Giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài ở Việt Nam

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Chương I. Một số khái niệm chung 1. Khái niệm Trọng tài và trọng tài thương mại 1.1. Khái niệm Trọng tài khoa học pháp lý Quốc tế 1.2. Khái niệm Trọng tài thương mại 1.2.1. Khái niệm Trọng tài thương mại quốc tế 1.2.2. Khái niệm Trọng tài thương mại theo pháp luật Việt Nam 2. Khái niệm tranh chấp thương mại 2.1. Khái niệm hoạt động thương mại 2.1.1. Khái niệm quan hệ thương mại trong khoa học pháp lý quốc tế 2.1.2. Khái niệm hoạt động thương mại theo pháp luật Việt Nam 2.1.3. Khái niệm hoạt động thương mại theo pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 2.2. Khái niệm tranh chấp thương mại 2.2.1. Khái niệm tranh chấp thương mại theo pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 3. Vai trò của Trọng tài và các nguyên tắc trong giải quyết các tranh chấp thương mại bằng trọng tài 3.1. Vai trò của trọng tài trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại 3.2. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp thương mại bằng Trọng tài 3.2.1. Nguyên tắc tự nguyện 3.2.2. Nguyên tắc bình đẳng giữa các bên tranh chấp 3.2.3. Nguyên tắc độc lập của các Trọng tài viên trong quá trình giải quyết tranh chấp 3.2.4. Nguyên tắc giữ bí mật trọng giải quyết tranh chấp 3.2.5. Quyết định của Trọng tài có giá trị bắt buộc với các bên và không thể bị kháng cáo Chương II. Giải quyết tranh chấp thương mại bằng Trọng tài ở Việt Nam 1. Quá trình phát triển của pháp luật Việt Nam về chế định Trọng tài 1.1. Trọng tài kinh tế nhà nước 1.1.1. Giai đoạn từ 1960 đến 1994 1.1.2. Từ năm 1994 đến nay 1.2. Trọng tài thương mại quốc tế 1.2.1. Giai đoạn từ 1960 đến 1993 1.2.2. Giai đoạn từ 1993 đến nay 2. Những nét mới của pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003 so với nghị định 116/CP về tổ chức và hoạt động của Trọng tài 2.1. Những điểm tiến bộ mới pháp lệnh 2003so với nghị định 116/CP 2.1.1. Vấn đề phạm vi điều chỉnh 2.1.2. Vấn đề thoả thuận Trọng tài 2.1.3. Vấn đề Trọng tài viên 2.1.4. Vấn đề sử dụng ngôn ngữ trong quá trình tố tụng Trọng tài 2.1.5. Nguyên tắc áp dụng luật để giải quyết vụ tranh chấp 2.1.6. Tính cưỡng chế của quyết định Trọng tài 3. Mối quan hệ giữa cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại bằng Trọng tài và toà án 3.1. Hoạt động hỗ trợ của toà án đối với Trọng tài 3.2. Hoạt động giám sát của toà án đối với Trọng tài Chương III. Đánh giá chung về pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003 và một số đề kiến nghị. Xu hướng phát triển văn hoá Trọng tài thương mại quốc tế. Doanh nghiệp Việt Nam đón nhận Trọng tài như thế nào trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay 1.1. Đánh giá chung 1.2. Xu hướng phát triển văn hoá Trọng tài thương mại quốc tế 1.3. Doanh nghiệp Việt Nam đón nhận Trọng tài như thế nào trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay 1.4. Một số kiến nghị KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Trích dẫn Nội dung Quan hệ kinh tế quốc tế cùng với mối quan hệ về chính trị, ngoại giao, văn hoá . là những nhân tố quan trọng cấu thành nên bức tranh tổng thể về quan hệ quốc tế ở mỗi thời kỳ lịch sử nhất định. Nó ra đời và phát triển trên cơ sở phân công lao động quốc tế, bao gồm một hệ thống đa dạng và phong phú các hoạt động như: thương mại quốc tế, đầu tư quốc tế, chuyển giao công nghệ . Cùng với xu thế toàn cầu hoá trong quan hệ quốc tế nói chung, hoạt động kinh tế quốc tế đang đạt được bước phát triển mạnh chưa từng thấy mang tính thời đại sâu sắc và sẽ còn tiếp tục được bổ sung, phát triển hơn nữa bởi những nhân tố mới trong tương lai. Trong bối cảnh đó, các tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh tế quốc tế nói chung và các hoạt động thương mại nói riêng có xu hướng gia tăng và diễn biến phức tạp đòi hỏi phải có những phương thức giải quyết nhanh chóng, hiệu quả nhằm bảo đảm cho các hoạt động đó được diễn ra một cách liên tục và thuận tiện. Tuy nhiên, giải quyết tranh chấp thương mại là vấn đề vô cùng phức tạp do tham gia vào các quan hệ này có nhiều chủ thể với những địa vị pháp lý không giống nhau, thuộc những hệ thống pháp luật khác nhau . Do đó, việc lựa chọn được một phương thức giải quyết tranh chấp hợp lý là một vấn đề có ý nghĩa quyết định trong việc đảm bảo và thúc đẩy các hoạt động thương mại quốc tế phát triển thuận lợi. Trên thực tế, toà án là cơ quan có đủ chức năng để thực hiện những cơ sở pháp lý trong việc giải quyết tranh chấp nói chung. Song các đặc tính gay gắt, phức tạp và sòng phẳng của các hoạt động thương mại thì bên cạnh toà án còn có những biện pháp giải quyết tranh chấp khác có hiệu quả hơn nhiều. Một trong những biện pháp đó là "Trọng tài". Là một thành viên trong cộng đồng quốc tế, Việt Nam không thể đứng ngoài xu thế phát triển chung của thế giới. Đảng và Nhà nước ta chủ trương mở rộng quan hệ hợp tác và phát triển về kinh tế với các quốc gia khác và hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu. Năm 1986, Nghị quyết Đại hội VI của Đảng đề ra đường lối đổi mới, nền kinh tế nước ta chuyển từ cơ chế quản lý tập trung, bao cấp sang nền kinh tế sản xuất hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự chuyển đổi tư duy kinh tế có ý nghĩa lớn lao này đã đặt nền móng cho sự phát triển, tăng trưởng kinh tế liên tục của nước ta hơn 15 năm qua.Từ khi chúng ta thực hiện chính sách mở cửa, Việt Nam đã có quan hệ thương mại với hơn 100 nước trên thế giới, ký kết hàng loạt các Hiệp định thương mại song phương và đa phương trong đó tiêu biểu là Hiệp định thương mại Việt - Mỹ, Hiệp định về buôn bán hàng dệt may Việt Nam - EU, Hiệp định về khu vực mậu dịch tự do AFTA . Việt Nam là thành viên chính thức của ASEAN, tham gia tổ chức kinh tế Châu á - Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn hợp tác kinh tế á - Âu (ASEM). Hiện nay Việt Nam đang là quan sát viên của tổ chức thương mại thế giới WTO. Bối cảnh đó đặt ra cho Việt Nam nhiều thời cơ để phát triển nhưng cũng không ít thách mà chúng ta phải đối mặt, đặc biệt là việc giải quyết các tranh chấp thương mại. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải có một chế định pháp luật hiện đại về trọng tài vì đây là một trong những phương thức giải quyết tranh chấp hữu hiệu nhất hiện nay. Trong khuôn khổ bài tiểu luận này, em xin tìm hiểu và phân tích cụ thể về cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài và thực tiễn ở Việt Nam về vấn đề này. Về bố cục, bài tiểu luận gồm có: Lời nói đầu, 3 chương và lời kết luận. Cụ thể là: Chương I: Một số khái niệm chung Chương II: Giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài ở Việt Nam. Chương III: Đánh giá chung về pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 và một số đề kiến nghị. Doanh nghiệp Việt Nam đón nhận trọng tài như thế nào trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Xu hướng phát triển văn hoá trọng tài thương mại quốc tế.

