Luận án Pháp luật của Lào và Việt Nam về giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân dưới góc độ so sánh

Khung pháp lý hiện hành của Lào về BVQLNTD trong thương mại điện tử gồm: Luật Bảo vệ NTD năm 2010, Luật Viễn thông năm 2011, Luật Giao dịch điện tử năm 2012; Luật Phòng chống tội phạm mạng năm 2016; Luật thanh toán quốc gia năm 2017 và các quy định về dịch vụ tài chính kỹ thuật số. Tuy nhiên, vẫn chưa có luật về bảo vệ quyền riêng tư và thông tin của NTD khi tham gia vào mua sắm trực tuyến. Đối với Luật Giải quyết tranh chấp kinh tế (sửa đổi) năm 2018 cần thiết phải được xem xét và nghiên cứu bổ sung thêm cơ chế giải quyết ODR. Muốn thực hiện được thì cần chú ý hoàn thiện hai thành tố: 1. Hoàn thiện các quy định về các phương thức giải quyết tranh chấp thay thế bao gồm thương lượng, hòa giải và trọng tài; 2. Xây dựng nền tảng công nghệ Internet phục vụ cho việc thực hiện các phương thức giải quyết tranh chấp trực tiếp, tập trung vào các nhóm B2B, B2C và C2C. Bên cạnh đó, do đặc tính vượt qua khỏi lãnh thổ quốc gia của các giao dịch thương mại điện tử, nên Lào cần xây dựng khung pháp luật đồng bộ với các quy chuẩn và thông lệ quốc tế về ODR. Với trình độ và kỹ thuật lập pháp hiện giờ của Lào, thì phương án khả thi là Lào nên công nhận và áp dụng trực tiếp các Điều ước quốc tế trên cơ sở phù hợp với lợi ích của quốc gia. Đây là việc làm có ý nghĩa nhất là khi ASEAN đang đẩy mạnh hợp tác trong lĩnh vực thương mại điện tử và giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế trên nền tảng trực tuyến. Cụ thể, Kế hoạch hành động chiến lược về bảo vệ NTD của ASEAN giai đoạn 2016-2025 (ASAPCP) đã được thông qua nhằm tạo ra các hệ thống bảo vệ NTD quốc gia và khu vực trong việc

pdf164 trang | Chia sẻ: Minh Bắc | Ngày: 16/01/2024 | Lượt xem: 77 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Pháp luật của Lào và Việt Nam về giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân dưới góc độ so sánh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
á trị tranh chấp không vượt quá 20.000 đô la Singapore)87; Việt Nam (với vụ việc có gia trị tranh chấp không vượt quá 100 triệu). Việc giải quyết tranh chấp BVQLTND theo thủ tục rút gọn được đánh giá cao về tính thuận lợi, hữu ích, khắc phục sự phức tạp, phiền phức có thể làm nản lòng NTD khi thực hiện quyền khởi kiện của mình. Do đó, trong thời gian tới rất cần thiết được nghiên cứu tiếp thu và áp dụng để bảo vệ tốt hơn quyền lợi của NTD Lào. (ii) Xem xét bổ sung vấn đề khởi kiện tập thể: Làm được điều này sẽ tạo ra thay đổi mang tính cách mạng trong tư duy lập pháp và chính sách pháp luật của Nhà nước Lào. Bởi thay đổi này đánh dấu lần đầu tiên quyền khởi kiện tập thể của NTD được thừa nhận và bảo vệ, đồng thời sẽ tạo hệ quả buộc các đạo luật khác có liên quan như BLTTDS Lào, hay các luật chuyên ngành trong lĩnh vực lao động, y tế, thương mại cũng phải có sự thay đổi phù hợp để bảo vệ toàn diện quyền lợi của công dân, tổ chức xã hội Lào. Thứ tư, đối với phương thức khiếu nại tiêu dùng. Cần bổ sung những quy định hướng dẫn về trình tự khiếu nại đối với các tranh chấp BVQLNTD trong đó ghi nhận cụ thể quyền lợi của NTD ở giai đoạn 87 Bộ Công thương (2022), Báo cáo nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về một số vấn đề trong pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng – bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, Hà Nội, tr.108. 132 khiếu nại và nghĩa vụ của thương nhân, bổ khuyết vào thực tế hiện nay, pháp luật bảo vệ NTD Lào mới chỉ đề ra cơ chế mà chưa có những quy định pháp lý cụ thể. Thứ năm, nghiên cứu hoàn thiện pháp luật về thương mại điện tử, tạo điều kiện cho việc áp dụng phương thức ODR để giải quyết tranh chấp BVQLNTD. Khung pháp lý hiện hành của Lào về BVQLNTD trong thương mại điện tử gồm: Luật Bảo vệ NTD năm 2010, Luật Viễn thông năm 2011, Luật Giao dịch điện tử năm 2012; Luật Phòng chống tội phạm mạng năm 2016; Luật thanh toán quốc gia năm 2017 và các quy định về dịch vụ tài chính kỹ thuật số. Tuy nhiên, vẫn chưa có luật về bảo vệ quyền riêng tư và thông tin của NTD khi tham gia vào mua sắm trực tuyến. Đối với Luật Giải quyết tranh chấp kinh tế (sửa đổi) năm 2018 cần thiết phải được xem xét và nghiên cứu bổ sung thêm cơ chế giải quyết ODR. Muốn thực hiện được thì cần chú ý hoàn thiện hai thành tố: 1. Hoàn thiện các quy định về các phương thức giải quyết tranh chấp thay thế bao gồm thương lượng, hòa giải và trọng tài; 2. Xây dựng nền tảng công nghệ Internet phục vụ cho việc thực hiện các phương thức giải quyết tranh chấp trực tiếp, tập trung vào các nhóm B2B, B2C và C2C. Bên cạnh đó, do đặc tính vượt qua khỏi lãnh thổ quốc gia của các giao dịch thương mại điện tử, nên Lào cần xây dựng khung pháp luật đồng bộ với các quy chuẩn và thông lệ quốc tế về ODR. Với trình độ và kỹ thuật lập pháp hiện giờ của Lào, thì phương án khả thi là Lào nên công nhận và áp dụng trực tiếp các Điều ước quốc tế trên cơ sở phù hợp với lợi ích của quốc gia. Đây là việc làm có ý nghĩa nhất là khi ASEAN đang đẩy mạnh hợp tác trong lĩnh vực thương mại điện tử và giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế trên nền tảng trực tuyến. Cụ thể, Kế hoạch hành động chiến lược về bảo vệ NTD của ASEAN giai đoạn 2016-2025 (ASAPCP) đã được thông qua nhằm tạo ra các hệ thống bảo vệ NTD quốc gia và khu vực trong việc88: - Xây dựng các văn bản hướng dẫn chung đối với phương thức giải quyết tranh chấp thương mại thay thế - Thiết lập hệ thống giải quyết tranh chấp thương mại quốc gia (ODR) - Phát triển mạng lưới ORD của ASEAN. 88 Association of South East Asian Nations (2016), ASEAN Strategic Action Plan for Consumer Protection. 133 Chính vì vậy mà Lào hoàn toàn có thể tận dụng cơ hội này để hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về thương mại điện tử nói chung, BVQLNTD trong lĩnh vực thương mại điện tử thông qua xây dựng cơ chế ODR nói riêng. 