào cũng muốn cho vay lãi suất cao. Tuy nhiên, xét về bản chất kinh tế thì lãi suất tiền vay có lại nguồn gốc từ lợi nhuận hoạt động của DN, do đó, các Ngân hàng chỉ có thể “sống” được khi hoạt động  SXKD của DN có hiệu quả và phát triển. Vì vậy, khi thực hiện chính sách lãi suất, các Ngân hàng nên: - Phân tích và đánh giá chính xác mức sinh lời của DN để từ đó xác định lãi suất cho vay hợp lý, đảm bảo đôi bên cùng có lợi. - Nâng cao khả năng dự báo và thực hiện tốt vai trò tư vấn về lãi suất cho vay đối với khách hàng để giúp DN phòng ngừa và hạn chế rủi ro cho chính mình và cho cả Ngân hàng. - Cung cấp các sản phẩm phái sinh làm công cụ phòng ngừa rủi ro lãi suất cho các DN.   - Thực hiện thường xuyên và kịp thời các chính sách ưu đãi, chia sẻ khó khăn về lãi suất với các khách hàng gặp khó khăn trong khả năng của mình, qua đó hỗ trợ khách hàng phát triển bền vững và gắn bó với Ngân hàng. - Phát huy vai trò của Hiệp hội Ngân hàng trong việc thực hiện chính sách lãi suất ổn định, đồng nhất, để vừa đảm bảo lợi ích kinh doanh của Ngân hàng vừa tránh những xáo trộn về mặt bằng lãi suất gây ảnh hưởng đến nền kinh tế. 7. Giải pháp nâng cao năng lực của cán bộ tín dụng: - Yếu tố con người luôn là yếu tố quan trọng nhất quyết định đến sự thành bại của bất cứ một hoạt động nào trên mọi lĩnh vực. Đối với hoạt động tín dụng thì yếu tố con người lại càng đóng một vai trò quan trọng, nó quyết định đến chất lượng tín dụng, chất lượng dịch vụ và hình ảnh của Ngân hàng và từ đó quyết định đến hiệu quả tín dụng của ngân hàng. Bởi vậy, cần dành một quỹ thời gian để hướng dẫn tổ chức tập huấn, bồi dưỡng kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ, chú trọng nghiệp vụ marketing, kỹ năng bán hàng, thương thảo hợp đồng và văn hoá kinh doanh doanh nghiệp. Đồng thời phải thực hiện tiêu chuẩn hoá cán bộ tín dụng và kiên quyết loại bỏ, thuyên chuyển sang bộ phận khác những cán bộ yếu về tư cách đạo đức, thiếu trung thực, những cán bộ tín dụng thiếu kiến thức chuyên môn nghiệp vụ. - Cải cách bộ máy tín dụng hoạt động theo thông lệ quốc tế về quản trị rủi ro tín dụng. Tách các chức năng tiếp thị, quan hệ khách hàng, thẩm định rủi ro độc lập, quyết định tín dụng, quản lý nợ đảm bảo tính độc lập, khách quan. Thực hiện sự giám sát và kiểm soát chặt chẽ , thường xuyên của các bộ các cấp liên quan tới cấp tín dụng và bộ phận kiểm tra và giám sát tín dụng độc. DANH SÁCH NHÓM Đỗ Vạn Vũ Lớp: 34k07.2 Dương Thị Quỳnh Anh Lớp: 34k07.2 Lưu Quang Sơn Lớp: 34k07.2 Đặng Thị Phương Thảo Lớp: 34k07.2 Lê Thị Vy Lớp: 34k07.2 Nguyễn Thị Quỳnh Thương Lớp: 34k07.2 Hồ Duy Minh Lớp: 34k07.2

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQuản trị hoạt động ngân hàng 2.doc
Luận văn liên quan