Đề tài Vai trò của dịch vụ nông thôn, thực trạng phát triển dịch vụ nông thôn ở nước ta và những tồn tại, thách thức trong phát triển dịch vụ nông thôn

MỞ ĐẦU. Để phát triển nông thôn một cách toàn diện chúng ta không chỉ tập trung vào những hoạt động sản xuất chính (như các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và khai thác mỏ và đá); các hoạt động sản xuất thứ (như các ngành chế biến chế tạo); mà chúng ta cần phải quan tâm đến những hoạt động thứ ba đó là ngành dịch vụ. Dịch vụ nông thôn mà chúng ta quan tâm ở đây bao gồm các ngành sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, các hoạt động cung ứng, phục vụ cho sản xuất; dịch vụ xã hội nông thôn là các điều kiện về nhà ở, giáo dục, y tế, văn hóa, cung cấp nước sạch và vệ sinh. Cùng với việc nâng cao thu nhập, đẩy mạnh dịch vụ sản xuất, việc đẩy mạnh các dịch vụ xã hội nông thôn là điều kiện từng bước nâng cao chất lượng cuộc sống người dân nông thôn, giảm dần sự cách biệt giữa mức sống nông thôn và thành thị. Do đó, phát triển dịch vụ nông thôn trở thành một yêu cầu bức thiết góp phần phát triển nông thôn toàn diện và tạo ra cơ cấu kinh tế ngày càng tiến bộ. Những năm gần đây cùng với quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, nhiều loại hình dịch vụ mới mang đậm nét của nền kinh tế thị trường đã hình thành, phát triển trong sản xuất và đời sống nông thôn như các hoạt động dịch vụ tài chính, bảo hiểm, bưu chính viễn thông, du lịch, kinh doanh bất động sản, tư vấn tin học, pháp lý Vì tính cấp thiết đó của dịch vụ nông thôn nên chúng ta cùng đi vào tìm hiểu: “vai trò của dịch vụ nông thôn, thực trạng phát triển dịch vụ nông thôn ở nước ta và những tồn tại, thách thức trong phát triển dịch vụ nông thôn”, từ đó đưa ra giải pháp phát triển dịch vụ như thế nào để đạt hiệu quả?

doc35 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4100 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò của dịch vụ nông thôn, thực trạng phát triển dịch vụ nông thôn ở nước ta và những tồn tại, thách thức trong phát triển dịch vụ nông thôn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tỉ lệ % hợp tác xã trong nông nghiệp Cả nước 10 tỉnh điều tra Hợp tác xã chuyển đổi Hợp tác xã mới 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 - Dịch vụ thủy lợi -Dịch vụ điện - Dịch vụ giống cây trồng - Dịch vụ làm đất - Dịch vụ vật tư nông nghiệp -Dịch vụ bảo vệ thực vật -Dịch vụ thú y - Dịch vụ tín dụng -Dịch vụ chế biến -Dịch vụ tiêu thụ -Dịch vụ bảo vệ ruồng đồng - Định hướng khuyến nông 94.90 52.02 41.30 36.00 14.40 61.20 37.70 - 0.40 10.03 95.20 100.00 92.70 47.52 45.18 39.22 25.47 66.40 21.67 10.26 2.02 12.60 93.60 100.00 100.00 66.70 46.60 40.00 16.70 56.60 20.00 20.00 6.60 13.20 100.00 100.00 100.00 25.00 50.00 25.00 - 50.00 - 25.00 - - 100.00 100.00 (nguồn của bộ NN & PTNT) Cơ sở vật chất kỹ thuật là điều kiện quan trọng cho mức độ và chất lượng trong sản xuất nông nghiệp còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu của hoạt động dịch vụ sản xuất nông nghiệp, nhất là trong điều kiện của công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Những vấn đề đang đặt ra là phải tiếp tục hoàn thiện nâng cao bổ sung và tổ chức lại các hệ thống dịch vụ cho phát triển nông nghiệp nông thôn. Công tác đào tạo nguồn nhân lực cho hoạt động dịch vụ sản xuất nông nghiệp cũng như tổ chức công tác nghiên cứu khoa học cho dịch vụ sản xuất nông nghiệp cả về phương diện lý luận và thực tiễn còn nhiều hạn chế. Ví dụ về một số tổ chức dịch vụ ở nông thôn: Dịch vụ HTX nông nghiệp: Các HTX dịch vụ nông nghiệp đã phát huy vai trò là tổ chức kinh tế của các hộ nông dân, xác định rõ định hướng hoạt động, tổ chức thêm nhiều ngành nghề mới, sản xuất kinh doanh ngày thêm hiệu quả. Ngành nghề kinh doanh chủ yếu là làm dịch vụ thủy lợi, phân bón, bảo vệ thực vật, thú y, làm đất, chăn nuôi gia súc… Các HTX nông nghiệp đã thể hiện vai trò trong việc hướng dẫn các hộ thành viên chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa. Việc liên doanh, liên kết giữa các HTX với nhau và giữa HTX với các doanh nghiệp bước đầu có hiệu quả, góp phần tạo điều kiện cho các HTX nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh, khả năng cạnh tranh và nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm bảo lợi ích thiết thực của HTX và xã viên. Các HTX đã thúc đẩy kinh tế hộ phát triển, hỗ trợ cho nông dân và xã viên tổ chức sản xuất, góp phần gia tăng sản lượng nông sản hàng hóa; huy động được các nguồn lực thúc đẩy ngành nghề phát triển, chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp và nông thôn, góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho xã viên và người lao động, đồng thời góp phần xây dựng cơ sở hạ tầng và giải quyết nhiều vấn đề xã hội… Nếu như năm 2010 HTX dịch vụ nông nghiệp Đan Phượng (xã Đan Phượng- huyện Đan Phượng- Hà Nội) đạt doanh thu trên 6 tỷ đồng, tăng 31,83% so với năm 2009, thì tính đến hết tháng 6/2011, doanh thu của HTX đã đạt gần 4 tỷ đồng.  Có được thành quả ấy, là nhờ ban lãnh đạo HTX luôn năng động, mở rộng ngành nghề, tạo nhiều việc làm cho xã viên và người dân sống trên địa bàn. Là HTX hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, những năm qua, tập thể cán bộ xã viên HTX luôn có nhiều cố gắng đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước trong sản xuất, kinh doanh, phục vụ trên 3000 xã viên và người dân trên địa bàn xã. HTX dịch vụ nông nghiệp Đan Phượng được chuyển đổi theo Luật HTX từ năm 1997. Những năm qua, dù gặp nhiều khó khăn, nhưng HTX luôn hoàn thành tốt mọi kế hoạch sản xuất kinh doanh. Các khâu dịch vụ, hoạt động sản xuất kinh doanh của HTX từng bước được đổi mới và quản lý chặt chẽ theo quy định, đúng mục đích nên đạt hiệu quả cao. Năm 2010, nguồn vốn của HTX tăng 10,08%, doanh thu tăng 31,83%, lãi tăng 4% so với năm 2009.  