3.2.4. Hoàn thiện quy định về cơ chế đảm bảo thực thi kết quả giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân Thứ nhất, đối với phương thức thương lượng. Việc chưa có một cơ chế đảm bảo thực thi kết quả giải quyết tranh chấp giữa NTD với thương nhân bằng thương lượng sẽ không đảm bảo được triệt để việc khắc phục được nhược điểm của phương thức này, qua đó, quyền lợi của NTD cũng chưa được đảm bảo. Theo pháp luật hiện hành thì đương sự chỉ có thể tự mình hoặc ủy quyền cho người khác yêu cầu thi hành án bằng việc gửi yêu cầu bằng văn bản lên cơ quan thi hành án có thẩm quyền đối với các đối tượng là bản án, quyết định của tòa án. Tuy nhiên, các nhà làm luật nên thay đổi nhận thức về việc phương thức thương lượng đang được sử dụng rất phổ biến hiện nay và cần tháo gỡ vướng mắc cho việc áp dụng phương thức này trên thực tiễn, thông qua việc cho phép đương sự gửi kết quả thương lượng thành tới cơ quan thi hành án để yêu cầu thi hành án. Thứ hai, đối với phương thức trọng tài. Hiện nay, cơ chế đảm bảo thi hành phán quyết của Trọng tài trong Luật Bảo vệ NTD năm 2010 của Lào chưa khả thi khi bên được thi hành phán quyết không có quyền yêu cầu trực tiếp sự can thiệp của Cơ quan thi hành án dân sự mà phải thông qua thủ tục của Tòa án. Đối với thủ tục hòa giải, bên được thi hành có quyền này mà không cần phải thông qua Tòa án. Trong khi đó, việc tiến hành giải quyết tranh chấp giữa NTD với thương nhân bằng phương thức hòa giải và trọng tài bởi cùng một chủ thể là Trung tâm và các Văn phòng giải quyết tranh chấp kinh tế. Do đó, quy định này khiến cho bên được thi hành phán quyết, ở đây là NTD, bị kéo dài hơn thời gian thi hành phán quyết, quyền lợi của NTD cũng sẽ không được đảm bảo. Do đó, cùng với việc học tập kinh nghiệm của pháp luật Việt Nam, tác giả kiến nghị hoàn thiện quy định của Luật GQTC kinh tế (sửa đổi) năm 2018 như sau: Một là, loại bỏ Điều 52. Công nhận phán quyết trọng tài của Tòa án; Hai là, sửa đổi nội dung Điều 51. Tổ chức thi hành kết quả giải quyết tranh chấp, bổ sung đoạn: “Trường hợp một bên phải thi hành phán quyết trọng tài mà không thực hiện nghĩa 134 vụ của mình, bên còn lại được quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự thi hành kết quả giải quyết tranh chấp”. Thứ ba, đối với phương thức GQTC bằng tòa án. Lào cần đẩy nhanh tiến độ sửa đổi Luật Thi hành án đã được đề ra trong Chiến lược cải cách tư pháp. Cụ thể, là việc xây dựng Luật Thi hành án dân sự tách biệt với Luật Thi hành án hình sự. Khi Luật Thi hành án dân sự đi vào thực tiễn sẽ đồng nghĩa với việc có một cơ chế riêng, phù hợp với các tranh chấp dân sự nói chung, tranh chấp BVQLNTD nói riêng, từ đó giúp nâng cao hiệu quả, đảm bảo thi hành án BVQLNTD trên thực tiễn. Thứ tư, đối với phương thức khiếu nại tiêu dùng. Luật Bảo vệ NTD năm 2010 của Lào đang vấp phải một sự bất cập lớn là việc quy định gộp chung giữa Hội Bảo vệ NTD và cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực BVQLNTD là chủ thể thực hiện giải quyết khiếu nại tiêu dùng. Sự khác biệt về địa vị pháp lý, tính quyền lực nhà nước và việc đảm bảo thực hiện kết quả giải quyết khiếu nại tiêu dùng là khác nhau. Do đó, các nhà làm luật Lào cần sửa đổi quy định về vấn đề này theo hướng tách bạch rõ thẩm quyền giải quyết khiếu nại của Hội Bảo vệ NTD, đồng thời có tính đến các biện pháp cụ thể để đảm bảo chủ thể có nghĩa vụ sẽ thực hiện kết quả khiếu nại được giải quyết bởi chủ thể này khi không nhân danh và được đảm bảo thực hiện bằng quyền lực nhà nước. 3.2.5. Giải pháp hỗ trợ nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân tại Lào Thứ nhất, xã hội hóa cơ chế bảo vệ quyền lợi của NTD tại Lào là giải pháp mang tính trọng tâm. Tại Lào hiện nay, hoạt động của các tổ chức bảo vệ NTD (cấp huyện, cấp tỉnh) còn mang nặng tính hành chính, bởi các cơ quan này thuộc cơ quan hành chính của Nhà nước Lào. Cho tới hiện nay, chưa có một tổ chức nào độc lập về mặt tổ chức (không phải là cơ quan nhà nước) và kinh tế (không hoạt động trên cơ sở ngân sách nhà nước) để hỗ trợ NTD và bảo vệ quyền lợi cho NTD. Những cuộc tham vấn gần đây của Chính phủ Lào đã được thực hiện để lấp đầy các khoảng trống pháp lý và tạo ra cơ chế bảo vệ NTD ưu việt hơn, trong đó có giải pháp về xã hội hóa cơ chế bảo vệ NTD, tạo môi trường pháp lý thuận lợi hơn cho công dân Lào có thể tự lập 135 ra các tổ chức để bảo vệ quyền lợi cho mình. Kết quả là ngày 30 tháng 07 năm 2020, Bộ Công thương Lào đã ban hành Khuyến nghị liên quan đến việc thành lập và vận hành các Hiệp hội bảo vệ NTD số 0707/MOIC. Theo đó, các Hiệp hội đăng ký có thể thành lập ở ba cấp là cấp huyện, cấp tỉnh và toàn quốc với những điều kiện nhất định như: Hội cấp huyện, thành phố phải có ít nhất 10 hội viên; Hội cấp tỉnh có ít nhất 15 hội viên và Hội toàn quốc phải có ít nhất 25 hội viên. Trong đó, Hội trưởng phải bắt buộc là NTD có quốc tịch Lào. Công dân nước ngoài có thể tham gia Hội nhưng không được giữ các chức vụ quản lý. Đồng thời, khuyến nghị cũng thiết lập rõ ràng quyền và trách nhiệm của các hiệp hội trong việc bảo vệ NTD nói chung, hỗ trợ, giải quyết tranh chấp của NTD nói riêng. Về khung pháp lý, ban đầu đã được tạo lập một cách khá đầy đủ, thể hiện quan điểm của Nhà nước Lào trong việc khuyến khích thành lập các tổ chức bảo vệ quyền lợi NTD. Vấn đề quan trọng trước mắt là cần thực hiện các giải pháp để thúc đẩy các chính sách này trở thành hiện thực. Hay nói cách khác, đẩy mạnh áp dụng vào thực tiễn để công tác bảo vệ NTD thực sự mang lại hiệu quả thực chất. Thứ hai, đẩy mạnh giải pháp tuyên truyền về pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và nâng cao khả năng tự bảo vệ của NTD, là giải pháp mang tính trọng tâm chiến lược. Lào là quốc gia đa dân tộc, ngoài người Lào là tộc người đa số thì các nhóm người còn lại chiếm số lượng thiểu số. Trình độ học vấn và nhận thức của NTD tại khu vực thành thị - nông thôn có sự khác biệt đáng kể. Dẫn chứng là theo kết quả thống kê Tổng điều tra dân số và nhà ở Lào của Tổng cục Thống kê Lào năm 2015 cho thấy số lượng trẻ dưới 17 tuổi không được đến trường chiếm 16,4%, đông nhất là số lượng từ 17 – 19 tuổi và đa số ở khu vực nông thôn với 11,6%89. Số lượng người không được đi học tỉ lệ thuận với số lượng người không biết đọc, viết. Đây là thách thức lớn đối với công tác tuyên truyền pháp luật nói chung, pháp luật về bảo vệ NTD nói riêng tại Lào. Chính vì vậy, một trong những biện pháp nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp bảo vệ quyền lợi NTD chính là việc phải giúp NTD Lào có thể nắm bắt được những kiến thức pháp luật cơ bản nhất để có khả năng tự bảo vệ mình tốt nhất. Do 89 Tổng cục thống kê (2015), Tổng Điều tra dân số và nhà ở toàn quốc năm 2015, Viêng chăn, tr. 46. 