Hoàn thiện chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực ở Huyện Đông Anh giai đoạn 2006 - 2010

PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Con người là chủ thể của quá trình sản xuất - kinh doanh. Con người khuôn mẫu gắn liền với hiệu quả của mọi quá trình lao động xã hội. Nguồn nhân lực là tiềm năng lao động trong một thời kỳ xác định của một quốc gia, cũng có thể xác định trên một địa phương, một ngành, hay một vùng. Theo đó, nguồn nhân lực được xác định bằng số lượng và chất lượng của bộ phận dân số có thể tham gia vào quá trình hoạt động kinh tế xã hội. Tiềm năng lao động của con người bao trùm cả thể lực, trí lực và tâm lực (như đạo đức, lối sống, nhân cách và truyền thống lịch sử văn hoá dân tộc). Số lượng, chất lượng của bộ phận dân số có thể tham gia vào hoạt động kinh tế xã hội chính là số lượng, chất lượng của bộ phận dân số trong độ tuổi đang có việc làm, chưa có việc làm nhưng có khả năng làm việc. Chất lượng nguồn nhân lực để thể hiện bằng các chỉ tiêu: về tình trạng phát triển thể lực; trình độ học vấn; kiến thức; tay nghề; tác phong nghề nghiệp; v.v Số lượng, chất lượng nguồn nhân lực gắn bó chặt chẽ với quá trình đào tạo phát triển. Quá trình đào tạo làm biến đổi nguồn nhân lực cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu nhằm phát huy, khơi dậy những tiềm năng của con người, thúc đẩy phát triển con người về tri thức, kỹ năng, phẩm chất; thúc đẩy sáng tạo v.v Trong những năm tới, yêu cầu CNH, HĐH, đô thị hoá nhanh của thủ đô Hà Nội, đặc biệt ở một huyện ngoại thành như Đông Anh. Yêu cầu số lượng, chất lượng nguồn nhân lực có những đòi hỏi mới. Nhiệm vụ của đào tạo phát triển phải có những đổi mới thích ứng nhằm bảo đảm yêu cầu của tình hình mới. Những năm qua, Hà Nội trong đó có Đông Anh có nhiều cố gắng trong việc thực hiện kế hoạch đào tạo. Tuy nhiên, cũng còn nhiều vấn đề tồn tại, cần nghiên cứu giải quyết, trong đó, vấn đề đào tạo giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi, chuyển đổi mục đích sử dụng đất để phát triển công nghiệp và đô thị với quy mô lớn, tốc độ nhanh đang được đặt như một nhiệm vụ cấp bách. Với cương vị công tác của mình tôi chọn vấn đề: "Hoàn thiện chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực ở Huyện Đông Anh giai đoạn 2006-2010" làm đề tài luận văn Thạc sỹ Kinh tế quản lý Công, với mong muốn tham gia ý kiến vào việc giải quyết những vấn đề nêu trên. 2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu đề tài này Vấn đề nhân lực, nguồn nhân lực, chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực là những đề tài mới được nhiều tác giả quan tâm. Tuy nhiên, chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực ở huyện ngoại thành Đông Anh Hà Nội giia đoạn 2000-2005-2010 theo chúng tôi chưa có tác giả nào nghiên cứu và viết bài. Trường Đại học Lao động xã hội năm 2005 có một đề tài Trong đó đề cập đến việc lập kế hoạch và tổ chức triển khai quá trình đào tạo đối với các huyện ngoại thành Hà Nội. Trong luận văn này chúng tôi có tham khảo một số tài liệu của đề tài này. Tuy nhiên, chúng tôi tập trung theo hướng chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực (tức là tiếp cận từ phía các cấp chính quyền Nhà nước đối với nhiệm vụ đào tạo phát triển nguồn nhân lực), trong quá trình nghiên cứu chúng tôi đi sâu vào vấn đề đào tạo phát triển nguồn nhân lực, gắn với giải quyết việc làm cho nông dân vùng bị thu hồi đất. - Tác giả Nguyễn Quốc Hùng trong cuốn sách: "Đổi mới chính sách về chuyển đổi mục đích sử dụng đất đai trong quá trình CNH, ĐTH ở Việt Nam" (chủ yếu từ thực tiễn Hà Nội) NXB CTQG 2006. Cũng có những ý kiến chung về đào tạo, giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi đất để phát triển khu công nghiệp tập trung và đô thị mới. Đề tài cũng là tài liệu tham khảo tốt đối với chúng tôi. 3. Mục đích nghiên cứu Luận văn được triển khai với mục đích đề xuất những kiến nghị hoàn thiện chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực ở huyện Đông Anh giai đoạn 2006-2010 chủ yếu đối với nông dân, vùng Nhà nước thu hồi chuyển đổi mục đích sử dụng đất. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu - Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề đào tạo phát triển nguồn nhân lực của huyện Đông Anh, chủ yếu đối với nông dân vùng Nhà nước thu hồi chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Thời gian nghiên cứu từ 2000-2010. 5. Luận văn đã sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu: điều tra, phân tích, khái quát hoá, v.v trong quá trình triển khai nghiên cứu. 6. Các đóng góp của luận văn - Luận văn đã hệ thống hoá các vấn đề lí luận về nguồn lực, nguồn nhân lực, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, đặt trong bối cảnh của một huyện ngoại thành CNH, HĐH, đô thị hoá nhanh. - Luận văn đã phân tích thực trạng phát triển kinh tế - xã hội; thực trạng nguồn nhân lực và thực trạng đào tạo phát triển nguồn nhân lực và các chính sách thúc đẩy quá trình đó. Từ đó rút ra những nhận xét về thành công và những vấn đề cần nghiên cứu giải quyết, những yêu cầu phải hoàn thiện chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực của huyện Đông Anh giai đoạn 2006-2010. - Luận văn đã dự báo nhu cầu đào tạo, đề xuất 3 quan điểm và 3 yêu cầu, các chính sách và nội dung cụ thể hoàn thiện chính sách, các kiến nghị về điều kiện để thực hiện chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực của huyện và hiệu quả cao. Điều cần nhấn mạnh là các dự báo, các đề xuất được cụ thể hoá theo 3 khu vực: khu vực thuần phát triển nông nghiệp; khu vực phát triển ngành nghề truyền thống; khu vực đô thị hoá nhanh và cho các đối tượng cụ thể thụ hưởng chính sách: người được đào tạo; các cơ sở đào tạo và hệ thống quản lý đào tạo. 7. Luận văn, ngoài phần mở đầu, kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, các phụ lục, mẫu phiếu hỏi, điều tra đã kết cấu thành 3 chương: Chương 1: Nguồn nhân lực và đào tạo phát triển nguồn nhân lực trong điều kiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Chương 2: Thực trạng chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực ở huyện Đông Anh ngoại thành Hà Nội giai đoạn 2000 - 2005. Chương 3: Phương hướng, biện pháp hoàn thiện chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực ở huyện Đông Anh giai đoạn 2006 - 2010 MỤC LỤC Trang Phần mở đầu Tóm tắt Luận văn PHẦN MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG I: NGUỒN NHÂN LỰC VÀ ĐÀO TẠO PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG ĐIỀU KIỆN CNH, ĐTH . 4 1.1. Nguồn nhân lực và các đặc điểm cơ bản nguồn nhân lực trong quá trình CNH, ĐTH nhanh. 4 1.1.1. Nguồn nhân lực và các đặc trưng cơ bản của nguồn nhân lực. 4 1.1.2. Phát triển nguồn nhân lực. 8 1.2. Những vấn đề cơ bản của chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực 15 1.2.1. Cấu trúc, chức năng và yêu cầu của chính sách. 15 1.2.2. Đô thị hóa nhanh và các yêu cầu đối với nhiệm vụ đào tạo phát triển nguồn nhân lực. 17 1.3. Kinh nghiệm đào tạo phát triển nguồn nhân lực ở các nước châu Á và khu vực Đông Nam Á 23 1.3.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc. 23 1.3.2. Kinh nghiệm của Nhật Bản. 25 1.3.3. Kinh nghiệm của Hàn Quốc. 28 1.3.4. Kinh nghiệm của các nước ASEAN 30 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC Ở HUYỆN ĐÔNG ANH NGOẠI THÀNH HÀ NỘI GIAI ĐOẠN 2000-2005 32 2.1. Tổng quan về sự phát triển kinh tế - xã hội huyện Đông Anh giai đoạn 2000 - 2005 35 2.1.1. Một số đặc điểm tự nhiên kinh tế, xã hội 35 2.1.2. Thực trạng phát triển kinh tế xã hội 36 2.2. Thực trạng chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực của huyện Đông Anh thời kỳ 2000 - 2005. 