Để tăng thêm doanh thu, tạo thêm việc làm cho xã viên và người lao động, ngoài hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, HTX còn tham gia một số hoạt động dịch vụ như vệ sinh môi trường, kinh doanh điện dân sinh, giống vật tư nông nghiệp... Trong lĩnh vực dịch vụ điện, HTX là một trong những đơn vị được ngành điện chọn tham gia dự án RE.II (năng lượng nông thôn 2), được vay vốn của Ngân hàng thế giới (WB) để đầu tư, cải tạo lưới điện hạ áp nông thôn. Nhờ đó năm 2010, toàn xã đã thay trên 90% dây bọc PVC đủ tiết diện đến từng ngõ xóm và 98% số thùng công tơ compoxit cùng các thiết bị khác đến công tơ hộ bảo đảm tiêu chuẩn theo quy định, nên tổn thất điện năng đã giảm xuống còn 10%. Xã có 5 trạm điện với tổng công suất 1.420 KVA, hiện HTX đang đầu tư sửa chữa, bổ sung các thiết bị với giá trị hơn 42 triệu đồng. Ngoài việc phục vụ điện cho người dân trên địa bàn xã, HTX còn cung cấp cho các địa bàn lân cận như Phượng Trì, thị trấn Phùng... Trao đổi với phóng viên báo Kinh tế Hợp tác Việt Nam, Chủ nhiệm HTX dịch vụ nông nghiệp Đan Phượng- ông Nguyễn Văn Thông- cho biết: Trước đây HTX gặp rất nhiều khó khăn trong sản xuất kinh doanh nông nghiệp, đời sống các xã viên thiếu thốn. Từ ngày HTX mở rộng dịch vụ đa ngành nghề, tạo việc làm cho nhiều người, đời sống các xã viên được cải thiện hơn. Không chỉ tổ chức sản xuất, kinh doanh tốt, mang lại thu nhập năm sau cao hơn năm trước cho xã viên, HTX còn quan tâm đến công tác bảo đảm vệ sinh an toàn lao động và tích cực tham gia các hoạt động xã hội của địa phương. Năm 2011 này, HTX đang thực hiện dự án "Đầu tư sản xuất rau an toàn" với tổng kinh phí trên 13 tỷ đồng, trên tổng diện tích 5ha. Dự án sẽ tạo việc làm, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, tăng thu nhập cho người lao động, khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, đáp ứng nhu cầu rau an toàn cho người tiêu dùng, tiến tới xây dựng thương hiệu "Rau an toàn xã Đan Phượng". Với đề án đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh theo Luật HTX năm 2003, hy vọng trong thời gian tới, HTX dịch vụ nông nghiệp Đan Phượng sẽ đạt được hiệu quả kinh tế cao, tạo được nhiều việc làm, tăng thu nhập, bảo đảm đời sống cho các xã viên cũng như người lao động. Thành lập năm 1989, Hợp tác xã (HTX) Dịch vụ - Nông nghiệp Bình Thành (huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp) luôn đề ra nhiệm vụ trọng tâm là hỗ trợ cho các hộ xã viên làm kinh tế. Do vậy, trải qua các thời kỳ, Ban quản trị HTX luôn đề ra những chiến lược phát triển mà ở đó, lợi ích của người xã viên được đặt lên hàng đầu.  Trong mọi hoạt động, HTX Bình Thành luôn tuân thủ và thực hiện đúng các nguyên tắc của HTX trong việc kiểm tra, kiểm soát, công khai minh bạch về tài chính; chấp hành đúng điều lệ, nội quy mà Đại hội xã viên đã thống nhất. Bởi vậy, trong mọi hoạt động của HTX, Ban quản trị luôn được các xã viên đồng tình ủng hộ, chia sẻ nhất là trong công tác thu phí tham gia dịch vụ, thu hồi nợ tín dụng nội bộ… Đổi mới trang thiết bị, công nghệ: Nhờ vậy, các xã viên của HTX Bình Thành đều tích cực xây dựng và đóng góp vào nguồn vốn tích lũy để đổi mới trang thiết bị và ứng dụng công nghệ vào sản xuất nông nghiệp. Hàng năm, HTX đã mạnh dạn đầu tư hơn 1,2 tỷ đồng từ nguồn vốn này. Hiện có 5 máy bơm được thay mới với công suất HP giúp cải tiến dàn bơm tưới phục vụ cho 37 trạm bơm liên hoàn, đảm bảo tưới tiêu cho 1.190ha sản xuất lúa 3 vụ, làm giảm được hơn 10% chi phí hàng năm cho xã viên. Cải tạo và nâng cấp 40km đê bao bờ vùng để chống lũ và tạo ra hệ thống đường giao thông nông thôn phục vụ việc đi lại sản xuất, sinh hoạt. Ngoài ra, HTX mua 34 máy biến áp mới với tổng công suất 13.035 KVA và thay mới 5km đường dây tải điện trung và hạ thế, giúp cải tiến toàn bộ thiết bị vận hành trạm bơm, đảm bảo an toàn sử dụng. Một số thiết bị được mua sắm mới như máy đào tự hành nhằm chủ động phục vụ nạo vét kênh mương; máy cắt lúa đảm bảo khâu thu hoạch đồng bộ… HTX đưa vào áp dụng mô hình trồng thí điểm giống lúa mới có năng suất và chất lượng cao thông qua việc tổ chức 45 lớp tập huấn chuyển giao công nghệ sản xuất giống cho nông hộ. Đã có hơn 600 xã viên tham dự và có đến hơn 95% hộ xã viên trong HTX đã biết tự sản xuất giống chất lượng cao, góp phần nâng cao năng suất lúa lên từ 200 - 500kg/ha, giảm giá thành đầu vào từ 600.000 - 800.000 đồng/ha và tăng giá lúa lên từ 300 - 400 đồng/kg. Phương châm hoạt động hàng đầu của HTX Bình Thành hiện nay là vừa kinh doanh vừa hỗ trợ xã viên phát triển kinh tế hộ. Trong đó, tập trung cải tiến các dịch vụ hỗ trợ nhằm cung cấp cho xã viên các dịch vụ nông nghiệp có chất lượng tốt nhất với chi phí hợp lý, góp phần nâng cao giá trị thương phẩm của nông sản hàng hóa đủ sức cạnh tranh sản phẩm cùng loại trên thị trường, giảm thiểu lao động thủ công, tăng năng suất lao động. HTX Bình Thành hiện đang quản lý và thực hiện 12 dịch vụ, thu về lợi nhuận bình quân hàng năm là từ 10 - 12% với các dịch vụ phục vụ nông nghiệp như: tưới tiêu, cung ứng phân bón, tín dụng nội bộ. Các hộ xã viên khi tham gia những chương trình này được tiếp cận kỹ thuật mới trong sản xuất, tiết giảm được giá thành, tăng năng suất, thu nhập và tận dụng được thời gian nhàn rỗi trong lao động nông nghiệp. Hiện nay, trên 90% hộ xã viên của HTX Bình Thành biết áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất, thực hiện tốt chương trình khuyến nông 4 đúng, năng suất bình quân đạt từ 16 - 18 tấn/ha/năm, trong đó lúa chất lượng cao đạt 99% trong toàn diện tích của HTX. Mục tiêu hoạt động của HTX không chỉ góp phần làm chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi hợp lý mà còn phấn đấu tăng thêm thu nhập cho hộ xã viên, từng bước góp phần hạ tỷ lệ hộ nghèo ở địa phương đến mức thấp nhất (năm 2006 - 2007 là 3%, giảm còn dưới 1% vào cuối năm 2008). Do vậy, HTX Bình Thành luôn chú trọng đến công tác giải quyết việc làm cho lực lượng nông nhàn thông qua các dịch vụ hỗ trợ và phát triển làng nghề truyền thống, tổ chức đội trồng hoa kiểng. Từ một số hộ gia đình gia công tự phát theo thời vụ, thu nhập bấp bênh, đến nay đã hình thành một làng nghề đúng nghĩa: hơn 140 hộ tham gia phục hồi nghề truyền thống với hơn 400 lao động có công ăn việc làm ổn định. Bài học cho sự phát triển Trong công tác chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn nhằm phấn đấu giảm tỷ trọng nông nghiệp, HTX đầu tư thành lập một trại giống để làm nơi thực nghiệm áp dụng kiến thức khoa học kỹ thuật vào chăn nuôi trước khi chuyển giao con giống cho xã viên. Tính chung trong 3 năm qua đã có hơn 200 hộ nhận con giống từ HTX cung cấp với mức thu nhập bình quân từ 2.000.000 - 4.000.000 đồng. Trong công tác giữ gìn vệ sinh môi trường, HTX đẩy mạnh công tác phòng trừ sâu bệnh trong trồng trọt và xây dựng hầm ủ phân Bioga kiên cố trong chăn nuôi, góp phần giải quyết tốt môi trường và tận dụng được khí đốt góp phần làm tăng kinh tế thu nhập gia đình... Trải qua gần 20 năm xây dựng và phát triển, HTX Bình Thành đã từng bước đi lên và trưởng thành, ngay cả trong khó khăn của thời kỳ đổi mới của nền kinh tế thị trường. Sự phát triển vững mạnh ấy được xuất phát từ tinh thần đoàn kết, gắn bó trong nội bộ Đảng ủy, Ban chủ nhiệm và các xã viên. Các cán bộ, xã viên trong HTX luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, dám nghĩ dám làm để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ qua từng thời kỳ. Trong những năm tới, HTX chú trọng tăng cường công tác lãnh đạo, quản lý điều hành như là một nhiệm vụ trọng tâm. Trong định hướng phát triển nông nghiệp, HTX Bình Thành vẫn tiếp tục theo chiến lược phát triển đa ngành