Đề tài Sách lược ngoại giao của Việt Nam sau cách mạng tháng Tám 1945 – 19/12/1946

Hoạt động ngoại giao của Việt Nam trong thời kí 1945-1946 rất linh hoạt, khôn khéo. Dấu ấn đậm nét của thắng lợi ngoại giao thời kì này là đối sách và ứng xử tài tình cũng một lúc với nhiều nước lớn, đối phó với bốn đạo quân nước ngoài với trên 30 vạn binh lính có mặt tại Việt Nam. Mối quan hệ giữa các nước lớn luôn có nhiều xung đột và mâu thuẫn về lợi ích, nhưng khi họ cần sẵn sang thỏa hiệp, mua bán với nhau bất chấp quyền lợi của nhân dân Việt Nam, tìm cách áp đặt với Việt Nam và Đông Dương. Nhưng ta đã khéo léo lợi dụng mâu thuẫn giữa các nước với nhau và có sách lược phù hợp với từng đối tượng giữ Mỹ đứng trung lập, kiên nhẫn tránh mọi xung đột của Tưởng, kiên quyết kháng chiến chống Pháp xâm lược ở miền Nam, đồng thời tìm giải pháp hòa bình khi Tưởng và Pháp thỏa hiệp cho phép quân đội Pháp ra Bắc.

docx20 trang | Chia sẻ: phamthachthat | Lượt xem: 6720 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Sách lược ngoại giao của Việt Nam sau cách mạng tháng Tám 1945 – 19/12/1946, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC TÓM TẮT Sau khi cách mạng tháng Tám 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Từ đó cho đến 19/12/1946 là một giai đoạn lịch sử đặc biệt của dân tộc ta. Đất nước vừa giành độc lập, chính quyền cách mạng vừa mới thành lập còn non trẻ và thiếu kinh nghiệm ngay lập tức đã phải đối phó với nhiều thử thách nghiêm trọng, đặc biệt là giặc ngoại xâm. Để bảo vệ chính quyền trong điều kiện có nhiều kẻ thù cùng một lúc như kì 1946-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã có một đường lối đối ngoại đúng đắn, đánh giá từng loại kẻ thù trong từng thời điểm để có thể đưa ra những đối sách thích hợp, loại dần từng kẻ thù một, cuối cùng tập trung mũi nhọn vào kẻ thù chủ yếu tránh không để bị rơi vào tình trạng phải đối phó với nhiều kẻ thù cùng một lúc. MỞ ĐẦU Hiện nay, xu thế chung mà các quốc gia trên thế giới hướng tới là sự hòa bình, hợp tác và phát triển. Các quốc gia ngày càng có nhiều mối quan hệ về kinh tế, chính trị, xã hội .Để những mối quan hệ này trở nên tốt đẹp, bền vững, mỗi quốc gia cần có quan hệ ngoại giao tốt với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới. Việt Nam, sau 20 năm đổi mới, đang có lợi thế rất lớn là tình hình chính trị, xã hội cơ bản ổn định nhưng chúng ta cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức rất lớn. Đảng và Nhà nước Việt Nam tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế, chủ động hội nhập quốc tế với phương châm “Việt Nam sẵn sàng là bạn và là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển.” Những phương châm, đường lối đối ngoại của ta bắt đầu cùng với sự hình thành của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đến nay, những chính sách đó vẫn là những công cụ sắc bén giúp Việt Nam bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, phát triển về các mặt: kinh tế, văn hóa, xã hội . Tìm hiểu về chính sách đối ngoại của Việt Nam giúp ta hiểu rõ về hoạt động ngoại giao của nước nhà. Từ đó, ta rút ra được những kinh nghiệm quý báu để vận dụng, sáng tạo góp phần phát triển đất nước. Đồng thời, những kiến thức mà ta thu được qua tìm hiểu các chính sách ngoại giao, hoạt động ngoại giao cũng giúp ích cho ta trong việc ứng xử, trong công việc hàng ngày. Trong hơn 70 năm lịch sử ngoại giao cách mạng thì giai đoạn 2/9/1945 đến ngày 19/12/1946 là giai đoạn ngành ngoại giao mới thành lập. Ngành ngoại giao cách mạng còn non trẻ này phải gánh vác một sứ mạnh lịch sử hết sức to lớn và nặng nề. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, nay là Đảng cộng sản Việt Nam và lãnh tụ Hồ Chí Minh, ngoại giao Việt Nam đã thực hiện những sách lược hết sức đúng đắn, khôn khéo vừa kiên quyết vừa linh hoạt: lúc hoà với Tưởng, tập trung sức chống Pháp xâm lược ở miền Nam, rồi hoà với Pháp với việc ký kết Hiệp định sơ bộ ngày 6/3/1946 để đuổi Tưởng về nước, góp phần giữ vững Nhà nước độc lập non trẻ. Ngoại giao Việt Nam 1945-1946 lúc này phải phát huy hết khả năng để giữ vững độc lập, chủ quyền và đưa đất nước đi lên. Đây là thời kì mà ngoại giao Việt Nam được thể hiện rất rõ nét với những mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể. Vì những lý do trên đây, chúng tôi đã chọn đề tài: “Sách lược ngoại giao của Việt Nam sau cách mạng tháng Tám 1945 – 19/12/1946” làm vấn đề nghiên