47 2.2.1. Thực trạng nguồn nhân lực giai đoạn 2001 - 2005 ở Đông Anh. 47 2.2.2. Thực trạng chủ trương chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực của Hà Nội và Đông Anh. 53 2.2.3. Thực trạng đào tạo nguồn nhân lực ở huyện Đông Anh. 58 2.3. Những vấn đề đặt ra từ việc nghiên cứu thực trạng chính sách đào tạo phát triển ở huyện Đông Anh ngoại thành Hà Nội trong thời kỳ 2001-2005. 69 CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG, BIỆN PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC HUYỆN ĐÔNG ANH 70 3.1. Dự báo nhu cầu đào tạo thời kỳ 2006-2010 của huyện Đông Anh. 73 3.1.1. Phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của huyện Đông Anh đến 2010 73 3.1.2. Dự báo nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực thời kỳ 2006-2010 của huyện Đông Anh 86 3.2. Hoàn thiện hệ thống chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực ở huyện Đông Anh giai đoạn 2006 - 2010. 93 3.2.1. Quan điểm cần quán triệt trong quá trình hoàn thiện hệ thống chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực. 93 3.2.2. Đề xuất hoàn thiện, bổ xung các chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực từ thực tiễn của Đông Anh và Hà Nội 101 3.3. Một số kiến nghị về điều kiện để bảo đảm việc thực thi các chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực ở huyện Đông Anh trong giai đoạn 2006 - 2010. 108 3.3.1. Nâng cao chất lượng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. 109 3.3.2. Sớm khắc phục các trở ngại để hình thành thị trường đất đai 110 3.3.3. Hoàn thiện các chính sách tạo việc làm cho nông dân gắn liền với thực hiện các chính sách về đào tạo. 111 KẾT LUẬN 114 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 116

docx132 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2780 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hoàn thiện chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực ở Huyện Đông Anh giai đoạn 2006 - 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uán triệt đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và thực hiện các mục tiêu chính trị của Đảng; chính sách phải bảo đảm tính đồng bộ hệ thống, chính sách phải phù hợp với nguyện vọng, ý chí của nhân dân, đó là cơ sở để nó đi vào cuộc sống; chính sách phải bảo đảm hiệu quả kinh tế xã hội cao; chính sách cần được thường xuyên xem xét để hoàn thiện. Vận dụng vào thực tiễn, hệ thống các chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực cho một Huyện ngoại thành như Đông Anh cần quán triệt các yêu cầu cụ thể sau: a. Hệ thống chính sách, biện pháp đào tạo phát triển nguồn nhân lực phải xuất từ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, phù hợp với điều kiện đời sống của nhân dân trong huyện Đông Anh là huyện ngoại thành, trong những năm tới (2006 - 2010) đô thị hoá rất mạnh. Đất đai nông nghiệp, bị Nhà nước thu hồi, chuyển đổi mục đích sử dụng cho xây dựng công nghiệp và hình thành của đô thị mới. Hiện nay, về mặt kinh tế đã có thể chia Đông Anh thành 3 khu vực: khu vực phát triển nông nghiệp; khu vực phát triển các ngành nghề; khu vực đô thị hoá nhanh. 5 năm tới biên giới và khu vực kinh tế trên thay đổi mạnh. Khu vực nông nghiệp từ 14 xã (trong tổng số 24 xã) đến năm 2010 chỉ còn 4 xã. Sản xuất nông nghiệp ở các xã này cũng thay đổi tính chất: từ nông nghiệp truyền thống chuyển sang nông nghiệp đô thị. Nhiệm vụ chủ yếu là phát triển nông nghiệp sạch, phục vụ yêu cầu rau, hoa quả, thực phẩm cho thủ đô. Khu vực ngành nghề truyền thống tuy không được mở rộng, nhưng công nghệ, quy mô sản xuất được đổi mới, quan hệ thị trường được mở rộng. Khu vực đô thị hoá nhanh được mở rộng tới 8 xã và thị trấn, đến năm 2010 tăng lên 18 xã và thị trấn. Trong khu vực này có tới 6 khu công nghiệp tập trung ngành nghề công nghiệp rất đa dạng. Khu Công nghiệp tập trung Đông Anh cũ với khoảng 10 ngàn lao động ở các nghề: cơ khí, điện điện tử, may mặc, thiết bị quang học… Khu công nghiệp tập trung Bắc Thăng Long với 30 -40 ngàn lao động ở các ngành chế tạo máy, điện tử, ô tô… Khu CNTT Tây đường Thăng Long với 4-5 ngàn lao động ở các ngành vật liệu xây dựng, cấu kiện thép… khu CN tây đường sắt 4-5 ngàn lao động ở các ngành kim khí, may mặc, chế biến thức ăn gia súc… Khu CNTT Đông Cổ Loa với 7 - 8 ngàn lao động ở các nghề điện tử, xe máy, phụ tùng ô tô… khu CNTT Đông Hội với 10 ngàn lao động ở các ngành dệt may, chế biến thực phẩm… khu vực này còn có 3 khu đô thị lớn: Khu đô thị Bắc Thăng Long; khu đô thị Huyện lỵ Đông Anh; khu đô thị Cổ Loa. Ngoài ra còn có hàng loạt thị tứ và các khu thương mại du lịch tập trung. Sự phát triển kinh tế rất đa dạng của Đông Anh đòi hỏi phải có một cơ cấu lao động với nhiều ngành nghề khác nhau theo 3 hướng công nghiệp nông nghiệp, dịch vụ. Nội dung đào tạo phải theo kịp sự phát triển tiến bộ công nghệ và yêu cầu của thị trường. Theo yêu cầu của quá trình đô thị hoá nhanh nên tốc độ thu hồi, chuyển đổi mục đích sử dụng rất nhanh, quy mô lớn. Hàng chục ngàn lao động sẽ phải từ bỏ nghề nông nghiệp (vì mất tư liệu sản xuất quan trọng nhất). Vấn đề là phải có các ngành nghề mới cho số lao động này. Đây là, nhiệm vụ kinh tế - xã hội quan trọng để ổn định và phát triển huyện. Nhiệm vụ đào tạo phát triển nguồn nhân lực ở đây khác với nhiều địa phương khác, là phải đáp ứng trong thời gian ngắn yêu cầu đổi mới nghề nghiệp và việc làm, bảo đảm ổn định và nâng cao chất lượng đời sống của nhân dân trong Huyện. Có thể nói, đây là đặc điểm quan trọng, cũng là yêu cầu bức thiết nhất chi phối công tác đào tạo phát triển nguồn nhân lực của huyện trong 5 năm tới. Đặc điểm này đòi hỏi công tác đào tạo phát triển nguồn nhân lực phải gắn với nhiệm vụ, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, và đặc biệt phải gắn với quy hoạch, kế hoạch thu hồi và chuyển đổi mục đích sử dụng đất, kế hoạch hình thức, tổ chức, quy mô, nội dung đào tạo… phải tương xứng và đi trước việc thu hồi, chuyển đổi mục đích sử dụng đất, phù hợp với điều kiện của nhân dân các vùng bị thu hồi đất. b. Chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực phải được xây dựng có căn cứ, hệ thống, nội dung phải toàn diện Trước hết, mục tiêu của hệ thống chính sách phải rõ ràng, cụ thể. Nói chung nhất thì việc đào tạo phát triển nguồn nhân lực là phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế xã hội của huyện theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá và đô thị hoá. Vấn đề là phải cụ thể hoá mục tiêu đó thành hệ thống các mục tiêu cụ thể. Để có thể lên được kế hoạch đào tạo các hướng phát triển chủ yếu; quy mô, trình độ phát triển của từng ngành sản xuất, dịch vụ; Bố trí không gian của sản xuất dịch vụ; xác định nhu cầu lao động của từng ngành, từng vùng về số lượng, cơ cấu ngành nghề, trình độ… và yêu cầu cung cấp lao động theo thời gian. Các nguyên tắc, cơ chế thực thi mục tiêu là bộ phận quan trọng. Mọi người đều dễ dàng nhất từ vai trò quan trọng của nguồn nhân lực có chất lượng cao; từ đó, nhận thức được tầm quan trọng của đào tạo phát triển. Nhưng nhu cầu đào tạo thì lớn, điều kiện, khả năng thì có hạn. Vì vậy, phải có nguyên tắc, cơ chế huy động các nguồn lực cho đào tạo phát triển. Thí dụ: đào tạo giải quyết việc làm cho lao động vùng bị thu hồi đất bằng cách giao tiền cho người lao động đã đúng chưa? bởi lẽ cho tiền, dân chúng tiêu phí cả, nghề thì chưa học được. Đây là chưa kể chi cho mỗi lao động 4 triệu đồng, số tiền ấy quá nhỏ đối với việc học được một nghề mới. Từ việc phê phán việc cáp tiền trực tiếp cho người lao động có ý kiến lại đề nghị chuyển số tiền đó cho các trường đào tạo. Những lao động muốn học nghề phải đến trường học tập nghiêm túc, bài bản. Tuy nhiên, số lao động