nghề, tiếp tục cải tiến kỹ thuật, ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất, đáp ứng thị trường nội địa và xuất khẩu. Có kế hoạch chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi hợp lý làm tăng thu nhập cho xã viên, giải quyết tốt việc làm cho người lao động. Ngoài ra, HTX chú trọng hơn đến các chế độ xã hội cho xã viên như bảo hiểm xã hội, ưu tiên cho các gia đình chính sách, hộ nghèo; có kế hoạch dành một phần quỹ đào tạo, khuyến học, cấp học bổng toàn phần cho con em hộ xã viên nghèo hiếu học, học giỏi. 2.2 Các lĩnh vực dịch vụ chủ yếu ở nông thôn. - Lĩnh vực dịch vụ thương mại: Lĩnh vực thương mại và dịch vụ nói chung bao gồm những lĩnh vực hết sức nhạy cảm và có vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế. Việc đẩy mạnh và mở cửa về lĩnh vực này cần được xem xét một cách toàn diện để có thể xác định và tiến hành những bước đi và giải pháp phù hợp. Nhằm một mặt góp phần cùng thành phố và cả nước thực hiện thành công tiến trình mở cửa, mặt khác cùng góp phần đảm bảo giữ vững độc lập dân tộc, định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Hoạt động của thương mại và dịch vụ có vị trí, vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta: Thương mại và dịch vụ góp phần thúc đẩy sản xuất, lưu thông, phân phối hàng hóa, thúc đẩy thương mại hàng hóa phát triển trong phạm vi quốc gia cũng như quốc tế. Thật vậy, dịch vụ - thương mại chính là cầu nối giữa các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” trong quá trình sản xuất hàng hóa, tiêu thụ sản phẩm. Buôn bán quốc tế, đặc biệt là buôn bán hàng hóa sẽ lưu hành như thế nào nếu không có dịch vụ vận tải? Dịch vụ thanh toán? Chính sự ra đời và phát triển của dịch vụ vận tải như vận tải đường bộ, đường không, đường biển đã góp phần khắc phục được trở ngại về địa lý, đẩy nhanh tốc độ lưu thông hàng hóa, thúc đẩy nhu cầu mua bán, trao đổi hàng hóa từ Quốc gia này đến quốc gia khác, từ khu vực này đến khu vực địa lý khác... Các dịch vụ ngân hàng cũng cho phép khâu thanh toán được diễn ra một cách có hiệu quả, giúp cả hai bên xuất khẩu và nhập khẩu đạt được mục đích trong quan hệ buôn bán. Các dịch vụ viễn thông, thông tin cũng có vai trò hỗ trợ cho các hoạt động thương mại trong việc kích cầu, rút ngắn thời gian ra quyết định mua hàng của người tiêu dùng. Các dịch vụ như dịch vụ đại lý, buôn bán, bán lẻ giữ vai trò trung gian kết nối giữa người sản xuất với người tiêu dùng; đồng thời góp phần đẩy nhanh quá trình tiêu thụ hàng hóa, rút ngắn thời gian hàng hóa lưu thông, giúp các nhà sản xuất nhanh chóng thu hồi vốn để đầu tư tái sản xuất. Như vậy, dịch vụ có ảnh hưởng mạnh mẽ tới các hoạt động thương mại hàng hóa. Thương mại và dịch vụ tạo điều kiện để thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển. Thông qua hoạt động dịch vụ - thương mại trên thị trường, các chủ thể kinh doanh mua bán được sản phẩm, góp phần tạo ra quá trình tái sản xuất được tiến hành liên tục và như vậy các dịch vụ sẽ lưu thông, các dịch vụ được thông suốt. Có thể nói, nếu không có dịch vụ - thương mại thì sản xuất hàng hóa khó có thể phát triển được. Trong quá trình CNH - HĐH đất nước, thương mại và dịch vụ đã trở thành yếu tố quan trọng trong quá trình sản xuất là bởi vì nhu cầu về dịch vụ xuất phát từ chính các nhà sản xuất khi họ nhận thấy rằng, để có thể tồn tại trong sự cạnh tranh khốc liệt ở cả thị trường nội địa và thị trường nước ngoài, phải đưa nhiều hơn các yếu tố dịch vụ vào trong quá trình sản xuất để hạ giá thành và nâng cao chất lượng như dịch vụ khoa học công nghệ. Hiện nay, sự phát triển thương mại và dịch vụ phản ánh trình độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Người ta thấy rằng, trình độ phát triển kinh tế của một nước càng cao thì tỷ trọng của dịch vụ - thương mại trong cơ cấu ngành kinh tế nước đó càng lớn. Dịch vụ phát triển sẽ thúc đẩy phân công lao động xã hội và chuyên môn hóa, tạo điều kiện cho lĩnh vực sản xuất khác phát triển. Thông qua mua bán hàng hóa, dịch vụ trên thị trường, khả năng tiêu dùng, nâng cao mức tiêu thụ và hưởng thụ của cá nhân và doanh nghiệp cũng tăng lên góp phần thúc đẩy sản xuất, mở rộng thị trường lao động và phân công lao động trong xã hội.Trong xu thế hội nhập quốc tế, thị trường trong nước sẽ liên hệ chặt chẽ với thị trường nước ngoài thong qua hoạt động ngoại thương, điều này nếu dịch vụ và thương mại phát triển mạnh mẽ, phong phú, đa dạng chắc chắn sẽ mở rộng được thị trường thu hút các yếu tố đầu vào, đầu ra của thị trường. - Dịch vụ ngân hàng và tín dụng. Mạng lưới ngân hàng và các tổ chức tín dụng mấy năm gần đây phát triển mạnh mẽ, các cơ sở giao dịch của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn rộng khắp trên tất cả các huyện của các tỉnh trong cả nước. Hoạt động của các ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn hết công suất và rất có hiệu quả. Theo báo cáo của các ngân hàng này thì mỗi năm họ đều vượt chỉ tiêu đặt ra từ 5-7%. Doanh thu của ngân hàng đáng kể, đồng thời dịch vụ này đã đáp ứng được một lượng vốn lớn cung cấp, tạo điều kiện cho nhiều hộ nông dân phát triển kinh tế nông thôn. Bên cạnh đó các tổ chức tín dụng đi vào hoạt động khá hiệu quả, các tổ chức này có nhiều hình thức vay vốn phù hợp với điều kiện khó khăn về tài sản, tài chính của một số người dân. - Dịch vụ kỹ thuật nông nghiệp: Hệ thống dịch vụ kỹ thuật nông nghiệp được áp dụng rất hiệu quả, đáp ứng được phần thiếu kiến thức về kỹ thuật, công nghệ trong nông nghiệp, góp phần thúc đẩy tăng năng suất, sản lượng cho các lĩnh vực nông nghiệp. - Dịch vụ vận tải và các loại dịch vụ khác cũng đã phát huy mọi khả năng sẵn có của các vùng, địa phương. Việc thực hiện các dịch vụ này đã góp phần không nhỏ vào tiến trình phát triển nông thôn. Ngoài ra còn nhiều loại dịch vụ cũng có tác động không nhỏ tới phát triển nông thôn như: tiêu thụ sản phẩm, phục vụ đời sống sản xuất của người dân; cung cấp năng lượng, nhiên liệu cấp thoát nước; dịch vụ thông tin liên lạc, quảng cáo, tuyên truyền tư vấn, bảo dưỡng máy móc thiết bị; giáo dục y tế; dịch vụ khách sạn du lịch, văn hóa giải trí... 2.3 Thực trạng hoạt động của các loại hình dịch vụ nông thôn: Kết quả, những năm gần đây chính phủ Việt Nam rất quan tâm phát triển dịch vụ ở nông thôn nhằm đáp ứng đầy đủ những điều kiện cần thiết cho phát triển kinh tế xã hội nông thôn. Các hoạt động dịch vụ thu hút khoảng 14% việc làm ở nông thôn, 11,2% số hộ làm dịch vụ, tỷ trọng GDP từ hoạt động dịch vụ nông thôn chiếm 13,8% trong cơ cấu kinh tế nông thôn đã góp phần làm giảm đáng kể tính thuần nông trong kinh tế nông thôn . các loại hình dịch vụ của khu vực kinh tế nhà nước, hợp tác xã và tư nhân cùng song song phát triển đáp ứng các yếu tố đầu vào cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của nhân dân. Cung cấp hàng hóa và các điều kiện ăn, ở, đi lại, học hành, khám chữa bệnh, văn hóa, tinh thần cho người dân và đáp ứng du khách trong và ngoài nước về du lịch giải trí…ở nông thôn Việt Nam. Một số loại hình dịch vụ được nhà nước trợ giá hoặc ưu đãi cho người dân nông thôn như trợ giá vật tư nông nghiệp khi giá thị trường lên cao, giảm giá điện phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, hỗ trợ kinh phí cho hoạt động khuyến nông, cấp không cho đồng bào dân tộc thiểu số vùng cao thuốc chữa bệnh, dầu đốt, sách giáo khoa phổ thông, muối ăn…. Tuy nhiên theo đánh giá chung tính đồng bộ còn thấp mối quan hệ giữa các tổ chức đơn vị trong hệ thống vẫn còn nhiều bất cập nhất là lợi ích kinh tế xã hội của từng hoạt động dịch vụ cũng như tổ chức. Hệ thống dịch vụ: Tạo ra một hệ thống từ trung ương tới cơ sở với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế trong hệ thống, có những loại hình dịch vụ đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người dân. Các loại hình dịch vụ trong phát triển kinh tế xã hội ở nước ta hiện nay: - Tiêu thụ sản phẩm, bán hàng hóa phục vụ sản xuất và đời sống , xuất nhập khẩu hàng hóa: Dịch vụ tiêu thụ sản phẩm bán hàng hóa phục vụ sản xuất đời sống ở nông thôn nước ta ngày càng đa dạng và phong phú. Như hoạt động dịch vụ tiêu thụ cho các mặt hàng sản phẩm công nghiệp như hàng thiết yếu. ngoài ra còn các sản phẩm thường ngày phục vụ cho đời sống người dân như: áo quần, giày dép, đồ dùng cần thiết…hay những dịch vụ phục vụ sản xuất nông nghiệp ở nông thôn như dịch vụ phân bón, giống cây trồng, thuốc bảo vệ thực vật, thức ăn gia súc gia cầm… Theo thống kê của Trung tâm Nghiên cứu và Hỗ trợ doanh nghiệp (BSA), thị trường nông thôn Việt Nam (tỉnh lẻ và các vùng nông thôn gọi chung là thị trường nông thôn) đang chiếm 70% lượng tiêu thụ hàng hóa nói chung, số hộ gia đình và số lượng các cửa hàng bán lẻ cũng phân bổ tập trung ở vùng nông thôn với 70%. Tuy nhiên, trên thực tế, hệ thống bán hàng của doanh nghiệp Việt Nam hiện vẫn chưa bao kín và hoạt động có hiệu quả ở thị trường này. Cả nước hiện có hơn 400 siêu thị, trung tâm thương mại thì hầu hết tập trung tại các thành phố, thị xã. Ngay cả một số mặt hàng thiết yếu như muối, dầu hỏa… đôi khi cũng là hàng hiếm với bà con một số nơi ở vùng sâu, vùng xa và dù có tới hơn 8.000 chợ các loại nhưng không phải tất cả người dân nông thôn đều dễ tiếp cận với các mặt hàng nhu yếu phẩm với giá hợp lý nhất.   Thực tế tại nông thôn cho thấy cần xóa bỏ quan niệm thị trường nông thôn chỉ dành cho các sản phẩm rẻ tiền và mãi lực yếu. Theo một Nghiên cứu mới đây của Công ty Nghiên cứu thị trường TNS thì có tới 95% gia đình nông thôn được hỏi cho biết sẵn sàng mua tivi, 92% có thể mua bếp điện hoặc gas, 33% có thể mua máy cassette/radio, 30% muốn mua tủ lạnh, máy giặt và 9% muốn mua máy vi tính… Các con số thống kê riêng lẻ cũng cho thấy, hiện số người có thu nhập trên 1,5 triệu đồng/tháng ở nông thôn ngày càng tăng, do đó nhu cầu mua sắm thực phẩm, nhu yếu phẩm cũng tăng theo.   Tiềm năng của thị trường nông thôn là rất lớn, cần được khai thác đúng mức nhưng có thể nói chưa có doanh nghiệp nội địa nào thực sự làm chủ được thị trường này, trở thành thương hiệu sáng giá, giữ ưu thế tuyệt đối trên thị trường nông thôn. Theo bà Vũ Kim Hạnh - Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Hỗ trợ doanh nghiệp (BSA): Đối với doanh nghiệp đang hoạt động ở Việt Nam, được xem là thành công nhất trong khai thác thị trường nông thôn thì chỉ có khoảng 10-15 doanh nghiệp, chủ yếu là các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh hàng tiêu dùng nhanh như: Unilever, P&G, ICP, Pepsico VN, Coca Cola VN, Tân Hiệp Phát, Vinamilk, Kinh Đô, Mỹ Hảo, Vina Acecook… với doanh số bán lẻ tại đây cũng chỉ chiếm khoảng 20-25% tổng doanh số của công ty. Còn lại đa số là hàng Việt địa phương, hàng Trung Quốc, không nhãn mác.   Ngoài việc tập trung vào xuất khẩu và cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài tại các thành phố lớn, trung tâm công nghiệp, tỉnh lỵ thì một nguyên nhân khác khiến các doanh nghiệp ít bán hàng về nông thôn là vì sợ lỗ. Nhiều doanh nghiệp vẫn có quan niệm nông dân là đối tượng có thu nhập thấp nên nhu cầu tiêu thụ hàng hoá chưa nhiều, chưa cao. Để đáp ứng nhu cầu của người nông dân, phải có các mặt hàng giá tương đối “mềm”. Trong khi đó, nguyên liệu để sản xuất hàng dù nhập ngoại hay trong nước đều có giá thành cao. Nếu đưa hàng về bán ở nông thôn, doanh nghiệp cầm chắc sẽ lỗ.  Theo nhiều doanh nghiệp một khó khăn khác cản trở đưa hàng về nông thôn là địa bàn nông thôn trải rộng, khoảng cách giữa các khu dân cư xa xôi, sức mua yếu, trong khi thị hiếu mua hàng ở nông thôn tương đối khác với ở đô thị. Thêm vào đó, chi phí để thiết lập, duy trì mạng lưới phân phối khá lớn... Những trở ngại trên dẫn đến phần lớn doanh nghiệp nhỏ và vừa có tâm lý ngại đưa hàng về nông thôn, nhất là trong bối cảnh hiện nay, khi chi phí đầu vào tăng cao do giá xăng dầu, điện... đều tăng.  Tuy nhiên, điều không thể phủ nhận là trên phương diện tiếp thị, các doanh nghiệp thiếu đầu tư trong nghiên cứu thị trường, thiếu am hiểu người tiêu dùng nông thôn, chưa xây dựng được mối liên hệ tin cậy với khách hàng của mình. Ví dụ, người tiêu dùng nông thôn có mức độ tin và xem quảng cáo tivi khá cao nhưng chiếm tuyệt đối đa số quảng cáo trên tivi hiện nay là nhãn hiệu nước ngoài. Ngược lại, sản phẩm nội địa có giá hợp túi tiền người tiêu dùng thì không được quảng cáo. Các doanh nghiệp cũng chưa đầu tư đồng bộ, lâu dài về dịch vụ hậu mãi, bảo trì, sửa chữa bên cạnh khâu bán hàng ở thị trường nông thôn. Do vậy, người tiêu dùng ở đây rất bất tiện trong quá trình sử dụng sản phẩm, nhất là sản phẩm công nghệ cao như máy vi tính, máy giặt... Người tiêu dùng nông thôn không mặn mà với hàng hóa nội địa còn vì một nguyên nhân rất đáng phê phán khác là nhiều doanh nghiệp đã đem về đây sản phẩm tồn kho, hàng lỗi, cận date, quá date... về nông thôn. Hơn thế, lợi dụng khoảng cách về thông tin và nhận thức, nhiều doanh nghiệp làm ăn cẩu thả, gian dối, đã biến khách hàng nông thôn thành đối tượng lừa mị của mình…    Hiện nay, ở nước ta, dịch vụ này ở nước ta chủ yếu là các doanh nghiệp triển khai nhằm quảng bá thương hiệu, kích cầu tiêu dùng. Nhằm kích cầu cho người tiêu dùng, các doanh nghiệp không chỉ đưa hàng về tiêu thụ tại thị trường nông thôn mà còn tổ chức các hoạt động khuyến mại nhằm quảng bá sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ, thu hút và khuyến khích người tiêu dùng sử dụng hàng Việt Nam. Chẳng hạn Tổng công ty Thương mại Hà Nội có chương trình giảm giá 10% cho một số mặt hàng thực phẩm chế biến; tặng quà cho mỗi hóa đơn