cứu của mình. NỘI DUNG CHƯƠNG 1: TÌNH HÌNH VIỆT NAM SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945 1.1 Thắng lợi của Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945 và sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa a. Nguyên nhân bùng nổ Tổng khởi nghĩa tháng Tám Từ giữa năm 1944, tình hình thế giới và trong nước phát triển gấp rút có lợi cho cách mạng. Cuộc chiến tranh chống phát xít bước vào giai đoạn kết thúc, quân đội Liên Xô phản công quân Đức trên nhiều mặt trận và đẩy lùi chúng ra khỏi biên giới. Quân Nhật thua đậm ở mặt trận Châu Á Thái Bình Dương Ngày 7/5/1944, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị cho các cấp sửa soạn khởi nghĩa và kêu gọi nhân dân “sắm vũ khí đuổi thù chung”. Vào đầu năm 1945, cuộc chiến tranh thế giới bước vào giao đoạn kết thúc. Trên chiến trường Châu Âu, phát xít Đức đã bị quét sạch khỏi lãnh thổ Liên Xô, thủ đô Béc lin sắp thất thủ. Ở mặt trận Thái Bình Dương, phát xít Nhật cũng khốn đốn. Thực dân Pháp ở Đông Dương đang nhân cơ hội đó để ngóc đầu dậy, chúng ráo riết hoạt động, đợi khi quân đồng minh kéo vào Đông Dương đánh Nhật sẽ nổi dậy hưởng ứng để giành lại địa vị thống trị cũ. Mâu thuẫn đối kháng giữa Nhật và Pháp ở Đông Dương trở nên gay gắt. Vào ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp. Đang lúc Nhật đảo chính Pháp, Ban thường vụ Trung ương Đảng họp tại làng Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh). Vào ngày 12/3/1945, Ban thường vụ Trung ương ra chỉ thị “Nhật-Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. b.Tổng khởi nghĩa tháng Tám thành công Trước sự chuyển biến mau lẹ, ngay khi nghe tin chính phủ Nhật đầu hàng từ ngày 13 đến 15/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng Cộng sản Đông Dương họp tại Tân Trào quyết định phát động Tổng khởi nghĩa trong cả nước Khởi nghĩa đã nổ ra ở nhiều xã huyện thuộc các tỉnh châu thổ sông Hồng, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Thừa Thiên Huế, Khánh Hòa... Ngày 18/8 nhân dân Bắc Giang, Hà Tĩnh, Quảng Nam đã giành chính quyền ở tỉnh lị. Ở Hà Nội, Ủy ban đã quyết định khởi nghĩa giành chính quyền vào ngày 19/8. Ngày 18/8 cờ đỏ sao vàng đã xuất hiện trên các đường phố ở Hà Nội. Tối ngày 19/8, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà nội giành thắng lợi. Ở Huế, ngày 20/8 Ủy ban khởi nghĩa tỉnh được thành lập. Ủy ban quyết định giành chính quyền vào ngày 23/8. Hàng vạn nhân dân nổi dậy kéo nhau biểu tình thị uy chiếm các công sở. Chính quyền thuộc về nhân dân. Ở Sài Gòn, xứ ủy Nam kì quyết định khởi nghĩa vào ngày 25/8. Sáng 25/8 các công nhân nông dân các tỉnh Gia Định, Biên hòa, Thủ Dầu Mộtkéo nhau về thành phố. Quần chúng chiếm Sở mật thám, sở cảnh sát, nhà ga, bưu điện giành chính quyền ở Sài Gòn. Thắng lợi của các cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn đã có tác dụng vô cùng quan trọng và có ý nghĩa quyết định tới thắng lợi của Cách mạng tháng Tám trong phạm vi cả nước. Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc Bản Tuyên nguyên độc lập, tuyên bố với nhân dân trong cả nước và các quốc gia trên thế giới biết rằng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ra đời, có chủ quyền như các quốc gia dân tộc khác. c. Ý nghĩa thắng lợi của Tổng khởi nghĩa tháng Tám Cách mạng tháng Tám là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo trong đó nổi bật lên tính chất giải phóng dân tộc, đó là cuộc cách mạng biểu hiện tinh thần chủ động sáng tạo biết tranh thủ thời cơ, tự mình đứng lên giải phóng cho mình Cách mạng tháng Tám 1945 thắng lợi đã đánh dấu bước ngoặt lịch sử vĩ đại của cách mạng Việt Nam, chấm dứt hơn 80 năm thống trị của thực dân Pháp và lật đổ chế độ phong kiến tồn tại hơn một ngàn năm trên đất nước ta khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cách mạng tháng Tám đã phát huy truyền thống kiên cường bất khuất, anh dũng sáng tạo và đoàn kết của dân tộc Việt Nam. Ngoài ra, cách mạng tháng Tám còn có ý nghĩa quốc tế vô cùng to lớn, là thắng lợi của chủ nghĩa Mác Lênin trong một nước thuộc địa nữa phong kiến, làm phong phú thêm kho tàng lí luận của phong trào cách mạng vô sản thế giới, cỗ vũ tinh thần các dân tộc bị áp bức đứng lên đấu tranh giành lại chính quyền độc lập tự do. 1.2 Những thuận lợi và khó khăn của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau cách mạng tháng Tám 1945 1.2.1. Thuận lợi Sau cách mạng tháng Tám 1945, ta đã