Luận văn Đánh giá đồng EURO sau hơn 3 năm lưu hành

Với quan hệvay nợ, do sựthống nhất vềtiền tệ, khảnăng lưu thông các nguồn vốn trên thịtrường các nước EU sẽlinh hoạt hơn nên chi phí giao dịch, hoa hồng, phát hành nợtrên thịtrường này sẽgiảm đáng kể. Việc phát hành nợtrên thịtrường tài chính các nước EU nhưtrái phiếu, cổphiếu công ty có lợi hơn do lãi suất đồng EURO trong dài hạn sẽtốt hơn các đồng bản tệcũ ởchâu Âu. Việc thu hút nguồn vốn đầu tưtừcác nước EU cũng sẽdễdàng và thuận lợi hơn.

pdf98 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2526 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đánh giá đồng EURO sau hơn 3 năm lưu hành, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sinh do “nhân tạo”, lại là “đồng tiền không có chính phủ”. Do vậy đồng EURO muốn nhận được sự coi trọng và tín nhiệm của thế giới thì cần phải có thời gian. Trong nội bộ khu vực đồng EURO cũng vậy. Thêm vào đó chính bản thân người dân châu Âu cũng sử dụng đồng EURO rất hạn chế, một phần vì họ không 75 buộc phải sử dụng đồng EURO, một phần do thói quen sử dụng đồng tiền quốc gia hay các đồng tiền truyền thống trong các giao dịch như đồng USD, DEM, GBP...Việc sử dụng đồng EURO hạn chế đã dẫn đến sự sụt giá liên tục của nó. Nói tóm lại, vấn đề đồng EURO phải được mọi người nhìn nhận như một dự án lớn mang tính lịch sử dù là người ủng hộ hay chống đối. Những người coi việc làm này như việc làm táo bạo và những người chỉ đơn thuần là xuyên tạc, thậm chí là bóp méo các giả thiết, tất cả đã bị sai lầm trong các ghi nhận kết quả thực tế của quyết định này. Dù bất kể ý kiến gì thì Liên minh châu Âu cũng phải tin tưởng vào tương lai sáng lạng của mình, vào những bước tiến tiếp theo của đồng tiền chung châu Âu - EURO. 76 CHƯƠNG III. TRIỂN VỌNG CỦA ĐỒNG EURO VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM Liên minh châu Âu (EU) ra đời và phát triển, trở thành một trong những trung tâm kinh tế, khoa học, công nghệ và văn hoá có tiềm lực mạnh và phát triển hàng đầu trên hành tinh, đã thu hút sự quan tâm, chú ý sâu sắc của thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng. Đặc biệt với sự ra đời của đồng tiền chung châu Âu - EURO, Liên minh châu Âu một lần nữa lại khẳng định tinh thần “đoàn kết tạo ra sức mạnh” của mình và lấy đó làm nền tảng để phát triển. Đồng EURO ra đời đã đánh một mốc quan trọng trong quá trình hợp tác của EU, được coi là đỉnh cao của sự hợp tác khu vực - Liên minh kinh tế và tiền tệ châu Âu. Đây là một nhân tố có nhiều triển vọng phát triển trong tương lai và việc gây ra những tác động đến kinh tế thế giới trong đó có Việt Nam là điều tất yếu. Vậy triển vọng của đồng EURO và tác động của nó đến kinh tế Việt Nam trong thời gian tới như thế nào? Chương III sẽ tập trung làm sáng tỏ vấn đề này. I. Những vấn đề mà EMU đang phải đối mặt và triển vọng trong tương lai Như đã phân tích ở các phần trên, ta thấy từ khi ra đời cho đến nay diễn biến của đồng EURO khá phức tạp. Trước tình hình biến động bất thường đó các nhà kinh tế châu Âu có đánh giá khác nhau, thậm chí trái ngược nhau về đồng EURO. Một số luôn tỏ ra lạc quan về sự ổn định và vững mạnh của đồng EURO, một số khác lại tỏ ra bi quan. Tuy nhiên có một quan điểm cấp tiến hơn cho rằng: đồng EURO bị mất giá trong thời gian qua không chỉ do những nguyên nhân trực tiếp mang tính chất nhất thời (như kinh tế EU tăng trưởng chậm trong khi kinh tế Mỹ tăng trưởng nhanh, lãi suất ECB hạ, các tác động tiêu cực của chiến tranh Kosovo...) mà trong bản thân hệ thống EMU có những vấn đề nội tại cơ bản, là cơ sở cho sự mất ổn định của đồng EURO. Theo tôi, nếu chỉ tin tưởng, lạc quan cũng như vẽ ra những triển vọng tốt đẹp là chưa đủ, mà điều quan trọng là phải tìm ra được những nhược điểm và mâu thuẫn của EMU, qua đó mà có thể có những cách đánh giá thận trọng về diễn biến tương lai của đồng EURO. Đó mới là cách đánh giá khoa học về đồng EURO. 77 1. NHỮNG VẤN ĐỀ MÀ EMU ĐANG PHẢI ĐỐI MẶT Theo đa số các nhà phân tích kinh tế châu Âu thì ngoài những biến động kinh tế thế giới và EU trong thời gian qua, hiện tại EU đang phải đối mặt với những vấn đề sau: 1.1. Cải tổ bộ máy liên minh EMU Các thể chế và cách thức làm việc của Liên minh kinh tế và tiền tệ châu Âu hiện nay tỏ ra không còn phù hợp với tình hình thực tiễn. Cơ cấu tổ chức của Liên minh 6 nước không còn thích hợp với Liên minh gồm 15 nước như hiện nay và có thể sẽ là 28 nước trong tương lai. Hiện nay Uỷ ban châu Âu đang bị chỉ trích rất nhiều về cách làm việc, về quản lý yếu kém và là cơ chế không đủ ảnh hưởng. Chính vì vậy, lần đầu tiên trong lịch sử thể chế này, dưới áp lực của Nghị viện châu Âu, Uỷ ban châu Âu của ông Jacques Santer đã phải từ chức tập thể. Và uy tín của ông Prodi hiện nay cũng đang bị giảm sút nghiêm trọng. Do đó, những cải cách thể chế của EU là tất yếu và đi theo hướng sau: Cải cách quy mô Uỷ ban châu Âu: Hiện nay Uỷ ban gồm 20 thành viên (5 nước lớn mỗi nước 2 người, 10 nước nhỏ mỗi nước 1 người). Dự án cải cách chủ trương sẽ giảm con số các uỷ viên. Các nước lớn trong EU đều muốn giữ con số uỷ viên của mình trong khi các nước nhỏ muốn đòi hỏi sự bình đẳng. Và sau này khi EU mở rộng với 28 hoặc 30 nước thì đây sẽ là một khó khăn thực sự khi đưa ra các quyết định của Uỷ ban. Mở rộng lĩnh vực bỏ phiếu bằng hình thức đa số áp đảo: Hình thức bỏ phiếu đồng thuận trên thực tế là rất bất cập. Nếu chỉ vài nước không bỏ phiếu tán thành thì các quyết định sẽ không thực hiện được. Trong tương lai, EU đang xem xét việc cải cách chế độ bỏ phiếu bằng cách tăng dần các lĩnh vực bỏ phiếu theo đa số áp đảo, có nghĩa là trong tương lai, một nước thành viên của EU sẽ phải áp dụng một chính sách chung ngay cả khi họ bỏ phiếu chống trong khi các nước khác bỏ phiếu thuận; và xem xét lại chế độ tỷ lệ các phiếu cho các quyết định của Hội đồng Bộ trưởng của Liên minh. Vấn đề cải tổ bộ máy của EU đã được xem xét trong cuộc họp Hội đồng châu Âu ở Nice tháng 12/2000. Tuy nhiên giải quyết các vấn đề này trên thực tế đòi hỏi quyết tâm và nỗ lực lớn của các nước thành viên EU. 78 1.2. Mở rộng EMU Trước hết, cần khẳng định rằng vấn đề mở rộng Liên minh về phía Đông là một mục tiêu lâu dài của EU. Trong tương lai EU vẫn phải chú trọng mở rộng sang phía Đông và phía Nam vì những lợi ích sau đây: - Làm tăng sự ổn định cho châu lục và có thể ngăn chặn những cuộc xung đột như ở Nam Tư cũ. - Tăng cường trao đổi trong thị trường nội khối, số người tiêu thụ sẽ tăng từ 374 triệu lên đến 480 triệu người. - Việc mở rộng sẽ tăng vị thế của châu Âu trên thị trường quốc tế, nhất là trong đàm phán thương mại. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay rất nhiều vấn đề đang đặt ra cho Liên minh. Từ 6 nước ban đầu, Liên minh châu Âu hiện nay có tới 15 nước thành viên. Nhưng kết nạp thêm thành viên là một vấn đề nan giải và thực sự là một thách thức đối với EU. Hiện đang có 13 quốc gia đệ đơn xin gia nhập EU, đó là Hungari, Ba lan, Cộng hoà Séc, Bungari, đảo Síp, Estonia, Lettonia, Litva, Malta, Rumania, Slovakia và Thổ Nhĩ Kỳ. Những lý do khiến EU chần chừ là: Thứ nhất, đó là sự chênh lệch về mức sống giữa mặt bằng chung của EU với các nước ứng cử viên. Hiện nay, nền kinh tế EU đang khởi sắc, mức sống của công dân trong Liên minh nhìn chung khá cao, trong khi kinh tế của các nước ứng của viên vẫn còn thấp. Đơn cử như GDP tính theo đầu người của Slovenia chỉ bằng 59% GDP bình quân của EU, tại Ba Lan con số này chỉ tương đương với 31%, ở Hungari là 37% với Cộng hoà Séc là 55%... Trình độ phát triển của các nước này vẫn còn chưa tương xứng với mặt bằng chung của EU hiện nay, cho nên rất có thể họ sẽ là “Lực ì” cản trở sự phát triển của châu Âu. Như vậy EU sẽ gặp phải khó khăn khi kết nạp thêm các nước này, vì nếu xét theo lôgíc thì Liên minh châu Âu sẽ bị giảm sức mạnh. Theo phân tích của các nhà nghiên cứu, nếu kết nạp thêm 5 nước xin gia nhập đầu tiên thì GDP theo bình quân đầu người của EU sẽ giảm từ 17.260 EURO xuống còn 15.740 EURO. Thứ hai, là vấn đề kinh phí. Để kết nạp thành viên mới EU cần phải chi một khoản tài chính không nhỏ để giúp các nước này về mặt kỹ thuật và cơ cấu. Nhưng 79 trong dự toán tài chính giai đoạn 2000 - 2006 của Lịch trình 2000 thông qua tháng 3/1999 không cho phép xét đến một kế hoạch mở rộng trước những năm cuối của giai đoạn này và rất có thể phải đợi ít nhất đến năm 2003 EU mới có thể xem xét việc kết nạp thành viên mới. Thứ ba, đó là liệu kết nạp quá nhiều các quốc gia có nền văn hóa và chế độ chính trị khác nhau có ảnh hưởng đến việc thực hiện các chính sách chung của châu Âu hay không? Kết nạp thêm Thổ Nhĩ Kỳ, một đất nước có phần lớn dân theo đạo Hồi, liệu EU có phải đương đầu với vấn đề tôn giáo? 1.3. Xây dựng cơ chế an ninh chung Đây không phải vấn đề mới đối với EU. Trong lịch sử tồn tại của minh EU không ít lần biểu hiện mong muốn có một cơ chế an ninh chung cho cả khu vực. Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, thế giới chia làm 2 phe nên châu Âu muốn thực hiện ý nguyện này để đảm bảo an ninh cho châu lục. Tuy nhiên, mong muốn này đã bị mờ nhạt trước những ý đồ và tình trạng đối đầu Xô - Mỹ. Ý tưởng của EU liên tiếp thất bại: trong kế hoạch xây dựng Cộng đồng phòng thủ châu Âu năm 1954, tiếp theo đến kế hoạch Fouchet năm 1961. Đầu những năm 90, những tưởng mong muốn này sẽ mất đi cùng với sự kết thúc chiến tranh lạnh. Tuy nhiên, tính chất phức tạp của quan hệ quốc tế của giai đoạn hậu chiến tranh lạnh như tình hình Nam Tư cũ, sự kiện Kosovo đã làm cho EU ý thức được nguy cơ mất ổn định bởi các cuộc xung đột, ảnh hưởng đến phảt triển của lục địa già này. Trong những sự kiện trên, EU luôn hành động trong khuôn khổ NATO - một tổ chức mà ai cũng biết là do Mỹ chi phối. Chính vì vậy, châu Âu không thể có tiếng nói của chính mình, không thể hành động theo cách nghĩ của riêng mình mà phải phụ thuộc rất nhiều vào Mỹ. Hơn bao giờ hết EU muốn có một bản sắc chung về an ninh, muốn chủ động trong các hoạt động quân sự để duy trì ổn định khu vực và độc lập trong hành động và suy nghĩ bằng cách tách ra khỏi NATO và thành lập một lực lượng quân sự của riêng mình. Mong muốn xây dựng một chính sách an ninh và phong thủ chung của riêng châu Âu dựa trên 3 lợi ích sau đây: 80 Thứ nhất, là để tăng cường khả năng giải quyết xung đột và duy trì ổn định khu vực. Thứ hai, EU muốn có lực lượng phòng thủ riêng của mình nhưng vẫn nằm trong khuôn khổ của NATO. Thứ ba, khi sức mạnh kinh tế của EU đã tương đối lớn, một hình ảnh châu Âu độc lập về quốc phòng và an ninh sản xuất tăng cường vị thế của EU trên trường quốc tế. Quyết tâm thực hiện mục tiêu này của EU ngày càng lớn, và nó đã trở thành một trong những ưu tiên trong nhiệm kỳ từ 1/7 đến 31/12/2000 của Pháp trong cương vị của Chủ tịch Liên minh châu Âu. Ý chí này bộc lộ rõ ràng qua các cuộc tiếp xúc kể cả song phương lẫn đa phương và nhất là trong các cuộc họp thượng đỉnh, điển hình là tại Hội nghị thượng đỉnh Pháp - Đức (tháng 5 năm 1999) diễn ra ở Toulouse, hai nước đã khẳng định mong muốn trang bị cho EU những phương tiện độc lập cần thiết để quyết định và hành động khi gặp khủng hoảng và chính thức trong hai ngày 10 - 11/12/1999, trong cuộc họp của Hội đồng châu Âu ở Helsinki, EU đã tuyên bố: năm 2003 sẽ thành lập lực lượng quân sự riêng của châu lục ước tính bao gồm từ 50.000 đến 60.000 người. Lực lượng phản ứng nhanh của EU trong tương lai sẽ hành động một cách độc lập: với quân đội riêng (quân số do các nước thành viên đóng góp, phương tiện riêng, máy bay và tàu chiến...) và cả một người chỉ huy riêng. Tuy nhiên, trên thực tế để thực hiện được đúng mục tiêu thì EU còn có rất nhiều việc phải làm để cho lực lượng này có vai trò quyết định trong việc giải quyết xung đột trong khu vực: EU phải giải quyết vấn đề có quá nhiều lực lượng quân đội cùng tồn tại; liệu quy chế nhà nước trung lập của Áo, Thuỵ Sĩ có còn không khi EU có chính sách phòng thủ và an ninh chung; mâu thuẫn của các nước lớn trong EU vì mặc dù quyết tâm thực hiện của các nước giống nhau nhưng mục tiêu của các nước không phải như nhau. Rất có thể từ những mục tiêu này sẽ nảy sinh những mẫu thuẫn nhất định. Và một khó khăn nữa khá cơ bản, đó là hiện nay chi phí quốc phòng của EU đang giảm sút. Từ năm 1992 đến nay, chi phí quốc phòng của EU giảm 22%, riêng năm 1999 là 7%. Ở mỗi nước tình hình rất khác nhau: tỷ lệ ngân sách quốc phòng của Anh và Pháp lần lượt là 2,7% 81 và 2,8% GDP, trong khi con số này ở các nước châu Âu khác trung bình giao động từ 1-1,5% GDP, ngân sách quốc phòng của Đức hiện nay chiếm 1,5% thay vì 3,4% GDP cách đây 10 năm. Từ năm 1992 đến năm 1996, ngân sách quốc phòng của EU đã giảm 43%. Nếu so