thanh toán trị giá từ 50.000 đ trở lên…Nhằm khuyến khích doanh nghiệp tăng cường đưa hàng về nông thôn, Sở Công thương đã có văn bản đề nghị UBNDTP có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp. Theo đo, thành phố sẽ hỗ trợ doanh nghiệp một phần kinh phí vận chuyển hàng hóa với mức 500.000 đ/xe. Hỗ trợ kinh phí trong việc xây dựng điểm bán hàng cũng như kinh phí tuyên truyền, quảng bá, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp đưa về nông thôn. Đảm bảo an ninh trật tự an toàn tiền hàng và con người trong quá trình kinh doanh lưu động. - Cung cấp năng lượng, nhiên liệu cấp thoát nước : Theo đánh giá tại đề án, hiện nay tất cả các ngành dịch vụ phục vụ nông nghiệp nông thôn như cơ khí, hóa chất, năng lượng, dệt may, da giầy, chế biến nông lâm sản thực phẩm, sản xuất vật liệu xây dựng, … đều chưa đáp ứng được nhu cầu trong nước. Sức cạnh tranh của mặt hàng nông sản chế biến còn thấp, việc chuyển dịch cơ cấu và đổi mới cách thức sản xuất còn chậm, phổ biến vẫn là sản xuất nhỏ. Khu vực công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn chưa tạo ra nhiều cơ hội việc làm để thu hút lao động dư thừa từ nông nghiệp. Kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội nông thôn đã được tăng cường nhưng vẫn còn yếu kém, năng lực thích ứng, đối phó với thiên tai thấp, tỷ lệ hộ nghèo còn cao. Cụ thể, với ngành cơ khí sẽ tập trung đầu tư, hỗ trợ xây dựng, nâng cấp các cơ sở chuyên ngành chế tạo máy nông nghiệp, lựa chọn một số nhóm sản phẩm ưu tiên để hỗ trợ phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước, từng bước xuất khẩu. đáp ứng nhu cầu trong nước tiến tới xuất khẩu. Những nhóm có tiềm năng tiêu thụ lớn sẽ có chính sách tiếp nhận chuyển giao công nghệ nước ngoài để thiết kế, chế tạo trong nước. Có chính sách kích cầu cho các sản phẩm dịch vụ công nghiệp, nông nghiệp nông thôn. Dịch vụ năng lượng điện được đưa đến tận các thôn, xóm bản, vùng sâu xa…ngày nay, điện thắp sáng đã đến với từng nhà, điện trong sinh hoạt, trong sản xuất tưới tiêu cho nông nghiệp, công nghiệp nông thôn. Việc cung cấp nước cho sản xuất nông nghiệp như tưới tiêu đáp ứng đầy đủ tiêu chí đầu vào cho sản xuất nông nghiệp, góp phần phát triển nông thôn. Trong sản xuất công nghiệp ở nông thôn, việc cung cấp năng lượng điện rất cần thiết. Hiện nay, ngành điện hoạt động chuyên nghiệp hơn, trong thời gian qua, hoạt động của các HTX kinh doanh và dịch vụ điện nông thôn đã góp phần không nhỏ trong việc quản lý, cung cấp điện và giải quyết việc làm cho một bộ phận dân cư. Song, hiện tại, phần lớn lưới điện ở đây đã bị xuống cấp nghiêm trọng, trong khi đó, vốn đầu tư của HTX lại bị thiếu nên ảnh hưởng rất lớn đến việc cung cấp điện cho nhân dân. Vì vậy, để chủ trương của Chính phủ sớm đi vào cuộc sống thì hiện tại, ngoài sự nỗ lực của ngành Điện, còn rất cần sự đồng thuận và hỗ trợ tích cực từ các cấp chính quyền địa phương cũng như người dân, và nhất là bản thân các HTX. Do đó dịch vụ cung cấp năng lượng nhiên liệu, cấp thoát nước hiện nay đã phần nào đáp ứng được nhu cầu về sản xuất cũng như tiêu dùng của người dân. Hạn chế ở đây chỉ là chưa đưa vào được những vùng sâu, vùng xa. - Giao thông vận tải, thuê mướn tài sản: Hiện nay dịch vụ về giao thông vận tải, thuê mướn tài sản rất đa dạng và phong phú, dịch vụ này đáp ứng tương đối một lượng lao động đang thiếu vốn để mở rộng sản xuất hoặc thiếu vốn để đầu tư mua tài sản, phương tiện vận chuyển với nhiều hình thức như: dịch vụ vận tải hành khách công cộng thuận lợi từ trung tâm huyện về các trung tâm xã, tạo điều kiện đi lại thuận tiện cho người nông dân sống ở khu vực nông thôn, góp phần giảm phương tiện cơ giới cá nhân. Về giao thông làm đường giao thông nông thôn ở nước ta được các UBND tỉnh, huyện, xã và nhân dân quan tâm. Việc bê tông hóa đường sá kênh mương trên địa bàn nông thôn cả nước đã triển khai hầu hết. Nhiều gia đình tự nguyện hiến đất để mở rộng mặt đường liên thôn, liên xã. Nhờ hệ thống giao thông nông thôn, kinh tế giữa các vùng trong tỉnh phát triển đồng đều, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện. Tuy nhiên nhiều xã có đường rất nhỏ, chật hẹp, việc đi lại khó khăn. Ví dụ về phát triển giao thông nông thôn ở tỉnh Ninh Bình: Chủ tịch UBND tỉnh Ninh Bình Bùi Văn Thắng, Phó Trưởng ban chỉ đạo xây dựng nông thôn mới ở Ninh Bình, khẳng định: "Chúng tôi xác định GTNT chính là động lực để phát triển sản xuất, là nền tảng quan trọng xây dựng nông thôn mới". Tỉnh có hơn 900 km đường liên xã, trục xã với nền đường rộng từ năm đến sáu mét, mặt đường rộng từ ba đến năm mét. Từ nhiều nguồn vốn của Trung ương, tỉnh, huyện và nhân dân, Ninh Bình đã cứng hóa mặt đường hơn 827 km, trong đó, mặt đường bê-tông và trải nhựa là 484 km. Ngoài ra, toàn tỉnh có gần 1.300 km đường trục thôn, xóm với nền đường rộng từ 3 - 5m, mặt đường rộng 2,5 - 3 m được cứng hóa bằng bê-tông và trải nhựa gần 800 km. Liên tục từ năm 2001 đến nay, tổng nguồn kinh phí đầu tư cho hệ thống GTNT ở Ninh Bình đạt hơn 1.400 tỉ đồng. Trong đó, nguồn vốn Trung ương cấp gần 700 tỉ đồng, ngân sách tỉnh 105 tỉ đồng, số còn lại do nhân dân và các doanh nghiệp đóng góp. Tuy nhiên, hệ thống GTNT ở Ninh Bình còn bộc lộ nhiều bất cập, đó là mặt đường chưa bảo đảm tiêu chuẩn kỹ thuật do Bộ Giao thông vận tải đề ra, mặt đường hẹp không đáp ứng nhu cầu sử dụng cơ giới hóa nông nghiệp và vận chuyển hàng hóa giữa các vùng ở khu vực nông thôn. Một số huyện lựa chọn phương án đầu tư chưa thích hợp, có nơi quá vững chắc, lại có chỗ quá giản đơn, xây dựng đường, cống một cách ồ ạt trong thời gian ngắn, khiến chất lượng không bảo đảm. Có nơi xã chỉ đạo chậm chưa nắm bắt kịp phong trào làm GTNT cho nên bỏ lỡ thời cơ. Cũng có xã làm quá nhiều đoạn đường trong khi khả năng kinh phí có hạn, dẫn tới tình trạng nợ đọng kéo dài. Không ít đoạn đường chỉ đạt tiêu chuẩn GTNT loại B cho nên phần lớn tuyến đường liên xã vừa làm xong đã xuất hiện biển báo "cấm xe tải trọng lớn" hoặc có ba-ri-e chắn đường, làm hạn chế lưu thông giữa các vùng. Bên cạnh đó, kinh phí đầu tư cho duy tu, bảo dưỡng đường GTNT chưa có cho nên chỉ sử dụng nhân công vào việc phát cây, thoát nước mặt đường, khơi thông cống rãnh là chủ yếu. Thiếu kinh phí đầu tư cho việc mua vật tư gồm xi-măng, nhựa đường để vá ổ gà, xây lát lại đường cũ, nhiều xe có tải trọng lớn đi vào, càng ngày đường càng xuống cấp. Giám đốc Sở Giao thông vận tải Ninh Bình Nguyễn Ngọc Thạch chia sẻ: "Mặc dù khó khăn, Ninh Bình cũng đề ra chỉ tiêu đến năm 2015 có 37 xã (tương đương với 35% số xã trong tỉnh) đạt tiêu chuẩn nông thôn mới về giao thông nông thôn theo cấp kỹ thuật của Bộ Giao thông vận tải. - Thông tin, liên lạc, tuyên truyền, quảng cáo, tư vấn: Thông tin, liên lạc, tuyên truyền,quảng