ở các vùng mất đất rất lớn, đa dạng không phải ai cũng tới được các trường học nghề cùng rất nhiều lý do. Hơn nữa, nhu cầu đào tạo thì rất đa dạng theo nghề nghiệp, theo trình độ, khả năng các trường không thể đáp ứng được đầy đủ. Do vậy, theo chúng tôi các chính sách đào tạo phải quán triệt các nguyên tắc sau: - Kế hoạch đào tạo phải xuất phát từ nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Việc triển khai kế hoạch đào tạo phải đi trước một vài bước so với kế hoạch thu hồi và chuyển đổi mục đích sử dụng đất đai. - Phải đa dạng hoá các hình thức tổ chức, đào tạo tập trung tại chức, dài hạn, ngắn hạn; tại trường khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư vào đào tạo nghề có sự hỗ trợ của Nhà nước. Đồng thời tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước, nhất là kiểm tra chất lượng đào tạo. - Đa dạng hoá các biện pháp thu hút các nguồn lực phục vụ cho công tác đào tạo. Trong đó Nhà nước phải đầu tư xứng đáng cho đào tạo trên cơ sở quan điểm đầu tư cho giáo dục - đào tạo là đầu tư cho phát triển, là quốc ssách hàng đầu. Biện pháp các công cụ thực thi chính sách đúng đắn cơ sở bảo đảm để chính sách đi vào cuộc sống. Biện pháp phải toàn diện; công cụ phải được sử dụng đồng bộ. Toàn bộ công tác đào tạo phát triển phải được quan tâm sâu sắc, sự quản lý chặt chẽ, cụ thể của Đảng bộ và các cấp chính quyền: trước tiên, là khâu quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, kế hoạch đào tạo phát triển, và giải quyết việc làm không đồng bộ gây nên tình trạng thất nghiệp. Nguyên nhân là do các khâu kế hoạch thiếu đồng bộ. Tiếp đến là khâu tổ chức thực hiện, không thể thiếu vai trò của chính quyền trên hai hướng: Một là, quy định các cơ chế thích hợp. Hai là, trực tiếp tổ chức các quá trình đào tạo phát triển. c. Phải bảo đảm hiệu quả kinh tế xã hội cao cho mỗi quá trình đào tạo. Hiệu quả kinh tế xã hội cao, đòi hỏi mỗi quá trình đào tạo phát triển phải: · Đáp ứng kịp thời yêu cầu về số lượng và chất lượng cho quá trình phát triển về kinh tế xã hội theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Yêu cầu này đòi hỏi phải bảo đảm đáp ứng yêu cầu số lượng, cơ cấu, thời gian cho các ngành nghề, các cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội phát triển. Yêu cầu này thực hiện không dễ dàng. Bởi nhiên lẽ, nguồn nhân lực đầu vào của các quá trình đào tạo rất đa dạng, trên nhiều tiêu thức khác nhau, lại có hoàn cảnh, điều kiện khác nhau. Nhu cầu cung cấp nhân lực cho các ngành, các cơ sở lại rất nhiều chủng loại ngành nghề, thời gian cung cấp rất khác nhau. Việc tổ chức quá trình đào tạo lại có những yêu cầu, điều kiện nhất định. Phối hợp một lúc 3 loại yêu cầu trên không đơn giản. Yêu cầu này đòi hỏi phải bảo đảm chất lượng cao cho các quá trình đào tạo, mỗi một học viên sau khi tốt nghiệp phải trở thành một công nhân, cán bộ quản lý… các kiến thức, kỹ năng có bản lĩnh, phẩm chất tốt, có thể đáp ứng ngay yêu cầu của cơ sở sử dụng. Muốn vậy, các cơ sở đào tạo dài hạn hay ngắn hạn, dưới hình thức tổ chức nào cũng phải có chương trình đào tạo phù hợp yêu cầu của thị trường lao động; có đội ngũ thày giáo giỏi, có hệ thống trường, lớp, phương tiện, môi trường đào tạo có chất lượng. Muốn vậy, phải đầu tư xứng đáng cho các quá trình, các cơ sở đào tạo. Hiệu quả đào tạo phải gắn liền với lợi ích của các cơ sở đào tạo. Các cơ sở đào tạo phải có thu nhập và có tích luỹ tương xứng với kết quả đào tạo của họ. Từ đó, thu hút được các nguồn tài chính đầu tư vào dịch vụ đào tạo. Trong những năm tới nhu cầu đào tạo nhân lực của Hà Nội nói chung và Đông Anh nói riêng là rất lớn. Đặc biệt là với khu vực đô thị hoá nhanh. ở đây, vấn đề giải quyết việc làm cho nông dân mất đất là vấn đề sống còn. Đào tạo để nông dân chuyển nghề mới ở tầm 95.000 người trong đầu năm là nhiệm vụ to lớn. Do đó, bên cạnh các quan điểm chung, Đông Anh cần lưu ý các yêu cầu sau: Một là, Bảo đảm để đại đa số dân cư các vùng bị thu hồi đất được chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo việc làm. Đây là quan điểm xuất phát từ tự phát huy và kế tục trong những hoàn cảnh của Việt Nam. Trước cách mạng Tháng tám, khẩu hiệu "Người cày có ruộng" đã trở thành một trong những động lực quan trọng có sức hiệu triệu hàng triệu người nông dân tham gia cách mạng giành chính quyền. Trong cải cách ruộng đất những năm đầu thập kỷ 50 thế kỷ trước, chủ trương "Đưa ruộng đất về cho dân cày" đã tạo điều kiện để hàng chục triệu lao động nông nghiệp được sở hữu một loại tư liệu sản xuất không có gì có thể thay thế đó để tiến hành sản xuất nuôi sống mình và đóng góp cho xã hội. Từ năm 1980 đến nay, Nhà nước thực hiện chính sách giao đất nông nghiệp không thu tiền cho các hộ nông dân mà về thực chất đây là sự bảo đảm quý hơn vàng để nông dân có công ăn việc làm, đời sống ổn định. Đến nay, khi tiến hành công nghiệp, trên qui mô lớn. Nhà nước buộc phải thực hiện việc thu hồi đất đã giao cho hộ nông dân tại một số vùng, không thể để những nông dân thất nghiệp mà họ phải được đền bù bằng công việc mới làm cho cuộc sống được cải thiện hơn từ quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Đây là điểm khác nhau cơ bản của quá trình công nghiệp hóa Việt Nam hiện nay với quá trình công nghiệp hóa trước đây của các nước phương tây. Hai là, chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo việc làm cho dân cư vùng bị thu hồi đất được tổ chức và có hình thức thích hợp với trình độ phát triển của nguồn nhân lực ở đây. Lao động nông nghiệp Việt Nam nói chung và huyện Đông Anh nói riêng mặc dù đã tạo ra những thành tựu ấn tượng trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn, nhưng nguồn lực ở đây đang tồn tại nhiều bất lợi thế trong phát triển nói chung và trong chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo việc làm khi bị thu hồi đất nói riêng, cụ thể là: - Trình độ văn hóa chưa cao. Mặc dù Đông Anh đã hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở năm 2000, nhưng tới năm 2005 tỷ lệ phổ cập giáo dục trung học vẫn còn thấp, đặc biệt là đối với các vùng nông thôn. - Ý thức kỷ luật lao động thấp. Do sinh ra, lớn lên và trưởng thành trong lao động của vùng có truyền thống nông nghiệp lâu đời nên phần lớn người lao động của tỉnh Bắc Ninh vẫn lưu giữ những nề nếp của nền sản xuất nông nghiệp, trang bị kỹ thuật thấp so với công nghiệp. Những nề nếp này tuy có những ưu điểm đối với sản xuất của hộ nông dân, nhưng sẽ tạo nhiều trở ngại đối với sản xuất nông nghiệp hàng hóa lớn, và càng trở ngại hơn khi phải chuyển đổi nghề nghiệp và việc làm cho những nông dân chuyển sang lao động trong những ngành nghề công nghiệp, nơi lao động tập trung được trang bị kỹ thuật cao, có sự phân công và hợp tác lao động tỷ mỷ, đòi hỏi phải có ý thức, tác phong, kỷ luật lao động công nghiệp. - Chậm thích ứng với chuyển đổi. Mặc dù sản xuất nông nghiệp đã và đang là ngành sản xuất đưa lại thu nhập thấp cho nông dân Đông Anh nhưng ngoại trừ một tỷ lệ thấp trong số họ đã rời bỏ quê hương, đồng ruộng để làm ăn, sinh sống tại các khu vực đô thị trong còn phần đông trong tổng dân của Huyện tại khu vực nông thôn đều thích ứng nhiều đối với sự ổn định trong nông nghiệp hơn là phải chuyển đổi nghề nghiệp và việc làm sang công nghiệp. - Mới chỉ thấy lợi ích ngắn hạn, tại chỗ. Do đời sống hiện tại đang còn ở mức thấp, người nông dân khi bị rủi ro sẽ nhanh chóng rơi vào tình trạng đói nghèo nên quan tâm hàng đầu của họ là sự cải thiện nhanh chóng, trước mắt, tại chỗ đối với những nhu cầu thiết yếu hàng ngày của họ. Sự quan tâm này trong khi gây ra những trở ngại lớn cho việc chuyển đổi nghề nghiệp là đào tạo việc làm hướng tới những lợi ích dài hạn, nhưng lại rất thích hợp