Luận văn Giáo dục pháp luật trên địa bàn huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang

Quá trình đổi mới đất nước, xây dựng “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” đòi hỏi phải xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội, xây dựng một xã hội trong đó mọi người đều có ý thức tôn trọng pháp luật, tự nguyện tuân thủ và nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, có tinh thần bảo vệ pháp luật, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. GDPL là sự tác động của nhân tố chủ quan, được định hướng trong toàn bộ hoạt động của tổ chức Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội bằng nhiều hình thức khác nhau nhằm từng bước đưa pháp luật vào cuộc sống, góp phần nâng cao dân trí và trình độ văn hóa cho cán bộ, nhân dân. Trong thời gian qua, công tác GDPL luôn được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, coi đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng, góp phần nâng cao hiểu biết về nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân. Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về GDPL, gắn công tác GDPL với thực tế trên địa bàn huyện Kiên Hải nhằm làm sáng tỏ cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của công tác GDPL trên địa bàn cấp huyện nói chung và huyện Kiên Hải nói riêng. Kết quả nghiên cứu của luận văn là cơ sở để tác giả đưa ra những kết luận sau đây: 1. GDPL là sự tác động một cách có hệ thống, có mục đích và liên quan đến nhận thức của con người nhằm trang bị cho mỗi người một trình độ kiến thức pháp luật nhất định. Từ đó hình thành nên ý thức đúng đắn về pháp luật, tôn trọng và tự giác xử sự theo quy định của pháp luật. Trong thời gian qua, GDPL đã có những chuyển biến tích cực, góp phần nâng cao hiệu lực của pháp luật và hiệu quả quản lý của Nhà nước về pháp luật. 2. GDPL là một quá trình lâu dài, liên tục; đòi hỏi phải tiến hành từng bước, không chủ quan nóng vội và hình thức. Phải nghiên cứu tìm tòi, tổng kết rút kinh nghiệm trong quá trình thực hiện.81 3. Giáo dục kịp thời, đầy đủ những nội dung pháp luật liên quan đến đời sống của các tầng lớp nhân dân, tạo điều kiện để công dân sử dụng pháp luật làm phương tiện, công cụ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, của nhà nước và xã hội. Nâng cao ý thức tự giác, chủ động tìm hiểu và chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân. 4. Tạo bước phát triển mới trong GDPL để hỗ trợ tích cực hơn nữa nhu cầu hiểu biết pháp luật, nâng cao dân trí pháp lý trong cán bộ, nhân dân, góp phần thực hiện nhiệm vụ phát triển toàn diện con người Việt Nam, nâng cao kỷ luật, kỷ cương trong bộ máy nhà nước và trong xã hội, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước./.

pdf90 trang | Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 504 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giáo dục pháp luật trên địa bàn huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ôi trường; phòng, chống HIV, AIDS; tệ nạn xã hội; các loại thuế; quyền lợi người tiêu dùng; bầu cử Quốc hội, bầu cử HĐND; nghĩa vụ quân sự; dân số; gia đình và trẻ em... Hình thức tài liệu được phát hành bao gồm: Đề cương tuyên truyền pháp luật, tờ rơi, tờ gấp, cẩm nang tình huống pháp luật, sổ tay hỏi - đáp pháp luật, tập tài liệu tổng hợp (cấp phát tại các buổi tập huấn hay hội nghị tuyên truyền pháp luật); băng cassette (cấp phát làm nội dung cho hệ thống trạm truyền thanh tại các xã). Kinh phí đầu tư cho việc biên soạn, phát hành tài liệu trung bình 2.000.000đ/năm ở cấp huyện và 800.000đ/năm ở các xã. 2.2.5.10. Giáo dục pháp luật thông qua các cuộc vận động chấp hành pháp luật Đi đôi với việc tăng cường GDPL, các ngành, các cấp ở tỉnh Kiên Giang nói chung, huyện Kiên Hải nói riêng cũng đã tích cực tổ chức nhiều cuộc vận động có tác dụng nâng cao ý thức chấp hành pháp luật trong các tầng lớp nhân dân. Trong 10 năm (2006 - 2016), các cấp, các ngành ở huyện Kiên Hải đã phát động trên 25 cuộc vận động có nội dung nêu cao ý thức chấp hành pháp luật. Điển hình là các cuộc vận động như: Toàn dân tích cực tham gia phòng, chống tội phạm; phong trào quần chúng tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc; toàn dân tham gia phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư; toàn dân hưởng ứng ngày môi trường thế giới; Thực hiện tốt chính sách kế hoạch hóa gia đình; thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang; ông bà cha mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo... 58 Trong cán bộ, công chức có các cuộc vận động như: làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; cán bộ, công chức nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật về an toàn giao thông; tích cực phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và ngành giáo dục và đào tạo huyện đã phát động nhiều cuộc vận động chấp hành pháp luật trong đoàn viên, thanh niên, học sinh có tác dụng tốt như: Thanh niên, học sinh nói không với ma túy, tránh xa các tệ nạn xã hội; đoàn viên thanh niên, học sinh, sinh viên nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật an toàn giao thông; thanh niên, học sinh tham gia bảo vệ môi trường; nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục... Lực lượng vũ trang nhân dân cũng đã phát động nhiều cuộc vận động như: Lực lượng vũ trang tham gia xây dựng đời sống văn hóa; Chi đoàn Công an không có đoàn viên vi phạm kỷ luật. Các cuộc vận động nói trên vừa có tác dụng nâng cao hiểu biết pháp luật, vừa góp phần nâng cao ý thức chấp hành pháp luật trong cán bộ và các tầng lớp nhân dân. 2.2.5.11. Giáo dục pháp luật thông qua các hình thức khác Ngoài các thành tựu đạt được thông qua các hình thức chủ yếu nêu trên, kết quả thực hiện GDPL còn được thể hiện thông qua hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo; công tác nghiệp vụ của các cơ quan chuyên môn; hoạt động tố tụng của các cơ quan bảo vệ pháp luật, trong đó đáng lưu ý là các phiên tòa xét xử lưu động. Thời gian qua, Tòa án nhân dân huyện đã phối hợp với UBND các xã và các ngành có liên quan tổ chức xét xử lưu động nhiều vụ án hình sự để trực tiếp tuyên truyền GDPL cho cán bộ và các tầng lớp nhân dân địa phương; góp phần nâng cao hiểu biết pháp luật cho nhân nhân trên địa bàn huyện. 