Hoạt động giám sát của hội đồng nhân dân theo pháp luật hiện hành

LỜI NÓI ĐẦU T rải qua hơn sáu mươi năm kể từ khi ra đời, vị trí của HĐND các cấp trong hệ thống tổ chức bộ máy Nhà nước ngày càng được khẳng định. Trong bộ máy Nhà nước, HĐND vừa là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, vừa là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân ở địa phương. Vì vậy, xây dựng HĐND các cấp có thực quyền để đảm đương đầy đủ vai trò, trách nhiệm của mình là một yêu cầu bức xúc hiện nay. HĐND có ba chức năng đó là: quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương; bảo đảm thực hiện các quy định và quyết định của các cơ quan Nhà nước cấp trên và trung ương ở địa phương; chức năng giám sát việc tuân theo pháp luật ở địa phương. Trong ba chức năng đó, giám sát có một vị trí, vai trò rất quan trọng đảm bảo cho HĐND thực sự là cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, thực hiện đúng nguyên tắc quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Thực hiện tốt chức năng giám sát là một trong những yêu cầu cơ bản để nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND. Điều này đã được nhấn mạnh trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X “Nâng cao chất lượng của HĐND và UBND, bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương trong phạm vị được phân cấp. Phát huy vai trò giám sát của HĐND”. Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 đã bổ sung thêm một chương mới quy định một cách toàn diện và có hệ thống chức năng giám sát của HĐND. Từ khi Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 có hiệu lực pháp luật, hoạt động giám sát của HĐND có nhiều chuyển biến rõ rệt. Hàng năm, xây dựng được chương trình kế hoạch giám sát, tổ chức các Đoàn giám sát khi cần thiết, trong thực hiện giám sát có sự phối hợp với các cấp, các ngành Do đó, đã đưa lại nhiều kết quả khả quan, bước đầu khắc phục tính hình thức trong hoạt động của HĐND nói chung và hoạt động giám sát nói riêng. Tuy nhiên, trong thực tiễn hoạt động giám sát của HĐND còn nhiều hạn chế. Ví dụ như việc xây dựng chương trình, cách thức tổ chức giám sát chưa thực sự khoa học, các kết luận giám sát thường chung chung, thiếu kiểm tra đôn đốc việc thực hiện kết luận đó nên vẫn còn hiện tượng sau giám sát lại đâu vào đó, kỹ năng giám sát của đại biểu HĐND còn thấp Cho nên hoạt động giám sát của HĐND cho tới nay vẫn còn nhiều vấn đề bỏ ngỏ, đáng bàn. Xuất phát từ những yêu cầu bức xúc về lý luận và thực tiễn nêu trên em xin chọn đề tài: “Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân theo pháp luật hiện hành”. Trong quá trình nghiên cứu nội dung của đề tài, trên cơ sở tham khảo có chọn lọc, em xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND trong giai đoạn hiện nay. MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU 1 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN . 3 1.1 Vị trí, tính chất và chức năng của Hội đồng nhân dân. 3 1.2 Khái niệm giám sát và đặc điểm hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân. 6 1.2.1 Khái niệm giám sát 6 1.2.2 Đặc điểm hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân. 8 1.3 Mục đích của hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân. 14 1.4 Khái quát về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân trong lịch sử lập pháp Việt Nam. 16 1.4.1 Hiến pháp năm 1946. 16 1.4.2 Hiến pháp năm 1959. 17 1.4.3 Hiến pháp năm 1980. 18 1.4.4 Hiến pháp năm 1992. 19 CHƯƠNG 2: HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH . 21 2.1. Những quy định của pháp luật hiện hành về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân. 21 2.2. Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân. 23 2.2.1 Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tại kỳ họp. 23 2.2.2 Hoạt động giám sát của Thường trực Hội đồng nhân dân. 29 2.2.3 Hoạt động giám sát của các Ban của Hội đồng nhân dân. 32 2.2.4 Hoạt động giám sát của đại biểu Hội đồng nhân dân. 35 2.3 Nguyên nhân hạn chế hiệu quả hoạt động giám sát của Hội đông nhân dân. 40 CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 47 3.1 Tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân. 47 3.2 Nâng cao năng lực các chủ thể thực hiện chức năng giám sát của Hội đồng nhân dân. 49 3.2.1. Nâng cao năng lực của đại biểu Hội đồng nhân dân. 49 3.2.2 Nâng cao năng lực giám sát của Thường trực Hội đồng nhân dân. 51 3.2.3 Nâng cao năng lực giám sát của các Ban của Hội đông nhân dân. 52 3.3 Nâng cao chất lượng thực hiện các hình thức giám sát của Hội đồng nhân dân. 53 3.3.1 Nâng cao chất lượng xem xét báo cáo. 53 3.3.2 Nâng cao chất lượng chất vấn và trả lời chất vấn. 54 3.3.3 Đổi mới hình thức tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của các Đoàn đi giám sát tại địa phương. 57 3.4 Tạo điều kiện thuận lợi cho Hội đồng nhân dân trong hoạt động giám sát. 58 KẾT LUẬN . 60

doc62 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 7748 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hoạt động giám sát của hội đồng nhân dân theo pháp luật hiện hành, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng nhân dân tỉnh năm 2009”. Trong 6 tháng đầu năm 2009, Ban thực hiện giám sát chuyên đề về hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các vụ án liên quan đến quản lý đất đai và tài nguyên khoáng sản than. Ban Pháp chế HĐND tỉnh đã thành lập Đoàn giám sát theo quyết định số 06/QĐ-BPC ngày 20/3/2009 và tiến hành giám sát tại một số Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh, huyện trong giai đoạn từ tháng 01/2006 đến hết tháng 02/2009. [30]         Quá trình giám sát nhận thấy công tác quản lý tài nguyên khoáng sản than trên địa bàn thời gian qua còn nhiều sơ hở, kể cả công tác quản lý Nhà nước của ngành chức năng, chính quyền địa phương và công tác bảo vệ, quản lý trong ranh giới mỏ của đơn vị thành viên. Những vi phạm liên quan đến công tác quản lý, sử dụng đất đai ở một số cấp chính quyền cơ sở kéo dài từ nhiều năm trước; việc cập nhật, theo dõi, quản lý hệ thống sổ sách, chứng từ, hóa đơn theo quy định rất lỏng lẻo, thiếu khoa học thậm chí bị thất lạc, mất mát, hư hỏng; trong khi ở từng thời điểm có sự điều chỉnh, thay đổi của các quy định, chính sách pháp luật về đất đai nên gây không ít những khó khăn trong quá trình so sánh, đối chiếu phục vụ công tác xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ… Qua việc kiểm tra giám sát các Ban đã không chỉ phát hiện ra các sai sót của các cơ quan ban ngành mà còn đưa ra được các kiến nghị, đề xuất, những giải pháp khắc phục, giúp các đối tượng bị giám sát kịp thời uốn nắn chấn chỉnh những lệch lạc của mình trong việc thực hiện chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước. Theo quy định tại Điều 78 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 “ Các Ban của Hội đồng nhân dân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thường xuyên theo dõi việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân cùng cấp, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp”. Trong trường hợp phát hiện VBQPPL, nghị quyết có