doc40 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 8644 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hẩm phán, không có quyền lựa chọn toà án xét xử cho mình. Thứ tư, tố tụng trọng tài thường nhanh chóng hơn so với tố tụng toà án. Đặc điểm của tố tụng trọng tài là chỉ xét xử một lần và phán quyết có giá trị trung thẩm, chỉ trong một số trường hợp đặc biệt thì toà án mới xem xét lại quyết định trọng tài. Đối với các tranh chấp thương mại thì sự nhanh gọn của hình thức giải quyết này là một lý do các bên tranh chấp thường hay chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp. Thứ năm, trọng tài hoạt động theo nguyên tắc xử kín tức là không cần phải đưa các vấn đề tranh chấp, cơ sở của các quyết định trọng tài về vụ tranh chấp vào quyết định trọng tài (Điều 44 pháp lệnh trọng tài thương mại 2003).Trọng tài không cần phải xét xử công khai như toà án nếu các bên yêu cầu. Nhờ vậy mà có thể giữ được bí mật những chi tiết, số liệu, thông tin cụ thể mà các bên tranh chấp không muốn công khai (liên quan đến bí mật công nghệ...) giúp tránh được những hậu quả khôn lường và thiệt hại sau này cho các bên tranh chấp. Chính vì vậy mà các bên tranh chấp thường chọn biện pháp trọng tài để giải quyết những tranh chấp về thương mại. Với những đặc điểm và vai trò như vậy của mình, biện pháp trọng tài đã đáp ứng được yêu cầu đề ra đối với việc giải quyết tranh chấp phát sinh trong quan hệ pháp luật dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài nói chung và trong quan hệ quốc tế nói riêng. Có thể nói, trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp mang tính khả thi nhất và là phương thức phổ biến nhất để giải quyết các tranh chấp thương mại nhằm ổn định và thúc đẩy sản xuất kinh doanh. 3.2. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài. Quy tắc tố tụng là khung pháp lý mà Hội đồng trọng tài xét xử vụ kiện và các bên đương sự phải tuân theo. Làm trái các quy tắc tố tụng sẽ dẫn đến những hậu quả pháp lý vô cùng nghiêm trọng. Chẳng hạn như nếu Hội đồng trọng tài vi phạm quy tắc tố tụng trong quá trình xét xử thì các bên đương sự có quyền không công nhận và không thi hành phán quyết trọng tài. Do đó, việc xây dựng quy tắc tố tụng trọng tài là rất cần thiết và nội dung của nó phải đảm bảo các nguyên tắc sau: 3.2.1. Nguyên tắc tự nguyện Đây là nguyên tắc cốt lõi trong vấn đề trọng tài vì sự hình thành của trọng tài thực chất là do ý chí tự nguyện của các bên đương sự. Trong quá trình giải quyết tranh chấp. Trọng tài cũng nhân danh ý chí tối cao của các bên. Các bên đương sự hoàn toàn có thể chọn các hình thức trọng tài mà họ cho là phù hợp: trọng tài thường trực hay trọng tài ad - hoc. Ngoài ra, trong quá trình tham gia giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, các bên vẫn có thể tự thương lượng để đạt đến thoả thuận nhằm thu xếp những bất đồng đã xảy ra.Trong trường hợp này, trọng tài phải tôn trọng sự thoả thuận của các bên, đồng thời chấm dứt việc giải quyết. 3.2.2. Nguyên tắc bình đẳng giữa các bên tranh chấp. Các bên tranh chấp bình đẳng với nhau trong việc bãi miện hoặc lựa chọn trọng tài viên, trong việc lựa chọn địa điểm tiến hành tố tụng, trong việc đưa đơn yêu cầu về đơn biện minh đối với yêu cầu của phía bên kia, cũng như mọi chứng cứ tài liệu khác mà các bên cho là cần thiết để chứng minh yêu cầu hay bác đơn yêu cầu của bên kia, trong việc nhận thông tin từ trọng tài và phía bên kia. Tất cả thông tin tài liệu do một bên cung cấp cho trọng tài đều phải thông báo cho phía bên kia. Mọi biện pháp, quyết định của trọng tài tiến hành trong quá trình giải quyết tranh chấp đều phải đảm bảo sự bình đẳng giữa các bên tranh chấp. 3.2.3. Nguyên tắc độc lập của các trọng tài viên trong quá trình giải quyết tranh chấp. Trong quá trình giải quyết tranh chấp, không ai có quyền can thiệp vào hoạt động của trọng tài viên. Một vụ tranh chấp gồm 3 trọng tài viên tiến hành xét xử thì các trọng tài viên hoàn toàn bình đẳng với nhau, xét xử độc lập căn cứ vào các điều khoản của hợp đồng và pháp luật hiện hành. Phán quyết của trọng tài được thông qua theo nguyên tắc đa số. Trong trường hợp một trọng tài viên không đồng ý với nội dung phán quyết - một phần hay toàn bộ thì trọng tài viên này được quyền bảo lưu ý kiến của mình trong biên bản. 3.2.4. Nguyên tắc giữ bí mật trong giải quyết tranh chấp. Trong giải quyết tranh chấp kinh tế bằng trọng tài thương mại, việc tiến hành công khai hoặc bí mật đều do các bên lựa chọn. Các buổi họp xét xử của trọng tài cơ sở thoả thuận của các bên có thể tiến hành trong phòng mà ở đó ngoài trọng tài viên và các đương sự thì những người không có trách nhiệm hoặc liên quan không có mặt. Trọng tài viên có trách nhiệm phải đảm bảo bí mật mọi vấn đề liên quan. Quyết định của trọng tài chỉ được công bố công khai nếu các bên đồng ý? 3.2.5. Quyết định của trọng tài có giá trị bắt buộc với các bên và không thể bị kháng cáo. Nguyên tắc này bắt nguồn từ bản chất của tố tụng trọng tài là nhân danh ý chí tối cao và quyền tự định đoạt của các bên đương sự. Các bên đương sự đã tự do lựa chọn và tín nhiệm người phán xử cho mình thì đương nhiên phải phục tùng quyết định của người đó. Hơn nữa, bản thân tố tụng trọng tài là tố tụng một cấp và quyết định trọng tài khi ban hành có gía trị chung thẩm. CHƯƠNG II GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG TRỌNG TÀI Ở VIỆT NAM 1. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CHẾ ĐỊNH TRỌNG TÀI. 1.1. Trọng tài kinh tế nhà nước 1.1.1. Giai đoạn từ 1960 đến 1994. Cơ quan trọng tài đầu tiên ở Việt Nam là hệ thống trọng tài nhà nước được thành lập theo nghị định số 04/TTg ngày 1/4/1960 của Thủ tướng nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Một nghị định khác ban hành ngày 14/1/1960 quy định về nguyên tắc hoạt động của trọng tài nhà nước là thực hiện chức năng giải quyết tranh chấp kinh tế vừa thực hiện công tác quản lý nhà nước đối với công tác hợp đồng kinh tế. Từ hai chức năng đó ta có thể thấy, trọng tài kinh tế nhà nước vừa là cơ quan xét xử, vừa là cơ quan quản lý nhà nước. Là cơ quan quản lý nhà nước đương nhiên trọng tài kinh tế nhà nước phải thi hành mệnh lệnh của nhà nước và bản thân trọng tài kinh tế nhà nước cũng có quyền ra mệnh lệnh hành chính đối với các đối tượng có liên quan nằm trong phạm vi điều chỉnh của pháp lệnh hợp đồng kinh tế. Chính xuất phát từ địa vị pháp lý đặc biệt như vậy mà trong thủ tục xét xử tranh chấp hợp đồng kinh tế và thủ tục xử lý vi phạm pháp luật hợp đồng kinh tế của trọng tài kinh tế là sự đan xen giữa tố tụng tư pháp với thủ tục hành chính. Trọng tài kinh tế nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc phân cấp quản lý hành chính: ở mỗi cấp quản lý hành chính đều thành lập cơ quan trọng tài kinh tế. Hệ thống tổ chức gồm trọng tài kinh tế nhà nước, trọng tài kinh tế tỉnh, thành phố; trọng tài kinh tế huyện, quận và cấp tương đương. Trọng tài kinh tế nhà nước chịu sự lãnh đạo trực tiếp của hội đồng bộ trưởng, trọng tài kinh tế các cấp chịu sự lãnh đạo của ủy ban nhân dân cùng cấp đồng thời chịu sự chỉ đạo giám sát của trọng tài kinh tế cấp trên. Trọng tài kinh tế nhà nước ở cấp trung ương gồm có chủ tịch, một hoặc hai phó chủ tịch và các trọng tài viên. Chủ tịch trọng tài kinh tế nhà nước do chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng chính phủ) bổ nhiệm và miễn nhiệm. Các phó chủ tịch và các trọng tài viên cũng do Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng bổ nhiệm trên cơ sở được Chủ tịch trọng tài kinh tế Nhà nước giới thiệu. Các cơ quan trọng tài kinh tế cấp dưới cũng có cơ cấu tương tự như vậy. Trọng tài viên có nhiệm vụ giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế, xử lý vi phạm pháp luật hợp đồng kinh tế. Các bên tranh chấp hoàn toàn không