59 Hình 2.5: Giáo dục pháp luật thông qua phiên tòa xét xử lưu động. 2.3. Những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của tác giáo dục pháp luật trên địa bàn huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang Bên cạnh những kết quả đạt được của GDPL mà các cấp, các ngành của huyện đã đạt được trong 10 năm qua, kể từ sau khi Chỉ thị số 32-CT/TW ra đời đến nay; công tác này trên địa bàn huyện Kiên Hải vẫn đang còn nhiều bất cập. 2.3.1. Về cơ sở pháp lý của công tác giáo dục pháp luật Có thể nói, GDPL là khâu đầu tiên đặc biệt quan trọng trong hoạt động thi hành pháp luật, là cầu nối giữa hoạt động xây dựng pháp luật và thực thi pháp luật. Ngày 20 tháng 6 năm 2012 Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật đã được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua và Nghị định số 28/2013/NĐ-CP ngày 04 tháng 4 năm 2013 của Chính phủ Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật. Đây là văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất về việc triển khai công tác GDPL, phù hợp với mục tiêu của chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 theo Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ Chính trị. 60 Tuy nhiên, trong điều kiện văn bản pháp luật được ban hành ngày càng nhiều, nội dung đa dạng, phức tạp, điều chỉnh nhiều loại quan hệ của đời sống xã hội phục vụ tiến trình đổi mới đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế; từ thực tế nhận thấy GDPL chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu cấp thiết trong tình hình mới. 2.3.2. Về chủ thể, đối tƣợng giáo dục pháp luật Nhận thức của cấp ủy Đảng, chính quyền và của xã hội về GDPL chưa thật sự đầy đủ, chưa tương xứng với vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác này. Vì vậy, sự đầu tư cho GDPL còn chưa được chú ý về mọi mặt, trong đó có chủ thể thực hiện GDPL. Phòng Tư pháp huyện được giao nhiệm vụ là cơ quan Thường trực của Hội đồng Phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; có chức năng tham mưu cho UBND cùng cấp thực hiện quản lý nhà nước về công tác GDPL; tham mưu cho Hội đồng phối hợp xây dựng và tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn triển khai thực hiện các chương trình, kế hoạch, đề án về GDPL đối với các ngành và địa phương. Với chức năng, nhiệm vụ được giao như trên, nhưng thực tế hiện nay, bộ phận giúp việc trực tiếp cho cơ quan Thường trực Hội đồng phối hợp ở huyện hầu như chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ được giao. Phòng Tư pháp huyện Kiên Hải chỉ bố trí 3 biên chế, bình quân ngành Tư pháp tỉnh Kiên Giang chỉ có 3,6 biên chế/phòng, riêng huyện Kiên Hải chỉ có một cán bộ lãnh đạo phải phụ trách chung 26 đầu công việc, trong đó có công tác GDPL. Ở cấp xã, cán bộ Tư pháp - hộ tịch chỉ có hai người/xã, lại phải đảm nhận nhiều công việc khác nhau, nên GDPL ở cấp xã chưa đảm bảo chất lượng, chưa tương xứng với yêu cầu công việc được giao. Đội ngũ cán bộ không chuyên trách làm công tác GDPL (báo cáo viên pháp luật, tuyên truyền pháp luật, hòa giải viên ở cơ sở...) ở huyện Kiên Hải còn thiếu về số lượng, trình độ chuyên môn còn hạn chế, chưa đồng đều, đặc biệt là tuyên truyền viên pháp luật và hòa giải viên ở cơ sở. Công tác bồi dưỡng kiến thức pháp luật, nghiệp vụ GDPL, cung cấp tài liệu cho lực lượng 61 này chưa được thường xuyên; cơ chế quản lý, sử dụng chưa rõ ràng, vì thế hiệu quả hoạt động của đội ngũ này chưa cao. Cơ chế phối hợp giữa các cơ quan nhà nước, chính quyền địa phương, Ủy ban MTTQVN và các tổ chức chính trị - xã hội trong GDPL còn nhiều bất cập, thiếu tính chủ động, thống nhất nên đôi khi dẫn đến sự chồng chéo hoặc để ngõ nên hiệu quả chưa cao. Đối tượng GDPL tại huyện Kiên Hải mang tính đặc trưng riêng. Do đặc thù là huyện đảo, địa bàn lại chia cắt, phương tiện đi lại chủ yếu bằng đường biển nên gặp rất nhiều khó khăn, hơn nữa trình độ dân trí thấp, khả năng tiếp thu về pháp luật chưa được cao. Mặt khác, phần lớn dân cư sinh sống bằng nghề đánh bắt xa bờ nên ít có điều kiện tiếp cận pháp luật. Một số đối tượng thanh thiếu niên thiếu ý thức chấp hành pháp luật, vì vậy tình trạng vi phạm pháp luật trong thanh thiếu niên còn diễn ra, đây chính là hạn chế, bất cập của đối tượng GDPL. 2.3.3. Về nội dung giáo dục pháp luật Nội dung GDPL mới chỉ thực hiện tương đối có chất lượng ở cấp huyện; đối với các xã, đặc biệt là các xã xa trung tâm huyện, công tác GDPL chưa được phát huy hiệu quả. Nội dung GDPL chỉ dừng lại ở việc tuyên truyền đến đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã, công tác tuyên truyền đến người dân còn hạn chế, chưa mang tính toàn diện, ổn định. Các văn bản pháp luật mới chủ yếu được quán triệt, triển khai khi mới ban hành mà không được tuyên truyền, phổ biến thường xuyên, liên tục. Nội dung GDPL tại các ngành chưa phong phú, chỉ chú trọng đến các văn bản chuyên môn, nghiệp vụ của ngành mà không xem GDPL là nhiệm vụ thường xuyên của cơ quan, đơn vị. Hạn chế, bất cập về nội dung GDPL đã là một trong những yếu tố chủ yếu quyết định chất lượng GDPL trên địa bàn huyện. 2.3.4. Về hình thức, phƣơng pháp giáo dục pháp luật Hình thức GDPL tại huyện Kiên Hải tuy đã được quan tâm, cải thiện nhưng chưa mang tính đa dạng; ưu thế của mỗi hình thức GDPL chưa được tận dụng khai thác triệt để. Hình thức GDPL được áp dụng chủ yếu là thông 62 qua tổ chức hội nghị của các ngành cấp huyện, UBND huyện và các xã còn mang biện pháp hành chính; do đó chưa thu hút được sự quan tâm của các đối tượng cần GDPL. GDPL thông qua hoạt động xây dựng, khai thác Tủ sách pháp luật hiệu quả chưa cao, không mang tính xã hội hóa. Đặc biệt là ở các xã số lượng sách pháp luật còn quá ít hoặc đã quá cũ, hầu hết không có phòng riêng dành cho việc đọc, nghiên cứu tìm hiểu pháp luật, quy chế khai thác thiếu hợp lý. Hàng năm nguồn kinh phí dành cho việc bổ sung đầu sách quá hạn hẹp. GDPL cho học sinh, tuy rất đa dạng, phong phú nhưng thiếu trọng tâm, trọng điểm, chưa thường xuyên, chưa có tính hệ thống. Phương pháp GDPL ngoại khóa chậm đổi mới, hoạt động ngoại khóa tổ chức đơn điệu thiếu hấp dẫn, chất lượng và hiệu quả còn thấp. Hình thức GDPL qua các phương tiện thông tin đại chúng như Đài Truyền thanh, hệ thống trạm truyền thanh cơ sở còn ít, đơn điệu, chưa đổi mới phương thức. 