136 đó, tuyên truyền giáo dục cho NTD là một mảng vô cùng quan trọng trong hoạt động BVQLNTD nói chung, tăng tính hiệu quả khi áp dụng pháp luật vào giải quyết tranh chấp tiêu dùng nói riêng. Với đặc thù là các dân tộc thiểu số cùng sinh sống, nhiều dân tộc có ngôn ngữ riêng và tâm lý còn e ngại, hầu như không có kiến thức pháp luật về giải quyết tranh chấp tiêu dùng, do đó, việc tuyên truyền pháp luật về giải quyết tranh chấp tiêu dùng cho những đối tượng này cũng cần phải có những chuẩn bị kỹ lưỡng. Cụ thể: Một là, đối với nội dung tuyên truyền: nội dung tuyên truyền giáo dục phải bao gồm nội dung về: các quyền hợp pháp của NTD; các phương thức giải quyết tranh chấp khi quyền lợi của NTD bị xâm phạm; cách thức để NTD có thể tự bảo vệ mình khi quyền lợi bị xâm phạm. Điều quan trọng trong xây dựng nội dung pháp luật phải sinh động, dễ hiểu thông qua các ví dụ sinh động, tránh việc sử dụng các từ ngữ chuyên môn quá hàn lâm khiến cho người dân khó nắm bắt. Hai là, về ngôn ngữ tuyên truyền: bên cạnh tiếng Lào là tiếng phổ thông được sử dụng trong tài liệu tuyên truyền thì tùy theo từng đối tượng tuyên truyền mà có sự thay đổi cho phù hợp. Ví dụ như với các dân tộc thiểu số có ngôn ngữ riêng như Katang, Phú Thái, Bru thì nên có thêm phiên bản bằng tiếng dân tộc để truyền tải tới bà con. Ba là, về hình thức tuyên truyền. Cần đa dạng các hình thức tuyên truyền như xây dựng Sổ tay pháp luật, tổ chức sinh hoạt pháp luật tại các bản, mường với sự tham gia của trưởng bản, những người có uy tín trong bản. Trường hợp xảy ra các hiện tượng vi phạm quyền lợi của NTD thực hiện bởi cá nhân, doanh nghiệp trên địa bàn cần phải được kiểm điểm công khai và qua đó, cũng là một ví dụ trực quan để đưa pháp luật tới gần hơn với cuộc sống của người dân địa phương. 3.3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về giải quyết tranh chấp giữa ngƣời tiêu dùng với thƣơng nhân 3.3.1. Hoàn thiện quy định về nhận diện quan hệ pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Thứ nhất, đối với khái niệm “NTD”: Để đảm bảo đúng bản chất và tiêu chí của NTD, việc quy định như hiện nay của Luật BVQLNTD năm 2010 của Việt Nam là chưa hợp lý. Giải pháp được đưa ra là cần xác định lại đối tượng bảo vệ của 137 Luật BVQLNTD năm 2010 của Việt Nam, cần định nghĩa lại khái niệm NTD trong Điều 1 của Luật BVQLNTD năm 2010 của Việt Nam, theo đó NTD chỉ là những cá nhân mua sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt. Thứ hai, cần bảo đảm tính bình đẳng trong quan hệ giữa NTD và thương nhân thông qua việc bổ sung quyền của NTD theo pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD, hạn chế trường hợp NTD lạm dụng quyền trong GQTC để gây thiệt hại cho uy tín doanh nghiệp. Cụ thể: (i) Đối với NTD - Bổ sung quyền được Tổ chức quốc tế NTD, Liên Hiệp Quốc và nhiều nước trên thế giới đã công nhận cho NTD, công dân của họ: quyền được thỏa mãn những nhu cầu cơ bản. Đây là quyền được tiếp cận, được đáp ứng, được thỏa mãn những hàng hóa, dịch vụ thiết yếu, đáp ứng nhu cầu cơ bản và tối thiểu nhất của con người trong từng giai đoạn lịch sử khác nhau như ăn, mặc, ở, điện, nước sạch, vệ sinh, chăm sóc sức khỏe, tinh thần và giáo dục. Vì thế, pháp Luật BVQLNTD cần nhanh chóng quy định quyền được tiếp cận, được đáp ứng, được thỏa mãn những hàng hóa, dịch vụ thiết yếu, đáp ứng nhu cầu cơ bản, tối thiểu của NTD. - Cụ thể hóa quyền được tư vấn, hỗ trợ, hướng dẫn kiến thức về tiêu dùng của NTD được quy định tại Khoản 8 Điều 8 Luật BVQLNTD năm 2010 của Việt Nam. Cụ thể, trong việc xem xét ban hành văn bản sửa đổi Nghị định số 99/2011/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật BVQLNTD năm 2010 của Việt Nam và Nghị định số 19/2012/NĐ-CP về quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ quyền lợi NTD, nội dung này cần thiết phải được xem xét để cụ thể hóa về chủ thể chịu trách nhiệm, cách thức thực hiện và nội dung. Quan trọng là xác định được cơ quan có trách nhiệm đầu mối thực hiện các nội dung này, để thực sự quy định của luật có tính rõ ràng và minh bạch, bảo vệ tốt hơn quyền lợi cho NTD. (ii) Đối với thương nhân Cần cụ thể hóa nghĩa vụ bảo hành hàng hóa, dịch vụ của nhà sản xuất kinh doanh nhằm khắc phục vấn đề pháp luật giới hạn trường hợp phát sinh nghĩa vụ bảo hành hàng hóa của nhà sản xuất kinh doanh, đảm bảo công bằng cho NTD và học 138 tập kinh nghiệm quốc tế, cần quy định nghĩa vụ chung của mọi nhà cung cấp phải thực hiện chế độ bảo hành; bao gồm các chế tài (hậu quả pháp lý) theo trình tự ưu tiên: (1) Sửa chữa miễn phí và bồi thường thiệt hại (nếu có); (2) Giảm giá; (3) Đổi sản phẩm, hàng hóa mới; (4) Huỷ hợp đồng. 3.3.2. Hoàn thiện quy định về trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân Thứ nhất, đối với phương thức thương lượng - Nghiên cứu xây dựng và ban hành trình tự và thủ tục mẫu về hòa giải, thương lượng trong GQTC tiêu dùng trên cơ sở học tập kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới, trong đó quy định một cách tổng quát theo hướng linh hoạt, tôn trọng nguyên tắc tự do thỏa thuận giữa các bên tranh chấp. - Bổ sung quy định về thời hạn cụ thể buộc các bên phải thực hiện kết quả thương lượng thành nhằm tránh tình trạng thương nhân cố tình trì hoãn việc thực hiện các nghĩa vụ, khiến thiệt hại cho NTD về cả tinh thần, sức khỏe và tài chính không được đền bù thỏa đáng. Thứ hai, đối với phương thức GQTC bằng tòa án Cần hoàn thiện pháp luật về thủ tục rút gọn trong BLTTDS năm 2015 và kiểm soát việc áp dụng thủ tục rút gọn tại Tòa án với các vấn đề cụ thể như sau: (i) Thống nhất sửa đổi tên gọi “thủ tục đơn giản” trong quy định của Luật BVQLNTD năm 2010 thành “thủ tục rút gọn” để đảm bảo đồng bộ với quy định của BLTTDS năm 2015. (ii) Ban hành hướng dẫn cụ thể về thời điểm áp dụng thủ tục rút gọn: Để đảm bảo thuận tiện trong công tác giải quyết vụ án dân sự được nhanh chóng, tác giả đề xuất việc áp dụng thủ tục này nên được áp dụng kể từ khi Thẩm phán thụ lý vụ án khi thấy đủ điều kiện theo quy định hoặc Thẩm phán có thể áp dụng thủ tục rút gọn trước khi đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm. Đồng thời để đảm bảo các hành vi, quyết định của Thẩm phán là đúng pháp luật, xây dựng cơ chế kiểm tra, giám sát việc áp dụng thủ tục rút gọn đồng nghĩa với việc đảm bảo quyền năng của Kiểm sát viên phải luôn gắn với mọi hoạt động của Thẩm phán ngay từ khâu thụ lý. 139 (iii) Đối với các điều kiện để áp dụng thủ tục rút gọn: - Lược bỏ cụm từ “và Tòa án không phải thu thập tài liệu, chứng cứ” vì tài liệu, chứng cứ đã đầy đủ, bảo đảm đủ căn cứ để giải quyết vụ án thì việc Tòa án thu thập thêm tài liệu, chứng cứ là không cần thiết. - Lược bỏ nội dung “tài liệu, chứng cứ đầy đủ, đảm bảo đủ căn cứ để giải quyết vụ án và Tòa án không phải thu thập tài liệu, chứng cứ” vì theo Điều 92 của BLTTDS năm 2015, sự thừa nhận của đương sự cũng là chứng cứ và là yếu tố cơ bản để giải quyết vụ án, đồng thời