cáo hay tư vấn rất cần ở nông thôn. Như chúng ta đã biết thì ở nông thôn dân đa số dân số làm nông nghiệp, nên dịch vụ tư vấn cho người dân về các kiến thức về dịch vụ nông nghiệp, sản xuất nông nghiệp, giống mới, các phương pháp kỹ thuật gieo trồng hay chăn nuôi là rất cần thiết. Ví dụ về hướng dẫn kỹ thuật trong nông nghiệp: Theo Cục Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và PTNT), do nhu cầu lớn nên lượng thuốc bảo vệ thực vật nhập khẩu vào nước ta tăng nhanh. Nếu như năm 2008, giá trị nhập khẩu ước đạt 472 triệu USD thì năm 2010 tăng lên 537 triệu USD; riêng 7 tháng đầu năm 2011, con số này đạt ngưỡng 386 triệu USD, tăng 25,1% so với cùng kỳ năm ngoái. Trên thị trường hiện có 3.008 tên thương mại các sản phẩm thuốc bảo vệ thực vật đã được đăng ký (trong đó thuốc trừ cỏ có 450 loại, thuốc trừ sâu 930 loại, thuốc trị bệnh thực vật 661 loại), tăng gấp 3 lần so với cách đây 10 năm. Từ chỗ chỉ có 4-5 hoạt chất và hỗn hợp hoạt chất được đăng ký từ năm 1996 thì đến năm 2011, Việt Nam đã có 800 hoạt chất và các hỗn hợp hoạt chất được đăng ký nhập khẩu. Con số này vượt xa số lượng các hoạt chất được đăng ký sử dụng tại Trung Quốc, nơi cung cấp hơn 90% lượng thuốc cho Việt Nam, hiện mới có 630 hoạt chất được đăng ký sử dụng.   Điều đáng nói là việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật không đúng cách sẽ gây nguy hại tới môi trường và ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người sản xuất. Xét ở góc độ ý thức người dân, những con số mà Cục Bảo vệ thực vật cung cấp khiến chúng ta lo ngại hơn về mức độ an toàn trên đồng ruộng và trên từng sản phẩm. Có đến 81,4% số người mua thuốc để ngay trong nhà, 16% để ngoài vườn và 7% để trong... chuồng lợn; 94% số hộ sử dụng thuốc không có hướng dẫn; chỉ có 20% hiểu biết về tính chất độc hại của thuốc; 70% số người pha chế và sử dụng thuốc không theo hướng dẫn; 50% dùng tay pha chế thuốc... Ở các nước có nền nông nghiệp phát triển, mỗi ngành nghề đều có hiệp hội, người nông dân khi muốn nuôi hay trồng con gì, cây gì đều có hiệp hội giúp đỡ định hướng nên trồng cây gì và nuôi con gì? đầu ra ra sao? Còn ở Việt Nam ta hiện chưa được như thế, mỗi người nông dân Việt Nam khi quyết định chọn nuôi con gì hay trồng cây gì? chủ yếu là chạy theo phong trào và thị trường hiện tại, cái gì có giá cao là nuôi và trồng. Điều này rất dễ dẫn đến thất bại nhất là đối với những người mới tham gia. Nông dân Việt Nam giống như người đi trong đêm tối mà không có người hướng đạo, tự phán đoán và định hướng để không đi sai đường, ai phán đoán và định hướng tốt sẽ có cơ hội thành công cao hơn. - Ngân hàng, tài chính, tín dụng. Ở nông thôn, dịch vụ ngân hàng tài chính, tín dụng ngày nay đang phát triển rất mạnh, do xu thế của đất nước và sự phát triển của nhân loại nên người dân ở nông thôn có ý thức làm giàu và thoát khỏi đói nghèo rất lớn. Muốn làm giàu hay thoát nghèo thì phải có phương pháp làm ăn và vốn. Thiếu vốn để mở rộng sản xuất, đầu tư vào các hoạt động sản xuất, hoạt động kiếm tiền của người dân nông thôn là phổ biến. Do yêu cầu đó nên ngân hàng ở nông thôn phát triển khá mạnh trong những năm gần đây. Đặc biệt là hệ thống ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn. Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp hình thành trên cơ sở tiếp nhận từ Ngân hàng Nhà nước: tất cả các chi nhánh Ngân hàng Nhà nước huyện, Phòng Tín dụng Nông nghiệp, quỹ tiết kiệm tại các chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố. Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp TW được hình thành trên cơ sở tiếp nhận Vụ Tín dụng Nông nghiệp Ngân hàng Nhà nước và một số cán bộ của Vụ Tín dụng Thương nghiệp, Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng, Vụ Kế toán và một số đơn vị. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn hoạt động theo mô hình Tổng công ty 90, là doanh nghiệp Nhà nước hạng đặc biệt, hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng và chịu sự quản lý trực tiếp của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Với tên gọi mới, ngoài chức năng của một ngân hàng thương mại, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn được xác định thêm nhiệm vụ đầu tư phát triển đối với khu vực nông thôn thông qua việc mở rộng đầu tư vốn trung, dài hạn để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy hải sản góp phần thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.  - Bảo dưỡng, sửa chữa máy móc, thiết bị. Dịch vụ sửa chữa máy móc trang thiết bị ở nông thôn không phát triển mạnh như ở thành thị, nhưng mấy năm gần đây dịch vụ này ở nông thôn đã thay đổi rất nhiều. Do chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn cũng như tiến trình hội nhập kinh tế của nước nhà mà dịch vụ này ở nông thôn cũng đã có nhiều tiến bộ hơn những năm trước. Các cửa hàng sửa chữa máy móc cũng mọc lên khắp những nẻo đường nông thôn, dịch vụ sửa chữa bảo dưỡng thiết bị máy móc sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, máy cắt cỏ, máy gặt đập liên hợp, máy xay xát, máy cày, máy bơm nước…ngoài ra còn bảo dưỡng sửa chữa máy móc thiết bị của các ngành nghề công nghiệp nhẹ, tiểu thủ công nghiệp. Muốn nâng cao năng suất cũng như chất lượng sản phẩm cần đẩy mạnh cơ khí hóa nông nghiệp, nhất là trong trồng trọt. Bản thân người nông dân phải chủ động nhưng trước hết các ngành, các cấp, nhất là cơ quan nhà nước và các doanh nghiệp xuất khẩu phải đi đầu trong công cuộc cơ giới hóa này. Do đó, việc cơ khí hóa sản xuất nông nghiệp, cần chú ý ở tầm vĩ mô, Nhà nước phải có chính sách thúc đẩy phát triển sản xuất các phương tiện, máy móc phục vụ nông nghiệp. Đó là Nhà nước tài trợ các phát minh, sáng chế, hỗ trợ vốn, ưu đãi thuế cho các doanh nghiệp sản xuất máy móc dùng trong nông nghiệp… Nhà nước quy hoạch cụ thể, khoa học để tập trung tăng quy mô sản xuất từng loại nông sản ở mỗi địa phương với tính cạnh tranh và lợi thế so sánh cao nhất. Ngoài việc xác định rõ vùng nào nên tập trung trồng loại cây gì, quy mô ra sao, cần thúc đẩy công tác “dồn điền đổi thửa”, tích tụ ruộng đất để giảm dần sự manh mún trong quy mô sản xuất, từ đó áp dụng các phương tiện cơ khí một cách thuận lợi hơn. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần có nhiều ưu đãi hơn để nông dân có thể mua sắm được máy móc, phương tiện phục vụ nông nghiệp, được sử dụng các phương tiện cơ khí trong sản xuất, vận chuyển, bảo quản, chế biến. Các biện pháp trợ giúp nông dân gồm cho vay vốn lãi suất thấp, tặng máy móc cho nông dân sản xuất giỏi hoặc có sáng kiến tăng năng suất, đầu tư các cơ sở phơi sấy, điểm dự trữ, trạm bơm phục vụ tưới tiêu, cơ sở sơ chế… Bên cạnh đó, cần thành lập các hợp tác xã cơ khí nông nghiệp, các cơ quan chức năng cử cán bộ hướng dẫn, thành lập các trung tâm phân phối, bảo trì máy móc, thiết bị… để hướng dẫn nông dân sử dụng phương tiện, máy móc có hiệu quả. Các doanh nghiệp xuất khẩu cần hợp tác chặt chẽ với nông dân để giúp người trồng lúa có thêm điều kiện trang bị thiết bị, máy móc phục vụ sản xuất. Cụ thể doanh nghiệp có thể ứng trước bằng vốn hoặc máy móc cho nông dân hoặc các hợp tác xã trồng lúa, sau đó nông dân trả bằng lúa (theo giá cả thị trường) để đôi bên cùng có lợi… Về phía nhà khoa học, cần đẩy mạnh nghiên cứu để sản xuất các phương tiện, máy móc phù hợp với điều kiện đồng ruộng, tập quán sản xuất của nông dân và tình hình thu nhập của người dân. Trên thực tế, nếu đẩy mạnh cơ khí hóa ở nông thôn, nhất là với khu vực trồng lúa, sẽ góp phần giải quyết nhiều việc làm phi nông nghiệp ngay tại nông thôn, như lái máy cày, máy kéo, mua bán, sửa chữa máy móc cùng nhiều dịch vụ khác, góp phần giúp nông dân nâng cao đời sống. - Giáo dục, đào tạo, khám chữa bệnh, khoa học kỹ thuật và các dịch vụ xã hội khác. Giáo dục đào tạo, y tế ở nông thôn phát triển rất mạnh mẽ. Rất nhiều địa phương nông thôn có truyền thống giáo dục chất lượng, số lượng học sinh giỏi của các trường tiểu học và trung học cơ sở là rất lớn, số lượng vào đại học của các trường trung học phổ thông khá cao. Những năm gần đây, số lượng học sinh ở nông thôn đi học là rất lớn. lượng mù chữ đã giảm hẳn so với những năm trước. Tuy nhiên, trong giáo dục ở vùng sâu thì còn nhiều bất cập. Giáo dục được xác định là quốc sách hàng đầu nên thời gian qua Nhà nước đã dành rất nhiều công sức, tiền của ưu tiên đầu tư nâng cao chất lượng sự nghiệp trồng người. Đời sống giáo viên được cải thiện, lương giáo viên hiện nay cao gấp 1,5 lần lương nhân viên kỹ thuật có trình độ tương đương. Ngoài ra, giáo viên đang công tác tại các vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn ngoài lương còn được hưởng thêm nhiều khoản ưu đãi khác. Do đó lương một giáo viên tiểu học mới ra trường (trình độ trung cấp) tuy nằm ở hệ số khởi điểm 1,57 nhưng nếu nhận nhiệm sở ở các vùng còn khó khăn sẽ có thu nhập thực tế hằng tháng cao hơn trưởng phòng giáo dục (Theo qui định người giữ chức vụ này phải có trình độ ít nhất là đại học) Sở dĩ nhắc nhiều về tiền lương như vậy không ngoài mục đích nhấn mạnh rằng toàn xã hội đã tôn vinh, đánh giá cao công việc của những người đang trực tiếp đứng trên bục giảng, tạo điều kiện cho họ sống một cách thanh thản để dốc toàn tâm toàn ý trong công tác chuyên môn. Thế nhưng tại sao hiện nay chất lượng giáo dục vẫn chưa có dấu hiệu khả quan? Một thực tế tồn tại cần được nhìn nhận và đánh giá đúng để tìm biện pháp khắc phục là chất lượng học sinh không đồng đều. Giữa học sinh thành thị và học sinh nông thôn cùng cấp lớp vẫn còn khoảng cách khá xa về kiến thức. Sự chênh lệch ấy bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân nhưng, theo tôi, không thể phủ nhận trách nhiệm của những người thầy. Có lẽ do công tác “ở xa mặt trời” nên một số ít giáo viên nông thôn đã có những biểu hiện cần được chấn chỉnh kịp thời như: bỏ tiết dạy không lý do, không soạn giáo án dẫn đến việc truyền thụ sai kiến thức, thiếu tác phong sư phạm (như lên lớp trong trạng thái say rượu, đánh bài trong giờ ra chơi trước mắt học sinh...) Có lần, tại một trường vùng sâu, một giáo viên bộ môn văn cấp trung học cơ sở giảng bài cho học sinh có trích dẫn câu “Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm/Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà” và bảo tác giả là... Nguyễn Du. Kiến thức mà nhà trường phổ thông có trách nhiệm trang bị cho học sinh là kiến thức nền tảng nên phải tuyệt đối chuẩn xác để làm cơ sở cho những kiến thức chuyên ngành sau này của các em. Nếu người giáo viên chịu đầu tư tâm huyết, soạn giáo án đầy đủ, chuẩn bị tốt các bước lên lớp theo qui định của ngành thì những sai sót sơ đẳng như vậy đã không xảy ra. Được biết, ngành giáo dục các địa phương đã và đang có nhiều biện pháp chấn chỉnh thực trạng này. Đơn cử huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng trong năm học 2002-2003, song song với việc tổ chức kiểm tra chéo giữa các trường với nhau, lãnh đạo phòng giáo dục-đào tạo huyện còn trực tiếp thanh tra đột xuất, toàn diện các điểm trường vùng sâu. Qua đó đã phát hiện và xử lý kỷ luật một số trường hợp giáo viên thiếu tinh thần trách nhiệm với học sinh, vi phạm qui chế ngành. Đây là một việc làm cần thiết được dư luận phụ huynh học sinh tán thành. Về y tế ở nông thôn, dịch vụ y tế còn nhiều bất cập nhất ở nước ta nói chung và ở nông thôn nói riêng. Hiện nay nhiều bệnh viện ở nông thôn hoạt động với chỉ có 2 bác sỹ bệnh viện huyện, các trạm xã ở nhiều vùng không có bác sỹ nào. Hiện tượng thiếu bác sỹ giỏi về các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa là rất lớn. Đội ngũ cán bộ y tế thiếu y đức, nhiều trường hợp bệnh nhân có thể cứu chữa được thì cũng dẫn đến tử vong… bên cạnh đó,thì ngành y tế đã có nhiều nỗ lực và cứu chữa nhiều bệnh nhân và nhiều cơ quan bệnh viện được nhận nhiểu danh hiệu và tặng thưởng. Việc xây dựng các trạm xã, bệnh viện huyện được triển khai khá rộng rãi trên các địa phương, nhiều dự án cho y tế đã và đang được triển khai thực hiện như dự án “Phòng chống bệnh truyền nhiễm khu vực sông Mê Kông giai đoạn 2” được triển khai từ 2011- 2015 trên phạm vi 20 tỉnh, thành phố trong nước và các khu vực biên giới Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan. Mục tiêu tổng quan của dự án là giảm tỷ lệ mắc, tử vong do bệnh truyền nhiễm, đặc biệt các bệnh truyền nhiễm vùng nhiệt đới ít được quan tâm; hỗ trợ công tác kiểm soát bệnh truyền nhiễm trong nước và phối hợp với các nước trong khu vực phòng chống dịch bệnh; nâng cao sức khoẻ cho người dân khu vực tiểu vùng sông Mê Kông, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển thiên niên kỷ. Tổng vốn đầu tư cho dự án là 30 triệu USD, trong đó vay ADB 27 triệu USD. Dự án “Phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn bền vững các tỉnh miền núi phía Bắc” có tổng vốn đầu tư 138 triệu USD, vốn vay ADB là 108 triệu USD, vốn vay ADF 26 triệu USD, vốn đối ứng Chính phủ 30 triệu USD. Dự án triển khai tại 15 tỉnh nghèo miền núi phía Bắc trong thời gian từ 2011-2017, với mục tiêu tổng quát là xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế xã hội bền vững thông qua phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, cải thiện điều kiện và mức sống của người dân khu vực miền núi phía Bắc. Mục tiêu của dự án “Nâng cấp mạng lưới giao thông GMS phía Bắc lần 2- giai đoạn 1” nhằm cải thiện khả năng lưu thông trong khu vực dân cư và khu vực phát triển, qua đó nâng cao khả năng tiếp cận thị trường, các dịch vụ xã hội nhằm cải thiện điều kiện sống và giảm đói nghèo, đồng thời nâng cao hiệu quả mạng lưới đường bộ và giao thông trong khu vực dự án Tiểu vùng Mê Kông mở rộng bằng việc kết nối với Thái Lan và Lào. Dự án có tổng mức đầu tư 97,4 triệu USD, trong đó vốn vay ADB là 75 triệu USD, vốn đối ứng của Chính phủ là 22,4 triệu USD. Dự kiến, các hoạt động dự án sẽ hoàn thành vào ngày 30/6/2016 và khoá sổ vào ngày 31/12/2016. Nói chung, về y tế nông thôn nước ta hiện nay tuy đã có nhiều thành tựu nhưng còn rất nhiêu vấn đề cần giải quyết. Để đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao và cải thiện hơn nữa thì cần tập trung nguồn lực đầu tư cho cơ sở hạ tầng nông thôn và đội ngũ cán bộ công nhân viên trong ngành phát triến cả chiều sâu lẫn chiều rộng. - Hành chính công.     