2.3.5. Vai trò, trách nhiệm của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang trong giáo dục pháp luật ở địa phƣơng Đối với HĐND huyện: trong thời gian qua chưa có sự quan tâm sâu sát đến việc ban hành Nghị quyết về GDPL. Chưa phân bổ nguồn kinh phí hợp lý cho công tác GDPL trên địa bàn huyện. Thiếu kiểm tra giám sát đối với các ngành chức năng trong công tác GDPL, chưa lãnh đạo, chỉ đạo tốt công tác GDPL, để đưa pháp luật vào đời sống nhân dân, từ đó ảnh hưởng phần nào đến công tác GDPL trên địa bàn huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang. Đối với UBND huyện: chưa chủ động xây dựng các kế hoạch, chương trình GDPL phù hợp với quy định tại hệ thống các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của huyện. Chưa chỉ đạo tốt đối với thủ trưởng các ngành có liên quan và Chủ tịch UBND các xã xây dựng kế hoạch và triển khai thực hiện tốt công tác GDPL phù hợp với tình hình thực hiện nhiệm vụ của ngành và địa phương mình quản lý. 63 2.3.6. Những hạn chế, bất cập và nhân của giáo dục pháp luật trên địa bàn huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang Từ thực tế thực hiện GDPL trên địa bàn huyện Kiên Hải nhận thấy có nhiều nguyên nhân, cả chủ quan lẫn khách quan dẫn đến những hạn chế, bất cập trong GDPL. Trong đó, có những nguyên nhân cơ bản sau: Thứ nhất, lãnh đạo một số ban, ngành, đảng, chính quyền, đoàn thể, lực lượng vũ trang ở huyện chưa nhận thức và ý thức đầy đủ về trách nhiệm của ngành, địa phương mình đối với GDPL cũng như về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của công tác này dẫn đến thiếu chủ động, tinh thần trách nhiệm hạn chế trong việc tổ chức và phối hợp tổ chức thực hiện GDPL. Thứ hai, cơ sở pháp lý của GDPL thiếu sự hướng dẫn đồng bộ, cụ thể nên việc triển khai GDPL gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là chưa quy định cụ thể để xác định trách nhiệm và cơ chế phối hợp, huy động nguồn lực có hiệu quả giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp cũng như các tổ chức chính trị- xã hội trong GDPL. Thứ ba, việc huy động nguồn lực cho GDPL chưa được tiến hành một cách đồng bộ và rộng khắp. Tổ chức, nhân lực làm công tác GDPL trên địa bàn huyện còn thiếu và yếu. Hoạt động của Hội đồng Phối hợp công tác phổ biến, GDPL chưa được duy trì thường xuyên, đều đặn; việc tổ chức hội họp để bàn kế hoạch triển khai hay rút kinh nghiệm trong quá trình thực hiện còn mang tính hình thức, sơ sài. Việc đôn đốc, kiểm tra các thành viên của Hội đồng phối hợp huyện đối với các xã theo sự phân công đôi khi còn chưa thực sự được quan tâm đúng mức vì phải kiêm nhiệm quá nhiều việc. Các báo cáo viên, tuyên truyền viên, hoà giải viên hầu hết là những người làm công tác kiêm nhiệm nên không có thời gian tập trung cho công tác này; về mặt nào đó chưa thật toàn tâm, toàn ý với hoạt động GDPL. Một số người chưa vững về kiến thức pháp luật, năng lực sư phạm, kỹ năng truyền đạt hạn chế đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả GDPL. Mặt khác, chế độ 64 thù lao đối với những người làm công tác GDPL quá thấp nên chưa khuyến khích thực hiện nhiệm vụ GDPL. Kinh phí dành cho hoạt động GDPL còn quá hạn hẹp, mất cân đối giữa nhu cầu và khả năng đáp ứng. Cùng với điều kiện khó khăn về cơ sở vật chất, máy móc thiết bị, phương tiện đi lại... cũng ảnh hưởng tới hiệu quả GDPL. Thứ tư, xuất phát từ đặc điểm của các đối tượng GDPL trên địa bàn huyện, điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn, mặt bằng dân trí thấp, ít quan tâm đến pháp luật. Nhiều địa phương còn tồn tại những phong tục, tập quán lạc hậu, bảo thủ, khép kín nặng nề, thói quen sống theo lệ làng đã ăn sâu trong tiềm thức một bộ phận dân cư nên việc GDPL gặp nhiều trở ngại. Thứ năm, nội dung GDPL là hệ thống các quy định pháp luật ở nước ta còn thiếu đồng bộ, việc hướng dẫn thực hiện không thống nhất, chồng chéo hay bỏ ngõ đã gây khó khăn rất lớn cho báo cáo viên, tuyên truyền viên khi tuyên truyền, phổ biến cũng như làm người dân lúng túng khi tìm hiểu. Nội dung tuyên truyền, phổ biến cũng mới chỉ dừng lại ở những văn bản luật, pháp lệnh; còn các văn bản hướng dẫn thi hành ít được quan tâm phổ biến. Hơn nữa, trong quá trình thực hiện chủ yếu mới dừng lại ở việc tuyên truyền, phổ biến còn nội dung được triển khai như thế nào, đối tượng nắm bắt đến đâu thì chưa có sự kiểm tra, đánh giá cụ thể. Vì vậy, ý thức tiếp cận, nắm bắt nội dung GDPL của các đối tượng chưa cao. Thứ sáu, hình thức GDPL còn đơn điệu, không hấp dẫn cũng là nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng GDPL ở huyện Kiên Hải. Hiện nay, hình thức chủ yếu vẫn là tuyên truyền miệng, qua phương tiện thông tin đại chúng, phát tờ gấp, tờ rơi, qua Tủ sách pháp luật. Những hình thức đó khi được sử dụng cũng chưa phát huy hiệu quả như mong muốn, chưa tạo được sức hút, thói quen đối với người dân. Chất lượng dạy học môn Giáo dục công dân ở các trường học còn thấp. Những hình thức GDPL khác như hòa giải ở cơ sở, câu lạc bộ, hội thi thu hút được đông đảo người tham gia, nhưng ít có điều kiện tổ chức. 65 2.4. Kinh nghiệm về giáo dục pháp luật trên địa bàn huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang Qua thực tế thực hiện GDPL trên địa bàn huyện Kiên Hải có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau: Thứ nhất, cơ quan, địa phương nào được cấp ủy đảng quan tâm sâu sát, có kế hoạch chỉ đạo, phân công cấp ủy phụ trách, theo dõi chặt chẽ công tác GDPL; xây dựng được kế hoạch thực hiện công tác GDPL cụ thể hàng năm, trên cơ sở đó tổ chức thực hiện thì hiệu quả GDPL ở đó cao, trình độ nhận thức pháp luật của cán bộ và nhân dân được nâng lên rõ rệt, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ổn định, tình hình vi phạm pháp luật và khiếu kiện vượt cấp giảm hẳn. Thứ hai, hoạt động GDPL là hoạt động phối hợp giữa các ban, ngành, đoàn thể với vai trò nòng cốt là ngành Tư pháp. Do đó, muốn cho hoạt động GDPL đạt hiệu quả cao thì phải có cơ chế phối hợp và phân công trách nhiệm cụ thể từng đơn vị, qua đó có hình thức khen thưởng những đơn vị đạt thành tích và có biện pháp chấn chỉnh đối với những đơn vị, địa phương không quan tâm triển khai hoạt động theo kế hoạch. Việc xây dựng các kế hoạch, các chương trình GDPL liên tịch giữa các ngành phải có tính