Giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động cho vay tại Ngân hàng thương mại cổ phần Nam Á – Chi nhánh Thủ Đức

Một hợp đồng có thể coi là khởi đầu của một phi vụ kinh doanh và nó cũng là yếu tố quyết định đến các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sau này. Sở dĩ như vậy là trong hợp đồng thể hiện sự cam kết, ràng buộc chặt chẽ về đối tượng hợp đồng, quyền và nghĩa vụ mỗi bên. Trong cùng một thời điểm, doanh nghiệp thường phải ký kết và thực hiện nhiều hợp đồng, do đó vấn đề thỏa thuận về nội dung trong hợp đồng và việc thực hiện các nội dung đó đòi hỏi phải có sự sắp xếp và quản lý một cách có hiệu quả. Trong lĩnh vực tài chính, liên quan đến nhiều con số, liên quan đến tài sản, người viết thiết nghĩ rằng, hợp đồng càng phải chặt chẽ hơn nữa, càng phải được chú trọng hơn nữa. Trong hai tháng thực tập tại Ngân hàng TMCP Nam Á – chi nhánh Thủ Đức, người viết đã được nghiên cứu, tìm hiểu nhiều hồ sơ cho vay, từ cá nhân đến doanh nghiệp, đặc biệt, người viết đã được tiếp xúc với nhiều văn bản nội bộ của Ngân hàng Nam Á, được xem các hợp đồng mẫu, điều này đã giúp người viết có cái nhìn tổng quan hơn về thực trạng lập pháp tại Ngân hàng, cũng như hình dung rõ ràng hơn về quy trình cho vay. Có thể nói rằng, NAM A BANK đã có nhiều bước phát triển, khẳng định được vị thế của mình trên thị trường tài chính trong nước, nhưng Ngân hàng TMCP Nam Á nói chung, chi nhánh Thủ Đức nói riêng, cần phải nỗ lực hơn nữa thì mới đạt được mục tiêu đề ra trong báo cáo thường niên 2009. Mặc dù đã cố gắng hết sức nghiên cứu và tập hợp tài liệu, nhưng do kiến thức chưa được hoàn thiện nên các khuyến nghị đưa ra chỉ mang tính gợi mở, mong Quý thầy cô và các bạn đóng góp ý kiến để bài báo cáo được hoàn thiện hơn.

doc43 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4088 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động cho vay tại Ngân hàng thương mại cổ phần Nam Á – Chi nhánh Thủ Đức, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ua những bằng chứng cụ thể và xác định được. Các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng sẽ được giải quyết thông qua các con đường sau: Tự thương lượng Hòa giải giữa các bên tranh chấp thông qua trung gian. Cơ chế tài phán. (Theo thủ tục tố tụng dân sự hoặc thủ tục tố tụng trọng tài) CHƯƠNG HAI: TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG TMCP NAM Á – CHI NHÁNH THỦ ĐỨC Giới thiệu về Ngân hàng TMCP Nam Á và Chi nhánh Thủ Đức Quá trình thành lập và phát triển Ngân hàng TMCP Nam Á có tên giao dịch quốc tế là “NAM A COMMERCIAL JOINT STOCK BANK”, viết tắt trong giao dịch nội địa là NAM Á BANK. Ngân hàng TMCP Nam Á được thành lập từ việc hợp nhất ba hợp tác xã tín dụng là Tân Định, Thị Nghè, An Đông theo giấy phép thành lập số 0026/NH – GP do thống đốc NHNN Việt Nam ký ngày 22/08/1992, giấy phép thành lập công ty số 463/GP – UB của UBND Thành phố Hồ Chí Minh ký ngày 01/09/1992 và tiến hành kinh doanh theo giấy chứng nhận ĐKKD số 059027 cấp ngày 01/09/1992 của trọng tài kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh. Ngân hàng TMCP Nam Á chính thức hoạt động từ ngày 21/10/1992, là một trong những ngân hàng thương mại cổ phần đầu tiên được thành lập sau khi Pháp lệnh về Ngân hàng được ban hành vào năm 1990, trong bối cảnh nước ta đang tiến hành đổi mới kinh tế. Qua 15 năm hoạt động, cơ sở vật chất và mạng lưới hoạt động của Ngân hàng ngày càng mở rộng, đời sống cán bộ nhân viên ngày càng được cải thiện, uy tín của Ngân hàng ngày càng được nâng cao. Từ những ngày đầu hoạt động, Ngân hàng Nam Á chỉ có 3 chi nhánh với số vốn điều lệ 5 tỷ đồng và gần 50 cán bộ nhân viên. Đến nay, qua những chặng đường phấn đấu đầy khó khăn và thách thức, Ngân hàng Nam Á đã không ngừng lớn mạnh, có mạng lưới gồm hơn 50 địa điểm giao dịch trên cả nước. So với năm 1992, vốn điều lệ hiện nay tăng gấp 270 lần, số lượng cán bộ nhân viên tăng gấp 20 lần, phần lớn là cán bộ trẻ, nhiệt tình được đào tạo chính quy trong và ngoài nước, có năng lực chuyên môn cao. Trong quá trình hình thành và phát triển, Ngân hàng luôn quan tâm đến công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, coi cán bộ nhân viên là tài sản quý giá nhất của Ngân hàng. Những năm gần đây, Ngân hàng Nam Á được biết đến là một trong những Ngân hàng TMCP phát triển ổn định, bền vững, có chất lượng tín dụng thuộc loại tốt và được Ngân hàng Nhà nước đánh giá xếp loại A trong nhiều năm liền. Ngân hàng Nam Á là một trong số ít Ngân hàng tại Việt Nam được Ngân hàng Thế giới chọn để thực hiện Dự án Tài chính Nông thôn II từ năm 2002. Thương hiệu Ngân hàng Nam Á đã được người tiêu dùng, cơ quan chức năng công nhận thông qua các giải thưởng có giá trị như: Top Trade Services do Bộ Công Thương trao tặng, “Thương hiệu vàng” do Bộ Công Thương và Hiệp hội chống hàng giả và Bảo vệ thương hiệu Việt Nam (VATAP) trao tặng; năm 2007, Ngân hàng còn nhận được giấy chứng nhận “Nhãn hiệu nổi tiếng Quốc gia” do Hội sở hữu Trí tuệ Việt Nam trao tặng, là “Một trong 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam” do bảng xếp hạng Top 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam (VNR500) công bố. Ngân hàng Nam Á còn vinh dự đón nhận bằng khen của Thủ Tướng Chính phủ, bằng khen của UBND TP.HCM nhân dịp kỷ niệm 15 năm thành lập. Mục tiêu hiện nay của Ngân hàng Nam Á là phấn đấu đến năm 2020 sẽ trở thành một trong những ngân hàng bán lẻ đa năng, hiện đại, có chất lượng phục vụ ngang tầm với các ngân hàng trong khu vự Đông Nam Á. Trên cơ sở phát triển nhanh, vững chắc an toàn và hiệu quả, Ngân hàng Nam Á phấn đấu trở thành một trong các ngân hàng thương mại hàng đầu cả nước và không ngừng đóng góp cho sự phát triển kinh tế của cộng đồng, xã hội. Bước vào giai đoạn mới, toàn ngành Ngân hàng Việt Nam đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với nhiều thách thức nhưng cũng có nhiều cơ hội phát triển. Với mục tiêu phấn đấu giữ vững là một trong những Ngân hàng TMCP mạnh tại Việt Nam, Ngân hàng Nam Á đang xây dựng chiến lược “Phát triển mạnh mẽ nguồn nhân lực”. Phần lớn cán bộ nhân viên của Ngân hàng Nam Á được đào tạo và đào tạo lại nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn những kỹ năng và trình độ chuyên môn cần thiết, cam kết phục vụ hài lòng khách hàng, trung thực trong giao dịch và đoàn kết vì mục tiêu chung của Ngân hàng. Cùng với chiến lược phát triển nguồn nhân lực, với phương châm luôn cung cấp “Giá trị vượt thời gian”, Ngân hàng tập trung nâng cao năng lực tài chính; đầu tư phát triển công nghệ thông tin theo hướng hiện đại hoá phù hợp với công nghệ ngân hàng trong khu vực và thế giới; mở