có chính quyền trong tay, Đảng Cộng Sản lãnh đạo công khai, nhân dân có sự đổi mới từ than phân nô lệ lên làm chủ đất nước. Đó bước chuyển để giúp ta có cơ sở xây dựng và củng cố chính quyền vững mạnh, là động lực cho Đảng và nhân dân quyết tâm hơn trong việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Trên thế giới, hệ thống xã hội chủ nghĩa đang hình thành, phong trào giải phóng dân tộc đang dâng cao ở một số nước thuộc địa và phụ thuộc, phong trào đấu tranh vì hòa bình, dân chủ phát triển ở nhiều nước tư bản. 1.2.2. Khó khăn Từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc có gần 20 vạn quân Trung Hoa Dân Quốc đóng ở Hà nội và hầu hết các tỉnh. Từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam, quân Anh tạo điều kiện cho thực dân Pháp trởi lại xâm lược nước ta. Đất nước ta vừa thoát ra khỏi cuộc sống nô lệ, sự thống trị, bóc lột của thực dân Pháp và phát xít Nhật vẫn còn để lại hậu quả nặng nề, hậu quả của chính sách vơ vét, bóc lột của Nhật-Pháp cùng với thiên tai làm cho nền kinh tế nông nghiệp nước ta vốn đã lạc hậu lại bị chiến tranh tàn phá trở nên kiệt quệ. Nhiều xí nghiệp còn nằm trong tay tư bản Pháp. Hàng hoá khan hiếm, giá cả tăng vọt đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn Về tài chính: ngân sách nhà nước trống rỗng. Chính quyền cách mạng chưa nắm được ngân hàng Đông Dương. Quân Tưởng tung ra thị trường các loại tiền mất giá làm cho tình hình tài chính của nước ta càng thêm rối loạn. Về mặt xã hội: Hơn 90% dân ta không biết chữ, các tệ nạn mê tín dị đoan phổ biến ở nông thôn. Chính quyền cách mạng non trẻ, chưa được củng cố, thiếu kinh nghiệm lãnh đạo việc củng cố chính quyền, lực lượng vũ trang còn non trẻ, trang bị thô sơ thiếu kinh nghiệm chiến đấu. CHƯƠNG 2: CHÍNH SÁCH NGOẠI GIAO CƠ BẢN CỦA VIỆT NAM SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945 ĐẾN 19/12/1946 2.1 Ngoại giao hòa hoãn với Tưởng 2.1.1 Nguyên nhân: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời trong điều kiện quốc tế rất thuận lợi. Trên thế giới phe Đồng minh đã giành thắng lợi hoàn toàn, ba nước Trục thất bại thảm hại. Tại Đông Dương, Pháp đã bị Nhật Bản hạ bệ, Nhật đầu hàng quân Đồng minh. Phong trào dân tộc phát triển mạng mẽ, ở Châu Á nhân dân Indonesia đã nổi lên giành chính quyền. Tình hình Việt Nam có những biến đổi sâu sắc, những nhân tố trái ngược nhau. Niềm vui độc lập làm cho người ta hầu như quên cả khó khăn trong cuộc sống, những khó khăn trong lòng các nhà lãnh đạo về tất cả mọi mặt: kinh tế, tài chính, Kinh tế: nạn đói mà thực dân Pháp và quân phiệt Nhật Bản đã gây ra làm chết 2 triệt người chưa chấm dứt. Nạn lụt giữa năm 1945 nước lũ lên to, đê sông Hồng bị vỡ, làm ngập lụt nhiều cánh đồng. Sau vụ chiêm 1946, có thóc mới đời sống nhân dân khá hơn nhưng đến giữa năm, bọn nhà buôn Pháp và quân đội Tưởng tung tiền ra vơ vét gạo gây khó khăn trong chính quyền nhân dân. Tài chính: trong tình trạng nguy ngập Trong bối cảnh đó, một Chính phủ bình thường cũng không đứng vững được, nhưng khó khăn chính trị còn ghê gớm hơn nhiều, chính quyền cách mạng chưa có chỗ đứng vững chắc đã phải chống lại sức ép từ mọi phía. Từ 1944 sau khi Tổng thống Roosevelt qua đời, Phó tổng thống Truman lên thay, và ông tuyên bố: “Dù thế nào, về vấn đề Đông Dương, Chính phủ tôi không phản đối uy quyền và quân đội Pháp trở lại xứ này”, đối với Pháp đó là sự thừa nhận rõ ràng chủ quyền của họ đối với Đông Dương. Lực lượng 20 vạn quân Tưởng do tướng Lư Hán chỉ huy bọn tay sai Việt Nam Cách mệnh Đồng minh hội Việt Nam Quốc dân Đảng đứng đầu là Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh là công cụ của chính phủ Trùng khánh và lực lượng quân phiệt Vân Nam, Quảng Tây, chúng đang thực hiện kế hoạch “Hoa quân nhập Việt” nhằm dựng lên một chính phủ Trùng khánh. Lư Hán và Tiêu Vân đến Hà nội nhằm âm mưu lật đổ Chính quyền Việt Minh. Nhưng trước phong trào toàn dân ủng hộ Chính phủ Hồ Chí Minh, chúng không thể làm được, chúng ép ta lập chính quyền ba phái có Việt Cách, Việt Quốc tham gia. Họ xúi giục và giúp đỡ bọn Việt Cách, Việt Quốc gây tình hình không ổn định ở Hà Nội và cách tỉnh khác. Ở miền Nam vấn đề đã rõ: Anh đồng ý cho pháp trở lại Đông Dương và tạo điều kiện cho Pháp tái chiếm miền Nam thì ta không có con đường nào khác là chống lại quân Pháp. Nhưng trên miền Bắc có quân Tưởng và bọn tay sai Việt Cách, Việt Quốc và trong một tương lai không xa sẽ có quân Pháp