có vai trò gì trong việc chỉ định trọng tài viên để xét xử vụ việc bởi vì việc đó thuộc quyền hạn của Chủ tịch trọng tài kinh tế có liên quan. Đây là điểm khác biệt rất cơ bản của trọng tài nhà nước so với trọng tài phi chính phủ (các bên tranh chấp có quyền tự do hoàn toàn định đoạt các vấn đề trọng tài trong đó có quyền chỉ định trọng tài viên). Trọng tài nhà nước là các viên chức nhà nước và họ hưởng lương của nhà nước. Còn đối với trọng tài phi chính phủ thì các bên tranh chấp có nghĩa vụ phải trả thù lao cho hoạt động của các trọng tài viên. Khi xét xử, các trọng tài viên của cơ quan trọng nhà nước hoạt động thay mặt nhà nước chứ không phải chỉ với tư cách là người phân giải độc lập và chỉ tuân theo pháp luật và yêu cầu của các bên. Chính vì vậy mà theo điều 10 của pháp lệnh trọng tài kinh tế, tiêu chuẩn mà trọng tài viên cần có trước tiên là "phẩm chất chính trị, liêm khiết công minh", rồi sau đó mới là "có kiến thức pháp lý và quản lý kinh tế cần thiết". Với quy định như vậy, việc giải quyết tranh chấp khó có thể công bằng và có hiệu quả. Điều 2 pháp lệnh trọng tài kinh tế 10/1/1990 quy định nhiệm vụ và quyền hạn của trọng tài kinh tế nhà nước như sau: a.Giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế b. Kiểm tra, kết luận và xử lý các hợp đồng kinh tế trái pháp luật. c. Tuyên truyền, hướng dẫn thực hiện pháp luật hợp đồng kinh tế và trọng tài kinh tế. d. Bồi dưỡng nghiệp vụ công tác hợp đồng kinh tế và trọng tài kinh tế. Cùng một lúc, trọng tài kinh tế nhà nước vừa thực hiện chức năng quản lý các doanh nghiệp nhà nước, vừa giải quyết tranh chấp phát sinh giữa họ với nhau. Do đó, dù với tư cách là một tổ chức trọng tài hay với tư cách là một cơ quan hành chính. Trọng tài kinh tế nhà nước khó có thể hoạt động hiệu quả vì nó phải đảm đương cùng một lúc hai trách nhiệm. Nói tóm lại, trọng tài kinh tế nhà nước là một hình thức pha trộn của trọng tài vì nó không hẳn là trọng tài như ở các nước và cũng không hẳn là toà án. Một tổ chức trọng tài như vậy chỉ có thể phù hợp với nền kinh tế tập trung mệnh lệnh. 1.1.2. Từ năm 1994 đến nay. Từ năm 1986 nhà nước Việt Nam chủ trương chuyển nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang một nền kinh tế nhiều thành phần vận thành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Bước ngoặt đó đã dẫn đến một loạt cải cách trong nền kinh tế. Trong đó đáng chú ý là chủ trương bình đẳng giữa các thành phần trong nền kinh tế, khuyến khích và phát triển kinh tế tư nhân; phát triển đầu tư trong nước và khuyến khích đầu tư nước ngoài, phát triển đa dạng hoá các quan hệ kinh tế quốc tế... Như vậy, bên cạnh số lượng lớn các doanh nghiệp nhà nước, số lượng các công ty doanh nghiệp tư nhân cũng ngày một gia tăng. Vấn đề đặt ra là phải cải tạo được một môi trường dân chủ và công bằng cho tất cả các thành phần trong nền kinh tế. Điều đó không chỉ có nghĩa là cần phải có một cơ chế pháp lý thích hợp để bảo vệ quyền và nghĩa vụ của các doanh nghiệp tư nhân cũng như các doanh nghiệp nhà nước. Ngoài ra, với chính sách mở cửa khuyến khích đầu tư nước ngoài, thu hút sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài đặc biệt là các nước phương tây cũng làm đa dạng hoá các mối quan hệ thương mại. Do những bất cập trong cơ chế của mình, cùng với những thay đổi của đời sống kinh tế xã hội, hiện nay trọng tài kinh tế nhà nước không còn tồn tại nữa. Sau khi trọng tài kinh tế nhà nước bị giải thể năm 1994, theo nghị định 116 - CP của chính phủ, các trung tâm trọng tài kinh tế đã và sẽ được thành lập. Tổ chức và hoạt động của trọng tài kinh tế do Điều lệ quyết định. Mặc dù mang tính chất là các tổ chức xã hội nghề nghiệp, các trung tâm trọng tài kinh tế vẫn chịu sự quản lý trực tiếp của nhà nước về vấn đề xét đơn xin thành lập trung tâm, chỉ định Hội đồng tuyển chọn trọng tài viên, cấp và thu hồi thẻ trọng tài viên... Hiện nay Việt Nam có một số trung tâm trọng tài kinh tế hoạt động, tiêu biểu như: Trung tâm trọng tài kinh tế Bắc Giang (tỉnh Bắc Giang), Trung tâm trọng tài kinh tế Hà Nội (Thành phố Hà Nội), trung tâm trọng tài kinh tế Thăng Long (thành phố Hà Nội), Trung tâm trọng tài kinh tế Sài Gòn (thành phố Hồ Chí Minh)... 1.2. Trọng tài thương mại quốc tế. 1.2.1. Giai đoạn từ 1960 đến 1993. Trong thời kỳ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, để có thể giải quyết các tranh chấp phát sinh trong quan hệ kinh tế quốc tế, bên cạnh mô hình tổ chức trọng tài kinh tế nhà nước còn có các tổ chức trọng tài giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế. Vào đầu năm 1960, thực tiễn khách quan đòi hỏi Việt Nam phải thành lập các tổ chức trọng tài để giải quyết tranh chấp phát sinh trong quan hệ kinh tế quốc tế, đặc biệt là trong quan hệ kinh tế quốc tế giữa Việt Nam với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác. Tuy rằng tỷ trọng buôn bán với nước ngoài của Việt Nam không lớn nhưng việc thành lập một tổ chức trọng tài mang tính chất xã hội nghề nghiệp để giúp các doanh nghiệp trong và ngoài nước giải quyết tranh chấp kinh tế là cần thiết. Do đó hai hội đồng trọng tài là hội đồng trọng tài ngoại thương đã được thành lập ngày 30/4/1963 và Hội đồng trọng tài hàng hải thành lập ngày 5/10/1964 bên cạnh phòng thương mại Việt Nam. Chức năng của Hội đồng trọng tài ngoại thương chỉ hạn chế trong việc giải quyết các tranh chấp phát sinh giữa các doanh nghiệp Việt Nam và các doanh nghiệp nước ngoài đối với các giao dịch thương mại trong phạm vi các hiệp định đã ký kết (điều 2 quy tắc tố tụng của Hội đồng trọng tài ngoại thương năm 1963). So với Hội đồng trọng tài ngoại thương, Hội đồng trọng tài hàng hải có thẩm quyền rộng hơn vì thẩm quyền đó không chỉ xuất phát từ các hiệp định mà Việt Nam ký kết mà còn từ thoả thuận của các bên đưa tranh chấp của họ ra giải quyết tại Hội đồng trọng tài hàng hải và chấp thuận quy tắc trọng tài của Hội đồng trọng tài hàng hải. Trên thực tế, cho đến năm 1986, số lượng tranh chấp phát sinh trong quan hệ giữa Việt Nam và các nước ngoài Hội đồng tương trợ kinh tế là rất ít. Nguyên nhân là do trong thời kỳ chiến tranh, nền kinh tế Việt Nam yếu kém và chủ yếu phụ thuộc vào sự viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa.Trong bối cảnh đó, tranh chấp thường xảy ra rất ít, nếu có thì các bên liên quan thường giải quyết bất đồng thông qua bồi thường tự nguyện hơn là bằng trọng tài thương mại mang tính tố tụng. 1.2.2. Giai đoạn từ 1993 đến nay Cùng với sự chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch sang một nền kinh tế thị trường, các quan hệ thương mại quốc tế ngày một đa dạng.Việc khuyến khích đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đã dẫn đến sự gia tăng các mối quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước trên thế giới.Thêm vào đó, kể từ khi nhà nước thừa nhận và khuyến khích khu vực kinh tế tư nhân, các doanh nghiệp tư nhân hình thành và phát triển nhanh chóng. Trước tình hình đó, việc duy trì song song hai tổ chức Hội đồng trọng tài ngoại thương và Hội đồng trọng tài hàng hải có những điểm chưa hợp lý và không đáp ứng được tình hình giải quyết tranh chấp thương mại trong hoạt động kinh tế đối ngoại. Trong hầu hết các tranh chấp, đa số bao gồm luôn cả hai yếu tố ngoại thương và hàng hải. Ngoại thương quốc tế đa phần gắn với hàng hải quốc tế. Hai tổ chức này ở Việt Nam, xét về mặt tính chất đều là những tổ chức xã