sánh một cách đơn giản giữa châu Âu và Mỹ trong lĩnh vực này thì chi phí quốc phòng của Mỹ lớn hơn nhiều. Trong năm 1997, chi phí quốc phòng của 5 nước có tiềm lực quân sự lớn ở châu Âu chỉ chiếm 1,8 % GDP trong khi con số này của Mỹ là 3,38% GDP. Về mặt thiết bị quốc phòng, châu Âu chi cho lĩnh vực này chỉ bằng một nửa so với Mỹ. Năm 1999, Mỹ chi cho lĩnh vực này là 48,5 tỷ USD, năm 2000 là 54 tỷ USD và dự tính con số này sẽ là 61 tỷ USD năm 2001. Trong 5 năm tới con số này dự tính sẽ tăng tới 70,9 tỷ USD. Như vậy chúng ta có thể thấy rõ mâu thuẫn giữa mục tiêu và thực tế của EU. Để xây dựng lực lượng phản ứng nhanh của mình, EU sẽ phải làm thế nào trong khi tình trạng ngân sách dành cho quốc phòng liên tục bị cắt giảm? Trong tương lai ngắn, để giải quyết được vấn đề này, có lẽ EU phải dựa vào hợp tác giữa các tổ hợp quân sự và sự đóng góp những phương tiện sẵn có của các nước. Nhưng về lâu về dài thì tình hình ngân sách dành cho quốc phòng cần phải được cải thiện. 2. TRIỂN VỌNG CỦA ĐỒNG EURO TRONG TƯƠNG LAI Theo đánh giá của các nhà phân tích kinh tế của châu Âu, việc đồng EURO ra đời theo đúng lịch trình mà Hiệp ước Maastricht đặt ra mà không có một lỗi nhỏ kỹ thuật nào là “một thành công lớn”, và “sự suy yếu của đồng EURO chỉ là nhất thời, nó sẽ mạnh lên theo thời gian”. Nhưng tâm lý bi quan trước một đồng EURO mất giá và một liên minh vẫn còn tồn tại những bất đồng thì không phải là không có. Thậm chí có người còn cho rằng “EMU đã thất bại”. Dĩ nhiên, họ đều có những cơ sở khi đưa ra nhận định của mình, nhưng theo tôi để có một cái nhìn hợp lý nhất về triển vọng của đồng EURO trong thời gian tới thì phải xác định được các nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến sức mạnh của đồng EURO, trên cơ sở đó đánh giá triển vọng của nó. Đó mới thực sự là cách nhìn khoa học về triển vọng của đồng EURO. 82 2.1. Trước hết phải kể đến nhân tố kinh tế. Đây là động lực quan trọng nhất quyết định sức mạnh của đồng EURO trong tương lai. Theo nhận định của các nhà phân tích kinh tế, thì trong thời gian qua tương quan kinh tế giữa EU và Mỹ - đối thủ số một của EU đang diễn ra theo chiều có lợi cho EU. + Hãy nhìn lại 3 năm lưu hành đồng EURO vừa qua, ta thấy đồng EURO giảm giá có lúc tới 30% so với mức ban đầu đặt ra và đi cùng với sự giảm giá của đồng EURO là sự lên giá của đồng Đôla Mỹ. Sở dĩ có điều này là trong khoảng thời gian 10 năm trở lại đây, nền kinh tế Mỹ tăng trưởng liên tục đặc biệt là trong 2 năm 1999 và 2000. Đây là khoảng thời gian tăng trưởng cao nhất trong lịch sử kinh tế Mỹ. Lần đầu tiên kể từ năm 1949, Mỹ có thặng dư ngân sách trong 3 năm liền. Trong tình hình đó, kinh tế EU mặc dù có nhiều dấu hiệu tăng trưởng cao, nhưng so với Mỹ thì còn quá nhỏ bé (xem lại phần trên - Chương II). Sự chênh lệch về kinh tế giữa EU và Mỹ chính là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự giảm giá của đồng EURO trong thời gian qua. Tuy nhiên, những dấu hiệu trục trặc trong nền kinh tế Mỹ đã bắt đầu xuất hiện, điều này đã mở ra những triển vọng tốt đẹp cho đồng EURO, đặc biệt là sau sự kiện 11/9/2001: thị trường hiện nay đang xuống dốc, một tâm lý lo lắng bao trùm khủng bố, phá hoại gây nên dòng vốn ngừng đổ về Mỹ. Theo các nhà phân tích kinh tế, do một tuần sở giao dịch chứng khoán New York bị đóng cửa, Mỹ đã thiệt hại đến hơn 1000 tỷ USD. Kết quả của phiên giao dịch chứng khoán cuối ngày 17/9/2001, giá các loại cổ phiếu ở Mỹ đã giảm xuống mức thấp nhất trong vòng 3 năm qua. Chỉ số công nghiệp Down Jones bị mất giá 684,81 điểm (còn 8.991,14 điểm), giá cổ phiếu NASDAQ mất 115,75 điểm (còn 1.579 điểm) và giá cổ phiếu S&P mất 53,77 điểm (còn 1.038,77 điểm). Ngoài ra, theo Bộ thương mại Mỹ, sản lượng công nghiệp tháng 8/2001 đã giảm tháng thứ 11 liên tiếp, các sản phẩm công nghệ cao giảm 7,8 %, lòng tin người tiêu dùng, một trong những chỉ số phản ánh triển vọng tăng trưởng kinh tế Mỹ giảm 16,4 điểm trong tháng 9 xuống còn 97,6 điểm, mức thấp nhất kể từ tháng 1/1996. Trong năm này, mặc dù kinh tế EU cũng không có dấu hiệu tăng trưởng cao, song nó không rơi vào tình trạng như của Mỹ (thất nghiệp ở mức 8,3%, mức thấp nhất trong thời gian gần đây. Hai nền kinh tế đầu tầu của EU là 83 Pháp và Đức có tỷ lệ tăng trưởng kinh tế là 2,5% và 2,7% so với 3,3% và 3,0% (nguồn: Ngoại thương 20/11/01), giảm ở mức nhẹ. Trong giai đoạn cuối 2001 đến tháng 3/2002 triển vọng tăng trưởng kinh tế Mỹ và EU được đánh giá là ngang nhau; khoảng cách về lợi tức trái phiếu dài hạn giữa hai khu vực đang ngày càng thu hẹp do lãi suất ngắn hạn ở Mỹ được cắt giảm nhanh hơn ở châu Âu và dòng vốn cổ phần gián tiếp ròng vào Mỹ tuy vẫn tăng nhưng được dự đoán là sẽ không ổn định do thị trường chứng khoán Mỹ đang có sự điều chỉnh. Tất cả những điều đó đã khiến cho tỷ giá EUR/USD đã tăng lên và đặc biệt là phục hồi lại mức 1EURO ăn 1USD vào cuối tháng 7 vừa qua. + Kinh tế Mỹ suy thoái, đi cùng với nó là tình trạng thâm hụt tài khoản vãng lai ở mức báo động. Năm 2001, thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai của Mỹ đã lên đến mức hơn 4% GDP. Trong khi đó, tại châu Âu, lần đầu tiên EU có thặng dư ngân sách trong vòng 9 năm qua. Theo dự báo của công ty Morgan Staley, cùng với những biện pháp để hỗ trợ cho sự phục hồi của nền kinh tế Mỹ, mức thâm hụt có thể sẽ đạt tới 6% GDP vào năm 2003 (mức cao nhất trong số các nước G7 trong vòng 30 năm qua), cao hơn 1% so với mức “nguy hiểm” (5% GDP). Điều này đồng nghĩa với việc nguy cơ điều chỉnh đột biến có thể sẽ xuất hiện với việc Đôla Mỹ có thể sẽ bị mất giá tới 40% giá trị danh nghĩa chỉ trong một thời gian ngắn. Bên cạnh đó, xuất hiện hàng loạt các vụ bê bối tài chính với sự sụp đổ của các công ty vốn vẫn được coi là tiên tiến và hùng mạnh nhất nước Mỹ đã kéo theo sự suy giảm của thị trường chứng khoán Mỹ. Hậu quả là tỷ suất lợi tức ở Mỹ giảm và các nhà đầu tư bắt đầu thay đổi quan điểm của mình. Điều đó đã khiến cho dòng vốn nước ngoài đổ vào Mỹ đã bắt đầu giảm từ mức 251 tỷ USD vào quý IV năm 2001 xuống còn 113 tỷ USD vào quý I năm 2002, trong đó đầu tư cổ phiếu đã giảm từ 40 tỷ USD xuống còn 25 tỷ USD. Hơn thế nữa, xu hướng giảm sút đó lại đang có xu hướng gia tăng. Chính điều này đã tạo cơ hội để các dòng vốn nước ngoài chuyển hướng sang châu Âu. Đây là một cơ hội tốt đảm bảo sự tăng trưởng kinh tế