đối với việc thu hút họ vào sự chuyển đổi nghề nghiệp, đào tạo việc làm theo phương thức ngắn hạn, tại chỗ, hiệu quả nhanh. Ba là, chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo việc làm cho dân cư vùng bị thu hồi ở Đông Anh được thực hiện với một hệ thống cơ chế chính sách đồng bộ, thiết thực hiệu quả. Tính đồng bộ đòi hỏi phải tuân thủ các quy định của Trung ương, đồng thời phải phát huy được tính chủ động sáng tạo của Thành phố và Huyện trong việc kịp thời giải quyết những vấn đề cụ thể nảy sinh ở địa phương. Tính đồng bộ đòi hỏi phải chú ý giải quyết đồng bộ quan hệ 4 bên: Nhà nước - cơ sở đào tạo - người nông dân bị thu hồi đất, phải chuyển đổi nghề nghiệp - cơ sở tuyển dụng lao động. - Tính thiết thực của hệ thống cơ chế chính sách chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo việc làm trong lĩnh vực này trước hết tập trung vào việc giải quyết các điều kiện cần thiết để người nông dân bị thu hồi đất, cơ sở đào tạo và cơ sở tuyển dụng lao động đều thực hiện được các mục tiêu riêng trong khi cùng tiến hành mục tiêu chung của cơ chế chính sách. - Tính hiệu quả của hệ thống cơ chế chính sách chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo việc làm đối với dân cư cùng bị thu hồi đất không chỉ được đánh giá bằng tỷ lệ giữa số nông dân đựơc chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo việc làm trong tổng số lao động nông nghiệp thuộc các hộ bị thu hồi đất mà còn bằng sự tăng lên về năng suất lao động nông nghiệp của tỉnh do lao động nông nghiệp giảm đi, bằng gia tăng sự tăng trưởng của khu vực công nghiệp xây dựng và khu vực thương mại - dịch vụ thu hút được những lao động nông nghiệp chuyển qua để bổ sung nguồn nhân lực cho mình. 3.2.2. Đề xuất hoàn thiện, bổ xung các chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực từ thực tiễn của Đông Anh và Hà Nội a. Cần có hệ thống chính sách cụ thể cho các đối tượng và các khu vực Các khu vực gồm: · Khu vực phát triển nông nghiệp; · Khu vực phát triển ngành nghề truyền thống · Khu vực đô thị hóa nhanh Các đối tượng gồm: · Người được (phải) đào tạo · Các cơ sở đào tạo (loại hình và chủ sở hữu) · Các cơ sở sử dụng lao động b. Các chính sách đào tạo đối với người được đào tạo (trong đó đặc biệt đối với lao động vùng bị thu hồi và chuyển đổi mục đích sử dụng đất) Một là, Nhà nước định hướng cho sự chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo việc làm (Đặc biệt chú ý đối với dân cư các vùng bị thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất phát triển khu công nghiệp, khu đô thị). Việc phát triển khu công nghiệp, đô thị là việc được hoạch định trong quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước nói chung và Đông Anh nói riêng. Trong quy hoạch, kế hoạch này, việc thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất được xác định rất cụ thể, tuy nhiên còn thiếu vắng việc định hướng cho sự chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo việc làm đối với dân cư các vùng bị thu hồi đất. Sự thiếu vắng đó không chỉ gây ra tình trạng tự phát trong chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo việc làm đối với các hộ bị thu hồi đất mà còn gây bị động cho các cấp chính quyền địa phương khi giải quyết các vấn đề chuyển đổi tự phát này. Sự thiếu vắng trên đây cần được bổ khuyết trong thời gian tới, theo đó, khi trình để cơ quan có thẩm quyền phê duyệt qui hoạch, kế hoạch phát triển khu công nghiệp, khu đô thị nào thì tổ chức chủ trì phải trình luôn cả định hướng chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo việc làm đối với các hộ bị thu hồi đất tại vùng này. Định hướng này khi được cấp chó thẩm quyền phê duyệt sẽ trở thành căn cứ pháp lý quan trọng để không chỉ có các hộ bị thu hồi đất mà tất cả các tổ chức Nhà nước, ngoài Nhà nước đều cùng thống nhất thực hiện. Sự thống nhất đó đảm bảo cho việc chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo việc làm của các hộ bị thu hồi đất được triển khai nhanh chóng, thuận lợi và có hiệu quả. Hai là, chính sách tài chính, tín dụng cho người được đào tạo - Hỗ trợ tài chính cho đào tạo hiện chưa hợp lý: 3,8 triệu đồng cho 1 lao động để có một nghề nghiệp và một chỗ làm việc là quá thấp, cần được bổ xung hoặc bằng trợ cấp tổ chức các khóa học dưới những hình thức thích hợp. - Chính sách tín dụng cho người được đào tạo: Chính sách tín dụng hướng vào tạo cơ hội thụ hưởng bình đẳng về quyền đào tạo, học tập của người lao động. Trong đó nội dung chính là tạo môi trường tín dụng lành mạnh, hoạt động sôi động theo cơ chế thị trường, không hạn chế mức vay, đảm bảo an toàn, tin cậy và tránh được sự phiền hà, nhũng nhiễu. - Chính sách học phí: Chính sách học phí phải có tác động tích cực tới sự tham gia đào tạo rộng rãi của người lao động, tạo sự bình đẳng giữa các loại hình đào tạo, kích thích tính năng động kinh tế của người lao động. - Chính sách học bổng: Tăng mức chi học bổng thỏa đáng cho người được đào tạo, nhằm khuyến khích, động viên người học đạt thành tích xuất sắc. Trên cơ sở đó để tạo ra điều kiện cho những người có năng lực, có tài nhưng hoàn cảnh kinh tế khó khăn có thể tham gia đào tạo được liên tục. Ba là, Chính sách sử dụng sau đào tạo: Chính sách thu hút, sử dụng người lao động sau đào tạo có vai trò quan trọng kích thích sự tham gia đào tạo của người lao động và thu hút được lao động sau đào tạo trở về Đông Anh làm việc. Các chính sách cụ thể như: tiền lương, thu nhập, ưu đãi về nhà ở, phương tiện làm việc, cải thiện điều kiện lao động, bảo hiểm xã hội… đối với lao động CMKT. Cụ thể hóa cho từng khu vực cần phải nhấn mạnh 1 số vấn đề sau: Đối với khu vực thuần phát triển nông nghiệp cần chú ý: - Chính sách tín dụng cho người được đào tạo: Do khu vực thuần nông có thu nhập bình quân/người thấp hơn các khu vực khác nên chính sách tín dụng đối với người được đào tạo có ý nghĩa quan trọng. Cần quan niệm rằng, đây không đơn thuần là chính sách hỗ trợ tài chính cho người đào tạo mà còn là chính sách nhằm tạo cơ hội thụ hưởng bình đẳng về quyền đào tạo, học tập của người lao động. Vấn đề chính là tạo môi trường tín dụng lành mạnh, hoạt động sôi động và không hạn chế mức vay, thủ tục nhanh chóng tránh sự phiền hà, nhũng nhiễu. - Chính sách học phí: Chính sách học phí có tác động tích cực tới sự tham gia đào tạo của người lao động có thu nhập ở khu vực thuần nông. Học phí hợp lý tạo cơ hội cho người lao động thu nhập thấp tham gia đào tạo, tích cực đào tạo chuyển đổi nghề để tìm việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện mức sống cho người lao động và dân cư khu vực thuần nông. Đối với khu vực có nghề truyền thống - Chính sách tín dụng cho người được đào tạo: Hướng vào tạo cơ hội cho nhóm người nghèo của khu vực có ngành nghề tiếp cận hệ thống tín dụng, để tham gia đào tạo nghề TTCN, nghề truyền thống và các ngành nghề khác. - Chính sách khuyến khích các hộ thuộc diện đền bù đất ở khu vực có ngành nghề, trích một phần tiền đền bù để sử dụng cho đào tạo chuyển đổi nghề trong quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa. - Chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đối với nghệ nhân, thợ gỗ đào tạo và làm việc trong các cơ sở ngành nghề truyền thống. Bởi họ là vốn quý và hình thức đào tạo nghề hợp lý nhất là truyền nghề, thông qua quá trình vừa làm vừa học tại các cơ sở sản xuất. Đối với khu vực đô thị hóa nhanh: Cần phải thấy ở khu vực này yêu cầu giải quyết việc làm rất cấp bách, trong một thời gian ngắn. Nên mức độ tác động của chính sách cần phải mạnh mẽ, khẩn trương cùng với chính sách vai trò tổ chức quá trình đào tạo của chính quyền cần được coi trọng. - Chính sách hỗ trợ đào tạo đối với lao động chuyển đổi nghề khi