rộng mạng lưới hoạt động, đa dạng hoá các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng; đồng thời chú trọng việc tăng cường kiểm tra kiểm soát nội bộ, tạo an toàn trong hoạt động; quảng bá rộng rãi thương hiệu Ngân hàng Nam Á, tiếp tục là người bạn đồng hành của doanh nghiệp, các tiểu thương, các hộ gia đình và cá nhân để cùng nhau phát triển. Mô hình tổ chức bộ máy Giới thiệu về Ngân hàng TMCP Nam Á - Chi nhánh Thủ Đức Bên cạnh việc tập trung nguồn lực vào việc củng cố, nâng cao chất lượng các hoạt động chủ yếu là các hoạt động dịch vụ ngân hàng, hướng tới chuẩn mực quốc tế nhằm đảm bảo sự phát triển an toàn và bền vững của ngân hàng, NAM A BANK tiếp tục đẩy mạnh kinh doanh, duy trì nhịp độ tăng trưởng trên tất cả các mảng kinh doanh. Nằm trong chiến lược mở rộng hoạt động kinh doanh, ngày 07/12/2005 Ngân hàng TMCP Nam Á đã chính thức khai trương chi nhánh cấp II Thủ Đức, tọa lạc tại số 733 Kha Vạn Cân, Phường Linh Tây, Quận Thủ Đức, TP.HCM. Tại thời điểm 2005, chúng ta phân chia chi nhánh thành chi nhánh cấp I và cấp II, nhưng hiện nay trong cơ cấu của ngân hàng TMCP thì không còn tồn tại khái niệm cấp I, cấp II nữa mà chỉ có chi nhánh và phòng giao dịch, do vây hiện tại thì chi nhánh Thủ Đức không còn mang tên là chi nhánh cấp II Thủ Đức. Chi nhánh sẽ áp dụng và cung cấp đầy đủ các dịch vụ ngân hàng có chất lượng cao tới các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và đông đảo tầng lớp dân cư trên địa bàn: mở tài khoản, tiết kiệm, chi trả kiều hối, thanh toán Séc du lịch, thu đổi ngoại tệ, cho vay, bảo lãnh… Cơ cấu tổ chức của Ngân hàng TMCP Nam Á – Chi nhánh Thủ Đức khá đơn giản: một phòng tín dụng, một phòng kế toán (đồng thời cũng là phòng giao dịch), giám đốc chi nhánh trực tiếp quản lý các phòng ban. Hoạt động tín dụng và tình hình thực hiện hợp đồng tín dụng tại Ngân hàng TMCP Nam Á – Chi nhánh Thủ Đức. Các qui định chung về cấp phát tín dụng Chiếu theo thể lệ tín dụng của Ngân hàng TMCP Nam Á – Chi nhánh Thủ Đức, chúng ta có các qui định chung về cấp phát tín dụng như sau: Đối tượng cho vay Bao gồm các đối tượng sau: - Cá nhân, hộ kinh doanh cá thể - Các tổ chức doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. - Công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân Điều kiện cho vay Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự đầy đủ và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật: Đối với khách hàng là cá nhân – tổ chức Việt Nam: Tổ chức phải có năng lực pháp luật dân sự Cá nhân và chủ doanh nghiệp tư nhân phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự. Đại diện của hộ gia đình phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự. Đại diện tổ hợp tác phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự. Thành viên hợp danh của công ty hợp danh phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự. Đối với khách hàng là cá nhân, tổ chức nước ngoài: Các đối tượng này phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật của quốc gia mà tổ chức đó có quốc tịch hoặc các nhân đó là công dân. Pháp luật của các quốc gia nước ngoài đó phải được Bộ Luật dân sự 2005, hoặc các văn bản pháp luật khác của Việt Nam, hoặc điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã họi chủ ngĩa Việt Nam ký kết tham gia hoặc có quy định. Đối với trường hợp khách hàng vay hoặc người bảo lãnh là cá nhân trên 70 tuổi (có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự đầy đủ) phải trình hội đồng tín dụng – đầu tư Hội sở xem xét, quyết định cho từng trường hợp cụ thể. Có mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp. Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết. Có dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi và có hiệu quả; hoặc có dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả thi và phù hợp với quy định của pháp luật. Khách hàng phải có vốn tự có tham gia vào phương án sản xuất kinh doanh. Đối với các khoản cho vay trung, dài hạn: tỷ lệ vốn tự có của khách hàng tham gia vào dự án đầu tư tối thiểu là 30% tổng nhu cầu vốn của dự án nếu là dự án mới, và tối thiểu là 20% nếu là dự án mở rộng, cải tạo, nâng cấp, cải tiến kỹ thuật. Thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay theo quy định của Chính phủ, hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và quy chế của Ngân hàng Nam Á. Chấp nhận và thực hiện theo các quy định trong quy chế cho vay của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các quy định của Ngân hàng Nam Á. Mục đích cho vay: Ngân hàng TMCP Nam Á – chi nhánh Thủ Đức cho vay vốn với các mục đích sau: Vay tiêu dùng: mua sắm vật dụng gia đình, thanh toán học phí, đi du lịch, chữa bệnh, cưới hỏi. Cho vay hỗ trợ du học. Cho vay trả góp mua xe. Cho vay mua cổ phiếu. Cho vay sản xuất, kinh doanh dịch vụ. Cho vay hợp tác lao động nước ngoài. Cho vay xây dựng, sửa chữa nhà, mua nhà và nền nhà. Cho vay chiết khấu, cầm cố sổ tiết kiệm và giấy tờ có giá. Cho vay làm kinh tế nông thôn. Thực hiện các dịch vụ bảo lãnh: bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh hoàn thanh toán và các loại bảo lãnh khác,… Các nhu cầu sau đây không được đáp ứng cho vay: Vay để mua sắm các tài sản và chi phí hình thành nên tài sản mà pháp luật cấm mua bán, chuyển nhượng, chuyển đổi. Vay để thanh toán các chi phí cho việc thực hiện các giao dịch mà pháp luật cấm. Việc đảo nợ, Ngân hàng Nam Á thực hiện theo quy định riêng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.. Tài sản bảo đảm - Là các chứng từ có giá: sổ tiết kiệm, vàng, cổ phiếu. - Giá trị quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất. - Động sản: xe ôtô, hàng hóa, máy móc thiết bị,… Mức cho vay: v Đối với tài sản là quyền sử dụng đất - Đối với khách hàng cũ, có quan hệ tín dụng tốt với Ngân hàng Nam Á: Mức cho vay tối đa bằng 70% giá trị tài sản theo biên bản định giá. - Đối với khách hàng mới: Mức cho vay tối đa bằng 60% giá trị tài sản theo biên bản định giá. v Tài sản đảm bảo hình thành từ vốn vay: - Đối với bất động sản: Mức cho vay tối đa bằng 50% giá trị tài sản đảm bảo theo biên bản định giá. - Đối với động sản: Mức cho vay tối đa là 60% giá trị tài sản đảm bảo theo biên bản định giá. Quy định cho vay đối với tài sản hình thành từ vốn vay được áp dụng theo quy định hiện hành. v Tài sản đảm bảo là động sản: Mức cho vay tối đa là 60% giá trị tài sản đảm bảo theo biên bản định giá. v Đối với tài sản đảm bảo là vàng bạc, đá quý, các giấy tờ có giá: Mức cho vay tối đa do các đơn vị tự thỏa thuận với khách hàng với điều kiện đảm bảo an toàn tín dụng. v Đối với tài sản đảm bảo khác: Mức cho vay tối đa là 50% giá trị tài sản