khả thi trên cơ sở điều kiện đặc thù của từng ngành, cơ sở vật chất cũng như kinh phí, năng lực của cán bộ, công chức. Bên cạnh đó phải có sự đầu tư nghiên cứu kỹ để có biện pháp tuyên truyền với nội dung và hình thức thích hợp, cụ thể; tránh việc xây dựng kế hoạch theo kiểu chung chung, xây dựng nhưng không có khả năng thực hiện. Thứ ba, công tác GDPL phải có sự kết hợp chặt chẽ với hoạt động trợ giúp pháp lý, hoạt động hòa giải ở cơ sở... Phải có sự phối hợp đồng bộ giữa nhiều hình thức khác nhau, đảm bảo tính đan xen, liên tục, lâu dài thì mới có hiệu quả. Thứ tư, đối với đội ngũ làm công tác GDPL phải được quan tâm bổ sung, chuẩn hóa và thường xuyên có sự đầu tư tập huấn nghiệp vụ, rèn luyện kỹ 66 năng, nâng cao năng lực, giáo dục lòng nhiệt tình, sự tâm huyết với công tác, trang bị đầy đủ tài liệu, đề cương GDPL, đảm bảo chế độ thù lao theo quy định; đặc biệt là đội ngũ trực tiếp làm công tác GDPL. Thứ năm, được đảm bảo về mặt kinh phí là điều kiện cần để thực hiện công tác GDPL có hiệu quả. Có kinh phí mới có chế độ đãi ngộ hợp lý nhằm động viên, khuyến khích cán bộ làm công tác GDPL chuyên tâm công tác, có sự gắn bó, đầu tư cho nghề nghiệp; có kinh phí mới tổ chức được các hoạt động GDPL; có kinh phí mới đầu tư được trang thiết bị, cơ sở vật chất phục vụ công tác GDPL... Thứ sáu, để công tác GDPL gần gũi với mọi đối tượng nhân dân, tạo điều kiện cho các quy định pháp luật dần đi vào cuộc sống thì phải biết kết hợp công tác GDPL, hoạt động GDPL với công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức lối sống, văn hóa truyền thống. Những bài học kinh nghiệm nói trên sẽ là kim chỉ nam cho các cấp, các ngành, cho những người làm công tác GDPL tại huyện Kiên Hải trong quá trình tìm hướng đi thích hợp, nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện công tác trên địa bàn huyện. Từ thực trạng trên cho thấy, GDPL trên địa bàn huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang trong thời gian qua luôn được các cấp ủy Đảng, chính quyền quan tâm lãnh đạo và chỉ đạo các ngành chuyên môn phối hợp nhằm đẩy mạnh thực hiện GDPL đem lại nhiều kết quả thiết thực như: Đội ngũ cán bộ làm công tác GDPL từ huyện đến cơ sở từng bước được củng cố, kiện toàn, cơ bản đảm bảo số lượng và nâng cao chất lượng; Hầu hết các văn bản được GDPL bằng nhiều hình thức phong phú, phù hợp với từng nhóm đối tượng và địa bàn; Nội dung GDPL ngày càng đa dạng, được chọn lọc thông qua việc khảo sát, nắm bắt nhu cầu tìm hiểu pháp luật của từng nhóm đối tượng và đặc điểm cụ thể của địa phương để xây dựng kế hoạch GDPL, tập trung giới thiệu các văn bản pháp luật mới ban hành, các quy định của pháp luật có liên quan trực tiếp đến đời sống của người dân, nhằm đáp ứng nhu cầu tìm hiểu pháp 67 luật của cán bộ và nhân dân. Qua đó đã nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân, góp phần ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật, góp phần giữ vững trật tự, an toàn xã hội, nâng cao hiệu lực của pháp luật và hiệu quả quản lý nhà nước ở địa phương. Tuy nhiên, GDPL trên địa bàn huyện vẫn còn bộc lộ một số hạn chế, bất cập đó là: Công tác chỉ đạo, quản lý trong GDPL ở cơ sở còn hạn chế, chưa đồng bộ. Chưa có sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước với MTTQVN và các đoàn thể trong GDPL, việc huy động nguồn lực cho công tác GDPL chưa được tiến hành một cách đồng bộ và rộng khắp. Kinh phí, cơ sở vật chất, phương tiện phục vụ cho công tác này còn hạn chế, nhất là ở cơ sở, dẫn đến hiệu quả GDPL chưa cao. 68 Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN KIÊN HẢI, TỈNH KIÊN GIANG 3.1. Quan điểm, bảo đảm giáo dục pháp luật trên địa bàn huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang Để nâng cao chất lượng GDPL trên địa bàn huyện, Huyện ủy Kiên Hải đã đề ra một số quan điểm bảo đảm đối với công tác GDPL trong thời gian tới như sau: Một là, xây dựng Kế hoạch triển khai thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về công tác GDPL, bảo đảm tính khoa học, khả thi, thiết thực, hiệu quả. Hai là, công tác GDPL cho cán bộ, nhân dân trên địa bàn huyện là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trong đó huy động mọi nguồn lực, kết hợp chặt chẽ với các chương trình, kế hoạch có liên quan về GDPL. Ba là, công tác GDPL cho cán bộ, nhân dân đảm bảo tính toàn diện, đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm, kết hợp với giáo dục đạo đức, lối sống, nâng cao ý thức pháp luật, đạo đức công vụ, trách nhiệm nghề nghiệp và xây dựng nếp sống văn hóa. Bốn là, đẩy mạnh công tác GDPL về cơ sở, góp phần nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật của người dân để người dân phấn đấu sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Năm là, tổng kết thực tiễn, kế thừa và phát huy kết quả, khắc phục hạn chế, xây dựng, nhân rộng những mô hình, cách làm mới có hiệu quả trong công tác GDPL trên địa bàn huyện. 3.2. Giải pháp bảo đảm giáo dục pháp luật trên địa bàn huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang 3.2.1. Tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng đối với giáo dục pháp luật Huyện Ủy Kiên Hải tiếp tục quán triệt tốt hơn nữa Chỉ thị số 32-CT/TW, Ngày 09 tháng 12 năm 2003 của Ban Bí thư Trung ương về tăng cường sự 69 lãnh đạo của Đảng trong công tác PBGDPL, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ và nhân dân, tạo được sự chuyển biến trong nhận thức của cấp ủy đảng về công tác GDPL. Đồng thời các cấp ủy đảng phải tiếp tục xây dựng kế hoạch, chương trình hành động GDPL của ngành, địa phương mình quản lý. Mặt khác, cấp ủy đảng phải xác định đảng viên là lực lượng nòng cốt trong công tác GDPL của cơ quan, đơn vị và địa phương. Thông qua việc quán triệt chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đặt ra yêu cầu đối với từng cán bộ, đảng viên phải xác định việc tìm hiểu, học tập nhằm nâng cao trình độ, hiểu biết về pháp luật là nhiệm vụ thường xuyên, củng là một trong những tiêu chí đánh giá cán bộ, đảng viên hàng năm. 3.2.2. Tăng cƣờng vai trò, trách nhiệm của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân huyện Kiên Hải trong giáo dục pháp luật ở địa phƣơng Đối với HĐND huyện: trong thời gian tới cần nâng cao chất lượng Nghị quyết được ban hành, trong đó có Nghị quyết