dấu hiệu trái với Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật của cấp trên; nghị quyết của HĐND thì các Ban của HĐND có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức cá nhân có thẩm quyền xem xét, sửa đổi, bổ sung, đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản đó. Trong thời gian vừa qua, hoạt động giám sát công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật được đẩy mạnh, nhiều văn bản vi phạm pháp luật được phát hiện và xử lý. Song nhìn chung hoạt động giám sát của các Ban trong thời gian qua vẫn còn nhiều hạn chế như; - Việc xây dựng chương trình, kế hoạch giám sát chưa đồng bộ còn thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các Ban nên không tránh khỏi sự chồng chéo. Việc bố trí thời gian giám sát chưa phù hợp với tình hình công tác thực tế của từng thành viên, nên chất lượng giám sát chưa cao. - Chưa có nhiều cuộc giám sát đột xuất các vấn đề bức xúc được cử tri và nhân dân quan tâm mà chủ yếu tập trung vào những vấn đề định kỳ, thường xuyên. - Ở nhiều địa phương, giám sát của các Ban HĐND chưa mang lại hiệu quả thiết thực, phương pháp làm việc chưa tốt, gây phiền hà tới đối tượng bị giám sát, các biện pháp xử lý kiến nghị còn chung chung, không rõ ràng dứt khoát… 2.2.4 Hoạt động giám sát của đại biểu Hội đồng nhân dân. Đại biểu HĐND do cử tri địa phương bầu ra, đại diện cho nhân dân của một cấp chính quyền nhà nước, có quan hệ trực tiếp với nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ trước hết thông qua người đại diện của mình. Theo Điều 36 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 thì: “Đại biểu Hội đồng nhân dân là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân địa phương, gương mẫu chấp hành chính sách, pháp luật của Nhà nước; tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện chính sách, pháp luật và tham gia vào việc quản lý Nhà nước” Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình đại biểu HĐND thực hiện hoạt động giám sát thông qua các hoạt động chủ yếu sau: Thứ nhất, tham dự đầy đủ các kỳ họp, phiên họp của HĐND, tham gia thảo luận và biểu quyết các vấn đề thuộc nhiệm vụ quyền hạn của HĐND: Hiện nay, nhìn chung hoạt động này đã được các đại biểu thực hiện nghiêm túc, việc tham dự các kỳ họp đã đầy đủ và tích cực hơn. Đồng thời đã có nhiều ý kiến phát biểu, thảo luận một cách nghiêm túc, dân chủ và thiết thực. Các đại biểu đã vận dụng đường lối, chính sách, pháp luật Nhà nước, hoàn cảnh thực tế ở địa phương để phân tích đánh giá các bản báo cáo một cách khách quan, khoa học, có căn cứ cụ thể. Từ đó đã giúp cho HĐND ban hành những nghị quyết phù hợp với chủ trương chính sách, pháp luật Nhà nước và sát với thực tế địa phương. Làm cho hoạt động của HĐND đã có nhiều chuyển biến tích cực, tạo được niềm tin cho cử tri và nhân dân. Đồng thời qua đó cũng giúp cho các cơ quan lập báo cáo nâng cao tinh thần trách nhiệm trước HĐND. Trong các kỳ họp vấn đề chất vấn, nội dung chất vấn đề được nâng lên cả về số lượng và chất lượng, ví dụ: Trung bình kỳ họp HĐND tỉnh Đồng Nai có khoảng trên mười nội dung chất vấn. Hình thức hỏi đáp thắng thắn, cụ thể kết hợp với tranh luận cho đến khi sáng tỏ vấn đề luôn thu hút đại biểu và cử tri. Tuy nhiên, Chủ tọa luôn giữ vai trò “trọng tài” để tranh luận có điểm dừng hợp lý mà vẫn hiệu quả, luôn giữ được văn hoá nghị trường. [34]. Chính điều đó đã góp phần nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND. - Thứ hai, thực hiện nhiệm vụ tiếp xúc với cử tri, thu thập và phản ánh trung thực ý kiến, nguyện vọng, kiến nghị của cử tri, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cử tri, phổ biến và giải thích các nghị quyết của HĐND. Theo quy định tại Điều 39 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 thì: “Đại biểu Hội đồng nhân dân phải liên hệ chặt chẽ với cử tri ở đơn vị bầu ra mình, chịu sự giám sát của cử tri, có trách nhiệm thu thập và phản ánh trung thực ý kiến, nguyện vọng, kiến nghị của cử tri; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cử tri; thực hiện chế độ tiếp xúc và ít nhất mỗi năm một lần báo cáo với cử tri về hoạt động của mình và của Hội đồng nhân dân, trả lời những yêu cầu và kiến nghị của cử tri”. Với vai trò là người đại biểu của nhân dân, thay mặt cho nhân dân quyết định những vấn đề cơ bản quan trọng ở địa phương thì người đại biểu HĐND phải hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, đưa tiếng nói của nhân dân vào các cơ quan nhà nước. Muốn hiểu rõ tâm tư nguyện vọng của nhân dân địa phương thì đại biểu HĐND phải liên hệ chặt chẽ với cử tri ở đơn vị bầu ra mình, chịu sự giám sát của cử tri, có trách nhiệm thu thập và phản ánh trung thực ý kiến, nguyện vọng, kiến nghị của cử tri, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cử tri Việc tiếp xúc và thu thập ý kiến, nguyện vọng của cử tri là việc làm hai chiều. Để hai bên cùng đạt được mục đích của việc tiếp xúc thì đại biểu HĐND phải cung cấp cho cử tri đầy đủ những thông tin về hoạt động chủ yếu của HĐND trong năm, phổ biến những chính sách phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của địa phương được thể hiện trong các nghị quyết của HĐND và giải đáp các thắc mắc của cử tri về nội dung của những nghị quyết đó trên cơ sở hoạt động này nâng cao trình độ dân trí, giáo dục và động viên nhân dân tự giác tham gia vào việc thực hiện các mục tiêu mà nghị quyết của HĐND đã đặt ra. Đồng thời đại biểu HĐND cần phải tích cực thu thập và phản ánh trung thực nguyện vọng, ý kiến của cử tri đối với chính sách phát triển kinh tế, chính trị xã hội của địa phương, tại cuộc tiếp xúc cử tri, ngoài những vấn đề chung, đại biểu HĐND phải báo cáo với cử tri về hoạt động của cá nhân và có thể phải trả lời những câu hỏi của cử tri đối với những vấn đề trong hoạt động đại biểu, lắng nghe ý kiến đóng góp của cử tri. Ngược lại về phía cử tri cũng cần chủ động, tích cực tham gia đóng góp ý kiến, bởi chính những kiến nghị, phản ánh của họ sẽ được thể hiện trong những nghị quyết HĐND. Sau mỗi kì họp HĐND, đại biểu HĐND có trách nhiệm báo cáo với cử tri về kết quả của kỳ họp, phổ biến và giải thích các nghị quyết của HĐND, vận động và cùng với nhân dân thực hiện nghị quyết đó, Mọi hoạt động đều phải tính đến mục đích và hiệu quả. Việc tuyên truyền, giải thích chính sách pháp luật của đại biểu HĐND đối với cử tri xét đến cùng là việc nâng cao nhận thức của người dân, để người dân tự giác hướng những hoạt động của họ vào việc thực hiện những mục đích chính trị mà chính quyền địa phương đang hướng tới vì lợi ích của cộng đồng trong đó có lợi ích của từng người. Để việc phổ biến và giải thích các nghị quyết của HĐND cho người dân dễ hiểu, dễ thực hiện thì bản thân mỗi cá nhân đại biểu HĐND cần phải nắm được bản chất của vấn đề mình truyền đạt, tránh tình trạng giải thích một cách tùy tiện theo ý kiến chủ quan của cá nhân mình, khi giải thích cần lấy ví dụ thực tế trong đời sống của người dân ở địa phương để người nghe đễ tiếp thụ, chú trọng quan tâm vào những vấn đề có liên quan trực tiếp đến đời sống, quyền lợi của họ. Việc tiếp xúc cử tri có