thuộc những trường hợp những tình tiết, vụ kiện không phải chứng minh. Do đó, có thể sửa đổi điểm a, Khoản 1 Điều 317 BLTTDS năm 2015 theo hướng sau đây: “Vụ án có tình tiết đơn giản, quan hệ pháp luật rõ ràng, đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ; hoặc tài liệu, chứng cứ đầy đủ, đảm bảo đủ căn cứ để giải quyết vụ án mà Tòa án không phải thu thập tài liệu, chứng cứ”. Hơn nữa, điều quan trọng là cơ quan có thẩm quyền ở đây là Tòa án nhân dân tối cao cần có hướng dẫn cụ thể về điều kiện áp dụng thủ tục tố tụng rút gọn quy định tại Điều 317 BLTTDS năm 2015 để áp dụng hiệu quả vào thực tiễn. Trước hết, cần hướng dẫn chi tiết “vụ án có tình tiết đơn giản, quan hệ pháp luật rõ ràng”, có thể nói để thực hiện được yêu cầu này đòi hỏi cần nghiên cứu kết quả từ công tác tổng kết xét xử. Một vụ án được xác định có tình tiết đơn giản hay không không chỉ phụ thuộc vào những chứng cứ, quan hệ pháp luật rõ ràng, giá ngạch thấp mà cần phải xem xét đến hậu quả pháp lý của việc giải quyết vụ án. Nếu kết quả giải quyết vụ án ảnh hưởng lớn tới uy tín doanh nghiệp, danh tiếng cá nhân thì giải pháp hữu hiệu nhất là việc cân nhắc ý kiến của đương sự về tính chất đơn giản của vụ án, từ đó Thẩm phán xem xét việc áp dụng thủ tục rút gọn. (iv) Quy định thủ tục rút gọn là bắt buộc khi có đủ điều kiện áp dụng và trao cho Viện kiểm sát quyền được kiến nghị Tòa án yêu cầu áp dụng thủ tục rút gọn khi vụ án có đủ điều kiện theo quy định, có như vậy, mới phát huy được tính hiệu quả của thủ tục rút gọn trong TTDS. Như đã phân tích ở phần thực tiễn, thủ tục rút gọn là không bắt buộc và Viện kiểm sát chỉ có quyền kiến nghị Tòa án đối với Quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục rút gọn mà không có cơ chế ngược lại, dẫn đến thực trạng áp dụng tùy nghi, phụ thuộc vào ý chí chủ quan của Thẩm phán do không có cơ chế bắt buộc. 140 (v) Ban hành quy định thủ tục rút gọn là biệt lệ của hai cấp xét xử. Theo pháp luật TTDS của Nhật Bản, tại Điều 397 BLTTDS Nhật Bản quy định: phán quyết cuối cùng của Tòa án giải quyết theo TTRG không được kháng cáo lên tòa phúc thẩm. Tuy nhiên đương sự có thể đưa ra yêu cầu phản đối quyết định đó trong thời hạn hai tuần, kể từ ngày nhận được quyết định của Tòa án, như vậy, khi áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết một vụ án tại Nhật Bản quy định rõ không cho phép kháng cáo bởi đối với một vụ án đơn giản, chứng cứ rõ ràng, các bên đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ thì việc giải quyết sẽ ít hoặc không có khả năng sai sót. Nhìn từ góc độ pháp luật Việt Nam, Hiến pháp năm 2013 đã chỉ rõ thủ tục rút gọn là biệt lệ của nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và nguyên tắc hội thẩm nhân dân, thêm vào đó, như đã phân tích ví dụ ở trên, trong một số vụ án đương sự không thiện chí đã sử dụng quyền kháng cáo của mình như một cách để kéo dài thời gian thi hành án, trốn tránh nghĩa vụ. Do đó, xét thấy việc học tập tinh thần của BLTTDS Nhật Bản là cần thiết, việc hạn chế quyền kháng cáo, kháng nghị bản án, quyết định sơ thẩm của vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn sẽ giảm tải gánh nặng lên Viện Kiểm sát cũng như Tòa án. Thứ ba, nghiên cứu kinh nghiệm của các quốc gia phát triển trên thế giới để xây dựng khung pháp lý cho phương thức GQTC trực tuyến ODR, bảo vệ tốt hơn quyền lợi của NTD trong lĩnh vực thương mại điện tử: - Sớm ban hành các quy định của pháp luật nhằm triển khai, hướng dẫn từng bước phương thức này nhằm giải quyết những vấn đề pháp lý đặt ra khi áp dụng ODR, từ đó tạo dựng niềm tin cho các bên, mở ra nhiều phương thức để các bên có thể lựa chọn, phù hợp với đặc điểm của từng vụ tranh chấp và bảo vệ tốt nhất được quyền lợi của NTD, nhất là các vụ tranh chấp có tính chất nước ngoài. - Sửa đổi Nghị định số 52/2013/NĐ-CP về thương mại điện tử, bổ sung quy định cụ thể đối với danh sách các website thương mại điện tử, hướng dẫn chi tiết về quy trình giao kết hợp đồng mua hàng trực tuyến để các bên tham gia tuân thủ. - Sửa đổi văn bản pháp luật có liên quan đến cách thức thu thập chứng cứ điện tử, quy trình thu thập, quyền của chủ thể khi tiến hành thu thập; xây dựng hệ thống xác thực và định danh điện tử công dân; đẩy nhanh việc hoàn thiện xây dựng 141 cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, tiến tới cấp căn cước điện tử quốc gia kèm theo chữ ký điện tử cá nhân cho công dân. - Tòa án nhân dân tối cao cần ban hành văn bản hướng dẫn chi tiết việc triển khai áp dụng chữ ký điện tử trong quá trình tố tụng cũng như việc thiết lập, giao nhận các văn bản tố tụng. - Ban hành quy định bắt buộc các doanh nghiệp thương mại điện tử phải xây dựng hoặc kết nối đến một tổ chức ODR để GQTC phát sinh trên sàn giao dịch thương mại điện tử của mình. 3.3.3. Hoàn thiện quy định về cơ chế đảm bảo thực thi kết quả giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân Thứ nhất, cần thiết bổ sung cơ chế thi hành đối với kết quả thương lượng giữa NTD với thương nhân bằng cơ quan thi hành án dân sự. Như đã trình bày trong phần kết luận với pháp luật Lào tại tiểu mục 3.2.4, cùng với thực tiễn tại Việt Nam cho thấy phương thức thương lượng được sử dụng phổ biến nhất trong các phương thức để giải quyết tranh chấp BVQLNTD. Song trên thực tế vẫn chưa có một cơ chế nào có thể khắc phục được nhược điểm là thương nhân không thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện cho có, chưa đảm bảo được quyền lợi của NTD. Do đó, pháp luật Việt Nam cũng nên xem xét tới việc cho phép đương sự được yêu cầu tòa án thi hành kết quả thương lượng thành, can thiệp bằng quyền lực nhà nước để nâng cao hiệu quả của phương thức này. Thứ hai, đối với phương thức GQTC bằng trọng tài. Việc quy định hiện hành trong Luật Trọng tài thương mại năm 2010 và Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung) năm 2014 của Việt Nam sẽ kéo dài thời gian thi hành phán quyết của trọng tài, do mất một thời gian dài để cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi Hội đồng trọng tài ra phán quyết ủy thác thi hành án đến nơi người phải thi hành án có tài sản, làm việc, cư trú hoặc có trụ sở. Do đó, Điều 8 của Luật Trọng tài thương mại năm 2010 của Việt Nam nên được sửa đổi theo hướng mở rộng phạm vi cơ quan thi hành án có thẩm quyền thi hành phán quyết của trọng tài, bao gồm cơ quan thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi bên phải thi hành phán quyết có tài sản, cư trú hoặc có trụ sở chính. 