về GDPL. Đặc biệt cần xem xét, phân bổ nguồn kinh phí hợp lý cho công tác GDPL trên cơ sở tham mưu của cơ quan chuyên môn. Trong quá trình hoạt động, HĐND không chỉ chú trọng ban hành các văn bản QPPL, mà điều quan trọng là phải lãnh đạo, chỉ đạo tốt công tác GDPL, đưa pháp luật vào đời sống nhân dân; xem đây là nội dung không thể thiếu trong nghị quyết về phương hướng bảo đảm thi hành Hiến pháp, pháp luật. Đồng thời tạo điều kiện cho đại biểu HĐND nâng cao trình độ hiểu biết về pháp luật. Bản thân các đại biểu là người trực tiếp biểu quyết thông qua các văn bản về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, trong đó có lĩnh vực GDPL tại địa phương. Chính vì vậy, trình độ hiểu biết pháp luật của đối tượng này sẽ là điều kiện cần để các văn bản do HĐND ban hành mang tính khả thi, làm cơ sở để hoạt động GDPL đạt kết quả tốt. Trên cơ sở các văn bản quy phạm pháp luật về GDPL, Hội đồng nhân dân tỉnh Kiên Giang cần xây dựng Nghị quyết về chế độ phụ cấp hàng tháng 70 đối với báo cáo viên pháp luật cấp huyện; Tuyên truyền viên pháp luật cấp xã đang làm công tác GDPL tại các cơ quan hành chính Nhà nước (được hưởng chế độ giống như báo cáo viên của Đảng). Đối với UBND huyện: cần chủ động xây dựng kế hoạch, chương trình GDPL phù hợp với quy định tại hệ thống các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của huyện. Đồng thời chỉ đạo Hội đồng Phối hợp công tác giáo dục pháp luật trên địa bàn huyện, thủ trưởng các ngành có liên quan và Chủ tịch UBND các xã xây dựng kế hoạch và triển khai thực hiện tốt công tác GDPL phù hợp với tình hình thực hiện nhiệm vụ của ngành và địa phương mình quản lý. Cần tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật; kỹ năng; nghiệp vụ phổ biến, GDPL cho các đối tượng; trong đó tập trung tập huấn cho đội ngũ báo cáo viên pháp luật, tuyên truyền viên pháp luật, cán bộ chủ chốt cấp xã, hòa giải viên, người có uy tính trong cộng động dân cư để giúp cho độ ngũ này nâng cao năng lực trong thực hiện công tác GDPL. Đồng thời biên soạn, cung cấp, cập nhật các tài liệu pháp luật, tài liệu nghiệp vụ GDPL; chú trọng đến các văn bản pháp luật có liên quan, phù hợp với từng đối tượng. Tích cực thực hiện GDPL về các lĩnh vực tại các địa bàn trọng điểm, trên các phương tiện thông tin đại chúng, hệ thống loa truyền thanh cơ sở, cổ động trực quan, GDPL trực tiếp, thi tìm hiểu pháp luật, tổ chức phiên tòa xét xử lưu động, góp phần nâng cao chát lượng, hiệu quả trong việc GDPL. Phát huy vai trò của gia đình, của cộng đồng, của các tổ chức đoàn thể tại địa bàn trọng điểm tham gia giám sát, phê bình, nhắc nhỡ, giáo dục các thành viên tích cực gương mẫu, nghiêm túc chấp hành và thực hiện tốt pháp luật. Chú trọng, hướng dẫn thực hiện kịp thời để định hướng, tạo điều kiện cho địa phương, đơn vị phát huy tính chủ động của mình và giải quyết khó khăn, vướng mắc, phát sinh trong thực tế, bảo đảm sự thống nhất trong quá trình tổ chức thực hiện công tác này. Có sơ kết, tổng kết đánh giá các mô hình, phương pháp, cách làm hiệu quả trong quá trình thực hiện công 71 tác GDPL, để rút kinh nghiệm, đề xuất phương hướng tiếp tục triển khai trong thời gian tới. Đồng thời động viên, khen thưởng kịp thời các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc. Đồng thời nhắc nhỡ, phê bình các đơn vị, cá nhân chưa chủ động, tích cực trong việc thực hiện công tác GDPL. Các cơ quan ban ngành, đoàn thể tiếp tục đầu tư và huy động các cơ quan, tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp hỗ trợ kinh phí và phương tiện, cơ sở vật chất phục vụ việc thực hiện công tác này. 3.2.3. Kiện toàn tổ chức và nguồn nhân lực thực hiện giáo dục pháp luật trên địa bàn huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang 3.2.3.1. Tăng cường hoạt động của Hội đồng Phối hợp công tác giáo dục pháp luật trên địa bàn huyện Kiên Hải Để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ trong công tác GDPL, Hội đồng Phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn huyện Kiên Hải cần thực hiện một số nhiệm vụ sau: Một là, thường xuyên củng cố, kiện toàn lại thành viên Hội đồng phối hợp công tác PBGDPL khi có sự thay đổi do quá trình luân chuyển công tác. Hai là, điều chỉnh, bổ sung quy chế hoạt động của Hội đồng phối hợp cho phù hợp với tình hình thực tế trong công tác GDPL. Văn bản pháp luật liên quan đến lĩnh vực ngành nào, đơn vị nào, ngành đó, đơn vị đó phải chịu trách nhiệm chính về việc phổ biến và thực hiện văn bản pháp luật đó trong cán bộ, công chức của ngành mình. Ba là, phòng Tư pháp (cơ quan Thường trực Hội đồng) chủ trì phối hợp với các cơ quan, đoàn thể trong huyện và chính quyền các cấp, triển khai các văn bản mới về GDPL cho cán bộ và nhân dân trên địa bàn huyện. Bốn là, tổ chức lấy ý kiến thành viên tham gia góp ý vào dự thảo các đề án, chương trình, kế hoạch công tác GDPL do Trung ương ban hành (nếu có). 72 Năm là, tổ chức các cuộc họp theo định kỳ hàng quý, năm, nếu cần thiết có thể tổ chức các cuộc họp đột xuất để chỉ đạo kịp thời triển khai thực hiện các kế hoạch, chương trình GDPL. 3.2.3.2. Chú trọng xây dựng đội ngũ làm công tác giáo dục pháp luật Tuyển chọn những người có phẩm chất, năng lực, trình độ, có khả năng tuyên truyền, giáo dục hoặc hòa giải tốt, có tinh thần nhiệt huyết trong công tác GDPL. Đặc biệt chú trọng việc đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ làm công tác này. Nhưng thực tế, đội ngũ làm công tác GDPL ở huyện Kiên Hải hiện nay vẫn còn nhiều mặt hạn chế, đặc biệt là kỹ năng tuyên truyền (như đã trình bày ở phần thực trạng). Vì vậy, để nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động GDPL thì công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ này trở thành nhu cầu cấp thiết. Để giải quyết những vấn đề trên, trong thời gian tới huyện Kiên Hải cần tập trung một số nhiệm vụ cơ bản sau: Thứ nhất, UBND huyện Kiên Hải chỉ đạo phòng Tư pháp và UBND các xã rà soát phân loại trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ làm công tác GDPL trên địa bàn huyện để xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ. Thứ hai, khi tổ chức bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho đội ngũ làm công tác GDPL cần chú ý nội dung, cách thức, phương pháp truyền đạt để đội ngũ này nắm vững những thông