EU, đảm bảo sự ổn định của đồng EURO. Như vậy, tương quan tăng trưởng kinh tế hiện nay đang có lợi cho khu vực đồng EURO, châu Âu đang có nhiều triển vọng tăng trưởng, trong khi đó Mỹ đang ở vào giai đoạn suy thoái. Tiềm lực kinh tế hậu thuẫn cho đồng EURO đang trở nên 84 sáng sủa hơn so với đối thủ của chính nó, đồng USD. Sau năm 2002, năm đồng EURO “thực” chính thức được đưa vào lưu thông chắc chắn sẽ báo hiệu một tương lai sáng lạng hơn cho EMU và cho chính bản thân đồng EURO. 2.2. Một thể chế chính trị ổn định bên cạnh một nền kinh tế tăng trưởng sẽ tạo ra một cơ sở quan trọng đảm bảo vị thế và triển vọng của đồng EURO trong tương lai. Hiện tại nói đến một Liên minh chính trị đối với châu Âu thì quá sớm, nhưng nói đến một sự “hợp tác chính trị” ở một mức độ nhất định của Liên minh EU là một điều hoàn toàn có thể được. Hiện tại châu Âu đang tìm cách khắc phục những bất đồng giữa các nước thành viên (về tốc độ tăng trưởng kinh tế, vai trò và vị thế ...) nhằm tạo ra sự đoàn kết trong nội bộ châu Âu, củng cố hơn nữa mối quan hệ giữa các nước thành viên, tạo ra sức mạnh châu Âu, hạn chế dần những ảnh hưởng của Mỹ đối với châu lục này. Điều này chắc chắn sẽ góp phần nâng cao quyền lực đại diện của châu Âu tại các tổ chức quốc tế, điển hình là IMF. Theo quy định trong nguyên tắc hoạt động của IMF thì cơ quan điều hành của IMF phải đóng trên lãnh thổ của nước có tỷ lệ đóng góp lớn nhất. Hiện tại trụ sở điều hành của IMF đóng ở Washington do mức đóng góp của Mỹ lớn nhất, đạt 33,6 tỷ USD, chiếm 18% tổng số vốn của IMF. Nhưng tổng số vốn đóng góp của các nước hạt nhân của EMU cũng đã xấp xỉ bằng Mỹ, con số này sẽ được cải thiện hơn nữa khi mà Anh chính thức gia nhập EMU. Cho dù hiện nay các nước trong EMU có quyết định không hợp nhất thành một phiếu mà giữ nguyên số phiếu của từng nước thành viên đi nữa thì vị thế của mỗi lá phiếu của các nước thành viên EMU vẫn mạnh hơn và Mỹ không còn ở thế áp đảo nữa. Việc các nước châu Âu cùng đoàn kết và hợp tác sát cánh bên nhau chắc chắn sẽ nâng cao được vị thế của EU trên trường quốc tế, củng cố niềm tin của thế giới vào một Liên minh châu Âu vững mạnh cả về kinh tế và chính trị, đây chính là một dự báo cho một triển vọng tốt đẹp của đồng EURO trong thời gian tới. Với tinh thần “đoàn kết tạo ra sức mạnh”, Liên minh châu Âu ngày nay đang tăng cường sự hợp tác không chỉ giữa các nước thành viên mà còn đang thúc đẩy kế hoạch mở rộng châu Âu sang phía Đông, kế hoạch này dự định sẽ kết nạp thêm 13 thành viên nữa, lúc đấy EU-15 sẽ trở thành EU-28, một liên minh lớn và hùng mạnh 85 nhất trên thế giới trong đó đồng EURO được lưu thông như một đồng tiền duy nhất sẽ là cơ sở để đồng EURO dần chiếm lĩnh được thị trường thế giới, hạn chế vai trò độc tôn của đồng Đôla Mỹ. 2.3. Ngân hàng trung ương châu Âu-ECB, một ngân hàng độc lập với chính sách tiền tệ thống nhất sẽ là cơ sở quan trọng đảm bảo sự ổn định và phát triển của đồng EURO trong tương lai. Thông qua các chính sách điều hành của ECB trong thời gian vừa qua ta thấy, ECB đã bắt đầu thoát ra khỏi sự lệ thuộc vào những đối sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương Mỹ. Trước đây người ta đã từng nói rằng mỗi khi ông Alan Greenspan, chủ tịch cục dự trữ Liên bang Mỹ (FED), đưa ra quyết định điều chỉnh lãi suất thì các thị trường trên thế giới cũng biến đổi theo. Mọi người phải theo dõi, quan sát dự đoán từng động thái của con người này. Nhưng thực tế không hoàn toàn như vậy, trong thời gian qua ECB đã chứng tỏ sự độc lập của mình khi mà FED đưa ra các quyết định cắt giảm lãi suất trong năm 2001, và hàng loạt các nước khác làm theo nhưng ECB vẫn tỏ ra bình tĩnh, điều này ban đầu đã gây ra những phản ứng khác nhau của giới kinh doanh nhưng ECB đã có những bước đi hết sức thận trọng, và thực tế đã chứng minh điều đó, mức lãi suất 3,25% vẫn được ECB duy trì cho đến nay, đây là mức lãi suất phù hợp với tình hình kinh tế hiện nay của EU. Hiện tại có thể khẳng định rằng chưa có một ngân hàng nào độc lập hơn ECB. Quy chế của ECB đã quy định rõ ràng và nhất quán: cả ECB lẫn các ngân hàng trung ương quốc gia hay bất kỳ thành viên nào trong cơ quan ra quyết định của các tổ chức này đều không phải xin chỉ thị hay chấp hành mệnh lệnh của các tổ chức trong Cộng đồng hoặc là của bất kỳ chính phủ một nước thành viên nào hay của bất kỳ cơ quan nào. Thậm chí ngay cả FED, vốn được coi là có tính độc lập rất cao, thì cũng bị “chính trị hoá” nhiều hơn ECB. Theo ông Herry Kissinger: “FED được thành lập sau khi nước Mỹ đã có các thể chế chính trị. Tuy nhiên, dù độc lập về mặt pháp luật thì một vị chủ tịch cục dự trữ liên bang khôn ngoan vẫn có liên hệ chặt chẽ với Vụ ngân khố, nơi hoàn toàn thấu hiểu những quyết định của Tổng thống và rất nhạy cảm với những sự kiện diễn ra tại Quốc hội. Ông ta không phải làm theo những mong muốn 86 của họ nhưng ông ta cũng không nên tuỳ ý bỏ qua chúng một cách thường xuyên. Ngược lại ECB có địa vị độc lập với các ảnh hưởng chính trị”. ECB thực sự là một tổ chức đứng trên các quốc gia. Như vậy, ECB với sự độc lập trong các quyết sách đối với những biến động trên thị trường tiền tệ châu Âu, với một mục tiêu theo đuổi là sự ổn định giá cả chắc chắn sẽ tạo những cơ hội phát triển mới cho khu vực đồng EURO cũng như cho chính bản thân đồng EURO trong tương lai. Bên cạnh những nhân tố có tính chất quyết định đó, còn có nhiều nhân tố khác ảnh hưởng đến triển vọng của đồng EURO trong tương lai tới (đó là kỷ luật tài chính hà khắc đối với bất kỳ một nước thành viên nào vi phạm quy chế đề ra, là sự gia nhập EMU của Anh, Đan Mạch, Thuỵ Điển...). Nhưng, như các phần trên đã trình bầy, hiện tại EU còn trở ngại trên con đường thống nhất của mình, điều đó cũng dễ hiểu bởi Liên minh kinh tế tiền tệ châu Âu đang trên đà hoàn thiện mình do đó những trục trặc ban đầu là không thể tránh khỏi. Trong tương lai, chúng ta có cơ sở để tin tưởng rằng đồng EURO sẽ trở thành một đồng tiền mạnh, vị thế độc tôn của đồng Đôla trong hệ thống tiền tệ thế giới sẽ mất đi. Đúng như sự lạc quan của ông Robert Mundell, người được giải thưởng Nobel kinh tế học năm 1999 đồng thời là cha đẻ của Lý thuyết khu vực tiền tệ tối ưu, nói rằng: “Trước mắt, đồng Đôla vẫn giữ vai trò thống trị, vai trò của đồng EURO sẽ tăng dần trong vòng 15 năm tới và khi đó đồng EURO sẽ hoàn toàn có thể ganh đua được với đồng với đồng Đôla về tất cả các lĩnh vực như dự trữ quốc tế, tỷ trọng sử dụng trong các giao dịch ngoại hối, thương mại, đầu tư quốc tế ..”