ý nghĩa rất quan trọng, nó thể hiện tính dân chủ và ở đó người dân được nói lên ý kiến của mình. Qua thực tế, hoạt động giám sát tại nhiều địa phương như: Nghệ An, Đồng Nai, Hải Dương, Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh… việc tiếp xúc cử tri đã được các đại biểu thực hiện nghiêm túc với hình thức và nội dung phong phú. Việc tiếp xúc cử tri đã có nhiều đổi mới, tuy nhiên trên hiện nay nhiều nơi việc tiếp xúc cử tri vẫn chưa đạt được hiệu quả như mong muốn. Nếu như bệnh thành tích trong ngành giáo dục như một chứng kinh niên làm lung lay nền tảng đạo đức, thì với các đại biểu nhân dân việc tiếp xúc cử tri để lắng nghe tâm tư nguyện vọng của dân chúng đang bị bệnh hình thức chế ngự như một chứng nan y, mà hậu quả cũng không kém phần nguy hiểm... Cùng với Quốc hội, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, ở các địa phương, hệ thống chính trị đất nước còn có HĐND ở các cấp. Xuân thu nhị kỳ đều có các cuộc tiếp xúc không chỉ giữa đại biểu Quốc hội với dân mà còn cả của đại biểu HĐND với các tầng lớp dân cư. Những tưởng với cấu trúc bộ máy như thế, đâu đâu người dân cũng có thể bày tỏ nguyện vọng thông qua người đại diện của mình. Thế nhưng, thực tế đã diễn ra không như mong muốn. Dân chúng bức xúc với cơ quan công quyền, không còn là chuyện lạ. Không ít trường hợp viết đơn thư ký tên tập thể, khiếu kiện vượt cấp, tạo ra dư luận xấu trong đời sống chính trị đất nước. Nguyên nhân cơ bản của hiện tượng này là người dân không có dịp tiếp xúc trực tiếp với người đại diện của mình để bày tỏ nguyện vọng, hoặc người đại diện chưa đủ tin cậy để nhân dân bày tỏ những bức xúc. Một khía cạnh khác, những kiến nghị của dân được tiếp thu nhưng chưa có cách giải quyết thấu tình đạt lý nên chưa tạo được niềm tin. Theo quan điểm "dân chủ đại diện", việc tiếp xúc cử tri thường được tổ chức thông qua việc cử một hội đồng đại diện do chính quyền lựa chọn. Khi các đại biểu về các địa phương, tiếng là tiếp xúc cử tri nhưng thực chất họ chỉ tiếp xúc với những cử tri do chính quyền địa phương lựa chọn, hay nói cách khác là tiếp xúc với Hội đồng quan chức địa phương. Thực chất của Hội đồng này chỉ là cánh tay nối dài của chính quyền. Những tâm tư và nguyện vọng do họ trình bày, đề đạt đều rất chung chung và đặc biệt là không xung đột lợi ích với chính quyền. Trên lý thuyết, họ là đại cử tri nhưng trên thực tế đại cử tri không phải lúc nào cũng đại diện cho các tầng lớp nhân dân. Chính vì thế, ý kiến của họ chưa phản ánh được đúng nguyện vọng của người dân, mà chỉ phản ánh được nguyện vọng và lợi ích của Hội đồng quan chức ấy. Cùng với hoạt động tiếp xúc cử tri, hoạt động tiếp nhận đơn thư khiếu nại, tố cáo của nhân dân, đã được Đại biểu HĐND nghiên cứu và kịp thời chuyển đến người có thẩm quyền giải quyết. Ví dụ: trong năm 2009 các tổ hoà giải xã Lâm San ( Cẩm Mỹ- Đồng Nai) nhận được 24 đơn yêu cầu hòa giải; các Tổ hòa giải đã hòa giải thành 17/24 trường hợp, đạt tỷ lệ 71%, trong đó: tranh chấp quyền sử dụng đất đã hoà giải thành 9/10 đơn, tranh chấp dân sự hoà giải thành 08/10 đơn, hôn nhân gia đình hoà giải thành 02/04 đơn…[31] Nhìn chung, hoạt động giám sát của HĐND nhiệm kỳ 2004 -2009 đến nay đã có nhiều tiến bộ hơn trước, góp phần không nhỏ vào việc phát triển kinh tế xã hội tại các địa phương. Tuy vậy, hoạt động giám sát nhìn chung còn nhiều khó khăn tồn tại, hiệu quả, hiệu lực chua cao. Vì vậy, chúng ta cần đổi mới nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND, bảo đảm cho HĐND xứng đáng với danh hiệu cao quý “người đại biểu nhân dân”. 2.3 Nguyên nhân hạn chế hiệu quả hoạt động giám sát của Hội đông nhân dân. Trong bài phát biểu tổng kết Hội nghị toàn quốc về HĐND và UBND năm 1998 đồng chí Nông Đức Mạnh đã đánh giá: “ Hiệu lực và hiệu quả của các hoạt động giám sát chưa cao. Việc đôn đốc kiểm tra thực hiện các kiến nghị sau giám sát chưa được coi trọng đúng mức. Việc giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân chưa đáp ứng được mong mỏi của nhân dân. Vì thế không tránh khỏi hình thức và chưa thực quyền so với quy định của Luật” [32]. Đến Hội nghị toàn quốc về tổ chức và hoạt động của HĐND và UBND (từ ngày 19 đến 21/3/2003) trong bài phát biểu của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An tại phiên tổng kết hội nghị thì vấn đề trên lại tiếp tục được nêu nên. [33] Vậy những nguyên nhân nào làm hạn chế đến hiệu quả, hiệu lực giám sát của HĐND. Một là: Hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện và ổn định. Giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật đòi hỏi trước hết phải có Hiến pháp và một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, bởi đây là những căn cứ vững chắc để đưa ra các đánh giá nhận xét khi tiến hành hoạt động giám sát. Nhưng mãi tới năm 2003, khi Quốc hội ban hành Luật tổ chức HĐND và UBND, mới có một chương quy định về hoạt động giám sát của HĐND, còn trước đó hoạt động giám sát của HĐND các cấp còn nhiều lúng túng, không thống nhất dẫn tới hiệu quả chưa cao. Bởi vì, quy định của pháp luật về hoạt động giám sát của HĐND trong thời gian đó mới chỉ mang tính nguyên tắc, còn rất chung chung, thiếu chi tiết, cụ thể. Chủ yếu là quy định về các vấn đề như quyền giám sát, trách nhiệm của cơ quan Nhà nước, người có chức trách liên quan…, còn quy định về trình tự, thủ tục giám sát hết sức sơ sài…Vì vậy trên thực tế hoạt động giám sát của HĐND phần lớn được tiến hành theo kinh nghiệm, theo ý thức của các bên tham gia quan hệ giám sát. Để khắc phục tình trạng trên, hiện nay đã có Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 quy định đầy đủ, chi tiết hơn về hoạt động giám sát của HĐND. Tuy nhiên, với số lượng chỉ có 24 điều luật chưa thể hướng dẫn được đầy đủ mọi vấn đề liên quan đến giám sát. Ví dụ như biện pháp xử lý trong các trường hợp cơ quan, viên chức Nhà nước gây cản trở, không thực hiện các yêu cầu kiến nghị của HĐND hoặc từ chối hợp tác với HĐND chưa được pháp luật xác định… Hai là, một số đại biểu HĐND chưa có đủ năng lực và điều kiện để đảm đương công tác giám sát của HĐND. Điều 8 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 xác định : Hiệu quả hoạt động của HĐND các cấp phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố trong đó có năng lực hoạt động của các đại biểu HĐND. Suy cho cùng, năng lực hoạt động giám sát của mỗi đại biểu có vai trò quyết định đến hiệu quả giám sát của HĐND, Điều đó cho thấy trách nhiệm của họ hết sức nặng nề, bởi giám sát là một hoạt động rất khó khăn, phức tạp và nhạy cảm. Hoạt động giám sát của HĐND không chỉ đơn thuần là việc xem xét và quyết định những vấn đề nằm trong văn bản pháp luật mà cả những vấn đề đã, đang và sẽ xảy ra trong thực tế cuộc sống, xã hội. Không chỉ đánh giá mặt làm tốt, đúng pháp luật, đúng nghị quyết của HĐND mà quan trọng là phát hiện những yếu kém tồn tại, làm trái pháp luật và nghị quyết…Đồng thời chỉ ra được cách khắc phục tối ưu nhất. Do đó, đại biểu phải là người có năng lực, trình độ, và kỹ năng giám sát, đặc biệt phải am hiểu về các lĩnh vực giám sát. Trong khi đó đại biểu HĐND ở các địa phương