trở lại Dù đang có nhiều kẻ thù, có thù trong giặc ngoài, bao giờ cũng phải nhằm kẻ thù chính là thực dân Pháp. Đối với Trung Quốc, chủ trương của ta là hòa hoãn, làm cho họ rút quân càng nhanh càng tốt ra khỏi miền Bắc nước ta. Quyết định hòa hoãn với Tưởng, phía ta đã chủ trương trong lúc chấp nhận một số nhượng bộ về kinh tế, chính trị cần phải tuân thủ nguyên tắc giữ vững chủ quyền quốc gia, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thực hiện khẩu hiện “Hoa-Việt thân thiện” ưu đãi Hoa kiều. 2.1.2 Nội dung Nội dung chính của chính sách “Hoa- Việt thân thiện" là tạm thời hoà hoãn với quân Tưởng ở miền Bắc, tập trung chống thực dân Pháp xâm lược ở miền Nam (9-1945 đến 3-1946). Với những nội dung sau: Biện pháp biểu dương lực lượng: Biện pháp đầu tiên mà chủ tịch Hồ chí Minh và chính phủ VNDCCH thực hiện là tổ chức biểu dương lực lượng bao gồm 30 vạn nhân dân thủ đô Hà Nội trong buổi chào đón Hà Ứng Khâm, Tổng tư lệnh quân đội Tưởng và phái bộ đồng minh đến Hà Nội ngày 2/10/1945. Việc biểu dương lực lượng là cần thiết và có ý nghĩa vô cùng quan trọng khi nước ta đang ở trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” bởi: Thứ nhất nó biểu thị ý chí và sức mạnh của nhân dân ta đoàn kết xung quanh chính phủ Hồ Chí Minh, điều này chứng tỏ rằng chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã và đang được sự ủng hộ của đông đảo quần chúng nhân dân. Đó là điều không dễ gì có được cũng như không dễ gì thay đổi. Thứ hai hành động đó đồng thời thể hiện thiện chí, sự hoan nghênh và mong muốn hoà với quân Tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Lợi dụng mâu thuẫn, tránh xung đột Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và linh hoạt chủ nghĩa Mác - Lênin về vần đề lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù. Phép ứng xử ngoại giao khéo léo kết hợp với hiểu thấu nội bộ địch đã khẳng định vai trò quan trọng của vị lãnh thiên tài Hồ Chí Minh, không chỉ vậy người phần nào lấy được thiện cảm của Lư Hán bằng chứng là y gọi người là “Hồ Chủ tịch” lời gọi ấy không chỉ minh chứng cho sự tôn trọng của Lư Hán đối với Bác mà còn với cả bộ máy chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đối với trung tướng Tiêu Văn, Bác nắm rõ lý lịch cũng như ý định của y khi sang Việt Nam nhìn thấu những bất đồng trong nội bộ của hắn, từ đó có những đối sách phù hợp. Với nhiệm vụ giải quyết các vấn đề chính trị của Việt Nam, tới Hà Nội thấy chính quyền ta đã thành lập y rất bực bội với sự đã rồi và tuyên bố “Hồ Chí Minh thập đại tội” ngay lập tức Bác chủ động đến thăm y, giải thích rõ tình hình hiện tại và đề nghị hợp tác với ta giải quyết mọi vấn đề trong quan hệ Hoa – Việt, việc làm này ít nhiều xoa dịu tâm lý căng thẳng và giải quyết một số hiểu lầm giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Quốc dân đảng. Bằng tài trí thông minh và ngoại giao nhạy bén, qua tiếp xúc nhiều Bác dần lấy được cảm tình từ Tiêu Văn, nhờ thế phản ứng của y với chính phủ lâm thời bớt căng thẳng hơn. Hành động ngoại giao Bác mời vợ chồng Tiêu Văn ăn cơm, tặng vợ y một vài đồ trang sức quý giá, cho phép buôn vài tấn gạo và một số loại hàng hóa, tưởng chừng như đơn giản, sáo rỗng nhưng lại có ý nghĩa sâu xa bởi nhận lời “mời” của Hồ chủ tịch đại diện cao nhất của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là gián tiếp khẳng định vị thế cũng như tính hợp pháp của Chính phủ lâm thời, hành động ấy còn thiêu cháy ý định không giao thiệp với Chính phủ ta của Tiêu Văn, hơn nữa nó góp phần răn đe bọn tay sai của Tưởng rằng chớ có lộng hành quá đáng. Có rất nhiều học giả đánh giá cao hành động ngoại giao này của Bác như Philip-Đờ-Vilê viết về cuộc gặp này “Hồ chủ tịch gặp Tiêu Văn ngay và được sự hòa hoãn của quân Tàu chặn cú đầu tiên của quân Tàu định lật đổ Chính phủ lâm thời, điều này làm cho bọn Việt Cách hoang mang chập chừng” . Phát hiện thấy trong hàng ngũ quân Tưởng cũng có những sỹ quan binh lính bày tỏ đồng tình với cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta, Hồ chủ tịch kịp thời ứng xử thiện chí để khuyến khích, động viên họ ngả về phe ta. Đấy là sự sáng suốt, tài tình của Hồ Chí Minh bởi sự nhận biết nhanh chóng, bóc tách những mâu thuẫn của từng đối tượng kẻ thù để tìm ra điểm thuận lợi cho cách mạng nước nhà. Bên cạnh đó, để cho quân đội Quốc dân Đảng và tay sai không kiếm cớ xung đột, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta chủ trương chập nhận một số nhượng bộ có nguyên tắc về kinh tế, chính trị quân sự Kinh tế: Chính phủ Việt Nam nhận cho quân Tưởng tiêu tiền "Quan Kim", “Quốc tệ” đã mất giá trên thị trường, mặc dù điều đó làm cho tài chính và thương mại của ta càng thêm nguy ngập Chính phủ và nhân dân ta nhận cung cấp lương thực, thực phẩm cho quân Tưởng trong hoàn cảnh đất nước chưa ra khỏi nạn đói. Về quân sự: Khi sang Việt Nam, quân đội Tưởng Giới Thạch là một quân đội ô hợp. Chúng đi đến đâu là gây gổ, khiêu khích đối phó. Vì thế Đảng ta chủ trương tránh xung đột với quân Tưởng, tỉnh táo để không rơi vào âm mưu và hành động khiêu khích lật đổ của chúng. Vì lợi ích của cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh tỏ thái độ rất nghiêm khắc đối với những việc làm sai trái trong khi thực hiện sách lược của Đảng. Người thường xuyên nhắc nhở cách cấp chính quyền:” Phải hết sức tránh khiêu khích, không để xảy ra xung đột với quân Tưởng. Nếu xảy ra xung đột thì phải biến xung đột lớn thành xung đột nhỏ,biến xung đột nhỏ thành không có xung đột”. Về chính trị: Đảng chủ trương mở rộng Chính phủ lâm thời thành Chính phủ liên hiệp lâm thời, để cho một số nhân vật của Việt Quốc, Việt Cách (tay sai của Tưởng) tham gia Chính phủ. Quốc hội khoá I, kỳ họp đầu tiên ngày 2-3-1946 thông qua đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh mở rộng thêm 70 ghế trong Quốc hội cho bọn Việt Quốc, Việt Cách và để họ nắm gần một nửa số Bộ trong Chính phủ liên hiệp chính thức. Trong hoàn cảnh có nhiều Đảng phái đối lập công khai dựa vào thế lực bên ngoài để chống phá chính quyền cách mạng, Đảng ta rút vào bí mật, Đảng ta tuyên bố tự giản tán song thực chất Đảng rút vào hoạt động bí mật để tự bảo vệ, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ diễn ra cuộc đấu tranh một mất một còn với địch, đồng thời làm thất bại thủ đoạn vu cáo của bọn phản động, không cho chúng kiếm cớ xung đột. Chấp nhận cho các Đảng phái đối lập hoạt động, thậm chí tham gia chính quyền là sự nhân nhượng lớn có tính chất bắt buộc. Đối với các đảng phái thân Tưởng, Đảng ta chủ trương phân hoá nội bộ của chúng. Với sách lược khôn khéo trong quan hệ với Tưởng và các thế lực tay sai của chúng, Đảng và nhân dân đã làm thất bại âm mưu và hành động khiêu khích lật đổ của quân Tưởng Đến tháng 9-1946, tên lính Quốc Dân Đảng cuối cùng rút khỏi miền Bắc Việt Nam 2.2 Ngoại giao hòa hoãn với Pháp. Hiệp định sơ bộ 6/3/1946 2.2.1 Tình thế mới Sau cuộc đảo chính của Nhật ngày 9/3/1945, thực dân Pháp mất quyền cai trị Liên Bang Đông Dương. Tuy nhiên, sau khi Nhật đầu hàng khối Đồng Minh, Việt Minh chớp thời cơ giành chính quyền từ tay Đế Quốc Việt Minh được Đế Quốc Nhật Bản bảo hộ, nhanh chóng kiểm soát đất nước, và thành lập chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào ngày 2/9/1945 Theo thỏa thuận của các nước Đồng Minh, quân đội Trung Hoa Quốc dân Đảng tiến vào miền Bắc Việt Nam để làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Đế quốc Nhật Bản. Ở miền Nam Việt Nam, quân Anh tiến vào với nhiệm vụ tương tự. Rạng ngày 23/9/1945, người Pháp, dưới sự giúp đỡ của quân đội Anh, đã dùng vũ lực buộc Lâm Ủy Nam Bộ phải giải tán, giao lại chính quyền cho người Pháp. Tuy nhiên, chính quyền người Việt đã thực hiện cuộc chiến tranh du kích để chống lại. Ở miền Bắc, quân đội Trung Hoa Quốc dân Đảng vẫn công nhận chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho mưu đồ chính trị của họ. Tuy nhiên, người Pháp cũng đã thương lượng với chính phủ Trung Hoa Quốc dân đảng để đưa quân đội xâm nhập Bắc Việt Nam. Ngày 28/2/1946, Hiệp ước Hoa - Pháp được ký kết, với 2 điểm chính: Pháp trả lại các tô giới và nhượng địa của Pháp trên đất Trung Quốc  và nhượng cho Trung Hoa một số quyền lợi tại miền Bắc Việt Nam như cho họ khai thác một đặc khu tại hải cảng Hải Phòng, miễn thuế cho hàng hóa của Trung Hoa vận chuyển sang miền Bắc Việt Nam. Ngược lại chính phủ Trung Hoa Quốc dân đảng đồng ý cho Pháp thay thế quân Trung Hoa giải giáp quân Nhật tại miền Bắc Việt Nam. Về cơ bản, hiệp ước này cho phép quân đội Pháp trở lại Bắc Việt Nam thay thế cho quân Trung Hoa Quốc dân đảng để làm nhiệm vụ giải giáp quân Nhật. Đổi lại, Pháp cũng đã trả lại các tô giới của mình trên đất Trung Quốc cho chính phủ Trung Hoa Quốc dân Đảng. Ngay sau khi “Hiệp ước Hoa-Pháp” được ký kết, Pháp ra sức tuyên truyền rộng rãi ở Đông Dương với ý đồ gây ra áp lực đối với chính phủ Hồ Chí Minh Trong tình hình cấp bách này, để chuẩn bị đi đến một giải pháp hòa hoãn với Pháp, ngày 3/3/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cũng với Ban thường vụ TW thảo luận và đưa ra chỉ thị về “Tình hình và chủ trương”. Đảng nhận định, đâu không phải là chuyện riêng giữa Hoa-Pháp mà là sự nhân nhượng giữa Mỹ, Anh, Trung Hoa với Pháp về vấn đề Đông Dương. Và Đảng ta quyết định về lập trường giảng hòa với Pháp là độc lập nhưng lien minh với Pháp. 2.2.2 Hiệp định sơ bộ 6/3/1946. Hòa để tiến Trong thời gian đầu, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gồm nhiều thành phần kiên quyết chống lại việc Pháp tái lập chủ quyền ở Đông Dương. Nhưng sau đó những thành viên Chính phủ là Đảng viên Đảng cộng sản Đông Dương thay đổi ý kiến muốn ký kết Hiệp định với Pháp. Theo quan điểm của Ban Thường vụ TW 3 Đảng cộng sản Đông Dương (đã lui vào hoạt động bí mật), tháng 3 năm 1946, nếu Pháp cho Đông Dương tự trị theo tuyên bố ngày 24 tháng 3 năm 1945 thì kiên quyết đánh, nhưng nếu cho Đông Dương tự chủ thì hòa để phá tan âm mưu của "bọn Tàu trắng, bọn phản động Việt Nam và bọn phát xít Nhật còn lại". Ngày 6/3/1946 , Hiệp định sơ bộ Pháp – Việt được ký kết với nội dung sau đây: Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia tự do trong Liên Bang Đông Dương và trong khối Liên Hiệp Pháp, có chính phủ, nghị viện, quân đội và tài chính riêng Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đồng ý cho 15.000 quân Pháp vào miền Bắc thay thế cho 200.000 quân Trung Hoa Quốc dân đảng để làm nhiệm vụ giải giáp quân Nhật. Pháp hứa sẽ rút hết quân trong thời hạn 5 năm, mỗi năm rút 3.000 quân. Pháp đồng ý thực hiện trưng cầu dân ý tại Nam Kỳ về việc thống nhất với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hai bên thực hiện ngưng bắn, giữ nguyên quân đội tại vị trí hiện thời để đàm phán về chế độ tương lai của Đông Dương, quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và nước ngoài và những quyền lợi kinh tế và văn hóa của Pháp ở Việt Nam. Về phía người Pháp, Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt giúp họ đưa quân đội ra miền Bắc Việt Nam mà không gặp sự kháng cự của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa như ở Nam Kỳ, đồng thời Hiệp ước Hoa-Pháp giúp họ tránh khỏi sự cản trở của các tướng lĩnh Trung Hoa Dân Quốc. Về phía Việt Minh tránh được tình thế bất lợi "phải cô lập chiến đấu cùng một lúc với nhiều lực lượng phản động (thực dân Pháp, Tàu trắng, bọn phản cách mạng trong nước)", tập trung đối phó với người Pháp và "các đảng phái phản động". Đồng thời, tranh thủ được thời gian hòa hoãn quý báu để "Bảo toàn thực lực giành lấy giây phút nghỉ ngơi và củng cố vị trí mới đã chiếm được, chấn chỉnh đội ngũ cách mạng, bổ sung cán bộ, bồi dưỡng và củng cố phong trào". Một số thành viên trong Chính phủ Liên hiệp thuộc lực lượng Việt Quốc, Việt Cách không tán thành việc này lên tiếng phản đối gây ra bất đồng sâu sắc, dân chúng cũng có người băn khoăn, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bình tĩnh giải thích và động viên đồng bào để đồng bào hiểu rõ "cần phải biết chịu đựng hy sinh để mưu sự nghiệp lớn".Về mặt chính trị, cuộc điều đình với nước Pháp sẽ mở ra con đường làm cho quốc tế thừa nhận ta. Nó sẽ dẫn ta đến một vị trí ngày càng chắc chắn trên trường quốc tế. Đó là một thắng lợi về mặt chính trị. Trong chỉ thị Hòa để tiến, Ban Thường vụ Trung Ương Đảng nêu rõ tại sao lại cầu hòa với Pháp: “Chúng ta hòa với Pháp để: Tránh tình thế bất lợi Bảo toàn thực lực, giành lấy giây phút nghĩ ngơi và cũng cố vị trí đã chiếm được, chấn chỉnh đội ngũ cách mạng, bổ sung cán bộ, bồi dưỡng và cũng cố phong trào, tóm lại để chuẩn bị đầy đủ, nhân cơ hội tốt tiến lên giai đoạn cách mạng mới” Một tuần sau quân Tưởng tuyên bố sẽ bắt đầu rút từ ngày 15/3/1946 và kết thúc ngày 31/3/1946, thật ra ngày 18/9/1946 mới rút hết. Lúc này sự quan tâm của Trùng Khánh là tiến công Quân giải phóng Trung Quốc vào tháng 7/1946, bất chấp điều ước Song Thập và đơn phương hủy bỏ ngừng bắn đã thỏa thuận với Đảng cộng sản Trung Quốc, quân Tưởng đã mở chiến dịch Tổng công kích Quân giải phóng khắp nơi. Về phía Pháp, đã xuất hiện hai xu hướng thi hành hiệp định sơ bộ. Một là thi hành nhưng dùng sức ép quân sự buộc ta nhân nhượng về chính trị, kinh tế, văn hóa, giữ Nam Bộ tìm cách đưa người Pháp vào Chính phủ ta đông thời duy trì hợp tác với ta trên cơ sở trao cho ta