. Hay như quyết tâm của ngài Wim Duisenberg, vị chính khách hàng đầu có nhiệm vụ kiểm soát và điều chỉnh tỷ giá đồng EURO: “Sự mất giá của đồng EURO trong thời gian qua không làm tôi thực sự lo lắng, chỉ có một con đường duy nhất cho đồng EURO tiến tới là trở thành một đồng tiền quốc tế mạnh có thể ganh đua với đồng USD, đồng Yên Nhật”. Tóm lại, như một quy luật, các đồng tiền đều mạnh lên theo thời gian. Đồng Đôla đã giảm giá gần 30 năm so với đồng Yên Nhật trước khi lên giá trở lại vào năm 1995. Việc đồng EURO giảm giá trong thời gian qua chưa phải là mức thấp nhất trong lịch sử, bởi đã có lúc đồng Đôla đã giảm 56% (1USD = 1,37DM so với mức 87 1USD = 3,45DM (1985)). Do vậy việc đồng EURO giảm 30% - mức thấp nhất, thì cũng vẫn còn một khoảng cách khá xa so với mức độ giảm giá của đồng Đôla trong lịch sử, điều đó chưa thực sự là quá nghiêm trọng và không làm chúng ta bi quan về triển vọng của nó. Đương nhiên đồng EURO không có ý định làm “đảo chính”, lại càng không thể lật đổ ngay được ngai vàng của đồng Đôla, nhưng chắc chắn cùng với sự xuất hiện của một nhân tố mới tích cực này, thế giới sẽ tránh được “vấn đề Đôla” theo cách nói giàu hình tượng của Cựu Bộ trưởng Ngân khố Mỹ James Connlly: “Đôla là đồng tiền của chúng tôi nhưng vấn đề thuộc về các bạn”. II.TÁC ĐỘNG CỦA ĐỒNG EURO ĐẾN VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI Liên minh châu Âu (EU) đã mở đầu cho một quá trình liên kết khu vực chặt chẽ và toàn diện, nó đã tăng cường xu thế khu vực hoá của thế giới. Việt Nam hoà nhập vào cộng đồng thế giới, xây dựng, phát triển và củng cố những quan hệ nhiều mặt với EU được coi như một phương hướng ưu tiên lâu dài và cấp thiết, bởi EU là một trong những trung tâm kinh tế chính trị đang có ảnh hưởng lớn trên trường quốc tế hiện nay. Do vậy mỗi sự thay đổi trong EU đều có tác động nhất định đến kinh tế Việt Nam, đặc biệt việc chuyển đổi sang sử dụng đồng tiền chung châu Âu- EURO lại càng có tác động lớn đến quan hệ giữa hai bên nhất là quan hệ thương mại. Vậy quan hệ đó hiện đã và đang diễn ra như thế nào, có đặc điểm gì nổi bật? Phần này sẽ làm sáng tỏ điều đó 1. ĐÁNH GIÁ QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - EU TỪ SAU HIỆP ĐỊNH KHUNG ĐẾN NAY 1.1. Khái quát chung quan hệ thương mại Việt Nam - EU từ sau hiệp định khung đến nay Quan hệ thương mại Việt Nam - EU trong thời gian qua phát triển rất tích cực. Từ năm 1990 đến năm 1998, kim ngạch thương mại giữa hai bên đã tăng lên 17 lần. 88 Đặc biệt năm 1997, lần đầu tiên Việt Nam xuất siêu sang EU. 90% trao đổi thương mại của Việt Nam và EU là với các nước: Pháp, Đức, Anh, Italia, Hà Lan, Thuỵ Điển và Tây Ban Nha. Ngày 9/10/2000, Hội đồng châu Âu thông qua quyết định cho Việt Nam hưởng quy chế quá độ của một nước có nền kinh tế thị trường (như Trung Quốc và Nga) trong việc xử lý những vụ kiện bán phá giá. Quyết định này rất có ý nghĩa về mặt chính trị đối với Việt Nam trong việc cải hiện hình ảnh cải cách và hội nhập quốc tế. Năm 1999, kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam - EU đạt 3,63 tỷ đô la, chiếm khoảng 15,6% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trong năm 1999. Đến năm 2000, kim ngạch thương mại hai chiều Việt Nam-EU đạt 4,1 tỷ đô la, tăng khoảng 15%. Bảng 9 & 10: KIM NGẠCH XNK VIỆT NAM - EU (1995-2001) Đơn vị: triệu USD Xuất khẩu 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 1. kim ngạch XK của Việt Nam 5448.9 7255.9 9185 9361 11523 14308 17470 2.Trong đó với EU 720 900.5 1614.7 2079.9 2500 3094.9 2366.94 3.EU/Tổng số 13.21 12.41 17.58 22.22 21.69 21.63 13.55 4.Tỷ lệ tăng trưởng 87.60 25.07 79.31 28.81 20.19 23.80 23.52 Nhập khẩu 1. kim ngạch XK của Việt Nam 8155.4 11143.6 11592.3 11495 11636 15200 16000 2.Trong đó với EU 664.0 1142.5 1312.6 1255.2 1062.9 1260.9 1269.0 3.EU/Tổng số 8.14 10.2 11.32 10.92 9.13 9.13 7.93 89 4.Tỷ lệ tăng trưởng 39.32 72.06 14.89 -4.37 -15.32 -15.32 0.71 Cán cân thương mại 56 -242 302.1 824.7 1437.1 1437.1 1097.94 Tỷ lệ xuất siêu (%) 8.43 - 23.02 65.70 135.21 135.21 86.53 Nguồn: Trung tâm Thông tin quốc tế (CII) Quan hệ thương mại giữa hai bên chủ yếu tập trung ở một số mặt hàng sau đây: a. Hàng dệt may Từ ngày 27-31/3/2000 tại Bressels, EU và Việt Nam đã tiến hành đàm phán hàng dệt may. Hai bên đã ký tắt Hiệp định sửa đổi các Hiệp định hàng dệt may EU- Việt Nam ký năm 1992 và 1997, theo đó EU tăng 50% hạn ngạch cho 29 mặt hàng của Việt Nam, tăng 26% hạn ngạch cho 16 mặt hàng Việt Nam có nhu cầu xuất khẩu lớn. Hiệp định này quy định hạn ngạch xuất khẩu hàng dệt may trong 3 năm (2000- 2002) và mặc nhiên gia hạn đến năm 2003. Mức tăng bình quân mỗi năm là 17%. Tháng 10/00 tại Brussels, bộ trưởng thương mại Vũ Khoan đã ký chính thức hiệp định này. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang EU năm 2000 đạt 609 triệu đô la Mỹ, tăng 9,7% so với năm 1999 (555,1 triệu đô la). b. Thuỷ sản: Kể từ 16/11/1999, EC đã chính thức đưa Việt Nam vào danh sách I. Các nước xuất khẩu thuỷ sản vào EU với đợt I là 18 doanh nghiệp. Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang EU năm 2000 đạt 100,3 triệu đô la, tăng 12,5% so với năm 1999 (89,1 triệu đô la). Thị trường xuất khẩu thuỷ sản chính của Việt Nam là Bỉ, Pháp, Đức, Italia. c. Hàng giày dép: Danh mục mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang EU ngoài hàng dệt may, thuỷ sản, còn có hàng giầy dép. Ngày 1/11/2000, hệ thống kiểm tra kép xuất xứ giày dép xuất khẩu từ Việt Nam vào EU bắt đầu có hiệu lực. Thẩm quyền cấp quota và giấy phép được chuyển từ Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam sang Bộ thương mại. Kim ngạch xuất khẩu giày dép của Việt Nam sang EU năm 2000 đạt 1,039 tỷ đô la Mỹ, tăng 10,9% so với năm 1997 (937 triệu Đôla). 