đảm bảo theo biên bản định giá. Lãi suất cho vay Tùy theo qui định hiện hành của Ngân hàng TMCP Nam Á, tùy theo từng chủ thể mà chi nhánh áp dụng lãi suất phù hợp. Lãi suất cho vay của Ngân hàng Nam Á thay đổi theo loại tiền vay (VND, USD, Vàng), theo thời hạn vay (ngắn, trung và dài hạn) và theo thời điểm vay. Hiện nay mức lãi suất cho vay của Ngân hàng Nam Á được đánh giá là khá cạnh tranh trên thị trường. Ngoài yếu tố cạnh tranh, Ngân hàng Nam Á còn đảm bảo: - Lãi suất cho vay phù hợp với quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. - Lãi suất cho vay ngắn hạn > Lãi suất cho vay trung và dài hạn. Năm 2009, trong một hợp đồng vay cá nhân của một khách hàng, vay 200.000.000 VND với thời hạn 12 tháng, chi nhánh Thủ Đức đã áp dụng lãi suất là 1,25%/tháng. Cũng với số tiền là 200.000.000 VND nhưng một khách hàng khác vay với thời hạn là 24 tháng thì chi nhánh Thủ Đức đã áp dụng mức lãi suất là 1,0625 %/ tháng. Tùy theo từng thời điểm khác nhau mà Ngân hàng cũng áp dụng mức lãi suất khác nhau. Trong năm 2008, Công ty TNHH Dược – Vật tư y tế Thảo Nguyên vay 2,5 tỷ VNĐ, thời hạn 12 tháng, Ngân hàng áp dụng mức lãi suất là 1,15%/tháng; Còn một một doanh nghiệp khác, Công ty TNHH Thương mại – Dịch vụ Hưng Giang, trong năm 2009 doanh nghiệp này đã vay 3 tỷ đồng Việt Nam, với thời hạn 12 tháng, ngân hàng áp dụng mức lãi suất là 1,00%/tháng. Hồ sơ vay vốn Một bộ hồ sơ vay vốn bao gồm nhiều giấy tờ, chung quy thì ta có thể chia các loại giấy tờ đó thành các hồ sơ sau: Hồ sơ tài sản bảo đảm: Bộ hồ sơ tài sản bảo đảm ( photo), bao gồm các giấy tờ như: Giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng; hợp đồng bảo hiểm (nếu có). Thông báo ngăn chặn ( nếu có) Đơn xác nhận tình trạng nhà Biên bản định giá tài sản bảo đảm (TSBĐ) (03 bản). Biên bản giao nhận hồ sơ TSBĐ Hợp đồng thế chấp, bảo lãnh tài sản đã công chứng. (2 bản chính) Đơn yêu cầu đăng ký giao dịch bảo đảm. Thông tin kiểm tra về tình trạng ngăn chặn TSBĐ. Thông tin kiểm tra về tình trạng ngăn chặn TSBĐ trên trang web của Sở Tài Nguyên – Môi trường. Hồ sơ pháp lý CMND + Hộ khẩu thường trú + Giấy đăng ký kết hôn (nếu có) / Đơn xác nhận độc thân (nếu có). Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh Giấy chứng nhận mã số thuế Điều lệ công ty Quyết định bổ nhiệm Giám Đốc, Kế toán trưởng. Biên bản họp Hội đồng thành, Hội đồng quản trị (bản chính) CMND + Hộ khẩu của người đại diện theo pháp luật, theo ủy quyền của Doanh nghiệp; CMND + hộ khẩu của Kế toán trưởng Giấy ủy quyền (Trường hợp có ủy quyền – bản chính) Báo cáo tài chính, tài liệu chứng minh nguồn thu nhập/ tài liệu chứng minh mục đích sử dụng vốn. Đối với cá nhân đi vay, thì không có báo cáo tài chính mà có tài liệu chứng minh nguồn thu nhập. Báo cáo tài chính được sử dụng cho doanh nghiệp vay vốn. Đối với doanh nghiệp, cần có các loại giấy tờ sau: Bảng cân đối kế toán; Báo cáo kết quả kinh doanh; Báo cáo lưu chuyển tiền tệ; Tờ khai nộp thuế giá trị gia tăng; Báo cáo các khoản phải thu, phải trả; Báo cáo hàng tồn kho; Biên lai nộp thuế kinh doanh; Hợp đồng kinh tế; Giấy phép xây dựng… Đối với cá nhân, tùy từng đối tượng khác nhau mà các tài liệu được yêu cầu sẽ khác nhau. Đối với những khách hàng là người làm công ăn lương, thì tài liệu chứng minh thu nhập sẽ là: bảng thanh toán lương, hợp đồng lao động, quyết định bổ nhiệm,…Đối với cá nhân kinh doanh, thì tài liệu chứng minh thu nhập là các biên nhận giao hàng , để từ đây các cán bộ tín dụng tính ra được thu nhập hàng ngày, hàng tháng,… Các tài liệu liên quan đến vốn vay do ngân hàng cung cấp: Tài liệu tham khảo định giá, thông tin CIC. Phương án kinh doanh ( phương án vay vốn). Giấy đề nghị vay vốn. Tờ trình thẩm định cho vay. Bảng tỷ giá tự do chuyển đổi. v Các tài liệu liên quan đến hợp đồng cho vay Hợp đồng tín dụng (03 bản). Khế ước nhận nợ và tài liệu chứng minh việc sử dụng vốn vay Biên bản kiểm tra sử dụng vốn vay. Tờ trình gia hạn hợp đồng. Phụ lục hợp đồng tín dụng (nếu hai bên có thỏa thuận thêm về các điều kiện trong hợp đồng). v Các tài liệu liên quan đến quá trình nhận nợ, xử lý nợ: Phiếu theo dõi nợ, phiếu chi, phiếu chuyển khoản, phiếu thu lãi. Biên bản thanh lý. Giấy giải chấp. Giấy xóa đăng ký thế chấp. Đơn yêu cầu hủy đăng ký giao dịch bảo đảm. Hồ sơ công chứng: Phiếu yêu cầu công chứng. Giấy giới thiệu của ngân hàng. Bảng đăng ký chữ ký mẫu của cán bộ tín dụng. Giấy ủy quyền của tổng giám đốc cho cán bộ tín dụng. Hợp đồng thế chấp (05 bản), hoặc hợp đồng bảo lãnh (06 bản). Hợp đồng tín dụng (01 bản chính và 01 bản photo để đối chiếu và sao lưu tại phòng công chứng). Biên bản định giá tài sản thế chấp (01 bản chính). Bộ hồ sơ tài sản thế chấp (01 bản chính và 01 bản photo để đối chiếu và sao lưu tại phòng công chứng). Đơn xác nhận tình trạng nhà (01 bản chính và 01 bản photo để đối chiếu và sao lưu tại phòng công chứng). Giấy CMND, hộ khẩu, giấy đăng ký kết hôn (hoặc giấy xác nhận tình trạng hôn nhân nếu còn độc thân) (01 bản chính và 01 bản photo để đối chiếu và sao lưu tại phòng công chứng). Hồ sơ đăng ký giao dịch bảo đảm: Đơn yêu cầu đăng ký giao dịch bảo đảm theo mẫu Ngân hàng cung cấp (02 bản). Bộ hồ sơ tài sản thế chấp. (01 bản chính và 01 bản photo để đối chiếu và sao lưu tại cơ quan đăng ký). Hợp đồng thế chấp (01 bản chính đã công chứng). Giấy giới thiệu của ngân hàng. CMND photo của cán bộ tín dụng. Hồ sơ giải ngân: Khế ước nhận nợ (03 bản, 01 bản dành cho kế toán, 01 bản cho cán bộ tín dụng, 01 bản được khách hàng giữ). Biên bản giao nhận hồ sơ tài sản bảo đảm (03 bản, sao lưu tương tự trên) Thông báo ngăn chặn ở Phường (02 bản chính và 01 bản photo). Quy trình nghiệp vụ cho vay Hoạt động cho vay là một hoạt động cơ bản của ngân hàng. Nó mang lại doanh thu và lợi nhuận cho ngân hàng tồn tại và phát triển. Tuy nhiên việc cho vay là một vấn đề không đơn giản, nó mang lại khá nhiều rủi ro, bất trắc, vì vậy để đảm bảo cho hoạt động này có hiệu quả tích cực thì cần phải đảm bảo thực hiện cho vay theo đúng quy trình thủ tục đã được quy định. Quy trình cho vay đối với các đối tượng khác nhau cũng khác nhau. Và ở Việt Nam có quy định cụ thể về quy trình cho vay đối với các tổ chức tín dụng như sau. Hoạt động cho vay là một hoạt động cơ bản của ngân hàng. Nó mang lại doanh thu và lợi nhuận cho ngân hàng tồn tại và phát triển. Tuy nhiên việc cho vay là một vấn đề không đơn giản, nó mang lại khá nhiều rủi ro, bất trắc, vì vậy để đảm bảo cho hoạt động này có hiệu quả tích cực thì cần phải đảm bảo thực hiện cho vay theo đúng quy trình thủ tục đã được quy định. Quy trình cho vay đối với các đối tượng khác nhau cũng khác nhau. Và ở Việt