Dịch vụ hành chính công có thể hiểu khái quát là những dịch vụ do Nhà nước chịu trách nhiệm, phục vụ các nhu cầu cơ bản, thiết yếu chung của người dân không vì mục tiêu lợi nhuận (khác với dịch vụ tư, do tư nhân đảm nhiệm vì mục tiêu lợi nhuận). Trên cơ sở đó, dịch vụ công ở nông thôn được hiểu là những loại dịch vụ do Nhà nước đảm nhiệm để đáp ứng nhu cầu của khu vực nông thôn. Có nhiều dịch vụ công nông thôn (DVCNT), trong đó các dịch vụ thiết yếu là: giáo dục, y tế, văn hoá thông tin, thuỷ lợi, giao thông… 3- Tồn tại và thách thức trong phát triên dịch vụ nông thôn. Các cơ sở dịch vụ Nhà nước ở khu vực nông thôn làm ăn kém hiệu quả, sức cạnh tranh yếu do cơ chế quản lí yếu kém, giá thành cao, hoạt động cứng nhắc. Nhiều hợp tác xã mang tính hình thức, yếu kém, biểu hiện sự thiếu hấp dẫn với ngươi dân, giá dịch vụ cao. Không ít cơ sở dịch vụ tư nhân ở nông thôn được khuyến khích hình thành nhưng lại yếu về năng lực tài chính, không có chuyên môn, cung ứng dịch vụ tương đối thấp… Sự tăng trưởng và hiệu quả hoạt động dịch vụ ở nông thôn bị hạn chế do khó khăn về kinh tế và cơ sở hạ tầng yếu như giao thông, điện viễn thông đặc biệt là dịch vụ còn nghèo nàn ở vùng sâu vùng xa. Chưa có điều tra, đánh giá toàn diện đội ngũ lao động chuyên môn trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Chưa quan tâm đúng mức những vấn đề trao đổi kinh nghiên cứu lí luận, định hướng các vấn đề nghiên cứu cơ bản và triển khai trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Quản lí của Nhà nước còn nhiều bất cập, nhiều vấn đề có chính sách nhưng thiếu sự chỉ đạo cụ thể cho từng lĩnh vực, từng địa bàn làm hạn chế tính tiêu cực của chính sách. Chưa có sự kết hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước về hoạt động dịch vụ sản xuất nông nghiệp. Ngoài ra còn nhiều vấn đề bất cập khác trong từng vùng từng địa phương cũng như trong từng lĩnh vực hoạt động dịch vụ sản xuất nông nghiệp. Giải pháp phát triển dịch vụ nông thôn. Trước thực trạng trên của phát triển dịch vụ nông thôn ở nước ta, trước những tồn tại mà khả năng của chúng ta có thề cải thiện được, khắc phục được từ đó chúng ta phải có giải pháp phát triển dịch vụ nông thôn sao cho hiệu quả hơn, phù hợp hơn với từng giai đoạn phát triển của đất nước, đặc biệt trong thời kỳ hội nhập như hiện nay. Nhà nước phải có chính sách, chiến lược và các chương trình thúc đẩy sự phát triển nông thôn. Cụ thể là chiến lược phát triển dịch vụ nông thôn đến năm 2020. Chính sách phát triển các lĩnh vực chủ yếu ở nông thôn, chương trình hỗ trợ cho người nghèo, chương trình ưu tiên phát triển vùng sâu vùng xa. Cần xây dựng mạng lưới ngân hàng nông nghiệp và nông thôn ở cơ sở cấp xã, nâng cấp dịch vụ giao thông vận tải bằng cách hỗ trợ gia đình và doanh nghiệp đầu tư mua sắm phương tiện vận tải, bến bãi, trạm xăng dầu, trung tâm sửa chữa máy móc, dịch vụ vận tải, cho thuê phương tiện, để tăng cường vận chuyển vật tư phục vụ sản xuất tới các địa bàn nông thôn và vận chuyển sản phẩm tới các nhà máy và nơi tiêu thụ. Về dịch vụ kỹ thuật nông nghiệp cần nâng cấp và hoàn thiện hệ thống cơ sở. Nhà nước sản xuất giống vật nuôi, cây trồng, bảo vệ thực vật, dịch vụ thú y…hỗ trợ khu vực tư nhân tham gia cung cấp những dịch vụ này, hỗ trợ các doanh nghiệp và hộ gia đình nuôi giống, nhân giống vật nuôi và cây trồng cung cấp cho nhân dân. Hỗ trợ mở rộng phạm vi dịch vụ cơ khí nông thôn. Hỗ trợ thành lập doanh nghiệp chuyên kinh doanh cho thuê máy nông nghiệp để tăng cường cơ khí hóa sản xuất nông nghiệp. Thành lập các trung tâm, cơ sở bảo dưỡng, sửa chữa nông cụ và máy nông nghiệp với dịch vụ bảo hành có chất lượng. Đẩy mạnh đầu tư và cải tiến, nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức, cơ sở khuyến nông. Mở rộng nhiều trung tâm dịch vụ tư vấn kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm, liên kết giữa bốn nhà để phát triển kinh tế nông thôn. Phát triển sâu rộng về du lịch nông thôn, xây dựng quy hoạch và có các dự án phát triển các khu du lịch nông thôn dựa trên thế mạnh của vùng, địa phương. Mở rộng loại hình, nâng cao tiêu chuẩn, chất lượng, điều kiện phục vụ và bảo đảm an toàn cho du khách, nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng, trang thiết bị cho thể thao, văn hóa và giải trí ở nông thôn. Đồng thời cải thiện hệ thống tiếp thị và thông tin, nâng cao trình độ tổ chức hoạt động du lịch. Phát triển sản xuất các sản phẩm truyền thống, các mặt hàng thủ công mỹ nghệ, phát triển làng nghề du lịch. KẾT LUẬN. Nói chung việc phát triển nông thôn toàn diện phụ thuộc rất nhiều yếu tố, các ngành nghề, các hoạt động lại có mối quan hệ gắn bó tác động qua lại lẫn nhau. Việc phát triển nông nghiệp, công nghiệp nông thôn sẽ tác động đến việc phát triển dịch vụ nông thôn. Tính chất phức tạp và đa ngành của việc phát triển nông thôn bao gồm cả tính kinh tế, thể chế, chính trị đòi hỏi các địa phương phải có sự sáng tạo tìm tòi để học tập, làm thử, đúc rút kinh nghiệm, trong đó có ngành dịch vụ nông thôn. Nó là ngành phi vật chất nên sản phẩm của nó đem lại cho người dân độ thỏa mãn, sự hài lòng và hơn thế nữa. Do vậy, kiến nghị của chúng tôi đưa ra là các nhà hoạch định chính sách, kế hoạch phải chú trọng hơn nữa đến dịch vụ nông thôn nhằm phục vụ người dân những dịch vụ mang lại lợi ích thiết yếu nhất đồng thời nâng cao cuộc sống vật chất và tinh thần cho họ. Thực hiện được điều đó đã góp phần đáp ứng được mục tiêu của Đảng và Nhà nước là “ dân giàu nước mạnh- xã hội dân chủ-công bằng- văn minh”. V- TÀI LIỆU THAM KHẢO. - TS Mai Thanh Cúc- TS Quyền Đình Hà- ThS. Nguyễn Thị Tuyết Lan-ThS.Nguyễn Trọng Đắc, trang 59-61, Giáo trình phát triển nông thôn, 2005, nxb Hà Nội. - Trương Đình Tuyển, trang 77- 78, Giáo trình phát triển cộng đồng, 2007, nxb Nông nghiệp. Internet. Web side:

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docVai trò của dịch vụ nông thôn, thực trạng phát triển dịch vụ nông thôn ở nước ta và những tồn tại, thách thức trong phát triển dịch vụ nông thôn.doc
Luận văn liên quan