90 Như vậy quan hệ thương mại Việt Nam - EU đang chuyển sang một thời kỳ mới gắn liền với chuyển biến kinh tế củat cả 2 phía, triển vọng của mối quan hệ này phụ thuộc vào đường lối chính sách tạo sự lôi cuốn các doanh nghiệp EU vào Việt Nam và định hướng dài hạn trong chính sách thị trường những phương sách cụ thể nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam vào thị trường châu Âu. 1.2. Đánh giá mối quan hệ thương mại Việt Nam - EU từ sau hiệp định khung năm 1995 đến nay a. Trong thời gian qua, mối quan hệ này có giá trị lớn đối với sự phát triển kinh tế thương mại của Việt Nam. Trong bối cảnh cuối những năm 80 đầu những năm 90, việc phát triển quan hệ thương mại với EU được coi là "lời giải" để phá vỡ thế bao vây, cấm vận và bị cô lập của thương mại Việt Nam. Ngày nay, mối quan hệ thương mại này là một bước tiến quan trọng trong quá trình chủ động hội nhập và phát triển kinh tế, thương mại của Việt Nam với thế giới. EU là môt trong những đối tác có vai trò hết sức quan trọng, quyết định Việt Nam trở thành thành viên của WTO trong những năm tới. b. Mối quan hệ này hình thành và phát triển được là do nhu cầu và lợi ích của cả 2 bên. Việt Nam được đánh giá là nước có nhiều tiềm năng, có thể cung cấp nguyên liệu, nhân công lao động rẻ, thị trường tiêu thu hàng hoá, công nghệ với sức mua đang tăng lên và là "cửa ngõ" của quan trọng của khu vực thị trường ASEAN. Về phần mình, Việt Nam mong muốn có một vị trí đáng kể trên thị trường EU rộng lớn và sẽ được mở rộng trong tương lai nhằm đa dạng hoá các quan hệ thương mại. Và EU cũng là địa chỉ cung cấp công nghệ, nguồn hữu hiệu cho Việt Nam trong quá trình CNH-HĐH đất nước thông qua hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài. c. Quan hệ thương mại giữa hai bên dựa trên nền tảng mối quan hệ truyền thống vốn có của Việt Nam với các nước thành viên. Trong quan hệ thương mại giữa Việt Nam và EU, các mối quan hệ hợp tác song phương giữa Việt Nam với các nước thành viên EU mang tính quyết định, do những quan hệ này mang tính đặc thù giữa Việt Nam và các nước EU riêng biệt. Ví dụ, quan hệ của Việt Nam với với Thuỵ Điển và các nước Bắc Âu có những điểm 91 khác với quan hệ hợp tác giữa Việt Nam với Pháp, Đức, Anh... Nhưng nhìn chung, quan hệ thương mại Việt Nam-EU không bị cản trở bởi các vấn đề lịch sử để lại như quan hệ giữa Pháp và Đức, hai nước có tiềm năng lớn về mọi mặt. EU coi trọng vai trò và vị trí của Việt Nam trong khu vực Đông Nam Á, trong quan hệ hợp tác Á-Âu tại các diễn đàn quốc tế và Việt Nam là một đối tác có nhiều tiềm năng về kinh tế, thương mại, đầu tư trong tương lai. Tuy nhiên quan hệ song phương giữa Việt Nam với các nước thành viên mang tính quyết định, nhưng EU là một liên minh kinh tế đang hướng tới những thể chế hợp tác chặt chẽ hơn không những trong kinh tế mà cả về chính trị và an ninh quốc phòng. Các thể chế của EU ngày càng chặt chẽ và ràng buộc các nước thành viên. EU thực hiện một ý tưởng "thống nhất trong đa dạng" nhằm phát triển kinh tế xã hội của từng nước và toàn khu vực. Do vậy, quan hệ thương mại giữa Việt Nam và EU cũng mang tính tương đối ổn định. d. Mặt khác, Việt Nam là một nước nhỏ, đang phát triển còn EU là một khối liên minh đa quốc gia phát triển, đây là một trở ngại đối với quan hệ hai bên. Việt Nam là một quốc gia nghèo, nông nghiệp là chủ yếu, điểm xuất phát thấp nên có nhiều hạn chế về cơ chế quản lý cũng như hệ thống pháp luật. Nền ngoại thương kém phát triển với quy mô xuất khẩu nhỏ. Trong cơ cấu xuất khẩu, sản phẩm thô, nguyên liệu chiếm tỷ trọng cao, sản phẩm chứa hàm lượng công nghệ chiếm tỷ trọng thấp. Trong khi đó, EU là khối các nước phát triển có đến bốn nước công nghiệp hàng đầu thế giới, là nơi cung cấp các thiết bị, công nghệ nguồn, là một trong 3 trung tâm kinh tế thương mại lớn của thế giới với nền ngoại thương phát triển. Đây chính là nguyên nhân cơ bản tạo nên tính hạn chế của Việt Nam trong phát triển quan hệ thương mại với EU. e. Ngoài ra, quan hệ thương mại giữa Việt Nam và EU cũng có tính hạn chế làm giảm hiệu quả trong phát triển quan hệ giữa hai bên. Chính sách thương mại đầu tư của EU chủ yếu nhằm vào các thị trường truyền thống có chiến lược là châu Âu, châu Mỹ, và châu Phi-Địa trung hải. Với các nước châu Á, trong đó có Việt Nam, cơ sở thương mại của EU mới hình thành rõ nét gần đây và đang trong quá trình xem xét thể nghiệm, khai thác. Ngoài ra, còn do tác động 92 từ những yếu tố khác như chính sách "hướng nội" của EU, vị trí địa lý, thói quen buôn bán, trình độ phát triển của Việt Nam, sự suy giảm về kinh tế của các nước EU, chính sách "hướng về châu Á" của EU mới được bắt đầu thì châu Á lại rơi vào khủng hoảng, làm giảm mức buôn bán và đầu tư của khu vực này... Như vậy, quan hệ giữa hai bên Việt Nam - EU bên cạnh những thuận lợi vẫn tồn tại những trở ngại, trong tương lai để duy trì và củng cố vững chắc hơn nữa mối quan hệ này, Việt Nam - EU cần phải hợp tác hơn nữa để tháo gỡ những khó khăn thách thức và đưa mối quan hệ này lên tầm cao mới trong thế kỷ XXI. 2. TÁC ĐỘNG CỦA ĐỒNG EURO ĐẾN KINH TẾ VIỆT NAM 2.1. Tác động từ Chiến lược châu Á mới của EU Bước sang thế kỷ XXI, do những biến động to lớn và mạnh mẽ của tình hình quốc tế, những thay đổi về kinh tế và chính trị giữa châu Âu và châu Á kể từ khi EU đưa ra Chiến lược châu Á lần đầu tiên vào năm 1994, Uỷ ban châu Âu đã phác thảo một Chiến lược châu Á mới. Nội dung của nó tập trung vào 6 mục tiêu chủ yếu sau: Thứ nhất: tăng cường sự cam kết của cộng đồng châu Âu đối với châu Á về mặt chính trị và an ninh, cho phép EU đóng vai trò tích cực hơn trong việc ngăn chặn xung đột bằng cách chia sẻ những kinh nghiệm chung và bằng việc tăng cường đối thoại EU-châu Á về vấn đề tư pháp và vấn đề nội bộ, một lĩnh vực bao gồm cả quyền tị nạn, di cư và buôn bán vũ khí Thứ hai: phát triển quan hệ thương mại và đầu tư giữa hai bên. Đặc biệt EU đề nghị khuyến khích các cuộc tiếp xúc giữa các công ty tư nhân nhất là các xí nghiệp vừa và nhỏ và trong lĩnh vực cao, tăng cường đối thoại về chính sách kinh tế tài chính, mở rộng hơn nữa các thị trường cho các nước nghèo. Thứ ba: đóng góp một cách hiệu quả vào việc giảm bớt đói nghèo ở toàn châu Á bằng nhiều hình thức. Việc tăng cường các cuộc đối thoại về các vấn đề chính sách xã hội cũng được đề nghị tăng cường nhằm trao đổi kinh nghiệm về cách thức tốt nhất để đương đầu với những thách thức của toàn cầu hoá và hiện đại hoá. 93 Thứ tư: xúc tiến vai trò xã hội dân sự đối thoại giữa châu Âu và châu Á qua việc EU giúp phát triển các thể chế ở các nước châu Á nhằm khuyến khích dân chủ, xã hội dân sự và quản lý theo luật pháp. Thứ năm: thiết lập những liên minh với các đối tác châu Á chủ yếu trên các diễn đàn đa phương, giải