Nam có quy định cụ thể về quy trình cho vay đối với các tổ chức tín dụng như sau: Hình thành khoản vay: Đối với cá nhân thì hầu hết các khoản vay được bắt đầu bằng việc khách hàng xin vay vốn, họ đến gặp nhân viên ngân hàng và ghi những thông tin cần thiết vào đơn xin vay, đồng thời cán bộ tín dụng cũng xem xét các loại giấy tờ mà người đi vay đem đến, yêu cầu bổ sung giấy tờ (nếu còn thiếu). Trong trường hợp cho vay kinh doanh, các doanh nghiệp thì thường bắt đầu bằng việc tiếp xúc giữa cán bộ tín dụng và đại diện các hãng. Đây chính là cơ hội đầu tiên để cán bộ ngân hàng tìm hiểu thông tin về doanh nghiệp và thuyết phục họ về một khoản vay. Xử lý yêu cầu vay vốn: Sau khi nhận được một yêu cầu vay vốn thì cán bộ ngân hàng cần xử lý yêu cầu vay vốn này. Với một khách hàng cá nhân thì anh ta cần trả lời đầy đủ các câu hỏi của cán bộ tín dụng, qua đó cán bộ có thể tìm hiểu về mục đích xin vay, tính cách và điều kiện, khả năng sử dụng vốn và khả năng trả nợ của khách hàng thông qua việc chứng minh thu nhập của cá nhân vay (nếu là độc thân), và cả thu nhập của người hôn phối (nếu đã kết hôn), cán bộ tín dụng còn phải xác minh tình trạng pháp lý, cũng như định giá tài sản bảo đảm của người đi vay. Còn đối với doanh nghiệp, cán bộ tín dụng phải thu thập thông tin cần thiết về doanh nghiệp gồm các thông tin về quản lý, hành chính; thông tin về tình hình tài chính, về cá nhân; thông tin về khoản vay của doanh nghiệp. Việc thu thập thông tin không chỉ thông qua phỏng vấn, giấy tờ báo cáo của doanh nghiệp mà cán bộ còn phải đi xuống tận cơ sở sản xuất kinh doanh để quan sát, nghiên cứu. Ngoài ra còn phải điều tra thêm về các thông tin khác có liên quan đặc biệt là việc thực thi các quan hệ tín dụng trước đó của doanh nghiệp thông qua tiếp xúc với các chủ nợ trước đó. Xác định các thông tin doanh nghiệp đã cung cấp và khám phá các thông tin mới cần thiết về hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Sau khi đã xác định rõ thì ngân hàng còn có thể tư vấn cho khách hàng vay vốn về sự hợp lý của yêu cầu vay vốn và có thể gợi ý sự sửa đổi. Trong bước này, khách hàng cần cung cấp bộ hồ sơ pháp lý và hồ sơ khoản vay. Đưa ra quyết định cho vay: Sau khi đã tập hợp đầy đủ thông tin tài liệu thì bộ phận phân tích tín dụng sẽ tiến hành phân tích các báo cáo tài chính nhằm xác định xem dòng tiền và các tài sản dự phòng của khách hàng có đủ hoàn trả món vay hay không, sau đó sẽ chuẩn bị một bản báo cáo tóm tắt có kèm theo kết quả phân tích để gửi cho người có thẩm quyền xem xét. Từ đó rút ra kết luận chính xác về điểm mạnh điểm yếu trong yêu cầu xin vay của khách hàng. Sau khi đã xem xét khoản vay, chính sách tín dụng và mục đích, mục tiêu của ngân hàng, cán bộ phải đưa ra một quyết định có nên cho vay hay không và doanh nghiệp phải được thông báo ngay lập tức. Nếu yêu cầu được chấp thuận cán bộ tín dụng phải trao cho người vay danh mục các chứng từ cần thiết để ký kết khoản vay và đưa ra ngày dự tính ký kết. Trong bước này, khách hàng cần cung cấp hồ sơ tài sản bảo đảm, báo cáo tài chính, các tài liệu chứng minh mục đích sử dụng vốn vay. Cấu trúc khoản vay, ký kết khoản vay: Một khoản vay có cấu trúc hoàn hảo là khoản vay đáp ứng được nhu cầu cụ thể của doanh nghiệp đồng thời cũng thoả mãn các tiêu thức tín dụng của ngân hàng. Cấu trúc của khoản vay gồm các yếu tố: lãi suất; thời hạn và lịch hoàn trả; sự đảm bảo; người bảo lãnh; các hạn chế và kiểm soát. Các yếu tố này phụ thuộc vào sự đàm phán thỏa thuận giữa ngân hàng và doanh nghiệp xin vay. Sau khi hồ sơ đã được lãnh đạo duyệt thì cán bộ tín dụng kết hợp với khách hàng tiến hành công chứng, đăng ký giao dịch bảo đảm tại cơ quan tài nguyên và môi trường ( cấp Sở nếu giấy tờ nhà do Thành phố cấp, phòng tài nguyên môi trường nếu giấy tờ nhà do quận/huyện cấp). Sau khi đã đạt được thoả thuận vay vốn thì hai bên cần xây dựng một hợp đồng tín dụng làm sao cho phù hợp với tình hình riêng biệt cụ thể và đáp ứng được các yêu cầu của ngân hàng. Và cuối cùng là việc ký kết khoản vay. Trước khi ký kết cần phải chuẩn bị lập ra một danh mục kiểm tra toàn bộ các chứng từ tài liệu cần thiết, và ngày ký kết phải có đầy đủ 2 bên, và đảm bảo cả 2 đều phải hiểu cặn kẽ giấy tờ vay vốn. Việc ký kết khoản vay được quản lý tốt sẽ có tác dụng rất lớn trong việc thúc đẩy mối quan hệ làm ăn tốt giữa ngân hàng và doanh nghiệp. Sau khi đã nhận kết quả trả lời về việc đăng ký giao dịch bảo đảm, cán bộ tín dụng tiến hành lập hồ sơ giải ngân cho khách hàng và trình lên Ban lãnh đạo phê duyệt. Kiểm soát khoản cho vay: Ký kết tín dụng chưa phải là đã kết thúc một quá trình cho vay mà ngân hàng còn phải tiếp tục theo dõi khoản cho vay này để đảm bảo rằng khách hàng sẽ thanh toán đầy đủ cả gốc và lãi như đã cam kết. Còn với các khoản cho vay thương mại lớn cán bộ tín dụng phải đến và kiểm tra công việc kinh doanh của khách hàng định kỳ, đồng thời phải tổ chức quá trình kiểm soát cẩn thận và nghiêm túc để đảm bảo xem xét và đánh giá được tất cả những đặc tính quan trọng nhất đối với khoản vay như: đánh giá quá trình thanh toán, đánh giá chất lượng, tình trạng của tài sản thế chấp, đánh giá sự thay đổi trong tình hình tài chính của người vay... Tiến hành theo dõi thường xuyên hơn đối với những khoản cho vay có vấn đề. Kiểm soát tín dụng là rất quan trọng đối với hoạt động cho vay của ngân hàng. Nó không chỉ giúp các nhà quản lý ngân hàng phát hiện ra những khoản cho vay có vấn đề nhanh hơn mà còn giúp xác định được vấn đề các cán bộ tín dụng có tuân thủ đúng chính sách cho vay của ngân hàng hay không. Xử lý khoản vay có vấn đề: Ký kết tín dụng chưa phải là đã kết thúc một quá trình cho vay mà ngân hàng còn phải tiếp tục theo dõi khoản cho vay này để đảm bảo rằng khách hàng sẽ thanh toán đầy đủ cả gốc và lãi như đã cam kết. Còn với các khoản cho vay thương mại lớn cán bộ tín dụng phải đến và kiểm tra công việc kinh doanh của khách hàng định kỳ, đồng thời phải tổ chức quá trình kiểm soát cẩn thận và nghiêm túc để đảm bảo xem xét và đánh giá được tất cả những đặc tính quan trọng nhất đối với khoản vay như: đánh giá quá trình thanh toán, đánh giá chất lượng, tình trạng của tài sản thế chấp, đánh giá sự thay đổi trong tình hình tài chính của người vay... Tiến hành theo dõi thường xuyên hơn đối với những khoản cho vay có vấn đề. Kiểm soát tín dụng là rất quan trọng đối với hoạt động cho vay của ngân hàng. Nó không chỉ giúp các nhà quản lý ngân hàng phát hiện ra những khoản cho vay có vấn đề nhanh hơn mà còn giúp xác định được vấn đề các cán bộ tín dụng có tuân thủ đúng chính sách cho vay của ngân hàng hay không. Thu nợ: Khi doanh