142 3.3.4. Giải pháp hỗ trợ nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân tại Việt Nam Thứ nhất, xã hội hóa cơ chế bảo vệ quyền lợi NTD với giải pháp trọng tâm là đảm bảo hoạt động hiệu quả của các Hiệp hội BVQL NTD. Ở những quốc gia phát triển như Nhật, Singapore có rất nhiều cơ quan của nhà nước và các tổ chức phi chính phủ tham gia bảo vệ người tiêu dùng, được hỗ trợ bởi nguồn kinh phí dồi dào, có tiếng nói quyết định trong hoạt động bảo vệ NTD, được quy định rõ ràng trong hệ thống pháp luật. Trong khi đó, tại Việt Nam, hoạt động của hội bảo vệ NTD đều đang gặp rất nhiều khó khăn, hạn chế vì không có kinh phí, không thể tiến hành các xét nghiệm, kiểm nghiệm hoặc những điều tra, khảo sát cần thiết để làm căn cứ khởi kiện doanh nghiệp xâm hại quyền lợi NTD. Ngay cả kêu gọi người tiêu dùng tẩy chay hàng hóa kém chất lượng, hội cũng không có quyền thực hiện. Nhiều trường hợp hòa giải bất thành, hội chuyển hồ sơ cho các cơ quan chức năng nhưng phản hồi tích cực là rất hạn chế. Chính những thực tế này khiến vai trò của các hội bảo vệ NTD trở nên mờ nhạt. Để tháo gỡ những vướng mắc này, một mặt cần thay đổi trong chính quy định của pháp luật về việc dành nguồn kinh phí cho các tổ chức bảo vệ quyền lợi NTD công lập để hoạt động mang tính thực chất. Bên cạnh đó, công tác xã hội hóa cũng cần phải được đẩy mạnh và xem và giải pháp quan trọng nhất để nâng cao năng lực về tài chính cho các tổ chức này. Bằng chứng là qua những kinh nghiệm của các tổ chức bảo vệ NTD tại Nhật Bản hay Singapore, việc chủ động liên kết với các tổ chức phi chính phủ, hay huy động được nguồn lực trong xã hội đã giúp các tổ chức này phát triển mạnh mẽ. Chỉ khi tháo gỡ được khúc mắc về tài chính thì mới có thể mạnh dạn thực hiện được đúng chức năng và vai trò của mình, tham gia tích cực vào việc hỗ trợ NTD để giải quyết tranh chấp, bảo vệ quyền lợi NTD. Thứ hai, đảm bảo quyền của NTD được thành lập tổ chức bảo vệ quyền lợi NTD của riêng họ thông qua môi trường pháp lý thuận lợi. Quyền tự do lập hội là một quyền hiến định trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Bên cạnh các Hiệp hội bảo vệ quyền lợi NTD công lập, thì cũng cần tạo môi trường pháp lý thuận lợi để NTD được tự lập các hội bảo vệ quyền lợi NTD. Tuy nhiên, việc tổ chức được thành lập cần đảm bảo một số nguyên tắc hoạt động 143 như: (i) Cần phát huy vai trò tích cực, chủ động của từng cá nhân người tiêu dùng trong hoạt động của hội từ việc thành lập, duy trì hoạt động và tham gia giải quyết các tranh chấp về tiêu dùng; (ii) Đảm bảo quyền tự chủ của người tiêu dùng trong việc thành lập, tính độc lập, không bị ràng buộc về chính trị và kinh tế. Có như vậy, cùng với sự tăng trưởng của thị trường và xã hội, ý thức vì cá nhân và cộng đồng của người tiêu dùng sẽ phát triển ở những mức độ tương xứng. Thứ ba, đẩy mạnh và nâng cao hơn nữa công tác tuyên truyền pháp luật, nâng cao nhận thức của NTD về các phương pháp giải quyết tranh chấp tiêu dùng, bảo vệ lợi ích chính đáng cho bản thân NTD. Theo thống kê của Cục Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng, trong thời gian qua, nhu cầu tư vấn, hỗ trợ và phản ánh, yêu cầu, khiếu nại của người tiêu dùng ngày càng tăng. Số lượng cuộc gọi đến Tổng đài Tư vấn, hỗ trợ người tiêu dùng (Tổng đài 1800.6838) của Bộ Công Thương tăng bình quân 10% mỗi năm trong giai đoạn 2017-2019; đạt 9.295 cuộc gọi năm 2019. Tương ứng, số lượng đơn yêu cầu, kiến nghị, khiếu nại của người tiêu dùng gửi tới Cục Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng trong năm 2019 là 568 đơn, tăng 28,2% so với năm 201890. Chỉ tính riêng 8 tháng đầu năm 2020, Tổng đài 1800.6838 đã tiếp nhận gần 7.112 cuộc gọi đến, trong đó, sau khi được tư vấn qua Tổng đài, đã có hơn 1.000 đơn yêu cầu, phản ánh, khiếu nại của người tiêu dùng được gửi tới Cục Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng để được hỗ trợ giải quyết. Mặc dù vậy, do số lượng đầu mối tiếp nhận tư vấn và hỗ trợ giải quyết yêu cầu, khiếu nại của người tiêu dùng hiện nay còn tương đối hạn chế, nên tỷ lệ cuộc gọi được tổng đài viên tư vấn, hỗ trợ chỉ chiếm trung bình dưới 60% tổng số cuộc gọi đến. Bên cạnh đó, việc hỗ trợ giải quyết yêu cầu, kiến nghị, khiếu nại của người tiêu dùng chưa được đồng bộ, thống nhất theo một quy trình chuẩn trên phạm vi cả nước. Thực tế này cho thấy rằng nhận thức chung hiện nay của NTD Việt Nam về pháp luật tiêu dùng nói chung, pháp luật về giải quyết tranh chấp tiêu dùng nói riêng còn hạn chế. Do đó, đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền pháp luật tiêu dùng, pháp luật giải quyết tranh chấp tiêu dùng có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao hiệu 90 Diệp Anh (2021), “Hợp tác truyền thông để tăng cường bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng”, dung/409243.vgp, truy cập ngày 07/04/2021. 144 quả áp dụng các phương thức giải quyết tranh chấp về tiêu dùng, vì chỉ khi NTD Việt Nam có nhận thức cơ bản về các vấn đề này thì việc thực hiện pháp luật mới trở nên hiệu quả. Để làm được điều đó, thì từ phía các cơ quan chủ quản ở đây là Bộ Công thương, Cục Cạnh tranh và bảo vệ NTD cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, tiếp tục đẩy mạnh hoạt động của Hệ thống Tổng đài tư vấn, hỗ trợ người tiêu dùng tại Bộ Công Thương với khả năng mở rộng, kết nối tới các địa phương trên toàn quốc; xây dựng và vận hành Hệ thống Tiếp nhận, tư vấn và giải quyết yêu cầu, kiến nghị, khiếu nại của người tiêu dùng; xây dựng và vận hành trang thông tin điện tử, các ứng dụng di động nhằm cung cấp thông tin, dữ liệu trong lĩnh vực BVQLNTD. Các nội dung tuyên truyền nên bao gồm: pháp luật về giải quyết tranh chấp; thông tin về các công cụ, phương tiện điện tử do Cục Cạnh tranh và bảo vệ NTD quản lý và vận hành (cổng thông tin điện tử, trang thông tin điện tử hoặc ứng dụng) nhằm tra cứu cơ sở dữ liệu về bảo vệ quyền lợi NTD; thông tin về khiếu nại của NTD; hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi NTD và các chương trình thu hồi hàng hóa có khuyết tật tại Việt Nam; thông tin về các chương trình thu hồi hàng hóa có khuyết tật tại các quốc gia trong khu vực ASEAN trên cơ sở sử dụng công nghệ API tự động tích hợp các thông tin được hiển thị trên trang thông tin điện tử của Ủy ban Bảo vệ NTD ASEAN (The ASEAN Committee on Consumer Protection- ACCP; lồng ghép cả những nội dung về phương thức giải quyết tranh chấp ODR. Theo tác giả đây là giải pháp có ý nghĩa tích cực và phù hợp với Việt Nam trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng như phát triển của thương mại điện tử, NTD Việt