Nhà nước thu hồi, đền bù đất, trong quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa. - Chính sách hỗ trợ đào tạo đối với các đối tượng xã hội (người nghiện ma túy, mại dâm…), vì ở khu vực đô thị hóa nhanh của các đối tượng này có xu hướng phát triển hơn các khu vực khác. - Chính sách sử dụng sau đào tạo: Chính sách thu hút, sử dụng sau đào tạo có vai trò quan trọng trong kích thích sự tham gia đào tạo của người lao động khu vực đô thị hóa nhanh. Đặc biệt là đối với lao động nghèo, lao động chuyển đổi nghề trong quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Các chính sách cụ thể như: việc làm, tiền lương, thu nhập nhà ở, điều kiện lao động… của lao động CMKT. Đặc biệt cần quan tâm có chính sách đầu tư hợp lý khuyến khích các chủ đầu tư bỏ vốn mở mang nhiều cơ sở sản xuất, dịch vụ. Để thu hút lao động thất nghiệp. Nhà nước phải hướng dẫn tạo điều kiện (nhất là phải giành đất đai) và đi đầu trong việc bỏ vốn đầu tư phát triển các ngành nghề, cơ sở mới ở các khu vực này. c. Các chính sách Đào tạo đối với cơ sở đào tạo Với các cơ sở đào tạo Nhà nước cần hoàn thiện và bổ xung các chính sách theo các hướng sau: - Nhà nước cần có quy hoạch, kế hoạch đào tạo phát triển nguồn nhân lực, từ đó làm rõ hướng phát triển, hệ thống cơ sở đào tạo từng địa phương. Có chính sách chỉ rõ hướng, quy chế đầu tư. - Chính sách mặt bằng cho phát triển các cơ sở đào tạo trên địa bàn Huyện như chính sách ưu tiên bán đất, cho thuê để xây dựng các cơ sở đào tạo các nghề công nghệ cao, nghề kinh tế mũi nhọn, nghề truyền thống, trong đó, kể cả đối với cơ sở đào tạo của tư nhân , cơ sở đào tạo của nhà đầu tư nước ngoài. - Chính sách tạo môi trường bình đẳng về mọi mặt (cấp tín dụng, tuyển dụng, bằng cấp…) giữa các loại hình đào tạo công lập với loại hình đào tạo tư nhân, bán công, dân lập…, để thúc đẩy phát triển mạng lưới các cơ sở đào tạo, đặc biệt là phát triển các cơ sở đào tạo nghề ngoài công lập. - Chính sách ưu đãi về đầu tư, cung ứng trang thiết bị đào tạo, đào tạo giáo viên đối với các cơ sở đào tạo nhân lực cho các ngành nghề chủ lực, có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nông thôn ngoại thành Hà Nội như: công nghiệp chế biến, công nghệ sinh học, dệt may, da giầy, công nghệ thông tin, điện tử, cơ khí, sản xuất vật liệu mới. - Chính sách thu hút học sinh tốt nghiệp loại giỏi và những người có năng lực đang làm việc trong thực tiễn sản xuất - kinh doanh để đào tạo nhân lực CMKT cao (cao đẳng, đại học, trên đại học…) và sử dụng làm giáo viên các cơ sở đào tạo, dạy nghề. Trên cơ sở đó nhằm bổ sung giáo việc chất lượng cao, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực CMKT cho nông thôn ngoại thành. - Chính sách đảm bảo đầu tư từ ngân sách thành phố để xây dựng các cơ sở đào tạo nghề kỹ thuật cao, mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng của trung tâm đào tạo nghề tại các huyện, để nâng cao hiệu quả đào tạo nghề cho nông thôn ngoại thành. Chính sách khuyến khích các doanh nghiệp đào tạo nghề cho nông thôn ngoại thành. Hiện nay trên địa bàn nông thôn ngoại thành có số lượng lớn các doanh nghiệp sử dụng công nghệ cao (DN FDI, DN Nhà nước…), nhiều DN có cơ sở, lớp đào tạo nghề, là thuận lợi cho người lao động nông thôn ngoại thành trong tiếp cận dịch vụ đào tạo của các doanh nghiệp. Cần có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp đào tạo nhiều hơn cho lao động nông thôn ngoại thành. - Chính sách hỗ trợ (thuế, mặt bằng, thu hút giáo viên, nghề nhân…) để phát triển một số cơ sở đào tạo nghề truyền thống có giá trị kinh tế - xã hội và xuất khẩu cao, tạo được nhiều việc làm và tăng thu nhập cho người lao động nông thôn ngoại thành. - Chính sách thu hút đầu tư nước ngoài để xây dựng các cơ sở đào tạo nhân lực CMKT chất lượng cao (kể cả cơ sở đào tạo 100% vốn nước ngoài) và miền thuế nhập khẩu thiết bị, công nghệ mới dùng cho phát triển các cơ sở đào tạo. Trên cơ sở đó để nâng cao năng lực đào tạo nhân lực CMKT cao cho nông thôn ngoại thành Hà Nội. Cụ thể hóa đối với từng khu vực cần nhấn mạnh một số vấn đề: Đối với, khu vực thuần phát triển nông nghiệp Thành phố cần có cơ chế khuyến khích các nhà đầu tư ưu tiên đầu tư cho khu vực này thí dụ ưu đãi về thuế. Về mặt bằng, các cơ sở đào tạo các nghề nông nghiệp đều cần diện tích lớn cho việc phát triển các nhà kính, các phòng, và ruộng thí nghiệp, đối chứng… vì vậy đề nghị được ưu tiên cấp đất. Đối với khu vực phát triển nghề truyền thống Hiện nay trong các làng nghề các lớp truyền nghề, vừa học, vừa làm là hình thức chủ yếu trong đào tạo lớp thợ mới. Nhà nước chưa có chính sách nào khuyến khích và kiểm soát sự năng động này. Do đó trong thời gian tới cần nghiên cứu để chuẩn hóa, chính quy hóa, nâng cao chất lượng các khóa học này. Cần có chế độ cấp đất đai, hỗ trợ kinh phí, xây dựng trường lớp theo tiêu chuẩn. Cơ chế độ đãi ngộ ưu ái, khuyến khích các nghệ nhân, các thợ lành nghề mở rộng đào tạo. Đặc biệt với các nghệ nhân thành phố cần có những hình thức tôn vinh thích hợp. Với các ngành nghề truyền thống có doanh số xuất khẩu cao có tương lai phát triển cần thành lập quỹ đào tạo nghề, khuyến khích các cơ sở sản xuất mở rộng và nâng cao chất lượng đào tạo nghề. Đối với khu vực đô thị hóa nhanh, Nhà nước phải quan tâm ngay từ khâu quy hoạch và trong kế hoạch đầu tư đến việc ổn định, nâng cao đời sống của nông dân bị mất đất. Đổi mới bộ mặt kinh tế xã hội của các vùng bị thu hồi đất. Hiện có tình trạng các nhà quy hoạch kế hoạch chỉ biết thu hồi đất phục vụ các dự án. Đầu tư cho các dự án phát triển các khu công nghiệp hoặc đô thị mới (trong "hàng rào") mà không có đầu tư xứng đáng cho toàn bộ khu vực (ngoài hàng rào). Sự "vô tình" đó làm cho đời sống của nhân dân các khu vực này càng khó khăn. Vì vậy, các quy hoạch kế hoạch đầu tư phải được lập cho toàn bộ khu vực (trong đó có có khu công nghiệp, đô thị mới). Trước hết, phải giành diện tích đất đai cho phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội cho cả khu vực, phát triển các cơ sở sản xuất, kinh doanh, công nghiệp, nông nghiệp dịch vụ thương mại, du lịch, các trường học, trường dạy nghề, các cơ sở y tế, thông tin liên lạc… Cần có các chính sách, cơ chế khuyến khích đủ mạnh để thu hút việc phát triển các ngành nghề mới, các cơ sở đào tạo nghề với nhiều hình thức tổ chức và các chủ sở hữu khác nhau. Hiệu quả của công tác đào tạo nhân lực CMKT cho khu vực có phụ thuộc nhất định vào việc hình thành và thực hiện cơ chế phối hợp giữa các cơ sở đào tạo. Các cơ chế chủ yếu phải thực hiện là: - Cơ chế phối hợp giữa các cơ sở đào tạo để đảm bảo đào tạo đủ số lượng người được đào tạo, đào tạo đúng cơ cấu ngành nghề, cấp trình độ, chất lượng đào tạo cao, đáp ứng được nhu cầu sử dụng của nông thôn ngoại thành hàng năm và theo các giai đoạn. - Cơ chế đảm bảo mối quan hệ phối hợp giữa các cơ sở đào tạo trong thực hiện các hình thức, phương thức đào tạo phù hợp với yêu cầu đào tạo nhân lực CMKT cho nông thôn ngoại thành. - Cơ chế hợp tác cung ứng thông tin thị trường lao động giữa các cơ sở đào tạo về nhu cầu đào tạo, nhu cầu sử dụng lao động trên thị trường lao động theo cấp trình độ CMKT, ngành, nghề, chất lượng… để các cơ sở đào tạo hoàn thiện, điều chỉnh kịp thời chương trình đào tạo nhân lực phù hợp cho nông thôn ngoại thành, trong mối quan hệ cung - cầu nhân lực CMK của thành phố và các vùng khác. - Cơ chế hợp tác cung ứng thông tin về thành tựu khoa học - công nghệ (trong và ngoài nước) về lĩnh vực, ngành nghề cơ sở đào tạo, để có chương trình cùng cập nhật, ứng dụng vào thực tiễn, nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực CMKT cho nông thôn ngoại thành. d. Cần hoàn thiện lại hệ thống tổ chức quản