nghiệp mất khả năng thanh toán theo các điều kiện của hợp đồng tín dụng thì cán bộ tín dụng phải lập ngay một kế hoạch thu nợ, sau đó thận trọng cân nhắc vạch ra các phương án khác nhau để có thể thực hiện điều đó. Thường thì ngân hàng thuyết phục khách hàng tự động bán tài sản thế chấp của mình, nếu không được thì ngân hàng sẽ tiến hành thu hồi tài sản cầm cố thế chấp và bán hoặc cho thuê tài sản này. Việc ngân hàng xử lý và bán lại tài sản làm đảm bảo phải chú ý thực hiện đúng mọi điều khoản luật pháp có liên quan, vì nếu không ngân hàng sẽ phải có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại xảy ra đối với khách hàng. Thanh lý hợp đồng tín dụng: Khi khách hàng đã trả xong nợ và gốc, lãi và phí (nếu có) thì hợp đồng tín dụng đương nhiên chấm dứt hiệu lực. Bộ phận kế toán tín dụng lập biên bản thanh lý hợp đồng, đồng thời cán bộ tín dụng lập thông báo giải chấp ở Phường và Đơn yêu cầu xóa đăng ký giao dịch bảo đảm về tài sản thế chấp của khách hàng. Vai trò của thông tin tín dụng đối với hoạt động tín dụng Ngân hàng Nam Á hiện nay vẫn chưa xây dựng được đội ngũ nghiên cứu thị trường, tìm hiểu nhu cầu của khách hàng. Bên cạnh đó, công tác marketing vẫn chưa được chú trọng, do vậy mà thông tin tín dụng từ ngân hàng đến khách hàng vẫn rất hạn chế, các thông tin về các sản phẩm cũng không đến được với khách hàng một cách nhanh chóng được. Trong thực tế, mục tiêu cơ bản của hầu hết các Ngân hàng thương mại nói chung, ngân hàng Nam Á nói riêng là: lợi nhuận, an toàn và sự lành mạnh của các khoản tín dụng. Do đó, một hợp đồng tín dụng được thiết kế hợp lý và áp dụng một cách linh hoạt sẽ góp phần giảm thiểu rủi ro, nâng cao hiệu quả của hoạt động tín dụng. Trong quá trình cho vay, thông tin giữ một vai trò đặc biệt quan trọng, giúp cho ngân hàng xác định khá chính xác về đối tượng vay vốn, uy tín, thiện chí trả nợ, tính khả thi của dự án đầu tư kinh doanh của khách hàng. Thông tin chính là cơ sở để ngân hàng tin tưởng vào khách hàng của mình. Bởi vì, quan hệ tín dụng luôn được hình thành dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau giữa ngân hàng và khách hàng. Điều đó có nghĩa là ngân hàng chỉ cho khách hàng vay vốn khi và chỉ khi ngân hàng đã hoàn toàn tin tưởng vào khả năng hoàn trả (vốn và lãi) của khách hàng khi đáo hạn. Trong khi đó, nguồn thông từ khách hàng đến Ngân hàng và ngược lại thì lại rất hạn chế. Các thông tin của khách hàng thì Ngân hàng có thể lấy từ: hồ sơ đề nghị cấp tín dụng, hồ sơ khách hàng, trung tâm thông tin tín dụng của ngân hàng Nhà Nước, trực tiếp phỏng vấn khách hàng, cập nhật thông tin trên thị trường,…Tuy vậy, các thông tin vẫn chưa được khai thác triệt để phục vụ cho các giai đoạn của quy trình cho vay, nguyên nhân là do: Mạng lưới ngân hàng chưa vững mạnh, bộ phận thu thập, lưu trữ và khai thác thông tin chưa được quan tâm, đầu tư đúng mức. Thủ tục cho vay chưa được thiết kế cho phù hợp với từng nhóm khách hàng, từng quy mô cho vay, chưa có một chuẩn mực chung cho các quy trình này, hướng dẫn cho vay còn rất chung chung. Thông tin hai chiều giữa các ngân hàng thương mại với nhau và với trung tâm thông tin tín dụng của ngân hàng nhà nước Việt Nam chưa thông suốt làm giảm đi hiệu quả hoạt động thông tin tín dụng, ảnh hưởng chất lượng nguồn dữ liệu, chưa đáp ứng nhu cầu thông tin ngày càng cao của các ngân hàng. Đánh giá hoạt động cho vay của ngân hàng Nam Á – chi nhánh Thủ Đức: Xét cơ cấu dư nợ theo thời hạn vay cho thấy Ngân hàng Nam Á Thủ Đức chủ yếu cho vay ngắn hạn, cho vay trung và dài hạn chiếm tỷ trọng khá nhỏ. Hoạt động tín dụng tại ngân hàng gồm hai đối tượng chính là khách hàng cá nhân và các doanh nghiệp. Ưu điểm: Cán bộ, nhân viên của Ngân hàng Nam Á nói chung, chi nhánh Thủ Đức nói riêng luôn có thái độ làm việc rất nghiêm túc và cần mẫn. Với sự nhiệt tình trong công việc, Ngân hàng Nam Á – Chi nhánh Thủ Đức luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao và đảm bảo việc thực hiện quy chế - quy trình cho vay. Các cán bộ tín dụng, nhân viên phòng kế toán, các giao dịch viên là những cá nhân có kinh nghiệm trong công tác chuyên môn mà mình phụ trách, hầu hết là vẫn đang trong độ tuổi 25 – 35, độ tuổi tràn đầy nhiệt huyết cống hiến cho đất nước. NHNN luôn có những quyết định cụ thể nhằm thay đổi các cơ chế cho vay từ huy động vốn đến lãi suất cho vay phù hợp với yêu cầu của thị trường, Ngân hàng Nam Á – chi nhánh Thủ Đức cũng cập nhật rất nhanh chóng các văn bản luật, phục vụ ngày càng chuyên nghiệp cho các khách hàng đi vay. Tồn tại: Thứ nhất, về hợp đồng tín dụng. Theo mẫu số 4a/HĐTD/QTCV của ngân hàng TMCP Nam Á – Chi nhánh Thủ Đức không hề có mục cơ sở pháp lý cho hợp đồng, mà đi thẳng vào phần chủ thể của hợp đồng. Bên cạnh đó, trong Điều 12 của hợp đồng tín dụng có ghi “những điều khoản không được quy định trong hợp đồng này sẽ được áp dụng theo quy chế cho vay của ngân hàng TMCP Nam Á và quy định của pháp luật hiện hành”. Như vậy, ta có thể ngầm hiểu rằng cơ sở pháp lý của hợp đồng tín dụng này là quy chế cho vay và một số quy định khác của pháp luật hiện hành. Tuy nhiên, sự quy định như vậy là quá chung chung, không nêu bật lên được cơ sở của hợp đồng, sẽ rất khó để lấy cơ sở giải quyết khi có mâu thuẫn hay tranh chấp xảy ra. Chắc có lẽ vì ngân hàng luôn nắm đằng “chuôi” nên khi có vấn đề vướng mắc xảy ra, mà thường là do lỗi của bên khách hàng đi vay, thì ngân hàng luôn ở thế thượng phong. Thường thì mỗi khi bên khách hàng chậm nộp tiền lãi hàng tháng, đến thời điểm mà khoản nợ chuyển thành nợ xấu thì cán bộ tín dụng sẽ chuẩn bị giấy tờ, được gọi là đơn kiện, để gởi đến tòa án nhân dân Quận. Tranh chấp về hợp đồng tín dụng là tranh chấp về kinh doanh, thương mại giữa các tổ chức có đăng ký kinh doanh và đều có mục đích lợi nhuận. Vì vậy, căn cứ vào điểm m, khoản 1, Điều 29, Điều 34, khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 3 Nghị quyết số 32/2004/QH11 ngày 15/6/2004 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 1 Nghị quyết số 742/2004/NQ-UBTVQH11 ngày 24/12/2004 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về việc giao thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự quy định tại Điều 33 Bộ luật tố tụng dân sự cho các Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, do vậy thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp hợp đồng tín dụng thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận, huyện nơi mà bị đơn cư trú. Cán bộ tín dụng luôn áp dụng theo luật, đúng luật, hay nói cách khác, Ngân hàng Nam Á luôn giải quyết tranh chấp đúng luật nhưng lại không hề nêu ra cơ sở pháp lý đó một cách chính thức