Nam tiếp cận dễ dàng được với các nền tảng công nghiệp số, do đó, việc tuyên truyền cho NTD để họ ý thức được rằng Chính phủ cung cấp cho mình công cụ số để thực hiện các quyền truy cập thông tin, khiếu nại để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình là rất quan trọng và có ý nghĩa. Thứ tư, đảm bảo các điều kiện hỗ trợ cho việc áp dụng hiệu quả các phương thức giải quyết tranh chấp trực tuyến ODR. - Đầu tư và nâng cao cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin. Việc nâng cấp, hoàn thiện cơ sở hạ tầng công nghệ, thiết bị, kỹ thuật cho các phiên xử để đảm bảo việc truyền tải thông suốt nội dung dữ liệu, âm thanh, hình ảnh, chất lượng tương 145 tác trong quá trình diễn ra giải quyết tranh chấp là yêu cầu tiên quyết đối với mô hình này. Để làm được điều này, các nhà cung cấp dịch vụ internet cần đồng bộ hóa cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin ở các khu vực trên phạm vi toàn quốc, tạo điều kiện cho doanh nghiệp và NTD truy cập sử dụng internet không chỉ trên máy tính và cả trên các thiết bị di động. - Tòa án, trung tâm trọng tài thương mại nên chủ động áp dụng ODR tại đơn vị mình, có thể chưa có văn bản hướng dẫn trực tiếp từ các cơ quan quản lý xong việc xây dựng các bộ quy tắc như VIAC, VMC trong đó khuyến khích áp dụng ODR là cần thiết. Các thẩm phán, trọng tài và hòa giải viên cũng nên chủ động tiếp cận và tìm hiểu về ODR, giải thích các quy định của pháp luật theo cách linh hoạt và phù hợp với thực tiễn nhằm thúc đẩy ODR tại Việt Nam. - Chính doanh nghiệp thương mại điện tử cũng cần phải là người tiên phong trong việc áp dụng ODR vào hoạt động kinh doanh của mình, có thể bắt đầu từ những vụ việc có giá trị tranh chấp nhỏ để xây dựng niềm tin cho đối tác của mình. Để làm được điều đó thì doanh nghiệp cần trang bị đầy đủ các kiến thức pháp lý về hạ tầng công nghệ; xây dựng hệ thống ODR từ đơn giản với sự hỗ trợ của con người tới phương thức tự động, đa dạng các loại ngôn ngữ phổ biến trên thế giới vào hệ thống ODR của doanh nghiệp. NTD cũng cần nhận biết được quyền lợi của mình và nâng cao được nhận thức bảo vệ lợi ích cho bản thân, từ đó chủ động sử dụng ODR để bảo vệ lợi ích cho chính mình. KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 Trên cơ sở tương quan so sánh quy định của pháp luật Lào và pháp luật Việt Nam về GQTC giữa NTD với thương nhân, một số kết luận được rút ra như sau: - Pháp luật của cả hai nước đều có những điểm tương đồng trong quy định về phương thức GQTC giữa NTD với thương nhân, đạt được những thành tựu nhất định, thể hiện tính tương thích với pháp luật quốc tế và phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội trong nước của mỗi quốc gia. Tuy nhiên thì bên cạnh đó, pháp luật mỗi quốc gia vẫn bộc lộ một số hạn chế, được nhận diện và phân tích trên cơ sở tương quan so sánh giữa pháp luật hai nước và pháp luật quốc tế. 146 - Đúc rút bài học kinh nghiệm cho pháp luật Lào và Việt Nam về GQTC giữa NTD với thương nhân. Đồng thời từ lý luận hoàn thiện hệ thống pháp luật và thực tiễn pháp luật về GQTC giữa NTD với thương nhân của hai quốc gia, các nguyên tắc và phương hướng hoàn thiện pháp luật đã được xác định ở mức độ khái lược. - Luận án đưa ra các nguyên tắc, phương hướng hoàn thiện pháp luật GQTC giữa NTD với thương nhân của Lào và Việt Nam. Trên cơ sở đó, nghiên cứu sinh đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật GQTC giữa NTD với thương nhân của Lào và Việt Nam trên hai phương diện: Hoàn thiện các quy định của pháp luật về bảo vệ quyền lợi của NTD và hoàn thiện các quy định về phương thức GQTC. Trong đó, với kỳ vọng quyền lợi của NTD sẽ được củng cố và bảo vệ thực chất hơn nữa trong tương lai, nghiên cứu sinh mong rằng các giải pháp của mình sẽ được khảo cứu trên thực tiễn. 147 KẾT LUẬN Qua việc nghiên cứu đề tài “Pháp luật của Lào và Việt Nam về giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân dưới góc độ so sánh”, tác giả đã đạt được một số kết quả sau: - Hệ thống cơ sở lý luận về GQTC giữa NTD với thương nhân thông qua việc phân tích hệ thống khái niệm, đặc điểm về NTD, thương nhân, tranh chấp giữa NTD với thương nhân và các phương thức GQTC giữa NTD với thương nhân. - Tiếp cận ở góc độ lý luận về pháp luật GQTC giữa NTD với thương nhân, thông qua việc trình bày các nội dung: (i) Quá trình hình thành và phát triển của hệ thống pháp luật Việt Nam và Lào về GQTC giữa NTD với thương nhân; (ii) Hệ thống các văn bản và mối quan hệ giữa chúng về vấn đề GQTC giữa NTD với thương nhân; (iii) Phân tích các nội dung của pháp luật về GQTC giữa NTD với thương nhân; (iv) Làm rõ đặc điểm pháp luật về GQTC giữa NTD với thương nhân. - Làm sáng tỏ các yếu tố ảnh hưởng tới pháp luật về GQTC giữa NTD với thương nhân xuất phát từ mối quan hệ của pháp luật với các thành tố kinh tế, trình độ xây dựng nhà nước pháp quyền và đặc thù của quan hệ pháp luật giữa NTD với thương nhân. - Phân tích các điểm tương đồng và khác biệt trong các quy định về GQTC giữa NTD với thương nhân tại Lào và Việt Nam trên các khía cạnh: (i) Nhận diện quan hệ pháp luật BVQLNTD; (ii) Địa vị pháp lý của các chủ thể trong quan hệ GQTC giữa NTD với thương nhân; (iii) Trình tự, thủ tục GQTC giữa NTD với thương nhân; (iv) Cơ chế đảm bảo thi hành kết quả GQTC giữa NTD với thương nhân. Cùng với đó, lý giải nguyên nhân dẫn đến những điểm tương đồng và khác biệt từ đặc điểm của hệ thống chính trị, năng lực lập pháp, đặc thù điều kiện kinh tế xã hội của quốc gia. - Trên cơ sở so sánh các quy định của pháp luật hai nước về các phương thức GQTC giữa NTD với thương nhân, luận án rút ra bài học kinh nghiệm cho pháp luật Lào và pháp luật Việt Nam trên cơ sở học tập kinh nghiệm lẫn nhau. Cụ thể, từ những khác biệt về quy định pháp luật, luận án trả lời câu hỏi nên học tập kinh nghiệm nào để hoàn thiện pháp luật phù hợp với điều kiện của mỗi quốc gia và trình bày lý giải phù hợp. 148 - Thực tiễn thi hành pháp luật về GQTC giữa NTD với thương nhân tại Lào và Việt Nam cho thấy tranh chấp giữa thương nhân và NTD tại Lào và Việt Nam hiện nay được giải quyết theo đầy đủ các phương thức từ thương lượng, hòa giải, trọng tài thương mại, tòa án hoặc khiếu nại tiêu dùng. Thực trạng cho thấy, phương thức thương lượng, hòa giải và khiếu nại tiêu dùng được đa số NTD và thương nhân lựa chọn để giải quyết khi phát sinh tranh chấp. Ngược lại, phương thức tòa án và trọng tài lại ít được ưa chuộng. Những hạn chế trong công tác áp dụng các biện pháp GQTC giữa NTD với thương nhân trên thực tiễn xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Trong phạm vi của luận án đã tập trung chỉ ra các nguyên nhân từ phía quy định pháp lý về các phương thức GQTC. - Pháp luật hiện hành của đa số các quốc gia trên thế giới hiện nay cho thấy có hai cách tiếp cận trong việc thiết lập khung pháp lý BVQLNTD theo hướng bảo vệ trước hoặc sau khi có thiệt hại xảy ra đối với NTD. Trên cơ sở nghiên cứu pháp luật của các quốc gia được lựa chọn đại diện cho các hệ thống pháp luật khác nhau cho thấy việc quy định về GQTC để BVQLNTD rất đa dạng, đồng thời việc xây dựng các phương thức GQTC thay thế (ngoài tòa án) và cơ chế GQTC trực tuyến là những bài học kinh nghiệm cho Lào và Việt Nam có thể nghiên cứu tham khảo. - Từ thực tiễn GQTC giữa NTD với thương nhân cũng như trên cơ sở yêu cầu thực tiễn hai nước trong bối cảnh hiện nay, luận án đưa ra các nguyên tắc, phương hướng hoàn thiện pháp luật GQTC giữa NTD với thương nhân của Lào và Việt Nam. Các giải pháp này được đề xuất với kỳ vọng về một tương lai mà vị thế NTD được trả về đúng vị trí. Những sửa đổi, bổ sung này cần sớm được thực hiện để quyền lợi NTD cũng như thương nhân tham gia vào quan hệ pháp luật BVQLNTD được đảm bảo, vai trò quản lý nhà nước được đề cao cũng như sự tham gia của các tổ chức xã hội dân sự được tôn trọng./. DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ 1. Vũ Thị Hồng Vân - Khamkeng Lorbriayao (2021), “Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về giải quyết tranh chấp giữa thương nhân và người tiêu dùng”, Tạp chí Khoa học Kiểm sát, Số 03 (48), tr.3-12. 2. Khamkeng Lorbriayao (2021), “Các phương thức giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân theo pháp luật Lào hiện nay”, Tạp chí Khoa học Kiểm sát, Số 06 (53), tr.36-44. i DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO A. Các văn bản pháp luật 1. Quốc hội Việt Nam (1992), Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992. 2. Quốc hội Việt Nam (2013), Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 2013. 3. Quốc hội Lào (1991), Hiến pháp nước CHDCND Lào năm 1991. 4. Quốc hội Việt Nam (2010), Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010. 5. Quốc hội Việt Nam (2010), Luật Trọng tài thương mại năm 2010. 6. Quốc hội Việt Nam (2015), Bộ luật Dân sự năm 2015 7. Quốc hội Việt Nam (2015), Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. 8. Quốc hội Lào (2010), Luật Bảo vệ người tiêu dùng năm 2010. 9. Quốc hội Lào (2010), Luật Giải quyết tranh chấp kinh tế năm 2010. 10. Quốc hội Lào (2012), Luật Tố tụng dân sự (sửa đổi) năm 2012. 11. Quốc hội Lào (2018), Luật Giải quyết tranh chấp kinh tế (sửa đổi) năm 2018. 12. Quốc hội Trung Quốc (2013), Luật Bảo vệ quyền và lợi ích của NTD năm 2013. 13. Nghị viện Pháp (2014), Bộ luật Tiêu dùng năm 2014. 14. Thượng viện tiểu bang California (1998), Đạo luật về bằng chứng năm 1998. 15. Chính phủ Lào (2012), Nghị định số 102/2012/GOV về hướng dẫn chi tiết một số hoạt động thương mại 16. Chính phủ Việt Nam (2017), Nghị định số 22/2017/NĐ-CP về hòa giải thương mại. B. Các tài liệu tham khảo khác Tiếng Việt 17. Nguyễn Thị Vân Anh (2014), Giáo trình Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội. 18. Hà Công Anh Bảo và Lê Hằng Mỹ Hạnh (2017), “Giải quyết tranh chấp trực tuyến – khả năng áp dụng tại Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế Đối ngoại, số 93, tr. 1 – 10. ii 19. Bản án số: 19/2019/DS-TP “V/v: tranh chấp bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu dung” của Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương. 20. Bộ Công thương Việt Nam (2014), Bộ Tài liệu giới thiệu Luật Bảo quyền lợi người tiêu dùng - Quyển 1 - Phạm vi điều chỉnh, đối tượng, giải thích từ ngữ, Dự án MUTRAP do Liên minh Châu Âu tài trợ, Bộ Công thương phối hợp thực hiện, Hà Nội. 21. Bộ Công thương Việt Nam (2022), Dự thảo Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (Sửa đổi) (lần 2). 22. Bộ Công thương (2022), Báo cáo số 129/BC-BCT ngày 29/07/2022 Tổng kết thi hành Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và các văn bản hướng dẫn, Hà Nội. 23. Bộ Công thương (2022), Báo cáo nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về một số vấn đề trong pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng – bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, Hà Nội. 24. Cục Bảo vệ người tiêu dùng Lào (2021), Báo cáo thực thi pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Hội thảo trực tuyến bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong nền kinh tế số, Viêng Chăn. 25. Cục Quản lý Cạnh tranh Việt Nam (2008), So sánh Luật Bảo vệ người tiêu dùng của một số nước trên thế giới – bài học kinh nghiệm và đề xuất một số nội dung cơ bản quy định trong dự thảo luật Bảo vệ người tiêu dùng của Việt Nam, Báo cáo nghiên cứu chuyên đề, Hà Nội. 26. Trần Minh Chất (2009), Áp dụng pháp luật giải quyết các tranh chấp kinh tế ở nước ta hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 27. Nguyễn Thị Dung (2017), Luật Kinh tế, Sách chuyên khảo, Nxb. Lao động, Hà Nội. 28. Thái Trí Dũng (2003), Kỹ năng giao tiếp và thương lượng, Nxb. Thống Kê, Hà Nội. iii 29. Nguyễn Trọng Điệp (2014), Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội. 30. Lê Hồng Hạnh (2010), “Luật Bảo vệ người tiêu dùng có nên quy định tổ chức là người tiêu dùng”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 20(181)/Kỳ 2, tr.25 - 30. 31. Nguyễn Quốc Hoàn (2019), Giáo trình Luật So sánh, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân. 32. Nguyễn Thị Hồi (2010), Những nội dung căn bản của môn học Lý luận Nhà nước và Pháp luật, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Tư pháp, Hà Nội. 33. Nguyễn Thanh Lý (2019), “Bàn về khái niệm người tiêu dùng và cơ sở phát sinh quyền được bảo vệ của người tiêu dùng”, Nghề Luật, số 6, tr.16 – 22. 34. Hoàng Thế Liên và Trần Anh Huy (2019), “Đề xuất phát triển các hình thức GQTC trực tuyến ngoài tố tụng tại Việt Nam trong thời kỳ cách mạng công nghiệp lần thứ tư hiện nay”, đăng trong kỷ yếu Hội thảo khoa học cấp quốc gia về: “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và những vấn đề pháp lý đặt ra cho việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam”, Hà Nội. 35. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia – Sự thật (2005), V.I. Lê nin toàn tập, Tập 33. 36. Nguyễn Như Phát (2003), “Điều kiện thương mại chung và nguyên tắc tự do khế ước”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, (182), tr.42-46. 