lý công tác đào tạo phát triển nguồn nhân lực Nhiệm vụ đào tạo phát triển nguồn nhân lực của thủ đô quá lớn, đa dạng và phức tạp. Công tác quản lý hiện tại không theo kịp yêu cầu. Thực sự chưa có cơ quan nào theo sát được hệ thống đào tạo phục vụ cho nhu cầu nhân lực của thủ đô. Sở giáo dục đào tạo, số lao động thương binh xã hội, các huyện, quận, đặc biệt quận, huyện chưa có thực sự chi phối được quá trình đào tạo, chủ động bảo đảm yêu cầu lao động cho mọi nhu cầu. Trong điều kiện hiện nay cần có một cơ quan theo tập trung bao quát thường xuyên công tác này: theo tôi đó là Ban chỉ đạo công tác đào tạo phát triển nguồn nhân lực của thành phố, PCT. UBND thành phố chủ trì, Sở Lao động thương binh xã hội thường trực, các thành viên là Sở KH - ĐT, Sở Tài chính, Sở GD - ĐT, Ban chỉ đạo GPMB thành phố, và đại diện các huyện, quận, đặc biệt là các huyện ngoại thành (như Đông Anh). Nhiệm vụ của Ban chỉ đạo là lên cân đối lao động xã hội 5 năm và hàng năm của thành phố và từng quận huyện. Từ đó, chỉ rõ nhu cầu đào tạo phát triển nguồn nhân lực 5 năm và hàng năm. Cân đối nhu cầu và khả năng đào tạo, phát hiện ra khoảng cách cần có biện pháp khắc phục từ đó đề xuất kịp thời các chính sách khuyến khích đầu tư phát triển các cơ sở đào tạo dưới nhiều hình thức và đa dạng chủ đầu tư; các chính sách điều chỉnh cơ cấu ngành nghề đào tạo; các chính sách và cơ chế kiểm soát, nâng cao chất lượng đào tạo… 3.3. Một số kiến nghị về điều kiện để bảo đảm việc thực thi các chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực ở huyện Đông Anh trong giai đoạn 2006 - 2010 Nhiệm vụ đào tạo phát triển nguồn nhân lực ở đâu, giai đoạn nào cũng là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Trong giai đoạn 2006 - 2010 ở Hà Nội và Đông Anh càng bức thiết vì nó gắn với quá trình đô thị hóa nhanh của thủ đô Hà Nội quy mô, tính đa dạng, yêu cầu bức thiết về thời gian của đào tạo gắn với quá trình thu hồi, chuyển đổi mục đích sử dụng đất; hàng trăm ngàn lao động phải chuyển đổi nghề nghiệp: yêu cầu việc làm mới và thu nhập, nâng cao đời sống sau khi bị thu hồi đất làm cho quá trình này trở nên cấp bách. Vì vậy, muốn thực hiện được các chính sách, đào tạo có hiệu quả cần có nhiều điều kiện trong đó phải hoàn thiện các chính sách về đất đai, thu hồi chuyển đổi mục đích sử dụng đất đai; các chính sách và giải quyết việc làm cho nông dân mất đất. Luận văn, xin kiến nghị một số vấn đề trên hướng này. 3.3.1. Nâng cao chất lượng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất là căn cứ quan trọng phục vụ cho việc Nhà nước tiến hành thu hồi đất. Luật đất đai quy định việc thu hồi đất để chuyển sang mục đích khác phải theo đúng quy hoạch và kế hoạch đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Quy hoạch kế hoạch ở đây không chỉ là quy hoạch kế hoạch tổng thể, mà phải là quy hoạch, kế hoạch chi tiết (đo vẽ trên bản đồ 1/2000 và 1/500). Chính phủ lập quy hoạch kế hoạch cho cả nước. Ủy ban nhân dân các cấp lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cho địa phương thông qua trước khi trình các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét duyệt; các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai do ngành (lĩnh vực) phụ trách để trình Chính phủ xét duyệt. Ở nhiều địa phương việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đến năm 2010 ở cấp huyện, xã chưa hoàn thành, chất lượng chưa cao. Ở những địa phương này việc khoanh định các loại đất, định hướng sử dụng đất nhiều lúc không sát với thực tế, số liệu đo đạc lại không chính xác gây nên những khó khăn, lúng túng, bị động trước tình hình, thậm chí làm đảo lộn kế hoạch thu hồi, chuyển đổi mục đích sử dụng đất đai của các dự án. Ở Hà Nội việc lập bản đồ địa chính trên địa bàn thành phố đã hoàn thành về cơ bản. Khu vực ngoại thành đã được đo đạc và lập bản đồ tỷ lệ 1/500 đất nông nghiệp lập với tỷ lệ 1/1000, riêng huyện Sóc Sơn được lập bản đồ tỷ lệ 1/1000 đối với khu vực dân cư và 1/2000 ở khu vực đất nông nghiệp và 1/5000 ở vùng núi; khu vực nội thành được đo đạc và lập bản đồ tỷ lệ 1/200. Khó khăn của Hà Nội lúc này lại là việc cập nhật trên bản đồ và hồ sơ địa chính chưa được quan tâm đúng mức và do trình độ chuyên môn còn thấp, lại chưa có đủ phương tiện hiện đại nên thông tin nhà, đất đã không đảm bảo độ chính xác và kịp thời cần có. Một khía cạnh nữa cần nhìn nhận là tính đồng bộ của hệ thống quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế; quy hoạch sử dụng đất; quy hoạch thu hồi và chuyển đổi mục đích sử dụng đất; quy hoạch tái định cư; quy hoạch phát triển nguồn nhân lực không đồng bộ với nhau; thậm chí có những quy hoạch chưa được quan tâm xây dựng và phát triển thực hiện. Chúng ta không có được một tầm nhìn tổng thể xuyên suốt nên trong thực tiễn có hiện tượng lúng túng, chắp vá, làm đi làm lại giải quyết các khâu của quá trình thu hồi chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Việc nâng cao chất lượng quy hoạch cụ thể cần khắc phục các hiện tượng. - Quy hoạch treo, thu hồi đất sau đó bỏ hoang lãng phí. Tuyên bố quy hoạch rồi không thực hiện "treo dây theo quy hoạch" gây mất lòng tin của nhân dân. - Quy hoạch chậm, quy hoạch lạc hậu, quy hoạch bất hợp lý. - Quy hoạch không bàn bạc với dân, không công khai với dân. - Quy hoạch sử dụng đất, không được xây dựng trên cơ sở quy hoạch phát triển kinh tế xã hội; không gắn liền với quy hoạch đào tạo, tạo việc làm mới cho dân cư. 3.3.2. Sớm khắc phục các trở ngại để hình thành thị trường đất đai Đất đai là một tư liệu sản xuất đặc biệt, gắn liền với sự phát triển của các ngành sản xuất, kinh doanh và dịch vụ. Là nguồn nội lực, nguồn vốn to lớn, rất quý giá của đất nước. Đất đai, quan hệ giao dịch đất đai có ý nghĩa kinh tế, chính trị xã hội sâu sắc. Đã có nhiều học thuyết kinh tế - xã hội nghiên cứu về đất đai như W.Petty (1623 - 1687), Ađam Smit (1723 - 1790), D.Ricácđô (1772 - 1823), Các Mác (1818 - 1883). Các học thuyết đều coi đất đai (từng thửa cụ thể, có kích thước, vị trí xác định) là hàng hóa. (Đất đai nói chung, hiểu theo nghĩa là bề mặt lãnh thổ một quốc gia hay trái đất chúng không phải là đối tượng giao dịch hàng hóa). Tuy nhiên đất đai là hàng hóa đặc biệt, nên việc mua bán đất đai phải chịu sự chi phối của pháp luật và được thực hiện theo những hình thức và thủ tục theo quy định của Nhà nước. Thí dụ ở Pháp, mua bán đất đai được thực hiện công khai ở tòa thị chính địa phương giữa người mua, người bán, Hội quy hoạch đất đai, đại diện chính quyền. Ở Úc việc mua bán được thực hiện trên thị trường nhưng phải qua các thủ tục: người bán đăng ký tại cơ quan quản lý. Cơ quan này công bố công khai thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng qua các tổ chức tư vấn tiếp cận với cơ quan quản lý để xem xét thực địa, hồ sơ giá cả và các vấn đề khác nếu có. Bên bán, bên mua thỏa thuận thì ký hợp đồng cụ thể tại cơ quan quản lý và thanh toán tài chính với nhau trực tiếp hay qua ngân hàng. Kinh nghiệm của các nước đều thấy giao dịch đất đai thông qua mua bán thỏa thuận là đỡ phức tạp nhất. Mua bán không có nghĩa là bỏ qua sự quản lý của chính quyền, bỏ qua các thủ tục pháp luật. Ngược lại, không phải muốn quản lý được đất đai, thì Nhà nước phải sở hữu đất đai. Cần có những quan niệm biện chứng về mối quan hệ giữa tăng cường quản lý Nhà nước và sở hữu Nhà nước về đất đai trong điều kiện đã chuyển sang cơ sở thị trường để làm chỗ dựa cho việc hình thành thị trường đất đai và hoàn thiện chính sách thu hồi, chuyển đổi mục đích sử dụng đất. 3.3.3. Hoàn thiện các chính sách tạo việc làm cho nông dân gắn liền với thực hiện các chính sách về đào tạo Theo hướng này cần chú trọng: Một là, Nhà nước tạo điều kiện khởi