quyết những vấn đề có tính quan trọng toàn cầu. Chẳng hạn như cải cách Liên hiệp quốc, WTO, vấn đề môi trường, mặt trái của toàn cầu hoá và hàng loạt những tệ nạn khác như tội phạm quốc tế, chủ nghĩa khủng bố và sự lan tràn của bệnh AIDS... Thứ sáu: nâng cao sự hiểu biết lẫn nhau giữa châu Á và châu Âu, tăng cường vị thế và vai trò của EU và châu Á chủ yếu bằng việc lập ra các văn phòng đại diện mới hoặc cơ quan đại diện thương mại ở một số nước và khuyến khích các cuộc trao đổi ở cấp độ đại học, trao đổi văn hoá, khoa học, cũng như các cuộc tiếp xúc giữa các xã hội dân sự của hai khu vực. Đề cập đến chiến lược mới này, ông Chris Patten, cao uỷ phụ trách đối ngoại của EU đã nhấn mạnh: “Uỷ ban châu Âu sẽ làm hết sức mình để tăng cường các đối tác khu vực và toàn châu Á” và ông cũng kêu gọi các nước thành viên EU cũng như các nước đối tác của họ ở trong khu vực “hãy bắt đầu suy nghĩ làm thế nào để đạt được những mục tiêu chung của chúng ta”. Theo nhận định của các nhà nghiên cứu, chiến lược mới này nhấn mạnh quan hệ với Trung Quốc sẽ là nhân tố then chốt đối với hoà bình và an ninh trong bối cảnh quốc tế đầu thế kỷ XXI. Ngoài ra, EU cũng đặc biệt chú ý đến Ấn Độ - một trong những nền dân chủ lớn nhất thế giới và Nhật Bản, nước có tiềm lực kinh tế và chính trị hàng đầu ở châu Á, mặt khác Việt Nam cũng được đánh giá cao trong chiến lược châu Á mới của châu Âu, Việt Nam được coi là cửa ngõ trong mối quan hệ với các nước Đông Nam Á, được coi là địa điểm ổn định nhất trong khu vực, tạo sự an tâm cho các nhà đầu tư châu Âu khi tiến hành thâm nhập vào thị trường Việt Nam. Như vậy, trong chiến lược châu Á mới này, châu Âu luôn thể hiện sự coi trọng vị thế của Việt Nam trong chính sách đối ngoại của mình. Điều đó có được một mặt là do mối quan hệ Việt Nam - EU tương đối ổn định trong suốt một thập niên qua, mặt khác là do vị thế và ảnh hưởng của EU đến khu vực Đông Nam Á ngày càng tăng 94 lên. Do vậy, trước chính sách châu Á mới của EU, Việt Nam nói riêng và các nước châu Á nói chung chắc chắn sẽ chịu những tác động lớn, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế, thương mại giữa hai bên. Qua chính sách này ta cũng thấy một điều đó là vị thế của châu Á trong con mắt của châu Âu ngày càng được nâng cao, Việt Nam cần tận dụng cơ hội này để tăng cường quan hệ giữa hai bên hơn nữa, tạo cơ sở thúc đẩy thương mại của Việt Nam trong thế kỷ mới. 2.2. Tác động do đồng EURO tạo nên a. Đối với quan hệ thương mại Đồng EURO ra đời đã mở ra cơ hội thuận lợi cho việc mở rộng chủng loại hàng hóa và khối lượng hàng hoá Việt Nam thâm nhập vào thị trường EU, mở rộng thị trường xuất khẩu của Việt Nam. Việc tính toán, ký kết các hợp đồng và công tác khuyến mãi hay triển khai các chiến lược xâm nhập thị trường khu vực đồng EU sẽ trở nên dễ dàng hơn do sử dụng thống nhất đồng EURO trong quan hệ thương mại. Nếu như trước đây, các nhà xuất khẩu Việt Nam còn gặp khó khăn trong việc thâm nhập các thị trường như Ailen, Lúc xăm bua, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha... do gặp trở ngại trong thanh toán thì nay với một đồng tiền duy nhất là đồng tiền EURO, các doanh nghiệp có thể bán sản phẩm đến tất cả các nước trong nội bộ khối EU. Tuy nhiên hiện nay mới chỉ chính thức lưu hành ở 12 quốc gia trong khối EU, nhưng chắc chắn đồng EURO sẽ lan rộng ra hầu hết các quốc gia ở châu Âu với kế hoạch mở rộng của EU trong tương lai. Như vậy, trong những năm tới, trong mọi hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam với EU, các nhà XNK của Việt Nam cũng chỉ cần sử dụng duy nhất đồng tiền EURO thay cho các đồng bản tệ, điều này sẽ tạo điều kiện rất thuận tiện cho các doanh nghiệp của Việt Nam trong việc trao đổi kinh doanh, thanh toán, ký kết hợp đồng và thực hiện các hoạt động khuyếch trương sản phẩm, khuyến mại, triển khai chiến lược thâm nhập sản phẩm vào khu vực thị trường rộng lớn này, giảm chi phí marketing nói riêng và các chi phí XNK nói chung; thúc đẩy quan hệ thương mại giữa 2 bên ngày càng phát triển sâu rộng. Hơn nữa, với sự ra đời của đồng EURO, các doanh nghiệp Việt Nam chỉ phải tính toán mức độ rủi ro của một đồng tiền duy nhất, không phải tính toán mức độ rủi ro của nhiều loại tiền như trước đây. EURO lại là một loại ngoại tệ mạnh, khi đưa vào lưu thông sẽ cho phép sử 95 dụng cơ chế tỷ giá gần như kiểu "rổ ngoại tệ", ở đó tỷ trọng của đồng EURO sẽ được xác định tương xứng với quy mô buôn bán và đầu tư của Việt Nam với các nước sử dụng đồng EURO, nên Việt Nam dễ khai thác được lợi thế của đồng tiền Việt Nam yếu hơn để điều chỉnh tỷ giá hối đoái có lợi cho XK của Việt Nam, giảm bớt mức độ phụ thuộc vào đồng Đôla Mỹ trong thanh toán thương mại. Mặt khác, giảm đi được phần nào sự phụ thuộc quá nhiều vào chu kỳ kinh tế và chính sách tiền tệ của Mỹ. b. Khả năng thu hút vốn đầu tư Ngay từ những ngày đầu ban hành Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam cuối năm 1987, không ít các nhà đầu tư EU đã trở thành những nhà đầu tư nước ngoài tiên phong trong đầu tư vốn vào Việt Nam. Trong hơn một thập kỷ qua, nguồn vốn FDI của EU vào Việt Nam đã tăng lên nhanh chóng. Đến cuối năm 1996, đầu tư của EU vào Việt Nam đã chiếm tỷ trọng 12% trong tổng số vốn đầu tư của EU ở khu vực châu Á, nhiều hơn đầu tư của EU vào các nước khác trong khu vực. Phần xuất khẩu từ khu vực FDI đã chiếm tỷ trọng 22% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trong những năm 1995-1998. Sau sự kiện khủng bố 11/09 ở Mỹ và cuộc chiến chống khủng bố do Mỹ phát động làm cho tình hình kinh tế thế giới bất ổn như hiện nay và toàn cảnh đầu tư nước ngoài không mấy sáng sủa, nhưng do sự ổn định về kinh tế - xã hội của Việt Nam, Việt Nam được đánh giá là nơi an toàn nhất cho đầu tư ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương và sự tăng trưởng kinh tế đứng ở vị trí thứ 2 sau Trung Quốc ở khu vực Đông Á, đã tạo nên những niềm tin lớn cho các nhà đầu tư EU. Các nhà đầu tư nước ngoài của EU cũng đang vươn lên để trở thành một trong những nhà đầu tư lớn nhất vào Việt Nam. Tiêu biểu trong năm 2001 FDI của các nước thành viên EU vào Việt Nam đã có nhiều khởi sắc với tổng số 63 dự án, trong đó, Hà Lan với khối lượng vốn là 573,9 triệu USD đã vươn lên trở thành nhà đầu tư lớn nhất đầu tư vào Việt Nam. Đầu tư nước ngoài từ EU có mặt trên khắp các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân và có những đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế của Việt Nam trong những năm qua. Cho đến nay, EU có 288 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đang hoạt động ở Việt Nam; với số lượng vốn đăng ký đạt 5,8 tỷ USD, chiếm 15,26% tổng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam; vốn thực hiện khoảng 2,37 tỷ USD chiếm hơn 11,3%. 