hội - nghề nghiệp có trình tự tố tụng được quy định giống nhau (chỉ khác nhau về đối tượng tranh chấp). Các quy tắc của cả hai Hội đồng trọng tài này nhìn chung mới dừng lại ở tính nguyên tắc, chưa đầy đủ, thiếu chi tiết. Trước những đòi hỏi của tình hình mới, ngày 28/4/1993, Thủ tướng chính phủ ra quyết định số 204/TTg cho phép thành lập Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) bên cạnh phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam trên cơ sở hợp nhất hai Hội đồng trọng tài ngoại thương và Hội đồng trọng tài hàng hải. Hoạt động của trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam được quy định trong văn bản đi kèm theo quyết định 204/TTg. Trong tài phi chính phủ ngày càng đóng vai trò quan trọng trong hoạt động kinh tế của nước ta do đó đặt ra nhu cầu thiết yếu xây dựng quy chế pháp lý cho hoạt động của tổ chức này. Trước tình hình đó, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã thông qua pháp lệnh số 08 năm 2003 về trọng tài thương mại Việt Nam. Đây là văn bản pháp luật cao nhất về vấn đề này từ trước tới nay, tạo cơ sở thuận lợi cho việc phát triển cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài ở Việt Nam. 2. NHỮNG NÉT MỚI CỦA PHÁP LỆNH TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI 2003 SO VỚI NGHỊ ĐỊNH 116/CP VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TRỌNG TÀI Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 (sau đây gọi là pháp lệnh 2003) đề cập tới những vấn đề và quy định mà Luật tố tụng dân sự của Việt Nam chưa đề cập tới. Sự bổ sung này khiến cho chế định trọng tài của Việt Nam trở nên khá phù hợp với các quy định của quốc tế. Do đó pháp lệnh 2003 đóng một phần rất quan trọng trong việc thúc đẩy các hoạt động thương mại của Việt Nam. Việc áp dụng pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 khá độc lập so với luật tố tụng dân sự Việt Nam. 2.1. Những điểm tiến bộ mới pháp lệnh 2003 so với nghị định 116/CP. 2.1.1. Vấn đề phạm vi điều chỉnh. Điều 1 nghị định 116/CP quy định: "Trọng tài kinh tế là tổ chức xã hội - nghề nghiệp có thẩm quyền giải quyết tranh chấp về hợp đồng kinh tế; các tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau, liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể công ty; các tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu". Trong khi đó, điều 1 pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 quy định phạm vi điều chỉnh của pháp lệnh này là giải quyết các vụ tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại theo sự thoả thuận của các bên. Pháp lệnh cũng nêu ra định nghĩa cụ thể về hoạt động thương mại: là việc thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại cá nhân, tổ chức kinh doanh bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện; đại lý thương mại; ký gửi; thuê, cho thuê; thuê mua; xây dựng; tư vấn; kỹ thuật; li - xăng; đầu tư; tài chính; ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác; vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường hàng không, đường biển, đường sắt, đường bộ và các hành vi thương mại khác theo quy định của pháp lụât. Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng đối tượng của giải quyết tranh chấp bằng trọng tài trong nghị định 116/CP hẹp hơn so với pháp lệnh trọng tài thương mại 2003. Nghị định chỉ nêu đối tượng tranh chấp là giữa các công ty với thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau. Trong khi đó, pháp lệnh 2003 lại quy định đối tượng rộng hơn nhiều, đó là cá nhân và tổ chức kinh doanh, có nghĩa là giữa các cá nhân với nhau, giữa các tổ chức kinh doanh với nhau và giữa tổ chức kinh doanh và cá nhân. Hơn nữa, pháp lệnh 2003 cũng quy định một cách rõ ràng với những lĩnh vực tranh chấp, pháp lệnh cũng để ngỏ "các hành vi thương mại khác theo quy định của pháp luật" để tiện cho việc sửa đổi, bổ sung phù hợp với những hoàn cảnh mới sau này. 2.1.2. Vấn đề thoả thuận trọng tài Trước đây, pháp luật Việt Nam quy định về thoả thuận trọng tài khá là gò bó, không được thoáng và không tương đồng với các thông lệ quốc tế. Chẳng hạn như vấn đề hình thức của văn bản thoả thuận. Theo như điều 1 pháp lệnh hợp đồng kinh tế thì hợp đồng kinh tế phải được ký kết dưới hình thức văn bản. Như vậy, nếu như điều khoản này bị vi phạm thì hợp đồng kinh tế sẽ vô hiệu. Nghị định 116/CP cũng quy định thoả thuận trọng tài phải được đưa ra hình thức văn bản (khoản 2 điều 3). Trong khi đó, với sự phát triển của khoa học kỹ thuật hiện đại, thương mại quốc tế cũng đã có những bước phát triển về hình thức giao dịch để có thể tiết kiệm được thời gian. Vấn đề ký kết hợp đồng qua mạng Internet, qua máy fax... không còn là vấn đề mới mẻ và cũng khá phổ biến ở Việt Nam. Chính vì vậy mà cần phải có sự thay đổi để phù hợp với hoàn cảnh mới. Điều 9 khoản 1 pháp lệnh 2003 nêu: "Thoả thuận trọng tài phải được lập bằng văn bản. Thoả thuận trọng tài thông qua thư, điện báo, telex, thư điện tử hoặc hình thức văn bản khác thể hiện rõ ý chí của các bên giải quyết vụ tranh chấp trọng tài được là thoả thuận trọng tài bằng văn bản". Như vậy hình thức thoả thuận trọng tài khá là đa dạng. Một trong những nét tiến bộ hơn hẳn của pháp lệnh 2003 so với nghị định 116/CP đó là vấn đề tính độc lập của thoả thuận trọng tài với hợp đồng. Nhiều ý kiến cho rằng thoả thuận trọng tài là một phần của hợp đồng. Do đó, khi hợp đồng vô hiệu hoàn toàn thì thoả thuận trọng tài cũng sẽ vô hiệu. Như vậy nếu như có một bên cố tình làm vô hiệu hoàn toàn hợp đồng thì một cách hợp pháp họ có thể tránh được việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Điều này làm giảm vai trò của trọng tài trọng thực tiễn giải quyết những tranh chấp giữa các bên. Tuy nhiên, đến pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 thì quan điểm đã được bày tỏ rõ ràng: "Thoả thuận trọng tài có thể là điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc là một thoả thuận riêng" (điều 9 khoản 2).Điều đó có nghĩa là điều khoản trọng tài có thể được hiểu là "một hợp đồng trong một hợp đồng". 2.1.3. Vấn đề trọng tài viên. Một trong những điểm mới và được cọi là tiến bộ của pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 là quy chế trọng tài viên. Lần đầu tiên trong hệ thống pháp luật Việt Nam công nhận trọng tài viên không nhất phải là người được đào tạo về khoa học pháp lý.Trọng tài viên chỉ cần là người có hiểu biết sâu rộng, có kinh nghiệm về vấn đề tranh chấp. Trọng tài viên chỉ cần là người có uy tín và được các bên tin tưởng yêu cầu làm trọng tài viên trong khi chuyên ngành mà ông ta được đào tạo có thể là Quản trị kinh doanh chứ không phải luật kinh tế. Thậm chí trọng tài viên theo quy định của pháp luật cũng không cần phải là người chuyên làm trọng tài. Có thể ông ta chưa bao giờ làm trọng tài nhưng vẫn được mời làm trọng tài viên, lần giải quyết tranh chấp đó là lần duy nhất trong đời ông ta làm trọng tài nhưng ông ta vẫn được công nhận là trọng tài tức là những quyết định của ông ta đưa ra có giá trị trung thẩm nếu như ông ta đáp ứng đủ những yêu cầu sau của pháp lệnh (điều 12): - Công dân Việt Nam, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có thẩm chất đạo đức tốt, trung thực, vô tư, khách quan; có bằng đại học và đã qua thực tế công tác theo ngành đã học từ năm năm trở lên. - Ngoài ra người đang bị quản chế hành chính, đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đã