nghiệp cho các hộ nông dân bị thu hồi đất thực hiện chuyển đổi nghề nghiệp. Hầu hết các tổ chức, cá nhân khi khởi nghiệp đều gặp những khó khăn, trở ngại phải vượt qua. Đối với hộ nông dân bị thu hồi đất, khi khởi nghiệp để thực hiện chuyển đổi nghề nghiệp, việc tạo điều kiện này càng gay gắt, nặng nề hơn. Để trợ giúp họ trong khởi nghiệp, việc tạo điều kiện từ phía Nhà nước có ý nghĩa rất quan trọng, trong đó nổi lên một số sự trợ giúp sau: * Lập vườn ươm cho sự khởi nghiệp. Đây là sự trợ giúp thiết thực cho những hộ nông dân bị thu hồi đất có thể chuyển đổi nghề nghiệp bằng việc xác lập một cơ sở có qui mô nhỏ trong những ngành nghề phi nông nghiệp. Mô hình vườn ươm này đã được áp dụng rộng rãi tại nhiều quốc gia trên thế giới và đã được quảng bá tại Việt Nam. Với Đông Anh, tại mỗi khu công nghiệp tập trung và khu đô thị mới, Nhà nước cần dành ra một diện tích (một vài ha) để lập vườn ươm này, trong đó tại khu vực công nghiệp; tại các khu đô thị là vườn ươm cho các hộ khởi nghiệp bằng các ngành nghề dịch vụ. * Bổ xung đối tượng thụ hưởng chính sách của ngân hàng chính sách xã hội. Việc khởi nghiệp đối với các hộ nông dân bị thu hồi đất sẽ dựa chủ yếu vào nguồn tài chính từ việc bồi thường của Nhà nước. Tuy nhiên, kinh tế bồi thường không đủ nên các hộ này rất cần được sự hỗ trợ của thị trường vốn để bắt đầu lập nghiệp mới. Do vậy cần có một tổ chức tín dụng đặc biệt để các hộ này có thể tiếp cận, và đó chính là Ngân hàng chính sách xã hội. Cho các hộ nông dân bị thu hồi đất đến Ngân hàng này vay vốn lập nghiệp, vay vốn kinh doanh, không đơn thuần là những vấn đề kinh tế mà còn là những vấn đề chính trị xã hội. Nhằm khai thông việc này, chính quyền địa phương cần có sự can thiệp đối với hệ thống ngân hàng chính sách xã hội để các hộ nông dân bị thu hồi đất và thực hiện khởi nghiệp trong chuyển đổi nghề nghiệp cũng được thụ hưởng các chính sách của ngân hàng này. Hai là, Nhà nước ban hành chính sách đồng bộ cho loại hình "Kinh tế hộ". Trong hệ thống chính sách dành cho các loại hình tổ chức kinh doanh hiện nay, Nhà nước đã có chính sách doanh nghiệp Nhà nước, Hợp tác xã, Doanh nghiệp khu vực tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tuy nhiên, đối với các hộ nông dân bị thu hồi đất và việc thực hiện việc chuyển đổi nghề nghiệp theo đó hình thành loại hình "hộ kinh doanh" phi nông nghiệp hoặc nông nghiệp đô thị với qui mô "cực nhỏ", thì điều kiện để thụ hưởng các chính sách của Nhà nước dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ lại ở ngoài tầm đối với các hộ kinh doanh này. Sự thiếu vắng chính sách cho các hộ kinh doanh nói chung và cho các hộ kinh doanh phi nông nghiệp, hộ kinh doanh nông nghiệp đô thị đối với các hộ nông dân bị thu hồi đất tại các vùng Nhà nước phát triển khu công nghiệp, khu đô thị nói riêng cần được bù đắp trong thời gian tới trong đó nổi lên là: - Ban hành văn bản Luật về loại hình "kinh tế hộ" , tạo căn cứ pháp lý cho sự phát triển không chỉ đối với các hộ nông nghiệp, hộ kinh doanh phi nông nghiệp tại khu vực thành thị, hộ kinh doanh phi nông nghiệp tại khu vực nông thôn mà cả với hộ kinh doanh phi nông nghiệp, và hộ kinh doanh nông nghiệp đô thị hình thành từ các hộ nông dân bị thu hồi đất và thực hiện chuyển đổi nghề. - Bổ sung chính sách đất đai trong đó không chỉ chú trọng tới nhu cầu đất làm mặt bằng kinh doanh của các loại hình doanh nghiệp lớn, vừa và nhỏ mà cả với loại hình "cực nhỏ" tránh duy trì tình trạng các hộ này phải sử dụng đất ở, nhà ở vào mục đích kinh doanh, gây những bất lợi cho bảo vệ môi trường và sự phát triển mở rộng kinh doanh của các hộ này. - Tạo điều kiện để các hộ kinh doanh nói chung và các hộ kinh doanh phi nông nghiệp, và hộ kinh doanh nông nghiệp đô thị hình thành từ các hộ nông dân bị thu hồi đất nói riêng được tham gia vào thị trường tài chính, tín dụng bình đẳng với các loại hình doanh nghiệp khác. KẾT LUẬN Đối chiếu với mục đích nghiên cứu đã công bố trong phần mở đầu, Luận văn đã hoàn thành các nhiệm vụ sau đây: 1. Luận văn đã hệ thống các vấn đề cơ bản của lí luận về nguồn nhân lực và đào tạo phát triển nguồn nhân lực trong điều kiện công nghiệp hóa và đô thị hóa, bao gồm: Nguồn nhân lực và các đặc điểm cơ bản của nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa nhanh. Những vấn đề cơ bản của chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực, trong đó luận văn trình bày cả cơ sở lí luận và phương pháp luận xây dựng các phương án kế hoạch đào tạo phát triển nguồn nhân lực ở một huyện. 2. Luận văn đã phân tích thực trạng chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực ở huyện Đông Anh ngoại thành Hà Nội thời kỳ 2000 - 2005 Trong đó, đã tổng quan về sự phát triển kinh tế xã hội huyện Đông Anh thời kỳ 2000 - 2005; thực trạng nguồn nhân lực, thực trạng đào tạo nguồn nhân lực; thực trạng chủ trương chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực của Huyện thời kỳ 2000 - 2005. Từ đó, nêu lên các nhận xét: 2.1. Đông Anh có tốc độ đô thị hóa rất nhanh; kinh tế có những bước phát triển đáng kể; Dân số tăng nhanh chủ yếu là đi nhập cư; số lượng, cơ cấu, chất lượng lao động có những thay đổi theo yêu cầu của đô thị hóa nhanh. 2.2. Công tác đào tạo phát triển nguồn nhân lực đã được thành phố và Hà Nội chú trọng. Tuy nhiên vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu giải quyết. Một là, quy hoạch phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch kế hoạch đào tạo không đồng bộ. Trong đó, bức xúc nhất là đào tạo nghề mới và giải quyết việc làm cho lao động bị thu hồi đất để phát triển các khu công nghiệp tập trung và các khu đô thị mới. Hai là, cơ chế, chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực và cơ chế thị trường còn có những khoảng cách cần khắc phục. Do các cơ quan quản lý (tham mưu của chính quyền thành phố) không theo sát được nhu cầu đào tạo nên thành phố và huyện không có được các chính sách. Biện pháp phù hợp nhằm khuyến khích, tạo điều kiện để phát triển các hình thức đào tạo đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển kinh tế xã hội theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa và đô thị hóa nhanh đặt ra. Ba là, công tác quản lý Nhà nước còn nhiều bất cập thiếu một cơ quan (tổ chức) theo dõi tập trung, bao quát và thường xuyên công tác đào tạo phát triển nguồn nhân lực. 3. Luận văn đã dự báo một cách tổng quát nhu cầu đào tạo phát triển nguồn nhân lực, đề xuất một hệ thống ba quan điểm bao quát và nhấn mạnh ba yêu cầu bức xúc đối với Đông Anh; Đề xuất một loạt nội dung cần hoàn thiện đối với hệ thống các chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực. Điều cần nhấn mạnh là phương pháp luận xuyên suốt trong các dự báo và đề xuất của Luận văn là phải chia Đông Anh thành 3 khu vực: Khu vực thuần phát triển nông nghiệp; khu vực phát triển ngành nghề truyền thống; khu vực đô thị hóa nhanh. Việc hoàn thiện chính sách cũng được tính tới cho các chính sách cho người được đào tạo; các cơ sở đào tạo; hệ thống cơ quan quản lý đào tạo. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lê Xuân Bá (2003). Sự hình thành và phát triển thị trường bất động sản trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam - NXB Khoa học và Kỹ thuật. 2. Bộ Lao động Thương binh xã hội (1999). Thuật ngữ Lao động TBXH: NXB CĐXH 1999. 