một nền độc lập tương đối. Xu hướng thứ hai là từ chỗ đóng quân lấn chiếm ra xung quanh, thi hành những biện pháp nhằm thay đổi dần dần và biến kịch bản của một cuộc hành quân thuần túy quân sự thành một kịch bản đảo chính. Sau ngày 6/3/1946, thực dân Pháp không thực hiện ngừng bắn mà còn tăng cường càn quét, hòng lập lại chính quyền. Về phía Việt Nam, ta thi hành nghiêm chỉnh hiệp định. Ta cử người cùng sĩ quan Pháp thành lập Ban liên kiểm Việt - Pháp. Nhờ sự dàn xếp của ta với quân Lư Hán và tinh thần kỷ luật của nhân dân và bộ đội ta, này 18/3 quân của tướng LerLerc đã tới Hà Nội an toàn. Như vậy với việc quyết đoán ký nhanh với Pháp Bản Hiệp định sơ bộ thì ta đã nhanh chóng và không tốn sức lực gạt được 180.000 quân Tưởng ra khỏi miền Bắc (dù trên thực tế, lính Tưởng phải đến tháng 6/1946 mới rút hết về nước). Với việc ký kết này, ta đã biến điều khoản thay quân trong Hiệp định song phương Trùng Khánh giữa Pháp và Tưởng thành thỏa thuận 3 bên. Hiệp định thể hiện chủ quyền của Việt Nam khi quy định rõ Pháp chỉ được đưa vào miền Bắc 15.000 quân và số quân này phải rút hết trong 5 năm. Hiệp định sơ bộ cũng góp phần làm giảm sức ép quân sự của Pháp đối với lực lượng kháng chiến Nam bộ khi đó. Nhìn tổng thể, Hiệp định 6/3/1946 đã mở ra thời kỳ hòa hoãn tạm thời giữa ta và Pháp, vô hiệu hóa được âm mưu của đối phương muốn tập trung lực lượng bóp chết chính quyền non trẻ lúc đó đang thiếu thốn đủ bề (“không đồng minh, không tiền và hầu như không vũ khí” – lời của Leon Pignon, cố vấn chính trị của Cao ủy Pháp ở Đông Dương). Từ thời điểm này đến ngày toàn quốc kháng chiến (19/12/1946), ta có điều kiện tuyên truyền về chính nghĩa của ta và có thêm thời gian quý báu để xây dựng lực lượng cho cuộc kháng chiến dài lâu. Trong bối cảnh Việt Nam khi đó chưa được cường quốc nào công nhận, thì việc thương lượng với Pháp rồi ký Hiệp định sơ bộ 6/3/1946, như Hồ Chủ tịch nhận định, đã “mở ra con đường làm cho quốc tế thừa nhận ta, sẽ dẫn ta đến một vị trí ngày càng chắc chắn trên trường quốc tế”. Thực tế đã chứng minh việc ký kết Hiệp định sơ bộ này là một thắng lợi lớn của Đảng ta và ngành ngoại giao Việt Nam. Bài học rút ra từ Hiệp định này không chỉ là sự mềm dẻo, nhân nhượng có nguyên tắc mà còn là nghệ thuật lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù (cụ thể là trong nội bộ thực dân Pháp, trong nội bộ quân Tưởng Giới Thạch, và giữa Pháp và Tưởng), cũng như nghệ thuật đón lòng và tận dụng đúng thời cơ. Hội nghị trù bị ở Đà Lạt: Còn gọi là Hội nghị trù bị Đà Lạt họp từ ngày 17 tháng 4 đến ngày 12 tháng 5 năm 1946 tại Đà Lạt, là một hội nghị dự bị, gặp gỡ giữa 2 phái đoàn Việt và Pháp chuẩn bị cho Hội nghị Phông ten nơ blô chính thức vào tháng 7 năm ấy. Sau khi ký Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt 1946, Hồ Chí Minh muốn có một hội nghị giữa Việt và Pháp tại Paris để bàn định tương lai của nước Việt Nam và làm rõ những điểm đã nêu trong Hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3, với địa vị hai nước và 2 sứ bộ ngang nhau, nhưng Toàn quyền Đông Dương  không chấp thuận, mà muốn một hội nghị tại Việt Nam để đặt những sự điều đình vào nội bộ địa phương mà thôi . Theo ông Hoàng Xuân Hãn, trong khi chọn lọc ủy viên tham dự hội nghị, chính phủ Việt Nam lúc đó đã chú ý chọn mời những nhân vật có tiếng ở Nam Bộ, Nam Trung Bộ và sự có mặt của những nhân vật không đảng phái càng tỏ sự đoàn kết của người Việt trong thời bắt đầu độc lập . Tuy đây chỉ là một Hội nghị dự bị nhưng lại có tầm quan trọng đặc biệt vào thời điểm ấy, vì là lần đầu tiên có một hội nghị điều đình có tầm vóc quốc gia của Chính phủ Việt Nam độc lập (khi đó mang tên Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến). Chính phủ Việt Nam cũng đã đề nghị, và Pháp đã chấp thuận, một phái đoàn Quốc hội Việt Nam sang thăm nước Pháp do Phạm Văn Đồng dẫn đầu . Hội nghị Phông ten nơ blô Phái đoàn Chính phủ Việt Nam do Phạm Văn Đồng làm trưởng đoàn, phái đoàn chính phủ Pháp do Mắc Ăngđrê dẫn đầu. Ngày 6-7, cuộc đàm phán khai mạc. Phái đoàn Chính phủ Pháp vẫn giữ nguyên những quan điểm từ Hội nghị trù bị Đà Lạt đối với những vấn đề cơ bản (chế độ chính trị, quan hệ ngoại giao của Việt Nam, sự thống nhất ba kỳ của Việt Nam) quyết định quan hệ giữa hai nước Việt – Pháp. Phái đoàn Chính phủ Việt Nam do Phạm Văn Đồng làm trưởng đoàn, phái đoàn chính phủ Pháp do Mắc Ăngđrê dẫn đầu. Ngày 6-7, cuộc đàm phán khai mạc. Phái