hiện nay vẫn còn một số hạn chế sau: Tuy trình độ học vấn của các đại biểu được nâng cao hơn, song về cơ bản trình độ pháp lý, sự hiểu biết sâu sắc về Hiến pháp, pháp luật, kiến thức quản lý nhà nước của nhiều đại biểu còn hạn chế. Đặc biệt kỹ năng giám sát nhìn chung còn yếu, vì vậy trong thực tế không ít đại biểu không biết sử dụng đúng quyền năng giám sát của mình. Trong khi đó, công tác bồi dưỡng nghiệp vụ cho đại biểu chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế. Sau khi bầu cử các đại biểu chỉ được bồi dưỡng một số nội dung về kiến thức pháp luật, quản lý nhà nước. Hơn nữa nội dung, chương trình bồi dưỡng lại bất cập chưa thật sự phù hợp với đối tượng học, đặc biệt ít có nội dung bồi dưỡng về nghiệp vụ giám sát. Chính điều này đã là một trong những nguyên nhân dẫn đến kết quả giám sát của HĐND các cấp hiện nay còn thấp và mang tính hình thức. Ở nhiều địa phương hiện nay phần lớn đại biểu HĐND làm việc theo chế độ kiêm nhiệm nên họ rất ít có thời gian để làm nhiệm vụ đại biểu nói chung và công tác giám sát nói riêng, trong khi đó công việc giám sát đòi hỏi phải có nhiều thời gian. Mặt khác, vì chế độ làm việc kiêm nhiệm nên phần lớn các đại biểu chủ yếu tập trung cho công việc chính để hưởng lương theo chuyên môn của mình còn phụ cấp đại biểu rất ít ỏi nên họ không quan tâm nhiều đến nhiệm vụ đại biểu. Bên cạnh đó, việc cung cấp thông tin, các phương tiện vật chất cần thiết đảm bảo cho đại biểu hoạt động cũng hạn chế, tài liệu báo cáo gửi đến cho các đại biểu thường chậm so với thời gian họp và thảo luận, nhiều nơi chưa sắp xếp được trụ sở làm việc của các tổ đại biểu… do đó, gây ảnh hưởng đến nhiệm vụ giám sát. “Do xuất phát từ quan hệ lao động nhỏ, họ hàng gia đình, đặc trưng của nông thôn Việt nam, nên trong khi giám sát vẫn còn tâm lý nể nang, né tránh, ngại va chạm, dĩ hòa vi quý, chín bỏ làm mười, dễ anh, dễ tôi…” Như lời phê phán của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An tại Hội nghị triển khai thực hiện chương trình hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2005. Mặt khác, do hạn chế về cơ cấu đại biểu HĐND, hầu hết là cán bộ lãnh đạo ở các cơ quan Nhà nước, cấp ủy và đoàn thể. Trong trường hợp này họ vừa là đại biểu với tư cách của cơ quan quyền lực Nhà nước vừa là người đúng đầu cơ quan hành pháp thậm chí tư pháp nên rất khó đảm bảo tính khách quan và chính xác trong khi giám sát. Ba là, cơ cấu tổ chức của HĐND và các bộ phận giúp việc chưa tương xứng với yêu cầu khách quan của công tác giám sát. Đối tượng giám sát của HĐND tỉnh rất rộng, nội dung giám sát cũng đa dạng và phức tạp trên mọi lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, an ninh quốc phòng…Đặc biệt, tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa XII đã ra Nghị quyết số 26/2008 ngày 15 tháng 11 năm 2008 về việc thực hiện thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận, phường Theo đó, sẽ có 67 huyện, 32 quận và 483 phường của 7 tỉnh: Lào Cai, Vĩnh Phúc, Nam Định, Quảng Trị, Phú Yên, Kiên Giang, Bà Rịa - Vũng Tàu và ba thành phố: Tp.HCM, Đà Nẵng, Hải Phòng sẽ thực hiện thí điểm không tổ chức hội đồng nhân dân ở cấp huyện, quận, phường. Thời gian thực hiện thí điểm bắt đầu từ ngày 25 tháng 4 năm 2009 cho đến khi Quốc hội quyết định chấm dứt việc thực hiện thí điểm. Tại những nơi thực hiện thí điểm, Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường kết thúc nhiệm kỳ 2004 -2009 vào ngày 25 tháng 4 năm 2009. Việc thí điểm này nhằm tinh gọn bộ máy chính quyền địa phương, nâng cao hiệu quả của hệ thống hành chính, đề cao vai trò cũng như làm rõ trách nhiệm của người đứng đầu chính quyền. Theo nghị quyết sẽ điều chỉnh về nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của UBND huyện, quận, phường tại nơi không tổ chức HĐND huyện, quận, phường đã được UBTVQH thông qua. Nghị quyết này quy định, tại những nơi tổ chức thí điểm, HĐND tỉnh, thành sẽ giám sát hoạt động của UBND, TAND, VKSND huyện, quận; đồng thời có thể giải tán HĐND xã, thị trấn trong trường hợp HĐND đó làm thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của dân. Như vậy, HĐND cấp tỉnh sẽ phải đảm nhiệm khối công việc rất lớn. Tuy nhiên với cơ cấu tổ chức như hiện nay thì không thể thực hiện hoạt động giám sát hiệu quả được. + Thường trực HĐND: Với vai trò là cơ quan đảm bảo cho hoạt động của HĐND mang tính liên tục giữa hai kỳ họp. Theo quy định tại Điều 36 của Luật tổ chức HĐND và UBND năm 1994 thì Thường trực HĐND có 7 nhiệm vụ và quyền hạn. Để thực hiện vai trò và nhiệm vụ đó Luật quy định Thường trực HĐND cấp tỉnh, cấp huyện gồm có Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND. Vị trí, vai trò của Thường trực HĐND rất quan trọng nhưng chỉ là người đôn đốc, nhắc nhở báo cáo, không giữ vai trò quyết định, đặc biệt không có chức năng giám sát. Như vậy, giữa vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Thường trực HĐND trong thực tế không tương xứng với nhau. Nhận thức được những hạn chế trên, Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 không những bổ sung thêm Uỷ viên thường trực mà còn quy định cho Thường trực HĐND có thêm chức năng giám sát và những quyền hạn nhất định (Điều 53 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003), bước đầu đã có những đóng góp đáng kể nâng cao hiệu quả hoạt động của HĐND. + Các Ban của HĐND: Là cơ quan tham mưu giúp việc cho HĐND, nhưng các Ban được xác định là chủ thể giám sát chủ yếu của HĐND. Theo quy định tại Điều 55 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003, Điều 26 quy chế hoạt động của HĐND năm 2005, nhiệm vụ và quyền hạn của các Ban rất lớn và nặng nề. Tuy nhiên, hiện nay ở nhiều địa phương vẫn xảy ra tình trạng chỉ có trưởng Ban hoặc phó Ban hoạt động chuyên trách, các thành viên còn lại đều hoạt động kiêm nhiệm dẫn đến chưa làm tốt các nhiệm vụ được giao trong đó có hoạt động giám sát. Bốn là: Do nhận thức về hoạt động giám sát của đại biểu HĐND còn nhiều hạn chế, nhiều nơi chưa tôn trọng và chấp hành không nghiêm túc các kết luận của HĐND. Thực tế lâu nay còn tồn tại tư tưởng xem nhẹ, vị trí, vai trò và tầm quan trọng của HĐND nói chung và hoạt động giám sát nói riêng. Do đó về phía các đại biểu chưa phát huy hết tinh thần, trách nhiệm và khả năng của mình khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ do pháp luật quy định và nhân dân giao phó. Hơn nữa do ngại va chạm, nể nang nhau nên vẫn còn một số đại biểu chưa thực hiện đúng chức trách giám sát của mình. Một số cơ quan đơn vị, cá nhân chưa hiểu hết hoạt động của HĐND, xem giám sát như việc “vạch lá tìm sâu” những mặt yếu kém, mặt chưa tốt nên thiếu thiện cảm, thậm chí còn thấy không thiết thực, có khi còn làm mất thời giờ. Vì thế khi có đoàn xuống giám sát, họ sắp xếp một vài cán bộ dẫn đoàn đi cơ sở, báo cáo tiếp thu gì qua đi là được. Mặt khác, một số cơ quan, đơn vị không chấp hành ý kiến, kết luận của các đoàn kiểm tra giám sát do HĐND tiến hành, do đó vẫn còn tình trạng hoạt động giám sát của HĐND đã có những kiến nghị đề xuất đúng đắn, nhưng hiệu lực, hiệu quả chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu của cử tri. Như vậy, nhận thức đúng đắn về hoạt động giám sát của HĐND cũng như nâng cao trách nhiệm thực hiện nghị quyết của HĐND đối với các cá nhân, cơ quan, tổ chức là một yêu cầu cấp bách hiện nay. Năm là: Chưa xây dựng được kế hoạch giám sát toàn diện và cụ thể: Do chưa xây dựng được chương trình, kế hoạch giám sát toàn diện và cụ thể vừa đáp ứng yêu cầu giám sát việc thực hiện nghị quyết của HĐND, vừa đáp ứng yêu cầu bức xúc của đời sống kinh tế, xã hội và nguyện vọng cử tri. Nên hoạt động giám sát của HĐND có lúc thiếu chủ động, cơ bản chỉ được thực hiện theo khả năng của các đại biểu, các Ban của HĐND không có sự kiểm tra, đôn đốc. Nội dung giám sát còn tràn lan, chưa xác định được trọng tâm, trọng điểm, lĩnh vực cần giám sát, việc giám sát chủ yếu thực hiện theo định kỳ, thiếu linh hoạt kết hợp giám sát những vẫn đề bức xúc mới phát sinh.. Sáu là: các điều kiện cần thiết cho hoạt động giám sát còn thiếu, chưa đáp ứng yêu cầu: Cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động giám sát của HĐND nhiều nơi, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, chưa đáp ứng được yêu cầu, các điều kiện làm việc cần thiết như trụ sở làm việc, phương tiện đi lại, các thông tin cập nhật liên quan đến đối tượng giám sát, chi phí cần thiết cho hoạt động giám sát… còn hạn chế. hoạt động phí còn thấp, theo khoản 2 Điều 74 Quy chế hoạt động của HĐND năm 2005, hoạt động phí của đại biểu cấp xã là 0,3, cấp huyện là 0,4; cấp tỉnh là 0,5 mức lương tối thiểu, kinh phí như vậy người đại biểu còn không thể chu cấp đủ cho bản thân họ thì làm sao gia đình họ có cuộc sống ổn định để toàn tâm toàn chí cho công việc. Tóm lại, việc đánh giá thực trạng và tìm ra nguyên nhân cơ bản dẫn đến những tồn tại, hạn chế trong hoạt động giám sát của HĐND là việc làm rất cần thiết. Tuy nhiên làm thế nào để khắc phục yếu kém trên mới thực sự có ý nghĩa đối với hoạt động giám sát của HĐND trong giai đoạn hiện nay. CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY Để nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND cần có sự kết hợp của nhiều yếu tố, từ vấn đề thể chế, con người đến các điều kiện cơ sở vật chất…nghĩa là phát huy một sức mạnh tổng hợp. Do vậy các giải pháp đưa ra phải mang tính toàn diện và đồng bộ. Trên cơ sở đánh giá thực trạng hoạt động giám sát của HĐND và những nguyên nhân yếu kém đã nêu, có thể đưa ra một số giải pháp như sau: 3.1 Tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân. Để thực hiện chức năng giám sát có hiệu quả trước hết cần hoàn thiện các quy định pháp luật về hoạt động giám sát của HĐND. Bởi lẽ, nếu không có các quy định cụ thể về quyền giám sát của HĐND thì sẽ không có cơ sở pháp lý để thực hiện chức năng giám sát của HĐND. Mặc dù hiện nay Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 đã có một chương quy định về chức năng giám sát của HĐND các cấp, song vẫn còn sơ sài so với yêu cầu thực tiễn, chưa đủ cơ sở pháp lý để HĐND thực hiện tốt chức năng của mình. Xuất phát từ yêu cầu hoàn thiện cơ chế giám sát ở nước ta hiện nay, từ nhận thức giám sát là một chức năng quan trọng của HĐND với một phạm vi đối tượng giám sát khá phong phú và phức tạp, cần phải xây dựng luật về giám sát của HĐND, trong đó quy định một cách rõ ràng, đầy đủ về khái niệm giám sát của HĐND. Nội hàm của khái niệm phải được thể hiện ở chủ thể giám sát, đối tượng chịu sự giám sát, nội dung và phạm vi hoạt động giám sát của HĐND. Nói chung về nội dung, luật giám sát của HĐND cần tiếp tục hoàn thiện ở một số vấn đề sau: Về chủ thể giám sát: Cần bổ sung ghi rõ thành một mục riêng trong luật, chủ thể giám sát của HĐND là các đại biểu HĐND nhằm tạo cơ sở pháp lý cho các đại biểu hoạt động cũng như để họ phát huy tinh thần, trách nhiệm của mình. Bởi thực tế đã chứng minh rằng đại biểu HĐND là nhân tố quan trọng nhất để nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND Về đối tượng chịu sự giám sát của HĐND Thứ nhất, Trong luật hiện hành không quy định HĐND giám sát các Ban của Hội đồng. Do đó, Luật giám sát của HĐND cần bổ sung thêm đối tượng giám sát của HĐND là các Ban của HĐND, vì các Ban của HĐND cũng là cơ quan được HĐND trao quyền và trách nhiệm nhất định trong các hoạt động nhằm giúp HĐND thực hiện tốt chức năng của cơ quan đại diện. Chẳng hạn, Theo Điều 75 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003, các Ban của HĐND được giao trách nhiệm kiểm tra báo cáo đề án - một công việc rất quan trọng liên quan đến sự đúng sai, chất lượng nghị quyết của HĐND. Theo đó, đối tượng giám sát của HĐND bao gồm: Thường trực HĐND, các Ban của HĐND, UBND, TAND, VKSND cùng cấp và các tổ chức kinh tế, xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân ở địa phương. Thứ hai: cần phân cấp đối tượng chịu sự giám sát của các cấp HĐND, khắc phục tình trạng phạm vi giám sát của HĐND tỉnh quá rộng như hiện nay dẫn đến quá tải và hiệu quả giám sát sẽ không cao. Về trách nhiệm của các thành phần trong Đoàn giám sát. Hiện nay, thành phần của các Đoàn giám sát thường bao gồm các đại biểu HĐND do một cơ quan của HĐND chủ trì cử ra, sự tham gia đại diện các cơ quan nhà nước hữu quan như Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức thành viên và một số cán bộ có chuyên môn. Từ đây, đặt ra vấn đề lý luận và thực tiễn phải xác định rõ trách nhiệm của các chủ thể thực hiện quyền giám sát và mức độ tham gia đến đâu của các tổ chức cá nhân, để đảm bảo tính pháp lý của hoạt động giám sát. Do vậy, trong luật giám sát của HĐND cần phải bổ sung thêm nội dung này. Về trách nhiệm pháp lý của các đơn vị liên quan khi không thực hiện các kết luận giám sát. Để tạo điều kiện cho hoạt động giám sát của HĐND có hiệu quả thiết thực, phải có quy định về các chế tài xử lý đối với các cơ quan, ban ngành khi không thực hiện các kiến nghị, yêu cầu của HĐND. Có như vậy mới nâng cao được tinh thần trách nhiệm của các đơn vị và đảm bảo uy tín cho HĐND. Qua các vấn đề nêu trên, Luật giám sát của HĐND phải được tiến hành xây dựng khẩn trương, đáp ứng và phản ánh kịp thời các yêu cầu khách quan của thực tiễn, bám sát chủ trương đường lối của Đảng về phát huy dân chủ cơ sở, xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay. Các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cần phải chú trọng yếu tố kỷ luật lập pháp đảm bảo tính cụ thể và mức độ khái quát hợp lý của các quy phạm pháp luật nhằm làm cho các quy định về giám sát của HĐND dễ hiểu, dễ áp dụng, rõ ràng, minh bạch, không phải chờ đợi những văn bản có hiệu lực pháp lý thấp hơn hướng dẫn, giải thích. Hơn nữa, xây dựng Luật giám sát của HĐND phải đồng bộ với các quy định khác của pháp luật có liên quan, trên cơ sở đó điều chỉnh các hoạt động giám sát của HĐND một cách toàn diện, thống nhất và thuận lợi. 3.2 Nâng cao năng lực các chủ thể thực hiện chức năng giám sát của Hội đồng nhân dân. 3.2.1. Nâng cao năng lực của đại biểu Hội đồng nhân dân. Toàn bộ hoạt động thực hiện quyền lực của HĐND nói chung và hoạt động giám sát nói riêng xét đến cùng chủ yếu phụ thuộc vào năng lực của Đại biểu HĐND. Lênin