3. Bộ Tài nguyên - Môi trường: gồm các Thông tư sau: - Thông tư số 18/2004/TT-BTNMT ngày 1/11/2004 v/v: Hướng dẫn thực hiện thống kê, kiểm kê đất đai và xây dựng bản đồ hiện trạng sử dụng đất. - Thông tư số 29/2004/TT-BTNMT ngày1/1/2004 v/v: Lập, chỉnh lý, quản lý hồ sơ địa chính. - Thông tư số 30/2004/TT-BTNMT ngày 1/11/2004 v/v: Hướng dẫn lập, điều chỉnh, thẩm định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. - Quyết định số 25/2004-BTNMT ngày 1/11/2004 v/v: Ban hành kế hoạch và phát triển khai thi hành Luật Đất đai. 4. Bộ Luật Lao động nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (1994), NXB Chính trị quốc gia và hệ thống các văn bản hướng dẫn thực hiện Bộ luật lao động tập 1,2 (2002) - NXB Lao động. 5. George T.Milkovich, John W.Boudreau (2002), Quản trị nguồn nhân lực, Nxb Thống kê, TP. Hồ Chí Minh. 6. Trần Kim Dung (2001), Quản trị nguồn nhân lực, Nhà xuất bản giáo dục. 7. Nguyễn Hữu Dũng (2003), Sử dụng hiệu quả nguồn lực con người ở Việt Nam, Nhà xuất bản lao động - xã hội, Hà Nội. 8. GS.Geoffrey B.Hainsworth (bản dịch), "Tăng cường sử dụng lực lượng lao động và mở rộng sự lựa chọn nghề nghiệp", Tạp chí phát triển kinh tế số 161 tháng 03/2004. 9. GS.VS. Phạm Minh Hạc (chủ biên) (1996), Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa, NXB Chính trị quốc gia. 10. TS. Trần Đức Hạnh, "Vấn đề con người trong bài toán nâng cao năng lực cạnh tranh", Tạp chí phát triển kinh tế số 138 tháng 04/2002. 11. Nguyễn Thanh Hội (1999), Quản trị nhân sự, NXB Thống kê Hà Nội. 12. ThS. Võ Xuân Hồng "Lựa chọn phương pháp đào tạo nhân viên cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam", Tạp chí phát triển kinh tế số 161 tháng 03/2004. 13. ThS. Nguyễn Hữu Lam, "Mô hình năng lực trong giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực", Tạp chí phát triển kinh tế số 161 tháng 03/2004. 14. C.Mác, Tư bản - quyển thứ nhất, tập 3 - NXB Sự thật - 1960. 15. TS. Phan Công Nghĩa (1999), Giáo trình thống kê lao động, NXB Thống kê. 16. PGS.TS. Phạm Đức Thành (1998), Giáo trình quản trị nhân lực, NXB Thống kê. 17. Nguyễn Hữu Thân (2001), Quản trị nhân sự, Nxb Thống kê, TP.Hồ Chí Minh 18. Viện nghiên cứu và đào tạo về quản lý (2004), Phương pháp và kỹ năng quản lý nhân sự, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội. 19. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 108/1998/QĐ-TTg 20/6/1998 phê duyệt điều chỉnh quy hoạch chung thủ đô Hà Nội đến 2020. 20. Tổng cục thống kê (2004), Số liệu thống kê lao động - việc làm ở Việt Nam 2003, NXB Lao động xã hội. 21.TS. Vũ Bá Thể (2005), Phát huy nguồn lực con người để công nghiệp hóa - hiện đại hóa, NXB lao động xã hội. 22. Thủ tướng Chính phủ, Chỉ thị số 11/2006/CT-TTg ngày 27/3/2006 - V/v: Giải pháp hỗ trợ dạy nghề và việc làm cho lao động vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp. 23. UBND thành phố Hà Nội, Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng năm 2004, Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2005 của thành phố Hà Nội (11/2004). 24. UBND thành phố Hà Nội, Báo cáo tổng kết chính sách đất đai kiến nghị về chủ trương sửa đổi đất đai 29/7/2002. 25. UBND thành phố Hà Nội, Quyết định 199/2004/QĐ-UB ngày 29/12/2004 v/v ban hành các loại đất trên địa bàn thành phố Hà Nội. 26. UBND thành phố Hà Nội, Quyết định 137/2005/QĐ-UB ngày 9/9/2005 v/v Ban hành quy định về đấu giá quyền sử dụng đất để giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất trên địa bàn thành phố Hà Nội. 27. UBND thành phố Hà Nội, Báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện NQ số 20 NQ-TU của Thành ủy, NQ số 09/2000/NQQHD của HĐND thành phố và nhiệm vụ giải phóng mặt bằng 2005. 28. Nguyễn Thị Hải Vân, Việc làm cho nông dân khi thu hồi đất - Thời báo Kinh tế Việt Nam 13/7/2005. 29. Nguyễn Thị Hải Vân - Việc làm cho nông dân hết đất sản xuất - Phối hợp chặt chẽ giữa TW và địa phương - Thời báo kinh tế, 19/8/2005. 30. Thanh Vân, Dự án đường vành đai 3 (Hà Nội) - chậm vì thiếu nhà tái định cư - Báo Giao thông vận tải 22/8/2005. 31. Nguyễn Hoàng Vinh, Việc làm cho nông dân hết đất sản xuất, kết hợp đồng bộ các giải pháp - Thời báo kinh tế 19/8/2005. 32. Viện nghiên cứu phát triển kinh tế xã hội Hà Nội, kỷ yếu hội thảo khoa học - thị trường nhà đất ở Hà Nội - Thực trạng và giải pháp tăng cường quản lý Nhà nước 4/2002. 33. Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế TW, kỷ yếu hội thảo "Phát triển thị trường bất động sản ở Việt Nam" 2/2002. 34. Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (2004), Kinh tế Việt Nam 2004, NXB Khoa học kỹ thuật. 35. Văn kiện đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001), Đảng Cộng sản Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia. 36. Văn kiện Đại hội Đảng Bộ huyện Đông Anh lần thứ 26. LỜI CẢM ƠN Trong quá trình nghiên cứu viết Luận văn Thạc sĩ tôi đã được sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình của GS.TS. Đàm Văn Nhuệ, của các cơ quan, Ban, ngành của huyện Đông Anh, và thành phố Hà Nội; của các thầy trong Trường, trong Khoa; của bạn bè và gia đình. Tôi xin chân thành cảm ơn! Nguyễn Đức Biền LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan: Đây là tác phẩm nghiên cứu độc lập của tôi. Mọi tài liệu sử dụng có nguồn gốc rõ ràng. Nguyễn Đức Biền DANH MỤC BẢNG BIỂU SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN SỐ TT TÊN BẢNG BIỂU TRANG Biểu số 1: Tình hình giá trị sản xuất các ngành kinh tế thực hiện thời kỳ 2000 - 2005 37 Biểu số 2: Sự biến đổi về cơ cấu kinh tế của Đông Anh thời kỳ 2000 - 2005 (GDP) 38 Biểu số 3: Sản lượng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp qua các năm 2000 - 2005 39 Biểu số 4: Số lượng các cơ sở sản xuất CN + TTCN qua các năm 2000 - 2005 40 Biểu số 5: Tình hình phát triển các khu CNTT đến năm 2005 40 Biểu số 6: Tình hình phát triển các cụm CN vừa và nhỏ, làng nghề đến năm 2005 41 Biểu số 7: Tình hình phát triển của các làng nghề chủ yếu 2001 - 2005 42 Biểu số 8: Mức độ trao đổi hàng hoá 44 Biểu số 9: Tình hình đầu tư XDCB 44 Biểu số 10: Tình hình thu chi ngân sách 46 Biểu số 11: Tình hình dân số 2000 - 2005 47 Biểu số 12: Quy mô và cơ cấu theo tuổi của lao động qua các năm 49 Biểu số 13: Trình độ học vấn của lực lượng lao động huyện Đông Anh năm 2001 - 2005 50 Biểu số 14: Cơ cấu và xu hướng biến động của lao động có chuyên môn kỹ thuật thời kỳ 2001 - 2005 51 Biểu số 15: Cơ cấu trình độ văn hoá trong đội ngũ lao động 2001 - 2005 52 Biểu số 16: Kết quả đào tạo của Hà Nội (và Đông Anh) trong 5 năm 2001 - 2006 59 Biểu số 17: Số lượng học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở/trung học phổ thông/bổ túc văn hoá/ vào đại học; trung học nghiệp vụ, dạy nghề 2001 - 2005 60 Biểu số 18: Các khó khăn khi tham gia đào tạo của Lao động ở Đông Anh 61 Biểu số 19: Số lượng cơ sở đào tạo trên địa bàn Hà Nội trong đó có Đông Anh năm 2001 - 2005 61 Biểu số 20: Cơ cấu ngành nghề đào tạo của các cơ sở đào tạo nghề ở Hà Nội 63 Biểu số 21: Tình hình thu hồi và chuyển đổi mục đích sử dụng đất ở huyện Đông Anh 65 Biểu số 22: Tình hình việc làm của dân cư vùng bị thu hồi đất sau khi thực hiện thu hồi 66 Biểu số 23: Các khu công nghiệp tập trung và lực lượng lao động dự kiến 76 Biểu số 24: Dự kiến phân loại 3 khu vực 2005 - 2010 87 Biểu số 25: Dân số chia theo 3 khu vực: Nông nghiệp; Có ngành nghề; Đô thị hoá nhanh của Huyện Đông Anh vào năm 2010 90 Biểu số 26: Nhu cầu sử dụng lao động qua các đào tạo đến 2010 của huyện Đông Anh (khu vực phát triển nông nghiệp) 91 Biểu số 27: Nhu cầu sử dụng qua đào tạo đến 2010 của Đông Anh (khu vực phát triển ngành nghề) 91 Biểu số 28: Nhu cầu sử dụng đã qua đào tạo đến 2010 của huyện Đông Anh (khu vực đô thị hoá nhanh) 92 Biểu số 29: Nhu cầu sử dụng đã qua đào tạo đến 2010 của huyện Đông Anh (cả 3 khu vực phát triển) 92 MỤC LỤC Trang Phần mở đầu Tóm tắt Luận văn PHẦN MỞ ĐẦU 1

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxHoàn thiện chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực ở Huyện Đông Anh giai đoạn 2006-2010.docx
Luận văn liên quan