tin về kiến thức pháp luật và tuyên truyền đến đối tượng tiếp thu, làm cho người nghe dễ hiểu, dễ nhớ, góp phần đạt kết quả cao trong công tác GDPL. 3.2.4. Đổi mới nội dung, hình thức và phƣơng pháp giáo dục pháp luật phù hợp với các đối tƣợng giáo dục pháp luật trên địa huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang 3.2.4.1. Về nội dung giáo dục pháp luật Từ nhu cầu thực tế của người dân và yêu cầu của xã hội, các báo cáo viên cần xây dựng đề cương và nội dung tuyên truyền phù hợp với đặc điểm, 73 điều kiện, trình độ nhận thức, tính chất công việc của từng đối tượng có sự hướng dẫn chung, thống nhất về nội dung GDPL. 3.2.4.2. Về hình thức giáo dục pháp luật Việc xác định nội dung GDPL cho phù hợp với từng đối tượng là nhân tố quyết định trong công tác GDPL. Tuy nhiên, nội dung GDPL không thể tự thân đi vào nhận thức của người được GDPL mà phải qua các kênh truyền tải thông tin, các cách thức và biện pháp tác động nhất định, phù hợp với khả năng tiếp cận của đối tượng. Do đó, hiệu quả của công tác GDPL không chỉ phụ thuộc vào nội dung mà còn phụ thuộc vào các hình thức tuyên truyền. Đối với huyện Kiên Hải thì việc đổi mới hình thức GDPL phù hợp với từng đối tượng có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Qua nghiên cứu lý luận về GDPL cũng như tìm hiểu về thực trạng công tác GDPL tại huyện Kiên Hải, để đảm bảo tính phù hợp và có hiệu quả, cần xác định việc áp dụng hình thức GDPL theo hướng sau: Thứ nhất, phải tập trung phát huy những ưu thế tổng hợp của tất cả các hình thức GDPL, bao gồm: - GDPL trực tiếp; tư vấn, hướng dẫn tìm hiểu pháp luật; cung cấp thông tin, tài liệu pháp luật; - Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, loa truyền thanh, băng rôn, pa-nô, áp-phích, tranh cổ động; niêm yết tại trụ sở; - Tổ chức thi tìm hiểu pháp luật; Thông qua công tác xét xử lưu động các vụ án điểm, xử lý vi phạm hành chính, hoạt động tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và hoạt động khác của các cơ quan trong bộ máy nhà nước; thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý, hòa giải ở cơ sở; - Lồng ghép trong hoạt động văn hóa, văn nghệ, sinh hoạt của tổ chức chính trị và các đoàn thể, câu lạc bộ, tủ sách pháp luật và các thiết chế văn hóa khác ở cơ sở; - Thông qua chương trình GDPL trong nhà trường 74 - Trong các hình thức GDPL trên, có những hình thức Nhà nước, xã hội thực hiện trách nhiệm chủ động GDPL cho công dân, đáp ứng quyền của công dân được thông tin về pháp luật, nhưng cũng có những hình thức để người dân thực hiện quyền yêu cầu nhà nước cung cấp thông tin pháp luật, chủ động tìm hiểu các vấn đề pháp luật cụ thể. Nhà nước, xã hội có trách nhiệm đáp ứng các yêu cầu này của cá nhân (như hướng dẫn tìm hiểu pháp luật, cung cấp thông tin, tài liệu pháp luật...). Thứ hai, trên cơ sở thực hiện các hình thức GDPL trong thực tế để thấy được hình thức nào có hiệu quả nhất, hình thức nào phù hợp nhất đối với các đối tượng cụ thể nhằm ưu tiên đầu tư áp dụng. Trước hết là tăng cường GDPL thông qua hình thức tuyên truyền miệng. Đây là hình thức phổ thông, truyền thống nhưng đem lại hiệu quả tốt; không chỉ truyền đạt thông tin mà còn truyền đạt cảm xúc, thái độ, sắc thái tình cảm của người nói đến người nghe, làm cho người nghe đón nhận vấn đề bằng cả lý trí và tình cảm. Vì vậy, cần đa dạng hóa cách thức thể hiện, không chỉ thông qua buổi lên lớp mà bằng những cách thức sinh động, linh hoạt hơn như tổ chức tọa đàm, đối thoại, các buổi nói chuyện, hoạt cảnh tình huống, lời ca, tiếng hát... Muốn vậy, các báo cáo viên, tuyên truyền viên phải có sự đầu tư về nội dung cần GDPL; rèn luyện kỹ năng truyền đạt; nâng cao khả năng xử lý tình huống trong quá trình truyền đạt. Trong điều kiện các phương tiện thông tin đại chúng phát triển như hiện nay thì tăng cường GDPL thông qua hoạt động trên các phương tiện thông tin đại chúng cũng là một hình thức thiết thực. Trên địa bàn huyện Kiên Hải, một số thông tin nên khai thác trong hoạt động GDPL như: Bản tin Tư pháp do Sở Tư pháp phát hành, Đài Truyền thanh huyện và trạm truyền thanh ở cơ sở, các loại sách pháp luật do cơ quan tư pháp phối hợp với các cơ quan, đơn vị khác để xuất bản... Hiện nay, hoạt động GDPL thông qua các phương tiện thông tin đại chúng ở huyện vẫn còn nhiều bất cập như nội dung chưa phong phú, sinh động; số lượng bài viết về GDPL chưa được nhiều; nội dung một số bài viết 75 chưa phong phú...Vì vậy, thời gian tới cần mở rộng thêm chuyên trang về pháp luật; lựa chọn những chuyên đề có nội dung mang tính GDPL mà đông đảo quần chúng nhân dân đang quan tâm tìm hiểu. Mặt khác, các ban, ngành đoàn thể cần phối hợp báo đài ở cấp tỉnh, cấp huyện, để giới thiệu những nội dung pháp luật chuyên ngành mới ban hành phù hợp với đối tượng tại địa phương mình... Xây dựng trang web riêng về GDPL để thuận lợi cho người dân cập nhật thông tin, trao đổi, bàn luận và tìm hướng giải quyết đối với những vấn đề bức xúc trong đời sống pháp luật. Đối với trang thông tin điện tử của huyện cần thường xuyên rà soát văn bản quy phạm pháp luật còn hiệu lực, cập nhật vào cơ sở dữ liệu văn bản quy phạm pháp luật để đăng tải nhằm kịp thời phục vụ nhu cầu tra cứu văn bản pháp luật. Cần tăng cường hơn nữa công tác hòa giải ở cơ sở, hình thức có tác dụng giáo dục cao vì nó không chỉ giải quyết tranh chấp thông qua cách hướng dẫn, thuyết phục các bên tự thương lượng với nhau mà còn lấy nền tảng là đạo lý truyền thống của dân tộc Việt Nam. Hình thức này dễ thuyết phục người nghe và khi hòa giải thành sẽ ngăn chặn được xung đột giữa các bên, ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật có thể nảy sinh. Hòa giải ở cơ sở vừa có tác dụng giáo dục hiệu quả, vừa có khả năng lan tỏa trong cộng đồng. Để hòa giải thành công và thực hiện tốt chức năng GDPL, các hoà giải viên hoặc người được mời hòa giải phải là người có uy tín, có khả năng thuyết phục, hiểu biết pháp luật sâu sắc và có kinh nghiệm. Hòa giải chính là đang GDPL. Ngoài các hình thức trên, hoạt động GDPL trên địa bàn huyện Kiên Hải, tùy theo từng xã, từng đối tượng cụ thể để có sự cân nhắc, lựa chọn hình thức GDPL phù hợp như: Biên soạn, phát hành tài liệu; tư vấn pháp luật; trợ giúp pháp lý; tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật; xây dựng và khai thác Tủ sách trong đời sống pháp luật 3.2.4. 