từng phân tích trách nhiệm trong hành động của Nghị sĩ ở cơ quan đại diện Nhà nước XHCN như sau: “các nghị sĩ phải tự mình làm công tác, tự mình thực hiện những pháp luật của mình, tự mình kiểm tra lấy tác dụng của những luật pháp ấy, tự mình phải chịu trách nhiệm trực tiếp trước cử tri của mình” [1, tr.33]. Hồ Chí Minh cũng nhiều lần nói về phẩm chất năng lực của người đại biểu Quốc hội, Người cho rằng: “Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân lựa chọn người có tài, có đức để gánh vác công việc nhà nước” [2, tr.438] Như vậy, theo quan điểm của Lênin và Hồ Chí Minh đại biểu Quốc hội cũng như HĐND phải là người có năng lực thực hiện nhiệm vụ đại biểu, hoạt động độc lập và tự chịu trách nhiệm về nhiệm vụ của mình. Xét riêng trong việc thực hiện chức năng giám sát, đại biểu HĐND phải thực sự là người có năng lực giám sát. Năng lực giám sát của Đại biểu HĐND thể hiện ở việc đại biểu HĐND phải nắm chắc những quy định của pháp luật, chính sách nhà nước, những nội dung chủ yếu và thông tin cần thiết của vấn đề được giám sát. đại biểu HĐND phải hiểu biết thực tiễn tới mức cần thiết và phải có kiến thức về quản lý nhà nước ở mức độ nhất định. Trong giám sát, ngoài công nhận cái đúng, còn phải có cách nhìn sáng suốt để phát hiện những vấn đề sai trái của người khác, trên cơ sở đó đưa ra những kiến nghị và biện pháp hữu hiệu để loại bỏ các hiện tượng tiêu cực, trái pháp luật. Do đó, đại biểu HĐND không những chỉ có trình độ, kỹ năng giám sát mà còn phải có quan điểm bản lĩnh vững vàng, dám nói thẳng, nói thật không nể nang, né tránh, nghĩa là trong khi làm nhiệm vụ đại biểu họ phải vì lợi ích của nhân dân, của Nhà nước để ‘vượt qua chính mình”. Tóm lại, muốn làm tốt công tác giám sát người đại biểu HĐND phải có đủ tâm, đủ tầm và đủ tài. Để đạt được những tiêu chuẩn đó, biện pháp trước mắt mỗi đại biểu phải tự nâng cao nhận thức, năng lực, trình độ của mình, tự trang bị cho mình các kiến thức về mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đặc biệt phải nghiên cứu, cập nhật các kiến thức pháp luật, chủ trương chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước, phải chú trọng giữ mối liên hệ với cử tri để phản ánh được tâm tư, nguyện vọng của họ với HĐND. Nói một cách khái quát đại biểu HĐND phải tự xây dựng cho mình được những “uy tín cá nhân”, thì sẽ có nhiều thuận lợi khi thực hiện chức năng giám sát. Về trách nhiệm của HĐND cần chú ý các vấn đề sau: Trong cơ cấu đại biểu HĐND cần có một tỷ lệ thích hợp số đại biểu có trình độ kiến thức về luật. Những đại biểu này sẽ giữ vai trò tích cực trong việc đưa ra ý kiến giúp HĐND, các cơ quan của HĐND có những hành động phù hợp khi thực hiện chức năng giám sát. Ngay khi được bầu làm nhiệm vụ đại biểu, Thường trực HĐND cần chỉ đạo các cơ quan chuyên môn biên soạn, cung cấp cho đại biểu HĐND những tài liệu về kỹ năng thực hiện nhiệm vụ đại biểu, đặc biệt tài liệu về kỹ năng giám sát. HĐND và các cơ quan có chức trách phải thường xuyên cung cấp sách báo, tạp chí, các công trình nghiên cứu khoa học về chức năng giám sát của HĐND và những thông tin cần thiết khác như tình hình hoạt động của các cơ quan ban ngành, đơn vị cho đại biểu HĐND. Đặc biệt phải tổ chức các đợt tập huấn hội thảo về kỹ năng giám sát, nhằm nâng cao các kỹ năng cho đại biểu. Xây dựng tiêu chí đánh giá chất lượng và hiệu quả hoạt động của các Đại biểu HĐND. 3.2.2 Nâng cao năng lực giám sát của Thường trực Hội đồng nhân dân. Theo quy định của pháp luật hiện hành, Thường trực HĐND có vị trí rất quan trọng trong việc thực hiện chức năng giám sát của HĐND. Ngoài công việc chuẩn bị nội dung, chương trình kỳ họp còn phải đảm nhiệm hầu hết công việc giữa hai kỳ họp và thực hiện chức năng giám sát khá toàn diện trên các lĩnh vực tại địa phương, do đó Thường trực HĐND phải đảm nhiệm một khối lượng công việc khổng lồ. Trong khi cơ cấu của Thường trực HĐND theo quy định tại Điều 52 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 chỉ bao gồm: “…Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch và Uỷ viên thường trực. Thường trực Hội đồng nhân dân cấp xã gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân…”. Cơ cấu tổ chức của Thường trực HĐND như vậy chưa ngang tầm với quyền hạn, nhiệm vụ pháp luật quy định, đã đặt Thường trực HĐND vào tình trạng không giải quyết hết hoặc giải quyết không có chất lượng, hiệu quả những công việc thuộc thẩm quyền của mình. Để khắc phục tình trạng trên cần phải: Tăng số lượng thành viên cho HĐND các cấp, Thành viên của Thường trực HĐND phải hoạt động chuyên trách, không được giữ một chức vụ nào trong cơ quan nhà nước khác. Đặc biệt phải sớm khắc phục tình trạng Chủ tịch HĐND tỉnh kiêm nhiệm cả Bí thư hoặc Phó Bí thư tỉnh ủy như hiên nay ở nhiều nơi. Bởi lễ, trong xu thế phát huy hết vai trò các thành viên Thường trực HĐND, chế độ kiêm nhiệm sẽ làm giảm hiệu quả hoạt động của họ và làm hạn chế khả năng điều hành của Thường trực HĐND. Khi bầu Thường trực HĐND, bên cạnh việc đảm bảo về mặt cơ cấu cần phải chú ý đến năng lực của từng thành viên. Thành viên của Thường trực HĐND phải là người có đạo đức, có trách nhiệm và năng lực tổ chức điều hòa, phối hợp trong công việc, phải là người có kiến thức sâu, rộng về mọi lĩnh vực mới có khả năng đôn đốc, kiểm tra được các hoạt động của UBND cùng cấp. Có như vậy, khi thực hiện chức năng giám sát của HĐND, Thường trực HĐND vừa đảm bảo là chủ thể giám sát, trực tiếp giải quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền giám sát của mình, vừa là người điều hòa phối hợp hoạt động giám sát của các ban một cách có chất lượng và hiệu quả. Phải có sự phân định rõ ràng về thẩm quyền giám sát của Thường trực HĐND với các Ban của HĐND. Khi đó Thường trực HĐND và các Ban mới có khả năng vừa thực hiện tốt công tác phối hợp chỉ đạo vừa thực sự chủ động, độc lập trong khi thực hiện chức năng giám sát của HĐND. 3.2.3 Nâng cao năng lực giám sát của các Ban của Hội đông nhân dân. Hiệu quả giám sát của HĐND cao hay thấp phụ thuộc rất nhiều ở năng lực hoạt động của các Ban. Trong khi đó năng lực của các Ban lại được đánh giá thông qua năng lực của các thành viên ở Ban đó. Vì vậy để nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND, các thành viên của các Ban phải đầy đủ về số lượng, chất lượng và điều kiện làm việc. Trước hết, thành viên của các Ban phải là những đại biểu hoạt động chuyên trách mới có đủ thời gian và các điều kiện khác tập trung cho công việc của HĐND. Thứ hai: về cơ cấu, thành viên của các Ban nhất là trưởng, phó ban phải có chuyên môn thuộc lĩnh vực ban phụ trách, tránh tình trạng như ở nhiều địa phương hiện nay trưởng Ban pháp chế của HĐND tỉnh nhưng lại không có chuyên môn luật. Thứ ba: Cần phải tăng thêm thành viên cho các Ban theo hướng chọn lọc các đại biểu có trình độ chuyên môn, có năng lực giám sát, phẩm chất uy tín và trách nhiệm cao trong công việc. Đặc biệt, phải thật sự quan tâm đến chức trách trưởng, phó Ban, ngoài tiêu chuẩn của một người đại biểu nói chung họ còn phải có một quá trình làm việc và thâm nhập thực tiễn sâu rộng, được nhân dân tín nhiệm cao. 3.3 Nâng cao chất lượng thực hiện các hình thức giám sát của Hội đồng nhân dân. Trong thời gian vừa qua mặc dù hoạt động giám sát của HĐND đã được tăng cường, song nhìn chung hiệu quả giám sát chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý Nhà nước của chính quyền địa phương. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tồn tại trên vì HĐND chưa thực hiện tốt các hình thức và phương pháp giám sát, chưa có cơ chế rõ ràng đảm bảo HĐND thực hiện tốt chức năng của mình. Do đó, để thực hiện có hiệu quả chức năng giám sát, đòi hỏi HĐND phải nâng cao chất lượng các hình thức và phương pháp giám sát cụ thể như sau: Nâng cao chất lượng xem xét báo cáo. Xem xét báo cáo là hoạt động giám sát quan trọng. Đây là hình thức HĐND xem xét tình hình hoạt động của các cơ quan nhà nước thông qua việc đánh giá các báo cáo đó. Nên trong luật cần quy định cụ thể về chế độ báo cáo, hình thức báo cáo, đặc biệt phải quy định trách nhiệm nếu báo cáo không phản ánh đúng thực trạng hoạt động của các cơ quan, đơn vị đưa nhiều thông tin sai lệch hoặc thiếu thông tin. Về phía các cơ quan lập báo cáo yêu cầu thông tin trong báo cáo phải đầy đủ, khách quan phản ánh đúng thực trạng hoạt động cũng như những vấn đề trọng tâm cần tập trung giải quyết. Đồng thời phải nêu những kết quả đạt được, những khó khăn yếu kém tồn tại, từ đó đề ra các biện pháp giải quyết và kiến nghị đề xuất việc giải quyết đó Phương pháp thực hiện hình thức giám sát này phải đảm bảo tính khép kín. Khi nhận được báo cáo, cơ quan hay người có thẩm quyền đọc, xem xét góp ý cho báo cáo. Đặc biệt, người được phân công thẩm tra báo cáo có thể trao đổi với cơ quan lập báo cáo, nếu thấy cần thiết phải đi thực tế kiểm tra những vấn đề mà báo cáo nêu chưa rõ hoặc có mâu thuẫn về thông tin với những nguồn thu nhận thông tin khác. Cần công khai hóa nội dung của các báo cáo xét thấy cần thiết. Khi báo cáo và báo cáo thẩm tra được trình ra HĐND, đại biểu HĐND cần nêu cao tinh thần trách nhiệm, góp ý kiến xác đáng và có thể nêu vấn đề chất vấn để các cơ quan báo cáo giải trình trước HĐND. Việc thảo luận và thông qua báo cáo tại kỳ họp của HĐND phải thể hiện trình độ độc lập của HĐND bằng cách ra nghị quyết riêng về vấn đề đó. Các báo cáo phải được gửi trước tới đại biểu HĐND theo quy định của pháp luật và phải được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng trước kỳ họp, để đảm báo tính công khai, khách quan. Có như vậy, kết luận bằng nghị quyết của HĐND mới thực sự là kết quả của việc sử dụng hình thức xem xét báo cáo một cách có chất lượng. Nâng cao chất lượng chất vấn và trả lời chất vấn. Chất vấn và trả lời chất vấn là hình thức giám sát quan trọng của HĐND. Nhưng trong thực tế hoạt động chất và trả lời chất vấn mới chỉ mang tính chất gợi mở các vấn đề, chưa đảm bảo hiệu lực thực sự. Người chất vấn thường chưa đủ các thông tin cần thiết còn người trả lời chất vấn chưa đủ thỏa đáng và cụ thể. Để hình thức giám sát chất vấn mang lại hiệu quả thiết thực thì HĐND và các đại biểu dân cử phải đổi mới về nội dung và phương pháp chất vấn, cụ thể như sau: Trong phiên họp, chủ tọa điều hành chương trình phải tạo ra không khí dân chủ, khuyến khích, động viên đại biểu tham gia chất vấn. Đoàn Chủ tịch cần lựa chọn trong số các chất vấn mà đại biểu HĐND gửi tới đoàn thư ký, nội dung nào cử tri địa phương và nhiều đại biểu quan tâm đưa ra chất vấn tại hội trường. Từng câu trả lời chất vấn, HĐND phải nhận xét, kết luận, giao nhiệm vụ cụ thể cho từng đối tượng bị chất vấn hoàn thành trong thời gian nhất định. Về phía đại biểu chất vấn phải đặt các câu hỏi ngắn gọn, đúng đối tượng, đúng trọng tâm vấn đề mà cử tri, dư luận đang quan tâm. Tránh tình trạng hỏi mang tính chất tìm hiểu để củng cố kiến thức. Muốn vậy các đại biểu phải nắm được tình hình chung về phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn, hiểu rõ nhiệm vụ, quyền hạn của người trả lời chất, đồng thời phải am hiểu các quy định của pháp luật về vấn đề liên quan đến nội dung chất vấn. Ví dụ: chất vấn về vấn đề môi trường phải hiểu rõ những quy định của pháp luật (Luật bảo vệ môi trường, các nghị định hướng dẫn, xử lý vi phạm trong vấn đề môi trường…) Việc trả lời chất vấn cũng cần có sự đổi mới theo hướng nâng cao tinh thần trách nhiệm của người trả lời chất vấn. Do thời gian tiến hành kỳ họp HĐND không dài, quỹ thời gian dành cho chất vấn đã được ấn định trong chương trình kỳ họp, nên việc trả lời chất vấn của các cá nhân có chức trách phải đảm bảo: Về nguyên tắc, mọi chất viết và chất vấn bằng lời nói phải trả lời công khai tại kỳ họp của Hội đồng. Nội dung trả lời chất vấn phải cụ thể, ngắn gọn, dễ hiểu, đi thẳng vào bản chất của vấn đề mà đại biểu quan tâm, tránh tình trạng báo cáo thành tích, diễn đạt vòng vo, phân tích quá nhiều về tình hình, nhằn đảm bảo chương trình làm việc của HĐND. Đối với vấn đề cần có thời gian để điều tra, nghiên cứu thì nhất thiết phải trả lời tại kỳ họp tiếp theo. Trong chất vấn, vấn đề đặt ra hiện nay người trả lời chất vấn không chỉ dừng lại ở việc phải trả lời trực tiếp, đầy đủ các nội dung mà đại biểu HĐND đã chất vấn, điều quan trọng hơn là người bị chất vấn phải xác định rõ trách nhiệm và các biện pháp khắc phục sai phạm của mình. Qua phân tích nội dung trên, có thể đề ra biện pháp cụ thể sau: Trong cơ cấu đại biểu HĐND nên tăng tỷ lệ quần chúng có năng lực, tăng số đại biểu chuyên trách, giảm đại biểu là cán bộ quản lý lãnh đạo. Bởi vì hiện nay số đại biểu là cán bộ ở các cơ quan nhà nước, cấp ủy và đoàn thể đang chiếm tỷ lệ khá nhiều. Có những đại biểu vừa tư cách là cơ quan quyền lực Nhà nước vừa tư cách là người đứng đầu cơ quan hành pháp thậm chí tư pháp. Trong khi đó chất vấn, buộc người bị chất vấn phải giải thích trước cơ quan quyền lực nhà nước về những khuyết điểm tồn tại trong hoạt động, công tác của cơ quan, cá nhân đó phụ trách, trả lời những nguyên nhân, biện pháp khắc phục khuyết điểm đó. Rõ ràng đây là vấn đề khách quan mà HĐND cũng như các đại biểu HĐND không thể vượt qua. Do đó để khắc phục hạn chế này chúng ta phải chuyển dịch cơ cấu đại biểu HĐND một cách hợp lý. Trong chất vấn và trả lời chất vấn nhất thiết phải tổ chức truyền hình và phát thanh trực tiếp. Bởi thông qua kênh này, cử tri thấy những đại biểu nào có trách nhiệm, có chất vấn trong kỳ họp những vấn đề cử tri kiến nghị. Đây là một trong những hình thức để cử tri giám sát, đánh giá trách nhiệm của đại biểu. HĐND và các đại biểu phải thường xuyên theo dõi và đôn đốc tiến độ thực hiện những cam kết của người trả lời chất vấn bằng các giải pháp và thời gian thực hiện nhất định. Tăng thời gian chất vấn. 3.3.3 Đổi mới hình thức tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của các Đoàn đi giám sát tại địa phương. Hiện nay hình thức tổ chức, thành lập Đoàn giám sát tại các địa phương được sử dụng nhiều và triển khai rộng rãi, và đã đạt được nhiều kết quả đáng kể. Tuy nhiên, trên thực tế việc thực hiện hình thức giám sát này còn bất cập về chương trình giám sát, thành viên của đoàn giám sát và phương pháp giám sát. Chính vì