và rõ ràng trong hợp đồng tín dụng. Thứ hai, các quy định về lãi suất cho vay ngắn hạn, lãi suất huy động vốn của NHNN trước ngày 14/04/2010 tạo khá nhiều khó khăn cho hoạt động tín dụng của Ngân hàng Nam Á nói chung, chi nhánh Thủ Đức nói riêng. Đối với lãi suất cho vay, tính đến thời điểm này đã trải qua 06 giai đoạn chính sau: Giai đoạn 1: lãi suất cho vay được ấn định mức cụ thể (Từ ngày 01/10/1982 – 01/7/1987): Đặt nền tản cho quy định này là Nghị định số 165/HĐBT ngày 23/9/1982. Theo đó, Nghị định xác định hai chủ thể cho vay là Ngân hàng và Hợp tác xã (HTX) tín dụng. Đối với Ngân hàng quy định gồm (i) cho vay vốn lưu động và (ii) cho vay vốn cố định; Đối với HTX Tín dụng chia mức cho vay thành mức ngắn hạn và mức còn lại. Giai đoạn 2: áp dụng mức trần và sàn đối với lãi suất cho vay (Từ ngày 01/7/1987– 01/01/1996): Vào ngày 29/6/1987, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định 99-HĐBT quy định: Cho vay vốn lưu động trong giới hạn 2,4% đến 6%/tháng. Cho vay vốn cố định từ 2,1% đến 5,4%/tháng. Giai đoạn 3: áp dụng mức trần lãi suất cho vay (Từ ngày 01/01/1996 – 05/8/2000): Với quyết định 381/QĐ-NH1 ngày 28/12/1995, NHNN chính thức bỏ mức sàn mà chỉ áp dụng trần lãi suất cho vay. Giai đoạn 4: lãi suất cho vay được vận dụng bằng cơ chế lãi suất cơ bản cộng với biên độ giao động trong từng thời kỳ (Từ ngày 05/8/2000 – 01/6/2002) Theo quyết định số 241/2000/QĐ-NHNN1 ngày 02/8/2000, lãi suất cho vay của các NHTM không phải tuân theo mức trần. NHNN chính thức công bố định kỳ lãi suất cơ bản và biên độ giao động. NHTM sẽ tự mình đưa ra các mức lãi suất cho phù hợp với tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh. Giai đoạn 5: lãi suất thỏa thuận (Từ ngày 01/6/2002 – 19/5/2008): Theo quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN ngày 30/5/2002 lãi suất cho vay được hoàn toàn thả nổi theo nguyên tắc tự do thỏa thuận giữa bên đi vay và NHTM; Cũng cần nói thêm rằng, trước đó vào ngày 29/5/2001 NHNN đã chính thức thả nổi lãi suất cho vay bằng USD cho các NHTM theo Quyết định số 718/2001/QĐ-NHNN. Giai đoạn 6: áp dụng mức trần lãi suất cho vay (Từ ngày 19/5/2008 đến nay ) Cũng như quy định tại quyết định 381/QĐ-NH1 ngày 28/12/1995 về mức trần cho vay nhưng tại Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN ngày 16/5/2008 NHNN đưa ra cách xác định mức trần có khác đó là lãi suất cho vay không được vượt quá 150% lãi suất cơ bản do NHNN quy định. Từ khi thành lập, năm 1992, đến nay, Ngân hàng Nam Á đã trải qua những bước thăng trầm với lãi suất. Ở giai đoạn 3, NHNN áp dụng mức trần lãi suất cho vay, việc quy định như vậy là hạn chế khả năng cho vay của Ngân hàng nói chung, ngân hàng Nam Á nói riêng. Qua các giai đoạn tiếp theo, bắt đầu từ năm 2000 lãi suất cũng thay đổi thường xuyên, ngày 01/06/2002 NHNN cho phép lãi suất cho vay thả nổi, tự do theo thỏa thuận của hai bên (bên vay và bên cho vay). Thế nhưng mỗi quyết định cho phép lãi suất thả nổi ra đời lại mâu thuẫn với Bộ luật dân sự năm 1995. Trong bộ luật dân sự 1995, điều 473, khoản 1 có quy định: “Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không được vượt quá 50% của lãi suất cao nhất do Ngân hàng nhà nước quy định đối với loại cho vay tương ứng”. Thời điểm đó đúng là đã làm cho Ngân hàng Nam Á lúng túng, có khi áp dụng theo quyết định của NHNN thì lại vô tình làm trái với quy định của Bộ luật dân sự 1995, nhưng nếu áp dụng quyết định của NHNN mà có sự tham khảo của bộ luật dân sự 1995 thì lại hạn chế nhu cầu vay, đánh mất khách hàng. Cho đến năm 2008, NHNN lại ra quyết định số 16/2008/QĐ – NHNN đã điều chỉnh lại “lỗi lầm” này, nhưng lại quy định lại lãi suất trần như năm 1995. Vậy là qua những năm đổi mới, luật chúng ta lại quay lại điểm xuất phát ban đầu. Chính lãi suất trần cho vay đã cản trở quy luật cung – cầu về vốn trên thị trường. Khi mà tỷ lệ huy động vốn bị giới hạn, Ngân hàng Nam Á lại bị ràng buộc về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng Xem quyết định số 457/2005/QĐ – NHNN, ban hành ngày 19/04/2005, được sửa đổi, bổ sung bởi quyết định số 03/2007/QĐ – NHNN. , nay lại áp dụng mức trần lãi suất, sẽ khiến cho quá trình cho vay bị co lại, do vốn không huy động đủ đảm bảo cho tỷ lệ an toàn như đã nói, nên hoạt động cho vay sẽ giới hạn, có khi ngưng cho vay. Cụ thể là từ ngày 01/03/2010 đến nay, Ngân hàng Nam Á đã ra thông báo ngưng cho vay đối với khách hàng mới, chỉ tiếp tục duy trì các hoạt động cho vay với các khách hàng cũ, hoặc các hợp đồng tín dụng đã ký kết trước đó. Đến ngày 14/04/2010, NHNN ban hành Thông tư số 12/2010/TT-NHNN hướng dẫn tổ chức tín dụng cho vay bằng VND đối với khách hàng theo lãi suất thỏa thuận. Với thông tư này, chỉ đạo của Chính phủ về việc mở cơ chế thỏa thuận lãi suất đối với các khoản vay ngắn hạn chính thức được triển khai, sau khi cơ chế trên đã được mở đối với các khoản vay trung và dài hạn trước đó. Theo nội dung Thông tư, các tổ chức tín dụng thực hiện cho vay bằng VND phải niêm yết công khai lãi suất cho vay ở mức hợp lý, trên cơ sở cung – cầu vốn thị trường, nhu cầu vay vốn và mức độ tín nhiệm của khách hàng vay, tiết kiệm chi phí hoạt động, tạo điều kiện cho khách hàng tiếp cận vốn vay để phát triển sản xuất – kinh doanh, nhất là khu vực nông nghiệp và nông thôn, doanh nghiệp xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tổ chức tín dụng điều chỉnh lãi suất cho vay phù hợp với mức biến động của lãi suất huy động vốn bằng VND và mục tiêu, giải pháp điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước. Ngoài ra, các tổ chức tín dụng phải báo cáo Ngân hàng Nhà nước về lãi suất cho vay bằng VND theo nhu cầu vay và các văn bản của tổ chức tín dụng quy định về lãi suất cho vay ngay sau khi ban hành. Và thông tư trên có hiệu lực thi hành kể từ ngày 14/4/2010. Nhưng vấn đề đặt ra là các nhà lập pháp làm sao để quản lý thực trạng lãi suất cho vay thỏa thuận. Cái vướng mắc ở đây như đã nói ở trên là ở chỗ: nếu bãi bỏ hoàn toàn chính sách lãi suất trần sẽ vi phạm Bộ luật dân sự năm 2005. Thứ ba, về hồ sơ và thủ tục cho vay còn rờm rà, phức tạp. Quy trình cho vay của NHTMCP Nam Á – Chi nhánh Thủ Đức chưa phân rõ sự khác biệt giữa thủ tục cho vay ngắn hạn và thủ tục cho vay trung và dài hạn. Ví dụ, đối với những khoản vay ngắn hạn, quy mô khoản vay nhỏ thì thủ tục vay cũng không khác so với những khoản vay trung và dài hạn có mức vay lớn. Điều này làm mất thời gian của khách hàng và cán bộ tín dụng. Trên thực tế khách hàng rất ngại vay tại ngân hàng thường yêu cầu nhiều thủ tục phức tạp mà sẽ chọn ngân hàng có thủ tục vay đơn giản, dễ hiểu và nhanh chóng. Thứ tư, nguồn