bị kết án mà chưa được xoá án tích thì không được làm trọng tài viên. - Thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên, chấp hành viên, công chức đang công tác tại toà án nhân dân, Viên kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án không được làm trọng tài viên. Quy chế trọng tài viên của pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 có quy định cụ thể một trong những tiêu chí để trở thành trọng tài viên là phải tốt nghiệp đại học và có 5 năm kinh nghiệm trong ngành mà mình được đào tạo. Quy định này hoàn toàn mới so với nghị định 116/CP về trọng tài kinh tế. Đến pháp lệnh này, những tiêu chuẩn của trọng tài viên đã được nâng cao hơn. Việc quy định như vậy càng đảm bảo tính đúng đắn của quyết định trọng tài. Vì trọng tài càng là người có kiến thức tốt, có nhiều kinh nghiệm thì sẽ càng có lợi cho việc giải quyết các vụ tranh chấp giữa các bên. 2.1.4. Vấn đề sử dụng ngôn ngữ trong quá trình tố tụng trọng tài. Theo quy định tại khoản 1 điều 24 của nghị định 116/CP thì: Tiếng nói, chữ viết dùng trong quá trình giải quyết tranh chấp là tiếng Việt. Như vậy, ngôn ngữ sử dụng trong quá trình giải quyết tranh chấp được pháp luật ấn định và các bên không có quyền thoả thuận. Nếu trong vụ tranh chấp có yếu tố nước ngoài mà các bên đương sự chọn giải quyết bằng trọng tài Việt Nam thì vẫn phải sử dụng tiếng Việt và thuê phiên dịch tiếng nước ngoài. Điều này gây rất nhiều cản trở cho việc giải quyết các tranh chấp. Bởi vì trong thời đại ngày nay, hoạt động thương mại không chỉ thu hẹp trong nội bộ quốc gia mà các doanh nghiệp nước ngoài cũng thường xuyên tìm đến Việt Nam, các doanh nghiệp Việt Nam cũng muốn mở rộng hoạt động của mình ra nước ngoài. Tuy nhiên, pháp lệnh 2003 đã có những phát triển phù hợp với hoàn cảnh mới bằng việc quy định cho phép sử dụng tiếng nước ngoài trong quá trình giải quyết tranh chấp thương mại trọng tài (điều 49). Điều này làm tăng tính hấp dẫn của cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài ở Việt Nam. Nhưng nó cũng đặt ra một thách thức đối với các trung tâm trọng tài Việt Nam về việc phải đổi mới và bổ sung hơn nữa về mặt sử dụng ngôn ngữ, chủ yếu là các ngôn ngữ thông dụng. 2.1.5. Nguyên tắc áp dụng luật để giải quyết vụ tranh chấp. Đối với vụ tranh chấp giữa các bên Việt Nam, Hội đồng trọng tài áp dụng pháp luật của Việt nam để giải quyết tranh chấp. Đối với vụ tranh chấp có yếu tố nước ngoài Hội đồng trọng tài áp dụng pháp luật do các bên lựa chọn. Việc lựa chọn pháp luật nước ngoài và việc áp dụng pháp luật nước ngoài không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam trong trường hợp các bên không lựa chọn được pháp luật để giải quyết vụ tranh chấp thì Hội đồng trọng tài quyết định. (điều 7 pháp lệnh 2003). 2.1.6. Tính cưỡng chế của quyết định trọng tài. Quyết định trọng tài được đưa ra theo nguyên tắc đa số trừ trường hợp vụ tranh chấp do một trọng tài viên giải quyết. ý kiến thiểu số được ghi vào biên bản phiên họp (điều 42 pháp lệnh 2003). Quyết định trọng tài phải có đầy đủ chữ ký của các trọng tài viên. Trường hợp có trọng tài viên không ký vào quyết định trọng tài thì Chủ tịch Hội đồng trọng tài phải ký thay và ghi rõ lý do (điều 44 pháp lệnh 2003).Trong quyết định trọng tài có thể không nêu ra các vấn đề tranh chấp, cơ sở của các quyết định về vụ tranh chấp nếu như các bên có yêu cầu. Quyết định trọng tài là quyết định mang tính trung thẩm. Trong nghị quyết 116/CP thì tính trung thẩm của quyết định trọng tài chỉ kéo dài đến khi có một bên yêu cầu. Toà án nhân dân có thẩm quyền xét xử theo thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế (điều 31). 3. MỐI QUAN HỆ GIỮA CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG TRỌNG TÀI VÀ TOÀ ÁN. Thẩm quyền hoạt động của trọng tài dựa trên sự lựa chọn tự nguyện của các bên thể hiện bằng một điều khoản trọng tài hay thoả thuận trọng tài. Các bên tự nguyên đưa tranh chấp ra giải quyết bằng một uỷ ban trọng tài, tự thoả thuận về phạm vi tranh chấp mà uỷ ban trọng tài được quyền giải quyết... Như vậy, quyền lực trọng tài bắt nguồn từ "quyền lực theo hợp đồng" hay "quyền lực đại diện" do các bên tranh chấp, giao phó, uỷ nhiệm. Trong khi đó, toà án là đại diện của quyền lực nhà nước, xét xử các tranh chấp mà pháp luật cho phép. Trong khi giải quyết một vụ tranh chấp nào đó, trọng tài chỉ có thể hoạt động trong phạm vi giới hạn, tức là chỉ được giải quyết một số vụ tranh chấp nhất định và theo cách thức nhất định do các bên lựa chọn và thoả thuận trong điều khoản trọng tài. Nếu như ủy ban trọng tài vượt quá thẩm quyền của mình, không thực hiện đúng đắn, đầy đủ, vô tư công bằng trách nhiệm được các bên giao phó thì các bên có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét lại quyết định trọng tài. Như vậy, cần phải có một cơ chế kiểm tra, giám sát của quyền lực nhà nước đối với trọng tài. Hiện nay, ở Việt Nam, mối quan hệ giữa cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài và toà án thể hiện ở hoạt động hỗ trợ và giám sát của toà án đối với trọng tài. 3.1. Hoạt động hỗ trợ của toà án đối với trọng tài. Hiện nay, toà án hỗ trợ cho trọng tài thương mại rất nhiều trong quá trình giải quyết tranh chấp. Trước hết, toà án không can thiệp quá sâu vào cơ chế trọng tài mà toà án rất tôn trọng các thoả thuận hay điều khoản trọng tài giữa các bên tranh chấp. Toà án sẽ từ chối thụ lý những vụ tranh chấp mà đã có thoả thuận hay điều khoản trọng tài hoặc thoả thuận hay điều khoản trong tài chưa vô hiệu. Một trong những điểm quan trọng về sự hỗ trợ của toà án đối với trọng tài là việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Trên thực tế, thẩm quyền cho áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời thuộc về toà án. Nhưng nếu trong quá trình tố tụng trọng tài, một bên có yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì vẫn được toà án hỗ trợ. Các bên tranh chấp có quyền yêu cầu toà án cấp tỉnh, nơi Hội đồng trọng tài thụ lý vụ tranh chấp áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời, theo điều 33 pháp lệnh 2003, bao gồm: - Bảo toàn chứng cứ trong trường hợp chứng cứ đang bị tiêu hủy hoặc có nguy cơ bị tiêu hủy. - Kê biên tài sản tranh chấp - Cấm chuyển dịch tài sản tranh chấp. - Cấm thay đổi hiện trạng tài sản tranh chấp. - Kê biên và niêm phong tài sản ở nơi gửi giữ - Phong toả tài khoản tại ngân hàng. Bên yêu cầu phải gửi đơn yêu cầu đến toà án và phải nộp một khoản tiền bảo đảm do toà án ấn định nhưng không quá nghĩa vụ tài sản mà người có nghĩa vụ phải thực hiện để bảo lợi ích của bị đơn và ngăn ngừa sự lạm dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời từ phía người có yêu cầu. Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải gửi ngay cho Hội đồng trọng tài giải quyết vụ tranh chấp đó. Trường hợp bên yêu cầu muốn thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời thì phải gửi đơn yêu cầu tới toà án. Nếu quyết định này được chấp nhận thì bên yêu cầu được nhận lại số tiền bảo đảm của mình. Như vậy, toà án đã thực hiện phần trách nhiệm của mình đối với vấn đề áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Vấn đề này không thuộc thẩm quyền của trọng tài. Nhưng trong quá trình giải quyết tranh chấp, nếu thủ tục áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là cần thiết thì toà án sẽ hỗ trợ cho trọng tài thực hiện phần trách nhiệm này để giúp cho việc giải quyết tranh chấp được thực hiện tốt hơn. 3.2. Hoạt động giám sát của toà án đối với trọng tài Toà án thường thực hiện một sự giám sát nhất định đối với trọng tài thương mại. Mặc dù quá trình giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài là khá độc lập nhưng trong quá trình giải quyết, nếu các bên yêu cầu, toà án sẽ có những hành động xem xét, giám sát hoạt động của trọng tài thương mại. Toà án có thẩm quyền đưa ra phán quyết về giá trị pháp lý của thoả thuận hay điều khoản trọng tài. Điều 30 pháp lệnh 2003 quy định:"Các bên có quyền yêu cầu toà án cấp tỉnh nơi Hội đồng trọng tài ra quyết định xem xét lại quyết định của Hội đồng trọng tài", "Trong trường hợp toà án quyết định vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài, vụ tranh chấp không thoả thuận trọng tài hoặc thoả thuận trọng tài vô hiệu thì Hội đồng trọng tài ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ tranh chấp". Điều đó có nghĩa là toà án đã thực hiện chức năng giám sát đối với tọng tài thương mại trong quá trình giải quyết tranh chấp. Toà án có quyền ra quyết định về thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp thương mại bằng trọng tài thể hiện ở việc xác định giá trị pháp lý của thoả thuận trọng tài. Ngoài ra, theo điều 10 pháp lệnh 2003, thoả thuận trọng tài vô hiệu trong một số trường hợp sau: người ký thoả thuận trọng tài không có thẩm quyền ký kết đầy đủ theo pháp lệnh này hay không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; thoả thuạn trọng tài không quy định rõ đối tượng tranh chấp, thoả thuận trọng tài không được lập bằng văn bản (thư, điện báo, telex, fax, thư điện tử hoặc hình thức văn bản khác); bên ký kết thoả thuận trọng tài bị lừa dối hay đe doạ hoặc có yêu cầu tuyên bố thoả thuận trọng tài vô hiệu.Thời hiệu yêu cầu tuyên bố thoả thuận trọng tài vô hiệu trong trường hợp bị lừa dối ép buộc là 6 tháng kể từ ngày ký kết thoả thuận trọng tài. Toà án không chỉ xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài thương mại mà còn có thẩm quyền huỷ quyết định của trọng tài thương mại mặc dù quyết định đó là trung thẩm. Liệu như vậy thì toà án có thực hiện chức năng giám sát quá sâu vào hoạt động của trọng tài không? câu trả lời phụ thuộc vào những căn cứ nào để toà án dựa vào để quyết định hủy quyết định trọng tài. Những căn cứ này được quy định rõ ở điều 54 pháp lệnh 2003: - Không có thoả thuận trọng tài - Thoả thuận trọng tài vô hiệu theo quy định tại điều 10 pháp lệnh - Thành phần Hội đồng trọng tài, tố tụng trọng tài không phù hợp với thoả thuận của các bên theo quy định của pháp lệnh. - Vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài trong trường hợp quyết định trọng tài có một phần không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thì phần quyết định này bị hủy. - Bên yêu cầu chứng minh được trong quá trình giải quyết vụ tranh chấp có trọng tài viên vi phạm nghĩa vụ của trọng tài viên quy định tài khoản 2 điều 13 của pháp lệnh. - Quyết định trọng tài với lợi ích công cộng của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Như vậy, trọng tài thương mại phi chính phủ không hoạt động độc lập với toà án mà hoạt động trong mỗi quan hệ nhất định với toà án. Toà án không chỉ giám sát hoạt động của trọng tài mà còn hỗ trợ để trọng tài có điều kiện hoạt động tốt hơn. CHƯƠNG III. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ PHÁP LỆNH TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI 2003 VÀ MỘT SỐ ĐỀ KIẾN NGHỊ. XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN VĂN HOÁ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ. DOANH NGHIỆP VIỆT NAM ĐÓN NHẬN TRỌNG TÀI NHƯ THẾ NÀO TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ HIỆN NAY. 1.1. Đánh giá chung Pháp lệnh trọng tài thương mại Việt Nam là văn bản pháp luật cao nhất và hoàn chỉnh nhất từ trước tới nay về chế định trọng tài ở Việt Nam. Cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài cũng được nâng cao và hoàn chỉnh với nhiều điểm mới. Quyền của các bên tranh chấp gần như được tôn trọng tối đa, mọi công dân thuộc tất cả các ngành nghề, nếu đáp ứng đủ những tiêu chuẩn mà pháp lệnh đề ra đều có thể được làm trọng tài viên. Mặc dù cơ chế trọng tài ở Việt Nam từ sau pháp lệnh này khá là độc lập so với toà án nhưng vẫn nhận được sự hỗ trợ, giám sát cần thiết của toà án để hoạt động tốt hơn.Điều đó có nghĩa là cơ chế trọng tài vẫn đảm bảo sự độc lập trong thống nhất với hệ thống pháp luật Việt Nam. Tính cưỡng chế của quyết định trọng tài rất thực tế, rõ ràng và hoạt động rất hiệu quả. Với một cơ chế trọng tài như hiện nay, các trung tâm trọng tài có nhiều cơ hội phát triển, phát huy được những điểm mạnh vốn có của mình. Đây cũng là một dấu hiệu đáng mừng vì mỗi cơ quan, mỗi doanh nghiệp, mỗi cá nhân, mỗi người dân sẽ có thêm những cơ hội để được giúp đỡ, tư vấn và hiểu biết rõ ràng về pháp luật. Ngoài ra, những quy định về trọng tài hiện nay của ta là tương đối phù hợp so với những quy định chung của quốc tế. Chính vì vậy, trọng tài Việt Nam ngày càng là sự lựa chọn của nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nước ngoài. Bên cạnh chính sách mở rộng đầu tư, khuyến khích đầu tư của nhà nước ta, trọng tài thương mại Việt Nam đang đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo một môi trường đầu tư ổn định, tạo một niềm tin cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên, bên cạnh những khoảng sáng, pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 vẫn còn có những khoảng tối, những khoảng nhờ nhờ. Tiêu biểu là vấn đề đối tượng điều chỉnh của tranh chấp, chỉ giới hạn ở các cá nhân và tổ chức kinh doanh. Đặc điểm của các hoạt động thương mại là bao quát khá nhiều đối tượng, không chỉ là các doanh nghiệp, các cá nhân hoạt động trong lĩnh vực kinh tế mà còn có nhiều đối tượng khác nữa. Hoạt động thương mại có liên quan nhiều đến quan hệ mua, bán, cho thuê. Mà những quan hệ này không nhất thiết chỉ xuất hiện và tồn tại trong giới kinh doanh mà còn rất nhiều các cơ quan hành chính nhà nước, các bộ ngành, các cá nhân khác cũng thường xuyên tham gia vào mối quan hệ này. Chẳng hạn như tranh chấp hợp đồng thương mại giữa Bộ Khoa học và Công nghệ với một công ty tư nhân cung cấp máy tính nào đó cũng hoàn toàn có thể là đối tượng của trọng tài thương mại nếu trong hợp đồng có quy định cụ thể về điều khoản trọng tài. Tuy nhiên, những tranh chấp như vậy lại không được đề cập tới trong pháp lệnh 2003 nên vẫn không thuộc đối tượng giải quyết của trọng tài thương mại. 1.2. Xu hướng phát triển văn hoá trọng tài thương mại quốc tế. Trong những năm gần đây, trong xu thế hội nhập của kinh tế quốc tế, nhiều chuyên gia trọng tài quốc tế thường bàn luận nhiều đến khái niệm "văn hoá trọng tài quốc tế". Cho đến nay "văn hoá trọng tài quốc tế" không phải là một khái niệm thống nhất trong cách nhìn nhận của các quốc gia khác nhau. Trước hết người ta cần quan niệm đó là một xu hướng chung trong lĩnh vực trọng tài quốc tế nhằm không chỉ tăng cường sử dụng bất kỳ loại hình trọng tài nào mà là hình thức trọng tài phục vụ cho khái niệm văn hoá. Người ta sử dụng khái niệm trọng tài khi họ thấy rằng nó có ý nghĩa lớn hơn các hình thức giải quyết tranh chấp khác.Các hình thức giải quyết tranh chấp khác thường bao gồm: xét xử tại một toà án quốc gia, thương lượng bởi các bên tranh chấp với nhau hoặc hoà giải với sự tham gia