37. Nguyễn Như Phát (2009), “Pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay - Thực trạng và những định hướng lập pháp”, Báo cáo tại hội thảo Pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng – kinh nghiệm quốc tế, thực trạng và triển vọng ở Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh. 38. Nguyễn Thị Quỳnh (2019), Thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp giữa thương nhân với người tiêu dùng tại Tòa án ở Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội. 39. Artar Sengdevong (2017), Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào từ kinh nghiệm của iv pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học luật Hà Nội, Hà Nội. 40. Saisavad Sayasombath (2015), Cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại bằng Tòa án theo pháp luật Việt Nam và kinh nghiệm đối với xây dựng pháp luật Lào, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội. 41. Lê Minh Tâm (2003), Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội. 42. Nguyễn Duy Thanh (2021), “Giải quyết tranh chấp thương mại điện tử bằng phương thức trực tuyến”, Tạp chí Pháp luật và Thực tiễn, số 47, Trường Đại học Luật, Đại học Huế, tr.106 – tr.117. 43. Phan Thị Thanh Thuỷ (2016), “Giải quyết tranh chấp thương mại trực tuyến: Những vấn đề pháp lý đặt ra cho Việt Nam”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tập 32, số 4, tr.38 – 45. 44. Nguyễn Thị Thư (2013), Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội. 45. Lê Tài Triển (1972), Luật Thương mại Việt Nam dẫn giải, Nxb. Sài Gòn, Thành phố Hồ Chí Minh. 46. Nguyễn Huy Tuấn (2017), Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân liên quan đến quyền lợi người tiêu dùng tại tòa án, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Viện Đại học Mở Hà Nội, Hà Nội. 47. Tuyển tập các văn bản pháp luật cơ bản về thương mại của Cộng hòa Pháp, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 48. Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam (1992), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội. 49. Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội 50. Khổng Văn, Hoàng Thanh Tùng (1994), Bộ luật Thương mại và Luật những ngoại lệ đặc biệt về kiểm soát của Nhật Bản, Nxb, Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 51. Viện Ngôn ngữ học (1998), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng. v 52. Viện Ngôn ngữ học (2003), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, Đà Nẵng. 53. Nguyễn Như Ý (chủ biên, 1998), Đại Từ điển tiếng Việt, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội. Tiếng Anh 54. Anita Afriana, Rai Mantili, Ema Rahmawati (2022), “Small Claims Court: Formal Versus informal procedures to solve consumer dispute”, Journal of Legal, Ethical and Regulatory Issues, 25(2), p.1-9. 55. Bruce Zucker and Monica Her (1985), “The People's Court Examined: A Legal and Empirical Analysis of the Small Claims Court System”, University of San Francisco Law Review, Vol.37, p.315 – 351. 56. Johnson & Post (1996), “Law And Borders: The Rise of Law in Cyberspace”, First Monday, Vol 1 (1), tr.73 – 86. 57. Konrad Zweigert và Hein Kötz (1998), Introduction to Comparative Law, Clarendon Press, Oxford. 58. Leeber Leebouapao, Phonesavanh Sitthideth, Keokhuanchay Douangpaseuth, Yuanita Suhud (2020), E-Commerce Development in the Lao PDR: Some Policy Concerns, Chapter 12, Vientiane Press, Viengtiane. 59. Louis DelDuca, Colin Rule, Zbynek Loebl (2011), Facilitating Expansion of Cross – Border E-Commerce Developing a Global Online Dispute Resolution System, The Dickinson School of Law. 60. P A S Dahanayake (2005), “Making Markets Work Better for Development and the Poor in Lao PDR”, Report prepared by Dr. P A S Dahanayake Consultant to UNCTAD and CI, UNCTAD and CI. 61. Redfern Alan, HunterMartin, BlackabyNigel (2004), Constantine Partasides, 4th edn, Published by Sweet and Maxwell, London. 62. Roger Van den Bergh và Louis Visscher (2018), “The preventive function of collective actions for damages in consumer law”, Erasmus Law Review, Volume 01 Issue 02, p/6 – 32. 63. Tran Van Nam , Nguyen Thi Nhu Quynh, Pham Duc Chung, Thomas G. Giglione (2022), “Megatrends for e-commerce online dispute vi resolution in Vietnam”, International Journal of Ecosystems and Ecology Science (IJEES), Volume 12, issue 3, 2022, tr.23 – 30. 64. Tran Van Nam, Nguyen Binh Minh, Tran Van Hai và Thomas G.Giglione (2022), “The Development of New Technology Intergration in E-commerce Dispute Resolution in Vietnam”, R. Bras. Al. Dis. Res. – RBADR Belo Horizonte, Vol 04, No. 07, p. 215-229. 65. West Pub. Co (1991), Black’s Law Dictionary Tiếng Lào 66. Bộ Công thương Lào (2009), Dự thảo Tờ trình xây dựng Luật Bảo vệ người tiêu dùng, Viêng Chăn. 67. Bộ Kế hoạch và đầu tư Lào (2020), Sách trắng doanh nghiệp. 68. Cục Bảo vệ NTD Lào (2021), Báo cáo thực thi pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Hội thảo trực tuyến bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong nền kinh tế số, Viêng Chăn. 69. Khamkong Chanthaly (2018), “Tranh chấp bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đang có xu hướng gia tăng trong thời gian gần đây”, Thời báo Viêng Chăn, số 12, tr.05 – 07. 70. Setthavong Khamxaly (2017), Cơ chế giải quyết tranh chấp bằng hòa giải và hiệu quả của nó trên một số lĩnh vực, Tạp chí Nghiên cứu và Lý luận, số 2, tr.42 - 47, Viêng Chăn. 71. NaLan Thammathava (2015), Pháp luật về GQTC giữa NTD với thương nhân ở một số nước và vấn đề hoàn thiện pháp luật về BVQLNTD của Lào hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Quốc gia Lào, Viêng Chăn. 72. Sekhone Thammasat (2019), “Cải cách hệ thống tư pháp, từ tòa án tới cơ quan thi hành án”, Báo Pasanxon, số tháng 2, tr.15 – 19. 73. Tổng cục Thống kê Lào (2015), Tổng điều tra dân số và nhà ở toàn quốc năm 2015, Viêng Chăn. 74. Viện Khoa học xã hội Quốc gia Lào (2015), Từ điển Luật học, Nxb. Khoa học Xã hội, Viêng Chăn vii C. Website 75. 76. 77. https://elaw.klri.re.kr 78. https://www.wipo.int 79. 80. https://duthaoonline.quochoi.vn 81. 82. 83. 84. https://thuvien.quochoi.vn 85. https://www.viac.vn 86. https://www.vmc.org.vn 87. https://help.shopee.vn 88. https://salework.net

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_phap_luat_cua_lao_va_viet_nam_ve_giai_quyet_tranh_ch.pdf
  • pdfĐóng góp mới luận án-E ( khamkeng Lorbriayao ).pdf
  • pdfĐóng góp mới luận án-V ( khamkeng Lorbriayao ).pdf
  • pdfTÓM TẮT-E ( khamkengLorbriayao ).pdf
  • pdfTÓM TẮT-V ( khamkeng Lorbriayao ).pdf
Luận văn liên quan