thông tin đánh giá khách hàng còn một số hạn chế. NHTMCP Nam Á – Chi nhánh Thủ Đức còn chưa chú trọng đến việc thu thập thông tin từ các nguồn khác nhau để phục vụ cho giai đoạn phân tích tín dụng, đặc biệt là đối với khách hàng mới. Cơ sở dữ liệu về khách hàng lưu trữ tại Chi nhánh Thủ Đức hiện còn khá ít. Chi nhánh hiện vẫn chưa có phần mềm lưu trữ thông tin tín dụng, việc lưu trữ hồ sơ vẫn thực hiện thủ công nên sẽ gây ra không ít khó khăn cho việc tra cứu về sau. Để phân tích khả năng và ý chí trả nợ của khách hàng, Chi nhánh Thủ Đức chủ yếu dựa vào các thông tin do khách hàng cung cấp, trong khi thông tin này lại khó có thể kiểm tra lại tính trung thực, do các số liệu này đã được khách hàng chỉnh sửa nên các nhận định về khả năng và ý chí trả nợ của khách hàng thường sai lệch. Thông tin thứ cấp từ các nguồn như: bạn hàng, đối thủ cạnh tranh, thông tin CIC, thông tin từ các phương tiện thông tin đại chúng và các cấp chính quyền mà đặt biệt là thông tin phỏng vấn khách hàng vẫn chưa được tận dụng một cách triệt để. Bên cạnh đó, việc trao đổi thông tin giữa các khách hàng với nhau vẫn hầu như không có. Hơn nữa, do sự hiểu biết còn hạn chế về lĩnh vực mà khách hàng đang kinh doanh nên cán bộ tín dụng khó có thể đánh giá chính xác về họ. Từ đó dẫn đến hạn chế trong quyết định cho vay. Thứ năm, luật tổ chức tín dụng 1997, sửa đổi bổ sung 2004, có quy định về việc cho vay tín chấp, nhưng tiềm lực của các ngân hàng tại Việt Nam nói chung, ngân hàng Nam Á nói riêng chưa đủ để đáp ứng. Trong khi đó, nhu cầu vay vốn luôn tăng mạnh, điều này làm cho luật đề ra trở nên “vô dụng”, không áp dụng được vào thực tiễn. Khoản 2, Điều 52 Luật các tổ chức tín dụng năm 1997 quy định: “Tổ chức tín dụng cho vay trên cơ sở có bảo đảm bằng tài sản cầm cố, thế chấp của khách hàng vay, bảo lãnh của bên thứ ba; không được cho vay trên cơ sở cầm cố bằng cổ phiếu của chính tổ chức tín dụng cho vay”. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng năm 2004 sửa đổi khoản 2 nêu trên như sau: “Tổ chức tín dụng có quyền xem xét, quyết định cho vay trên cơ sở có bảo đảm hoặc không có bảo đảm bằng tài sản cầm cố, thế chấp của khách hàng vay, bảo lãnh của bên thứ ba và chịu trách nhiệm về quyết định của mình…”. Luật đề ra, nhưng trên thị trường tài chính Việt Nam, hiện nay rất hiếm có cá nhân, tổ chức nào tạo đủ sự “tin tưởng” đối với ngân hàng. Do vậy, khi khách hàng yêu cầu vay theo loại hợp đồng này, ngân hàng Nam Á cũng khá khó khăn trong việc giải thích, đôi lúc sẽ khiến cho các khách hàng có ấn tượng không tốt về ngân hàng, và có suy nghĩ rằng "các sản phẩm vay không phong phú và đầy đủ cho khách hàng, có thể điều đó sẽ gây sự không Hiện nay bất kỳ một khoản vay nào tại ngân hàng Nam Á – chi nhánh Thủ Đức cũng phải có tài sản bảo đảm hoặc phải có bảo lãnh bằng tài sản của người bảo lãnh. Mặt khác, tài sản mà doanh nghiệp đem thế chấp thường định giá thấp hơn so với giá thị trường. Tại ngân hàng: Giá trị tài sản đảm bảo (là quyền sử dụng đất) = Giá trị quyền sử dụng đất + Gía trị tài sản gắn liền với đất. Trong đó, giá trị tài sản đảm bảo không được vượt quá 90% giá trị thị trường. Đối với khách hàng cũ, tài sản thế chấp là bất động sản mức cho vay tối đa 70% giá trị tài sản đảm bảo, khách hàng mới là 60%. Đối với động sản cầm cố thì mức cho vay tối đa chỉ bằng 60% giá trị tài sản. Như vậy, số tiền mà doanh nghiệp được vay rất thấp, không đáp ứng được nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh. Đây cũng là trở ngại khiến cho nhiều doanh nghiệp còn ngần ngại khi đến vay vốn tại ngân hàng vì một phần họ không có tài sản thế chấp hoặc là có tài sản nhưng tài sản bị định giá thấp thì khó có thể vay đủ số vốn cần thiết. Thứ sáu, sản phẩm tín dụng của ngân hàng Nam Á Thủ Đức chưa phong phú. Hiện nay những sản phẩm tín dụng của Ngân hàng Nam Á chi nhánh Thủ Đức cung cấp cho khách hàng còn rất hạn chế, chủ yếu cho vay ngắn hạn, cho vay trung hạn, chiết khấu giấy tờ có giá, bảo lãnh còn hạn chế, chưa cho vay cầm cố chiết khấu bằng thương phiếu. Đây cũng là điểm hạn chế, không thể đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng, hạn chế việc mở rộng thị phần tín dụng của ngân hàng. Việc cho vay trung và dài hạn còn nhiều hạn chế: do hạn chế về nguồn vốn huy động nên Ngân hàng Nam Á – Thủ Đức chủ yếu cho vay ngắn hạn, trung hạn,không cho vay dài hạn. Một mặt để đảm bảo an toàn về khả năng thanh khoản, không vi phạm quy định nhà nước về tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn, đảm bảo nguyên tắc cân bằng tài chính. Mặt khác, đối với khoản vay trung và dài hạn thường có nhu cầu lớn, mà vốn tự có của ngân hàng nhỏ mà theo quy định của Ngân hàng nhà nước thì dư nợ tín dụng của một khách hàng không được vượt 15% Xem: “Quy chế cho vay của ngân hàng TMCP Nam Á” vốn tự có của ngân hàng. Đối với cho vay cầm cố, chiết khấu các giấy tờ có giá thì hiện tại Ngân hàng Nam Á Thủ Đức chỉ chấp nhận các loại giấy tờ sau: tiền gửi, sổ tiết kiệm tại ngân hàng Nam Á. Còn các loại giấy tờ khác như: thương phiếu, sổ tiết kiệm của Ngân hàng khác sẽ không được chấp nhận. Về lĩnh vực bảo lãnh ngân hàng, do ngân hàng Nam Á là ngân hàng nhỏ, trẻ nên chưa có tiếng nói lớn trong khi đây là nghiệp vụ cần bè dày hoạt động và uy tín. Vì vậy tại chi nhánh Thủ Đức chưa thực hiện một khoản tín dụng bảo lãnh nào. CHƯƠNG BA: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN QUY TRÌNH CHO VAY Các kiến nghị về lập pháp Về cơ sở pháp lý: Như đã phân tích ở mục 2.5.2, trong các hợp đồng tín dụng không hề có phần cơ sở pháp lý. Để hợp đồng được rõ ràng hơn về phương diện pháp lý, có chứng cứ rõ hơn về khi giải quyết tranh chấp, người viết khuyến nghị ngân hàng Nam Á nên ghi rõ cơ sở pháp lý, cụ thể như sau: Căn cứ bộ luật dân sự 2005. Căn cứ Bộ luật tố tụng dân sự. Căn cứ Luật các tổ chức tín dụng 2004. Căn cứ vào Thông tư số 12/2010/TT-NHNN, và các quy định của NHNN về hoạt động cho vay tại ngân hàng TMCP Căn cứ vào Quy chế cho vay của Ngân hàng Nam Á. Các khuyến nghị về lãi suất cho vay: Với mức lãi suất huy động cao nhất không được vượt quá 10,5%/năm, các ngân hàng hiện nay đều kêu rằng không thể huy động được. Trong khi đó, nếu tìm cách tăng lãi suất huy động lên thêm thì lãi suất cho vay cũng không thể dừng ở mức trần theo quy định. Hiện nay các ngân hàng đều đưa lãi suất huy động chính thức của mình lên 10,49% và kèm theo đó là các chương trình khuyến mãi như tặng thêm tiền, quà, cào trúng thưởng ngay… Nếu cộng thêm giá trị khuyến mãi thì lãi suất huy động của một số ngân hàng sẽ lên đến mức 11,4% - 12,9%/năm, cao hơn cả lãi suất trần cho vay. Như vậy, ngân