của người thứ ba. Quá trình trọng tài dẫn đến một quyết định ràng buộc của một trọng tài viên, trong khi thương lượng hoặc hoà giải không dẫn đến một quyết định giải quyết tranh chấp bởi vì kết quả của nó còn tuỳ thuộc vào sự thoả thuận giữa các bên. Nếu không có trọng tài thì việc xét xử tại toà là giải pháp lựa chọn duy nhất, khi các bên không tự thoả thuận được với nhau về cách giải quyết tranh chấp và tối thiểu một trong các bên có tranh chấp muốn làm sao để cho các quyền mà mình cho là hợp pháp phải được công nhận hoặc thi hành. Hay nói cách khác ít nhất phải có một bên tranh chấp muốn đưa vụ kiện ra toà để giải quyết bằng pháp luật. Tuy nhiên với khả năng sử dụng trọng tài. Bên tranh chấp có thể tránh được việc xét xử và vẫn có thể có một quyết định ràng buộc đối với các bên khi thoả thuận đưa tranh chấp ra trọng tài. Hiện nay, thực tế kinh doanh quốc tế cho thấy một chiều hướng khá phổ biến đó là trọng tài nói chung được ưa chuộng hơn là xét xử tại một toà án quốc gia. Trọng tài có đặc điểm của cả xét xử và trọng tài. Một quyết định mang tính ràng buộc làm cho nó giống với xét xử. Nhưng trọng tài cũng có đặc điểm của hoà giải, vì nó dựa trên cơ sở một thoả thuận của các bên tranh chấp. Một quyết định ràng buộc chiếm vị trí ưu tiên trong khi đặc điểm thoả thuận thường chỉ thấy vào thời điểm ký kết hợp đồng mà trong đó có bao hàm cả điều khoản trọng tài. Vào thời điểm đó, không hề có tranh chấp hiện diện hoặc đoán trước là sẽ nghiêm trọng. Điều đó là ngoại lệ (cho dù đôi khi nó cũng xuất hiện) vì các bên có tranh chấp ký kết một thoả thuận trọng tài. Hơn nữa, xét xử và trọng tài cùng chia sẻ một điểm chung đó là cả hai loại hình này đều liên quan nhiều hay ít đến tranh tụng và các thủ tục đối kháng. Cuối cùng, trọng tài ngày càng trở nên giống xét xử bởi vì ở khắp nơi người ta đều tin rằng trọng tài viên phải vận dụng các quy định pháp luật về nội dung khi giải quyết tranh chấp hơn là quyết định tư tưởng pháp chế hoặc công bình phán định trừ khi các bên thoả thuận rõ ràng như vậy. Bởi vậy, trọng tài có xu hướng trở thành xét xử nhưng chỉ với một cái tên khác đi. Trọng tài có thể xích lại gần hoà giải nếu các bên tranh chấp trao quyền cho trọng tài viên quyền làm người trung gian hoà giải. Nếu điều này xảy ra, một trọng tài viên có thể đưa ra giải pháp thích hợp, chẳng hạn như là một hoà giải viên với sự nhân nhượng lẫn nhau. Đó cũng vẫn còn là trọng tài, nhưng nó đã trở nên gần giống với hoà giải hoặc trung gian hoà giải cả trong kết quả về nội dung và thủ tục. Các nước Châu á nói chung có truyền thống ưa chuộng sử dụng biện pháp hoà giải trong giải quyết tranh chấp. Chính vì lẽ đó, mà trong lịch sử pháp luật Việt Nam, chúng ta có truyền thống giải quyết tranh chấp bằng hoà giải. Hoà giải đã trở thành văn hoá hay chúng ta có thể gọi là văn hoá hoà giải. Còn về văn hoá trọng tài thì rõ ràng là chưa được hình thành rõ rệt. Bằng chứng đó là qua thực tiễn giải quyết tranh chấp kinh tế từ trước tới nay, trọng tài thương mại thường ít được sử dụng. Mặc dù chúng ta đã có tiếp cận ít nhiều với các vụ việc trọng tài quốc tế, song cách ứng xử của đại đa số các bên có liên quan trong các vụ tranh chấp vẫn coi trọng vào việc hoà giải. Điều này thể hiện trong con số thống kê các vụ việc mà các tổ chức trọng tài quốc tế của ta từ trước đến nay đã giải quyết. Theo báo cáo của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam năm 1997, thì trong thời gian từ khi thành lập đến năm 1997, số vụ việc hoà giải chiếm một tỷ lệ khá cao trong tổng số vụ việc đã thụ lý 21/83 vụ (tức gần 1/4). Còn theo báo cáo của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam năm 2004, trọng nhiệm kỳ 1998 - 2001, Trung tâm đã thụ lý 74 vụ kiện, trong đó đã xét xử, ra phán quyết 45 vụ, ra quyết định công nhận hoà giải 9 vụ, nguyên đơn rút đơn kiện 13 vụ. Như vậy, con số thống kê từ thực tế giải quyết tranh chấp cho thấy, Việt Nam cũng giống như các quốc gia Châu á khác có truyền thống ưa chuộng hoà giải trong giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế. Tuy nhiên, trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra hiện nay, chúng ta không thể không tính tới một xu hướng hoà nhập với pháp luật và tập quán thương mại quốc tế mà nhiều quốc gia Châu á khác đã đi đầu như Nhật Bản, Hồng Kông, Singapore, Thái Lan, Trung Quốc...đó là sẵn sàng ứng xử theo xu hướng trọng tài quốc tế khi cần thiết. 1.3. Doanh nghiệp Việt Nam đón nhận trọng tài như thế nào trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Doanh nghiệp Việt Nam biết đến trọng tài như một phương thức hữu hiệu để giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế từ đầu những năm 1960, khi mà Việt Nam thành lập 2 tổ chức trọng tài bên cạnh Phòng Thương mại và phòng Công nghiệp Việt Nam: Hội đồng trọng tài ngoại thương năm 1963 và Hội đồng trọng tải hàng hải năm 1964. Đến năm 1993 hai tổ chức trọng tài thường trực này đã được hợp nhất thành Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam (viết tắt tiếng Anh là VIAC) như ngày nay. Nhưng trong suốt thập kỷ 60, 70 và 80 vừa qua thương mại quốc tế của Việt Nam chủ yếu được tiến hành bởi các doanh nghiệp nhà nước Việt nam với các đối tác cũng là doanh nghiệp nhà nước của các nước xã hội chủ nghĩa trong khuôn khổ Hội đồng tương trợ kinh tế (khối Comecon). Việc tranh chấp thương mại từ các hợp đồng mua bán hoặc trao đổi hàng hoá được giải quyết trong khuôn khổ điều kiện chung giao hàng, một loạt hiệp định thương mại song phương mà thời đó ở Việt Nam đã ký với mỗi nước XHCN.Theo hiệp định này, tranh chấp được mang ra xét xử trước Hội đồng trọng tài ngoại thương của nước có trụ sở của bị đơn. Việc thi hành phán quyết trọng tài cũng được thực hiện thông qua hiệp định tương trợ tư pháp song phương giữa Việt Nam và các nước XHCN thời đó. Trên thực tế, một vài tranh chấp đã phát sinh nhưng đều được giải quyết chủ yếu thông qua thương lượng và hoà giải (giảm giá hàng khi chất lượng không đạt yêu cầu của hợp đồng, giao hàng bổ sung khi giao hàng thiếu...) mà không cần đến triển khai tố tụng trọng tài theo đúng nghĩa của nó. Doanh nghiệp Việt Nam chỉ thực sự biết đến trọng tài khi Việt Nam mở cửa kinh tế từ năm 1986 và phát triển nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần. Từ năm 1990, doanh nghiệp Việt Nam không chỉ bao gồm doanh nghiệp nhà nước mà còn một số lượng các doanh nghiệp dân doanh ngày càng tăng, được thành lập dưới dạng công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân. Bên cạnh đó, đầu tư nước ngoài cũng phát triển mạnh, góp phần phát triển thương mại và đầu tư ở Việt Nam. Trong bối cảnh phát triển kinh tế và hội nhập của Việt Nam và nhất là trước ngưỡng cửa Việt Nam sắp gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) thì vấn đề giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng trọng tài ngày càng thu hút sự quan tâm thực sự của doanh nghiệp Việt Nam. Một hợp đồng thương mại quốc tế thường khác hợp đồng thương mại nội địa ở hai điểm cơ bản: Chọn luật áp dụng và chọn cơ quan xử lý tranh chấp. Nói tóm lại doanh nghiệp Việt Nam cần thận trọng trong đàm phán, ký kết hợp đồng thương mại quốc tế. Khi đã ký kết hợp đồng thì doanh nghiệp Việt Nam cần tôn trọng cam kết qua việc thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ theo hợp đồng. Không nên vì giá hàng lên sau khi ký hợp đồng mà mình với tư cách là