đoàn Chính phủ Pháp vẫn giữ nguyên những quan điểm từ Hội nghị trù bị Đà Lạt đối với những vấn đề cơ bản (chế độ chính trị, quan hệ ngoại giao của Việt Nam, sự thống nhất ba kỳ của Việt Nam) quyết định quan hệ giữa hai nước Việt – Pháp. Mặc khác, Chính phủ Pháp dung túng cho bọn thực dân hiếu chiến ở Đông Dương thực hiện từng bước chính sách lấn dần, trắng trợn phá hoại Hiệp định sơ bộ. Vì thế, cuộc đàm phán phải đình chỉ vào ngày 10-9. Trước khi lên đường về nước, phái đoàn Chính phủ Việt Nam ra một bản tuyên bố. Đoàn về đến Hải Phòng ngày 3-10. Thực hiện chủ trương hòa hoãn, việc ký kết Hiệp định sơ bộ 6/3, Tạm ước 14/9 của Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh là đúng đắn. Hòa với Pháp chúng ta tránh được tình trạng một lúc phải đối đầu giữa hai lược lược quân sự hung mạnh là Tưởng và Pháp, có them thời gian hòa bình để củng cố và phát triển lực lượng, tích lũy kinh nghiệm sẵn sang đối phó với Pháp. Việc ký kết Hiệp định sơ bộ 6/3 và Tạm ước 14/9 và những hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Pháp có ý nghĩa vô cũng quan trọng to lớn đối với việc khẳng định và nâng cao vị thế của Việt Nam Dân chủ Cộng hoa trên trường quốc tế C. KẾT LUẬN Hoạt động ngoại giao của Việt Nam trong thời kí 1945-1946 rất linh hoạt, khôn khéo. Dấu ấn đậm nét của thắng lợi ngoại giao thời kì này là đối sách và ứng xử tài tình cũng một lúc với nhiều nước lớn, đối phó với bốn đạo quân nước ngoài với trên 30 vạn binh lính có mặt tại Việt Nam. Mối quan hệ giữa các nước lớn luôn có nhiều xung đột và mâu thuẫn về lợi ích, nhưng khi họ cần sẵn sang thỏa hiệp, mua bán với nhau bất chấp quyền lợi của nhân dân Việt Nam, tìm cách áp đặt với Việt Nam và Đông Dương. Nhưng ta đã khéo léo lợi dụng mâu thuẫn giữa các nước với nhau và có sách lược phù hợp với từng đối tượng giữ Mỹ đứng trung lập, kiên nhẫn tránh mọi xung đột của Tưởng, kiên quyết kháng chiến chống Pháp xâm lược ở miền Nam, đồng thời tìm giải pháp hòa bình khi Tưởng và Pháp thỏa hiệp cho phép quân đội Pháp ra Bắc. Đánh giá thời kỳ này, cố Tổng bí thư Lê Duẫn cho rằng:”lúc thì tạm hòa với Tưởng để rãnh tay đối phó với thực dân Pháp, lúc thì hòa hoãn với Pháp để đuổi cổ quân Tưởng và quét sạch bọn phản động tay sai của Tưởng, dành thời gian củng cố lực lượng, chuẩn bị toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, điều mà Đảng ta đã biết chắc là không thể nào tránh khỏi. Những biện pháp cực kỳ sáng suốt đó đã được ghi vào trong lịch sử nước ta như một mẫu mực tuyệt vời của sách lược Lê nin về lợi dụng những mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ địch và về sự nhân nhượng có nguyên tắc”. Như vậy thực tế đã chứng minh rằng thời kỳ ngoại giao 1945-1946 đó mãi đi vào lịch sử hào hùng của dân tộc như những năm tháng không thể nào quên. Nền ngoại giao Việt Nam non trẻ do Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã góp phần xuất sắc bảo vệ chủ quyền và nền độc lập non trẻ trong khi thế lực của ta còn yếu, đồng thời tạo điều kiện tranh thủ thời gian xây dựng lực lượng, tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi nhất để phát triển đất nước, nâng cao vị thế mở rộng ảnh hưởng trên trường quốc tế. Chung quy lại, chính sách ngoại giao Việt Nam thời kì này là ngoại giao đa phương, linh hoạt dựa trên nguyên tắc “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”, nhân nhượng nhưng có nguyên tắc và lợi dụng tranh thủ mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù. Những chính sách ngoại giao này hình thành từ những ngày đầu đất nước Việt Nam được thành lập, đã đặt nền móng cho ngoại giao Việt Nma cách mạng và hiện đại. Những chính sách này xuyên suốt trong quá trình phát triển của ngoại giao Việt Nam cũng như quá trình phát triển đất nước và đã để lại khá nhiều thành tựu to lớn cho sau này. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Nguyễn Vũ, Nguyễn Thái Anh, (2008), Hồ Chí Minh về nghệ thuật ngoại giao, Nxb Thanh niên [2] Lưu Văn Lợi, Năm mươi năm ngoại giao Việt Nam (1945-1995), Nxb Công an nhân dân Hà Nội-1996 [3] Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hân, (2000), Đại cương lịch sử Việt Nam, Nxb Giáo dục [4] Http:/google.com.vn/ Lịch sử ngoại giao Việt Nam giai đoạn 1946 [5] Sách Lịc sử Việt Nam lớp 12 nâng cao, Nxb Giáo dục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxsach_luoc_ngoai_giao_cua_viet_nam_sau_cach_mang_thang_tam_6256.docx
Luận văn liên quan