hàng hiện không thể cho vay với mức lãi suất trần là 12%/năm và phải tìm cách để nâng lãi suất cho vay qua hình thức thu phí. Mặc dù Ngân hàng Nhà nước đã có quy định buộc các ngân hàng không được thu phí khi cho vay và sẽ thanh tra các ngân hàng vi phạm, nhưng các ngân hàng vẫn có nhiều đường để tránh. Theo các chuyên gia, để không còn tình trạng các ngân hàng tìm cách tăng lãi suất huy động và cho vay vượt quá mức quy định, Chính phủ cần sớm cho phép tự do lãi suất trở lại như trước năm 2008, để lãi suất có thể được quyết định bởi thị trường. PGS-TS Trần Hoàng Ngân, Phó hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế TPHCM, cho biết Ngân hàng Nhà nước có thể can thiệp vào lãi suất cho vay của các ngân hàng không chỉ bằng công cụ lãi suất cơ bản mà có thể bằng lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, hoặc có thể bằng dự trữ ngoại hối. Ông Lê Xuân Nghĩa, Phó chủ tịch Ủy ban giám sát tài chính quốc gia, cho rằng một quy định về lãi suất cho vay không được vượt quá 150% lãi suất cơ bản đã không còn phù hợp với nền kinh tế hiện nay. Và theo ông, trong năm nay có thể việc bỏ lãi suất cơ bản sẽ được Quốc hội chấp thuận để lãi suất được tự do điều chỉnh bởi thị trường. Hiện nay đang có ý kiến khác nhau giữa giới chuyên môn ngân hàng, trong đó có NHNN và giới làm luật về duy trì hay bãi bỏ lãi suất cơ bản. Bên nào cũng có lý bảo vệ cho quan điểm của mình. Người viết nghĩ rằng, hai bên cần ngồi lại tìm một tiếng nói chung, vừa đảm bảo được vai trò quản lý, vừa không gây trở ngại cho hoạt động kinh doanh của các ngân hàng. Theo người viết thì lãi suất trần nên được bãi bỏ, và thay vào đó là cơ chế lãi suất cho vay tự do thỏa thuận, có tham khảo Bộ luật dân sự 2005, nhưng phải chịu sự kiểm tra của NHNN, chứ không để tự do thỏa thuận quá “vô tư”, nếu NHNN không kiểm soát thì các ngân hàng dễ có cơ hội trở thành đối tượng “cho vay nặng lãi”. Giải pháp vi mô: Đa dạng hóa hoạt động tín dụng: Cho đến hiện nay hoạt động tín dụng tại ngân hàng Nam Á nói chung, chi nhánh Thủ Đức nói riêng còn rất hạn chế so với các ngân hàng khác có cùng mục tiêu kinh doanh – là ngân hàng bán lẻ, các hoạt động tín dụng rất giới hạn, ví dụ như chưa cho vay theo hình thức tín chấp, chưa có hình thức kinh doanh thẻ (ATM). Để đạt được mục tiêu là “ngân hàng bán lẻ đa năng, hiện đại” như trong báo cáo tài chính năm 2009 thì các dịch vụ ngân hàng cần phải phát triển nhiều hơn nữa. Đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao: Thế giới ngày càng phát triển, khoa học kỹ thuật ngày càng đi lên, để nhanh chóng thích ứng với nhịp đập của nền kinh tế vội vã, các Ngân hàng càng phải áp dụng công nghệ thông tin trong hoạt động điều hành cũng như các giao dịch nhằm hướng đến một Ngân hàng hiện đại. Bởi vậy mà nguồn nhân lực cũng cần phải có một chuẩn hóa, đào tạo bài bản để đáp ứng được nhu cầu của sự đổi mới. Phòng tín dụng của Ngân hàng Nam Á chi nhánh Thủ Đức tập họp những thành viên có nhiều kinh nghiệm và hoạt động lâu năm trong nghề, cũng bởi vì đã trải qua một thời gian dài trong lề lối làm việc cũ, phần lớn là sử dụng hoạt động thủ công nên cần phải thường xuyên đào tạo để các nhân viên có thể làm quen và ngày càng hoàn thiện kỹ năng với các công nghệ mới, nhanh chóng thích ứng với môi trường và đáp ứng được đòi hỏi ngày càng cao của xã hội. Hoàn thiện kênh thông tin hai chiều từ ngân hàng đến khách hàng và ngược lại: Khách hàng là một nhân tố vô cùng quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Không có khách hàng hoặc có quá ít sẽ khiến cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng không hiệu quả, giảm lợi nhuận. Do đó việc thực hiện chiến lược khách hàng nhằm thu hút khách hàng, phát triển, duy trì và củng cố mối quan hệ khách hàng là điều rất cần thiết mà bất kỳ Ngân hàng nào khác cũng phải quan tâm thực hiện. Tuy nhiên, Ngân hàng Nam Á Thủ Đức chưa thực sự chú trọng trong việc thực hiện chiến lược khách hàng, chưa có những chương trình cũng như kế hoạch để thực hiện chiến lược khách hàng. Hiện tại khi khách hàng đến vay vốn, đối với khách hàng quen thuộc cũng không được hưởng ưu đãi về lãi suất mà chỉ có ưu tiền về thủ tục nhanh gọn đơn giản hơn và hạn mức cho vay trên tài sản đảm bảo cao hơn. Bên cạnh đó, khách hàng muốn tiếp cận với nguồn vốn tín dụng thì phải trực tiếp đến chi nhánh giao dịch hoặc thông qua khách hàng này cán bộ tín dụng giới thiệu sản phẩm tín dụng của ngân hàng mình với bạn hàng của khách đó. Trong khi một cán bộ tín dụng phải quản lý nhiều hồ sơ khách hàng và thực hiện nhiều công việc khó sắp xếp được thời gian đến cơ sở sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để giới thiệu sản phẩm tín dụng. Điều này hạn chế việc cung cấp thông tin cho doanh nghiệp về chính sách tín dụng của ngân hàng, đồng thời cũng bỏ lỡ nhiều cơ hội cho vay các doanh nghiệp lớn, uy tín và có dự án khả thi. LỜI KẾT @&? Một hợp đồng có thể coi là khởi đầu của một phi vụ kinh doanh và nó cũng là yếu tố quyết định đến các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sau này. Sở dĩ như vậy là trong hợp đồng thể hiện sự cam kết, ràng buộc chặt chẽ về đối tượng hợp đồng, quyền và nghĩa vụ mỗi bên. Trong cùng một thời điểm, doanh nghiệp thường phải ký kết và thực hiện nhiều hợp đồng, do đó vấn đề thỏa thuận về nội dung trong hợp đồng và việc thực hiện các nội dung đó đòi hỏi phải có sự sắp xếp và quản lý một cách có hiệu quả. Trong lĩnh vực tài chính, liên quan đến nhiều con số, liên quan đến tài sản,… người viết thiết nghĩ rằng, hợp đồng càng phải chặt chẽ hơn nữa, càng phải được chú trọng hơn nữa. Trong hai tháng thực tập tại Ngân hàng TMCP Nam Á – chi nhánh Thủ Đức, người viết đã được nghiên cứu, tìm hiểu nhiều hồ sơ cho vay, từ cá nhân đến doanh nghiệp, đặc biệt, người viết đã được tiếp xúc với nhiều văn bản nội bộ của Ngân hàng Nam Á, được xem các hợp đồng mẫu,…điều này đã giúp người viết có cái nhìn tổng quan hơn về thực trạng lập pháp tại Ngân hàng, cũng như hình dung rõ ràng hơn về quy trình cho vay. Có thể nói rằng, NAM A BANK đã có nhiều bước phát triển, khẳng định được vị thế của mình trên thị trường tài chính trong nước, nhưng Ngân hàng TMCP Nam Á nói chung, chi nhánh Thủ Đức nói riêng, cần phải nỗ lực hơn nữa thì mới đạt được mục tiêu đề ra trong báo cáo thường niên 2009. Mặc dù đã cố gắng hết sức nghiên cứu và tập hợp tài liệu, nhưng do kiến thức chưa được hoàn thiện nên các khuyến nghị đưa ra chỉ mang tính gợi mở, mong Quý thầy cô và các bạn đóng góp ý kiến để bài báo cáo được hoàn thiện hơn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docHoàn thiện Duong Thanh Phúc.doc
Luận văn liên quan