người bán hàng từ chối thanh toán và từ chối nhận hàng để dẫn đến tranh chấp thương mại và tranh chấp này phải đem ra giải quyết trọng tài. Điều này cũng thường xảy ra tương tự ở các thương nhân nước ngoài. Tuy hiện tượng này là không dễ tránh khỏi trong hoạt động thương mại thời kinh tế thị trường, nhưng điều quan trọng là việc từ chối giao, nhận và từ chối thanh toán phải có đủ căn cứ pháp lý trên cơ sở tôn trọng đạo đức kinh doanh. Doanh nghiệp Việt Nam không nên chỉ tham gia tố tụng trọng tài khi mình là nguyên đơn mà nên tham gia ngay cả khi mình là bị đơn. Khi có phán quyết trọng tài buộc mình phải trả tiền đền bù thiệt hại cho nguyên đơn nước ngoài thắng kiện thì mình cũng nên tự nguyện thi hành phán quyết, không nên nêu ra những lý do này hay lý do khác để từ chối thi hành phán quyết cho dù lý do nhất thời được các cấp toà án Việt Nam chấp thuận để từ chối công nhận các phán quyết của trọng tài nước ngoài. Điều đó làm ảnh hưởng đến hình ảnh tôn trọng cam kết của doanh nghiệp Việt Nam cũng như tính nghiêm minh của pháp luật Việt Nam, nhất là trong bối cảnh Việt Nam sáp nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). 3.4. Một số kiến nghị Để hoàn thiện về mặt pháp lý cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài ở Việt Nam, theo em, chúng ta cần: Mở rộng hơn nữa đối tượng của cơ chế trọng tài thương mại Việt Nam. Quy định cụ thể, rõ ràng, thông thoáng đối với các đối tượng thuộc phạm vi điều chỉnh của trọng tài nhằm thúc đẩy cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài. Tăng cường phát triển hoạt động của các luật sư theo hướng xã hội hoá và chuyên nghiệp hoá công tác luật sư. Với số lượng luật sư còn ít như hiện nay, với tư tưởng chưa coi trọng vai trò Luật sư của các doanh nghiệp thì tranh chấp rất dễ phát sinh ngay từ khi ký kết hợp đồng. Do đó cần phải nâng cao vai của luật sư trong các hoạt động thương mại và vấn đề này cần được quy định thành luật cụ thể. Về vấn đề đạo đức nghề nghiệp của trọng tài viên cũng là một vấn đề nan giải. Hiện nay vẫn chưa có những tiêu chuẩn cụ thể về phẩm chất đạo đức tốt, trung thực, vô tư, khách quan của trọng tài viên cho nên khi có sự vi phạm rất khó xác định. Đây là một vấn đề quan trọng, vì nếu trọng tài viên vi phạm yêu cầu đạo đức nghề nghiệp thì thậm chí quyết định của trọng tài có thể bị huỷ bỏ. Do đó cần phải đưa ra những chuẩn mực cụ thể hơn nữa đối với vấn đề đạo đức trọng tài viên. Xét trên nhiều mặt, xét một cách tổng thể, pháp lệnh trọng tài thương mại Việt Nam là một thành công lớn của các nhà làm luật Việt Nam. Thực tiễn áp dụng vấn đề này sẽ là cán cân, là thước đo chính xác nhất, công bằng nhất đối với cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài ở Việt Nam. KẾT LUẬN Trong bối cảnh chung của quan hệ kinh tế quốc tế hiện nay, thương mại đóng một vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế quốc gia phát triển mạnh. Bên cạnh những lợi ích mà nó mang lại, đi cùng với đó là vô số những phức tạp nảy sinh từ mối quan hệ này. Lợi nhuận bao giờ cũng là mục tiêu hàng đầu mà các bên tham gia quan hệ quốc tế theo đuổi. Do đó, khi không thể tìm thấy điểm chung về lợi ích, tranh chấp trong quan hệ thương mại nảy sinh.Tuy nhiên, tranh chấp cũng không phải là mục đích và cũng không bao giờ là mục đích của các hoạt động kinh tế nói chung và các hoạt động thương mại nói riêng. Các bên tham gia vào quan hệ thương mại không mong muốn tranh chấp phát sinh và luôn muốn tránh phát sinh tranh chấp nên rất chú tâm vào việc phòng ngừa và tìm biện pháp thích hợp để loại bỏ tranh chấp. Với tính chất nhanh chóng, mềm dẻo, linh hoạt, hiệu quả cũng như những ưu thế khác trong việc giải quyết tranh chấp thương mại vốn cần nhanh gọn, chính xác và ít tốn kém, nên trọng tài ngày càng được các nhà kinh doanh trên thế giới quan tâm và sử dụng trong việc giải quyết tranh chấp. Trong khuôn khổ Liên Hợp Quốc, UNCITRAL đã tiến hành soạn thảo các quy chế mẫu về thể lệ trọng tài để các quốc gia thành viên áp dụng. Nhìn chung, những ưu điểm của phương thức trọng tài so với các biện pháp giải quyết khác ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với việc giải quyết tranh chấp trong mọi lĩnh vực, đặc biệt là trong quan hệ thương mại quốc tế. Cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài chưa có lịch sử phát triển lâu đời ở Việt Nam. Bản thân việc thói quen sử dụng biện pháp trọng tài để giải quyết tranh chấp kinh tế nói chung và tranh chấp thương mại nói riêng cũng không phổ biến trong đời sống văn hoá, pháp luật của người Việt Nam.Tuy nhiên, Nhà nước Việt Nam đã và đang ra sức tiến hành cải cách pháp luật nhằm xây dựng một hành lang pháp lý an toàn cho hoạt động thương mại trong nước cũng như có yếu tố nước ngoài. Khi Việt Nam đang hội nhập ngày càng sâu rộng vào quan hệ kinh tế quốc tế thì việc tìm hiểu, nghiên cứu và hoàn thiện những quy định pháp lý về trọng tài là một vấn đề cần được ưu tiên bởi Việt Nam không thể đứng ngoài xu thế chung của thế giới - xu thế sử dụng trọng tài để giải quyết tranh chấp trong quan hệ quốc tế. Việt Nam đã ban hành pháp lệnh trọng tài thương mại 2003, một văn bản pháp lý khá hoàn chỉnh tạo cơ sở cho trọng tài thương mại Việt Nam hoạt động có hiệu quả trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại trong nước cũng như các tranh chấp có yếu tố nước ngoài. Ngoài ra, với đặc trưng của các hoạt động thương mại, nhiều khi các tranh chấp được giải quyết không phải bởi trọng tài Việt Nam mà do trọng tài của một nước nào đó giải quyết. Việt Nam cũng đã gia nhập công ước New York 1958 về công nhận và thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài, đồng thời cũng ban hành pháp lệnh 1995 về vấn đề này. Do đó ta thấy, khung pháp lý về cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài khá hoàn chỉnh và không ngừng được cải thiện phù hợp ở Việt Nam. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT THEO TIẾNG ANH ICC International Chamber of Commere Phòng thương mại quốc tế AAA American Arbitration Association Hiệp hội Trọng tài Mỹ LCIA London Court of International Arbitration Toà án Trọng tài quốc tế London ICSID International Center for the Settlement of Investment Disputes Trung tâm quốc tế giải quyết tranh chấp về đầu tư UNCITRAL United Nations Commission on the International Trade Law Uỷ ban Liên hợp Quốc về Luật thương mại quốc tế DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình Tư pháp Quốc tế, Đại luật Luật Hà Nội Giáo trình Tư pháp Quốc tế, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội Giáo trình Luật Quốc tế, Đại học luật Hà Nội. Giáo trình Luật Kinh tế Quốc tế, Đại học Luật Hà Nội. Giáo trình Luật kinh tế, Đại học Kinh tế Quốc dân 6. Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán toà án Nhân Dân Tối Cao số 05/2003/NQ – HĐTP ngày 31/7/2003 hướng dẫn thi hành một số quy định của pháp lệnh Trọng tài thương mại Hội đồng thẩm phán toà án Nhân Dân Tối Cao. 7. Nghị định của Chính phủ số 25/2004/NĐ - CP ngày 15/1/2004 quy định chi tiết thi hành một số điều của pháp lệnh Trọng tài thương mại. 8. Luật Thương mại Việt Nam 1997 9. Pháp lệnh Trọng tài thương mại Việt Nam 2003 10.Nghị định 116/CP ngày 5/9/1994 về Tổ chức và hoạt động của Trọng tài kinh tế Chính phủ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docGiải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài ở Việt Nam.doc