96 Khi Việt Nam sớm chính thức ủng hộ đồng EURO thì thuận lợi sẽ đến cho cả các nhà đầu tư EU và Việt Nam. Việc tính toán xem xét mỗi dự án đầu tư cụ thể sẽ đơn giản hơn, dễ so sánh hơn vì tất cả các sự án từ các nước thuộc khu vực đồng EURO đều dùng chung một đơn vị tiền tệ. Hơn nữa đơn vị tiền tệ này ổn định trong giao dịch thanh toán giữa hai bên nên dễ làm yên lòng người bỏ vốn ra đầu tư hơn. Tuy vậy, mức độ thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và viện trợ phát triển chính thức ODA tuỳ thuộc vào sự đồng bộ của các chính sách tạo nên một môi trường đầu tư lành mạnh. Xét ở một góc độ riêng lẻ thì sự ra đời của đồng EURO có tác dụng khuyến khích đầu tư ở một mức độ nhất định. c. Quan hệ thanh toán, vay nợ giữa Việt Nam - EU Với quan hệ vay nợ, do sự thống nhất về tiền tệ, khả năng lưu thông các nguồn vốn trên thị trường các nước EU sẽ linh hoạt hơn nên chi phí giao dịch, hoa hồng, phát hành nợ trên thị trường này sẽ giảm đáng kể. Việc phát hành nợ trên thị trường tài chính các nước EU như trái phiếu, cổ phiếu công ty có lợi hơn do lãi suất đồng EURO trong dài hạn sẽ tốt hơn các đồng bản tệ cũ ở châu Âu. Việc thu hút nguồn vốn đầu tư từ các nước EU cũng sẽ dễ dàng và thuận lợi hơn. Vào thời điểm 1/1/1999, đồng ECU đã được tự đồng chuyển đổi theo tỷ giá 1/1 sang đồng EURO nên đương nhiên số nợ của Việt Nam tính bằng đồng ECU đến thời điểm đó sẽ phải chuyển đổi ra đồng EURO theo tỷ giá công bố. Sự chuyển đổi này không có ảnh hưởng gì trong việc quản lý nợ của Việt Nam, ngoài việc thay đơn vị ECU bằng đồng EURO trên sổ sách. Ngoài ra, toàn bộ số dư nợ tính bằng Bảng Anh, Krona Thuỵ Điển, Đan Mạch cũng sẽ không có ảnh hưởng gì khi EURO ra đời và được đưa vào lưu hành vì đây là những đồng tiền chưa tham gia vào khu vực đồng EURO. Đối với số dư nợ tính bằng đồng tiền của các nước thuộc khu vực đồng EURO thì cần phải chuyển đổi sang đồng EURO. Trong quan hệ thanh toán, việc sử dụng đồng EURO sẽ đơn giản hơn rất nhiều so với việc thanh toán bằng các đồng tiền quốc gia riêng biệt như France, Mác... như trước đây. Sự đơn giản hoá này không chỉ đối với các hoạt động ngân hàng mà đặc biệt là với các dịch vụ, du lịch, khách sạn. Trong thực tế, từ khi ra đời đồng EURO đã được sử dụng làm phương tiện thanh toán, các công ty Việt Nam có quan hệ buôn bán 97 với EU được thanh toán bằng các đồng tiền quốc gia đã được các ngân hàng Việt Nam chuyển sang giá trị đồng EURO. Số lượng và giá trị giao dịch của đồng EURO liên tục tăng trong thời gian gần đây. Chỉ tính riêng Vietcombank (VCB) ở thành phố HCM, từ thanh toán xuất khẩu chỉ đạt gần 1 triệu EURO năm 1999, năm 2000 đạt 1,3 triệu EURO và năm 2001 đã tăng lên đến 45 triệu EURO. Thanh toán nhập khẩu cũng tăng lên đáng kể, từ mức 2 triệu EURO năm 1999 lên 10 triệu EURO nam 2000 và 170 triệu EURO năm 2001. Thanh toán phi mậu dịch cũng tăng từ 6 triệu EURO năm 1999 lên 12 triệu EURO năm 2000 và 37 triêụ EURO năm 2001. d. Cơ cấu dự trữ ngoại tệ Đối với số dự trữ ngoại tệ từ các đồng DM. FF.. khi đổi sang EURO mà không đổi sang USD sẽ có lợi hơn cho Việt Nam, vì khi đó Việt Nam sẽ có một cơ cấu ngoại tệ hợp lý, có mặt đủ các loại ngoại tệ mạnh cần thiết. Với cơ cấu đó, Việt Nam vừa có đủ phương tiện thanh toán trực tiếp với EMU-12 hoặc các nước liên quan, vừa phân tán được rủi ro về tỷ giá hối đoái, giảm mức độ phụ thuộc vào đồng USD. Điều quan trọng đối với Việt Nam là cần phải nghiên cứu và hoạch định cơ cấu dự trữ ngoại tệ trong tương lai. Cần có chiến lược nhằm tăng tỷ trọng dự trữ ngoại tệ để khai thác điểm mạnh của một ngoại tệ mạnh và ổn định. Hiện nay, đồng EURO đã trở thành đồng tiền dự trữ đứng thứ 2 trên thế giới, chiếm 13% lượng dự trữ tiền tệ thế giới. e. Về quan hệ tỷ giá giữa VND và EURO Quan hệ VND và EURO được thể hiện chủ yếu thông qua chính sách, cơ chế tỷ gía của Việt Nam khi đồng EURO xuất hiện trong lưu thông tiền tệ. Là một ngoại tệ mạnh và khá ổn định, EURO sẽ cạnh tranh quyết liệt với đồng Đôla Mỹ và Yên Nhật trong lưu thông tiền tệ thế giới. Khi đó những đồng tiền yếu như VND sẽ khai thác được lợi thế này để xây dựng chế độ tỷ giá thích hợp. Đối với Việt Nam, chế độ tỷ giá thả nổi có thể kiểm soát linh hoạt, gắn với một tập hợp các đồng tiền mạnh, có quan hệ với Việt Nam như EURO, USD, Yên Nhật ... là một hướng cần được tiếp tục nghiên cứu một cách nghiêm túc để giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam có điều kiện nắm bắt các cơ hội kinh doanh trên thị trường EU, tránh được rủi ro về thị trường tiền tệ. 98 f. Các dịch vụ ngân hàng Việt Nam Để chuẩn bị cho sự ra đời của đồng EURO, ngày 6/4/1998, Phòng thương mại quốc tế (ICC) đã ban hành văn bản hướng dẫn việc triển khai đồng EURO có liên quan tới quy tắc và thông lệ hiện hành như UCP500, URDG, URC và URR 525. Tất cả các bên liên quan cần nắm rõ tinh thần của văn bản này. Mặt khác, các ngân hàng đang rà soát lại các thoả thuận đại lý với các ngân hàng trong khu vực đồng EURO. Họ đang cân nhắc việc giảm bớt các tài khoản đại lý nhằm tiết kiệm chi phí, mở một tài khoản bằng đồng EURO. Tuy nhiên, theo kết quả khảo sát tại trung tâm tài chính chủ chốt, phần lớn các ngân hàng sẽ duy trì hệ thống tài khoản kép trong 6 tháng đầu sau ngày chuyển đổi để đảm bảo không gây sự gián đoạn trong việc phục vụ khách hàng. Sau đó tuỳ theo tình hình thực tế, các ngân hàng sẽ rút bớt các tài khoản đại lý bằng các đồng tiền quốc gia châu Âu. Tóm lại, đồng EURO ra đời và gây ra những tác động đối với Việt Nam là điều không thể tránh khỏi. Việt Nam cần đón nhận những tác động này như một nhân tố tích cực và sớm đề ra những giải pháp phù hợp, kịp thời để thích nghi với những biến động trên thị trường tiền tệ thế giới đồng thời thúc đẩy hơn nữa quan hệ Việt Nam - EU trong thời gian tới.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLuận văn- Đánh giá đồng EURO sau hơn 3 năm lưu hành.pdf
Luận văn liên quan