3. Về phương pháp giáo dục pháp luật Kinh nghiệm cho thấy, tại buổi GDPL, nếu báo cáo viên, tuyên truyền viên chuẩn bị quá chi tiết, quá phụ thuộc vào đề cương tuyên truyền sẽ dẫn 76 đến tâm lý nhàm chán cho đối tượng tiếp thu. Để tránh tình trạng trên, cần chú ý những phương pháp GDPL như sau: Một là, xác định đúng trọng tâm nội dung cần GDPL, tìm các văn bản QPPL có liên quan để làm rõ vấn đề, cần chú ý khai thác bản chất các quy định, tránh trình bày quá dài dòng hay đọc nguyên bản văn bản pháp luật. Hai là, dành thời gian trao đổi, thảo luận giữa báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật với người nghe thông qua một số tình huống thực tế, người GDPL có thể thăm dò được sự chú ý của người nghe, mức độ đồng tình, ủng hộ của họ để từ đó điều chỉnh nội dung, phương pháp truyền đạt phù hợp. 3.2.5. Đảm bảo cơ sở vật chất và kinh phí cần thiết phục vụ công tác giáo dục pháp luật Có thể nói, việc trang bị cơ sở vật chất chưa đầy đủ và bố trí nguồn kinh phí phục vụ công tác GDPL còn hạn chế là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng công tác GDPL trên địa bàn huyện Kiên Hải chưa đạt được kết quả như mong muốn. Chính vì vậy, để đảm bảo cho công tác GDPL trên địa bàn huyện Kiên Hải đạt kết quả cao trong thời gian tới, yêu cầu tất yếu là phải đầu tư cơ sở vật chất và nguồn kinh phí cần thiết cho hoạt động này. Cụ thể: Trang bị cơ sở vật chất phục vụ công tác GDPL bao gồm các trang thiết bị, phương tiện như: máy chiếu băng hình, băng tiếng, đĩa CD, đĩa VCD, ... nhằm đảm bảo điều kiện cho công tác GDPL. Về kinh phí, đề nghị điều chỉnh tăng mức thù lao đối với báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật ở vùng khó khăn, biên giới hải đảo, điển hình như ở huyện đảo Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang vì theo quy định tại Thông tư liên tịch số 14/2014/TTLT-BTC-BTP ngày 27 tháng 01 năm 2014 của Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp hướng dẫn việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách Nhà nước bảo đảm cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và chuẩn tiếp cận pháp luật cho người dân tại cơ sở, hiện nay mức chi thù lao này còn thấp so với giá cả thị trường tại vùng huyện đảo. 77 3.2.6. Tăng cƣờng công tác chỉ đạo, phối hợp của hệ thống chính trị trên địa bàn huyện, xã trong công tác giáo dục pháp luật Xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành trong GDPL, có sự phân công nhiệm vụ cụ thể, rõ ràng đối với từng cơ quan, đơn vị. 3.2.7. Các giải pháp hỗ trợ khác để nâng cao chất lƣợng giáo dục pháp luật trên địa bàn huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang Để góp phần nâng cao chất lượng GDPL trên địa bàn huyện Kiên Hải trong thời gian tới, ngoài những giải pháp nêu trên, bản thân đề xuất một số giải pháp hỗ trợ khác như: Tăng cường GDPL đi đôi với việc nâng cao trình độ dân trí và cải thiện đời sống cho nhân dân. Song song với việc GDPL, Cấp ủy Đảng, chính quyền cần có biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, phát triển kinh tế xã hội, đưa huyện nhà thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Có sự quan tâm hợp lý và chú trọng xây dựng chương trình, kế hoạch GDPL thiết thực, linh hoạt, gắn với mỗi thời điểm, tình hình cụ thể, nhằm đảm bảo tính khả thi và hiệu quả khi đưa vào triển khai trong thực tế. Kết hợp GDPL với tổ chức thực hiện pháp luật nghiêm minh, triệt để. Hiệu quả GDPL phụ thuộc vào thực thi pháp luật. Nếu không thì những hiện tượng tiêu cực nảy sinh không được phát hiện, xử lý không nghiêm sẽ làm cho nhân dân mất niềm tin với pháp luật, công tác GDPL sẽ không còn tác dụng đối với nhân dân. Chính vì vậy, các cơ quan thực thi pháp luật trên địa bàn huyện Kiên Hải cần tăng cường tổ chức thực hiện pháp luật, đặc biệt là áp dụng pháp luật một cách đúng đắn và nghiêm minh. Sớm sửa đổi bổ sung Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012, vì khi luật này được ban hành thì ở cấp xã không còn Hội đồng Phối hợp công tác phổ biến GDPL, hiện nay cấp xã chỉ có tuyên truyền viên nên chưa đáp ứng được nhu cầu trong công tác GDPL tại địa phương. 78 Đề nghị Bộ tư pháp sớm nghiên cứu đưa ra Bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác GDPL đảm bảo thiết thực, hiệu quả, phù hợp với từng vùng. 3.2.8. Tăng cƣờng việc kiểm tra, giám sát, tổng kết rút kinh nghiệm trong thực hiện giáo dục pháp luật Kiểm tra là một trong những biện pháp đảm bảo tính khả thi trong GDPL. Thông qua công tác kiểm tra để nắm tình hình, đánh giá việc thực hiện GDPL của các ban, ngành, đoàn thể cấp huyện và UBND các xã, đồng thời rút kinh nghiệm về sự lãnh đạo, chỉ đạo công tác GDPL của UBND huyện, Hội đồng PHCTPBGDPL huyện, Phòng Tư pháp huyện. Việc kiểm tra được tiến hành trực tiếp từ cơ sở; có thể thực hiện thường xuyên hoặc đột xuất, kiểm tra toàn diện hoặc kiểm tra từng khâu, từng hoạt động, từng công việc cụ thể. Để đạt được hiệu quả cao trong công tác kiểm tra, cần phải xây dựng và xác lập chế độ thông tin, báo cáo định kỳ về công tác GDPL của các ban, ngành, đoàn thể cấp huyện và UBND các xã trên địa bàn huyện; đồng thời làm tốt công tác theo dõi, tổng hợp tình hình, đảm bảo tính hệ thống, khoa học. Qua kiểm tra, phải có đánh giá, nhận xét đầy đủ, khách quan. Nếu phát hiện những mặt tồn tại, khó khăn, vướng mắc trong thực hiện GDPL phải chỉ đạo, hướng dẫn và đôn đốc khắc phục kịp thời; đồng thời tự mình hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền điều chỉnh kế hoạch, nội dung thực hiện công tác GDPL hợp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức thực hiện có hiệu quả. Công tác kiểm tra còn giúp cho việc rút kinh nghiệm trong chỉ đạo chung và là căn cứ thực hiện công tác thi đua khen thưởng hàng năm, đột xuất nhằm biểu dương, động viên, khuyến khích các cá nhân, tập thể có thành tích cao trong GDPL. Để công tác GDPL trên địa bàn huyện Kiên Hải đảm bảo hoat động có hiệu quả, việc tăng cường công tác chỉ đạo, phối hợp của cả hệ thống chính trị trên địa bàn huyện là sự cần thiết trong GDPL; cấp Ủy đảng và chính quyền 79 địa phương cần phải tăng cường chỉ đạo hơn nữa đối với GDPL tại địa phương, các ngành được phân công GDPL cần đổi mới nội dung, hình thức và phương pháp GDPL phù hợp với từng nhóm đối tượng, đảm bảo cơ sở vật chất và kinh phí cần thiết phục vụ cho công tác này. Đồng thời tăng cường việc kiểm tra, giám sát, tổng kết rút kinh nghiệm trong thực hiện GDPL tại địa phương. 