vậy, mặc dù HĐND ở các địa phương đã cố gắng tổ chức được nhiều cuộc giám sát song hiệu quả vẫn còn thấp. Để hình thức tổ chức Đoàn giám sát tại địa phương đạt được mục đích, cần phải thực hiện đồng bộ những biện pháp cơ bản sau: Về chương trình giám sát: Khi xây dựng nghị quyết giám sát hàng năm, HĐND ngoài việc xây dựng chương trình giám sát theo định kỳ, cần phải dự báo những vấn đề phát sinh, nổi cộm cần giám sát đột xuất. Trên cơ sở đó Thường trực HĐND và các Ban xây dựng chương trình giám sát của mình theo kế hoạch cụ thể của từng kỳ họp, từng quý, từng tháng nhưng phải có trọng tâm, trọng điểm. Bởi, hiện nay đối tượng, phạm vi, nội dung giám sát của HĐND rất rộng trong khi đó lực lượng giám sát còn mỏng. Nếu chúng ta vẫn tổ chức giám sát tràn lan, giàn trải thì hiệu quả chắc chắn sẽ không cao và làm ảnh hưởng tới uy tín của HĐND. Do đó, có thể tổ chức ít cuộc giám sát, nhưng cuộc giám sát nào cũng phải triệt để và đến cùng thì tác dụng của nó sẽ mang lại hiệu quả cao hơn. Về thành viên của Đoàn giám sát: Ngoài quyền hạn và kỹ năng giám sát, thành viên của đoàn giám sát cần phải có chuyên môn về lĩnh vực được giám sát. Để đáp ứng yêu cầu đó, có thể thực hiện chế độ hợp đồng mời các chuyên gia giỏi trên các lĩnh vực tham gia hoạt động với đoàn giám sát. Đồng thời phải có quy định cụ thể, để chính kiến giám sát của họ trở thành ý chí của người đại biểu. Vì thực tế xảy ra tình trạng, các thành viên chuyên môn không phải là Đại biểu của HĐND đã đóng góp một vai trò rất lớn trong xem xét, tìm hiểu giúp HĐND phát hiện vấn đề chính xác, nhanh gọn. Nhưng xuất phát từ tư cách pháp lý, cho nên ý kiến của họ không phải lúc nào cũng được các chủ thể giám sát và đối tượng giám sát chấp nhận. Để khắc phục hạn chế này, cần phải xem xét ý chí của các thành viên đó về bản chất cũng như là ý chí của những người dân. Với quy định như vậy, việc mời các thành viên chuyên môn tham gia đoàn giám sát mới thực sự có ý nghĩa. Về phương pháp giám sát: tùy thuộc vào từng đối tượng có thể lựa chọn các hình thức, phương pháp giám sát khác nhau. Nhưng dù sử dụng phương pháp, hình thức nào cũng phải đảm bảo tính khách quan, chính xác và triệt để. Như vậy, để hoạt động giám sát có hiệu quả chúng ta phải kết hợp nhiều yếu tố khác nhau. Tuy nhiên hiệu quả giám sát không dừng lại ở việc chỉ ra các ưu điểm, khuyết điểm, đề ra biện pháp khắc phục cho cơ quan đơn vị chịu sự giám sát mà điều quan trọng là đơn vị đó đã khắc phục, sửa sai khuyết điểm của mình như thế nào. Do đó, cần có chế độ đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện các kết luận của đoàn giám sát, đồng thời pháp luật phải quy định cho HĐND có những chế tài cụ thể đối với cơ quan đơn vị bị giám sát nếu họ không thực hiện tốt các đề xuất, kiến nghị của HĐND. 3.4 Tạo điều kiện thuận lợi cho Hội đồng nhân dân trong hoạt động giám sát. Một trong những nguyên nhân làm cho hiệu quả giám sát chưa cao là do thiếu điều kiện vật chất và phương tiện thông tin cho các đại biểu. Trong điều kiện xã hội ngày nay, nhu cầu cung cấp thông tin là rất cần thiết. Hơn nữa các đại biểu HĐND, các cơ quan của HĐND muốn thực hiện tốt chức năng của mình thì nhu cầu được đảm bảo về thông tin là một yêu cầu lớn càn phải được hỗ trợ một cách đầy đủ nhất. Thông tin cần phải được cập nhật sâu, rộng, trong mọi lĩnh vực giám sát. Để làm tốt nội dung trên cần phải tăng cường công tác thông tin, lưu trữ và công tác tư liệu, đảm bảo đầy đủ về nội dung thuộc mọi lĩnh vực giám sát của HĐND. Đồng thời việc cung cấp thông tin phải phù hợp với kế hoạch giám sát, tránh tình trạng gần đến khi HĐND họp hoặc trong kỳ họp mới gửi tài liệu cho đại biểu không đủ thời gian để đại biểu nghiên cứu, phân tích tài liệu đối chiếu thông tin một cách kỹ lưỡng. Để tăng nguồn thông tin trong thời gian chuẩn bị và diễn ra kỳ họp HĐND các cấp nên thành lập một số đường dây điện thoại để tiếp nhận thông tin do cử tri phản ánh. Với biện pháp này HĐND sẽ nắm được bức xúc của cử tri, kịp thời giải quyết, tránh hiện tượng xảy ra điểm nóng làm ảnh hưởng đến ổn định an ninh, chính trị của địa phương. Nên ứng dụng khoa học, công nghệ của HĐND như thành lập các trang website của HĐND, tiếp tục biên tập phát hành bản tin của HĐND mỗi quý một cuốn. Đó sẽ là địa chỉ tin cậy để các đại biểu HĐND, cử tri và mọi người dân nghiên cứu tham gia trao đổi, góp ý kiến cho HĐND hoạt động hiệu quả hơn. Về điều kiện vật chất, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn, Nhà nước cần có chính sách đảm bảo cho HĐND thực hiện tốt chức năng của mình. Cần quan tâm hơn nữa đến chế độ đãi ngộ, khen thưởng, quan tâm đến chế độ tiền tàu xe đi lại, phụ cấp sinh hoạt phí cho đại biểu một cách hợp lý. Tóm lại, các nhóm giải pháp nói trên đều rất cần thiết, mỗi giải pháp có một vai trò riêng, khó có thể đánh giá giải pháp nào quan trọng nhất. Tuy nhiên, chúng chỉ đem lại hiệu quả thiết thực nếu được tiến hành một cách đồng bộ, hợp lý và kiên quyết, trên cơ sở quán triệt các quan điểm chỉ đạo cơ của Đảng và Nhà nước đối với công tác nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND hiện nay. KẾT LUẬN Hoạt động giám sát là một trong những chức năng quan trọng của HĐND. Nó càng quan trọng hơn bởi trong một đất nước mà nạn tham nhũng và tệ nạn quan liêu được xem là một nguy cơ, thì việc thực hiện quyền lực Nhà nước nhằm làm trong sạch bộ máy, duy trì bản chất tốt đẹp của chế độ lại càng có ý nghĩa hơn bao giờ hết. Để bắt nhịp cùng với nền kinh tế thị trường và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, việc thực hiện công cuộc đổi mới về tổ chức và hoạt động của HĐND đã được đề cập trong các nghị quyết của Đảng, thực tiễn hoạt động giám sát của HĐND đã được chú ý và coi trọng. Đặc biệt, sau khi Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 ra đời, có hiệu lực pháp luật, hoạt động giám sát đã đi vào cuộc sống và có nhiều chuyển biến tích cực. Hàng năm, HĐND các cấp đã xây dựng được chương trình, kế hoạch giám sát cụ thể bằng việc ra các nghị quyết trên cơ sở yêu cầu thực tế cuộc sống, công tác tổ chức giám sát đã diễn ra toàn diện, chủ động và bài bản hơn trước. Công tác theo dõi, đôn đốc sau giám sát đã được chú ý, thực hiện nghiêm túc hơn, làm tăng lòng tin của nhân dân đối với cơ quan quyền lực, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội tại địa phương, và làm tròn nghĩa vụ đối với cả nước. Dù đã có những tiến bộ rõ rệt, nhưng hiệu quả giám sát của HĐND các cấp vẫn chưa thực sự xứng với vai trò, vị trí của HĐND, vẫn còn nhiều bất cập hạn chế. Hệ thống pháp luật về giám sát, một số quy định còn thiếu tính khả thi, còn nhiều bỏ ngỏ…cho nên, nhiều địa phương hoạt động giám sát mới chỉ ở “ngoài da”, thiếu chủ động, kiên quyết, còn nặng tính hình thức. Do đó, phải kết hợp một cách đồng bộ các hạn chế trên, để phát huy hơn nữa sức mạnh của HĐND, góp phần xây dựng bộ máy Nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam giai đoạn hiện nay. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docHoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân theo pháp luật hiện hành.doc