80 KẾT LUẬN Quá trình đổi mới đất nước, xây dựng “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” đòi hỏi phải xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội, xây dựng một xã hội trong đó mọi người đều có ý thức tôn trọng pháp luật, tự nguyện tuân thủ và nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, có tinh thần bảo vệ pháp luật, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. GDPL là sự tác động của nhân tố chủ quan, được định hướng trong toàn bộ hoạt động của tổ chức Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội bằng nhiều hình thức khác nhau nhằm từng bước đưa pháp luật vào cuộc sống, góp phần nâng cao dân trí và trình độ văn hóa cho cán bộ, nhân dân. Trong thời gian qua, công tác GDPL luôn được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, coi đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng, góp phần nâng cao hiểu biết về nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân. Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về GDPL, gắn công tác GDPL với thực tế trên địa bàn huyện Kiên Hải nhằm làm sáng tỏ cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của công tác GDPL trên địa bàn cấp huyện nói chung và huyện Kiên Hải nói riêng. Kết quả nghiên cứu của luận văn là cơ sở để tác giả đưa ra những kết luận sau đây: 1. GDPL là sự tác động một cách có hệ thống, có mục đích và liên quan đến nhận thức của con người nhằm trang bị cho mỗi người một trình độ kiến thức pháp luật nhất định. Từ đó hình thành nên ý thức đúng đắn về pháp luật, tôn trọng và tự giác xử sự theo quy định của pháp luật. Trong thời gian qua, GDPL đã có những chuyển biến tích cực, góp phần nâng cao hiệu lực của pháp luật và hiệu quả quản lý của Nhà nước về pháp luật. 2. GDPL là một quá trình lâu dài, liên tục; đòi hỏi phải tiến hành từng bước, không chủ quan nóng vội và hình thức. Phải nghiên cứu tìm tòi, tổng kết rút kinh nghiệm trong quá trình thực hiện. 81 3. Giáo dục kịp thời, đầy đủ những nội dung pháp luật liên quan đến đời sống của các tầng lớp nhân dân, tạo điều kiện để công dân sử dụng pháp luật làm phương tiện, công cụ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, của nhà nước và xã hội. Nâng cao ý thức tự giác, chủ động tìm hiểu và chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân. 4. Tạo bước phát triển mới trong GDPL để hỗ trợ tích cực hơn nữa nhu cầu hiểu biết pháp luật, nâng cao dân trí pháp lý trong cán bộ, nhân dân, góp phần thực hiện nhiệm vụ phát triển toàn diện con người Việt Nam, nâng cao kỷ luật, kỷ cương trong bộ máy nhà nước và trong xã hội, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước./. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ban Bí thư Trung ương Đảng (2003), Chỉ thị số 32-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân; 2. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội; 3. Bộ Tư pháp (2002), Sổ tay hướng dẫn nghiệp vụ phổ biến giáo dục pháp luật, chương trình phát triển Liên Hiệp Quốc, Hà Nội; 4. Bộ Tư pháp (2010), Tạp chí dân chủ và pháp luật, số chuyên đề Xây dựng Luật phổ biến, giáo dục pháp luât, Hà Nội; 5. Bộ Tư pháp (2015), Tạp chí dân chủ và pháp luật, số chuyên đề Các tiêu chí tiếp cận pháp luật tại cơ sở - những ướng mắc bất cập và định hướng hoàn thiện, Hà Nội; 6. Bộ Tư pháp (2015), Tạp chí dân chủ và pháp luật, số chuyên đề Vị trí vai trò, ý nghĩa của công tác giáo dục pháp luật trong nhà trường và quá trình đưa giáo dục pháp luật vào nhà trường, Hà Nội; 7. Bộ Tư pháp (2016), Tạp chí dân chủ và pháp luật, số chuyên đề Tăng cường hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, Hà Nội; 8. Bộ Tư pháp (2016), Báo cáo kết quả thực hiện Đề án “Tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật tại một số địa bàn trọng điểm về vi phạm pháp luật giai đoạn 2013-2016”, Hà Nội; 9. Chi cục thống kê (2007; 2008; 2009; 2010; 2011; 2012; 2013; 2014; 2015; 2016), Niên giám thống kê, Kiên Hải; 10. Đảng Cộng Sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, Nxb. Chính trị Sự thật, Hà Nội; 11. Đảng Cộng Sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội; 12. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội; 13. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần XI của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội; 14. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần XII của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội; 15. Đảng bộ huyện Kiên Hải (2010), Văn kiện Đại hộiĐảng bộ huyện lần VII của Đảng, Kiên Hải; 16. Nguyễn Minh Đoan (2011), Ý thức pháp luật, Nxb. Chính trị Quốc Gia, Hà Nội; 17. Trần Ngọc Đường - Dương Thanh Mai (1995), “Bàn về giáo dục pháp luật”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội; 18. Đặng Vũ Hảo (1996), Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, Thông tin chuyên đề “Đại hội VIII - Những tìm tòi và đổi mới”, Trung tâm thông tin tài liệu Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh; 19. Hội đồng phối hợp PBGDPL huyện (2007; 2008; 2009; 2010; 2011; 2012; 2013; 2014; 2015; 2016), Báo cáo tự kiểm tra công tác PBGDPL, Kiên Hải; 20. Huyện ủy Kiên Hải (2010), Kế hoạch về đẩy mạnh thực hiện công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn huyện Kiên Hải giai đoạn 2010-2015, Kiên Hải; 21. Nguyễn Lân (2000), Từ điển từ và ngữ Việt Nam, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh; 22. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 9, Nxb. Chính trị Quốc Gia, Hà Nội; 23. Quốc hội (2013), Hiến pháp 2013; 24. Quốc hội (2012), Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật; 25. Quốc Hội (2015), Luật Tổ chức chính quyền địa phương; 26. Nguyễn Quốc Sửu (2010), “Giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, Luận án tiến sĩ, Đại học quốc gia, Hà Nội; 27. Lê Minh Tâm (1995), Xác định mục tiêu, yêu cầu và nội dung chương trình giáo dục pháp luật trong các trường chuyên nghiệp không chuyên luật, Kỷ yếu hội thảo khoa học “Giáo dục pháp luật trong nhà trường”, Bộ Tư pháp; 28. Thủ tướng Chính phủ (1998), Chỉ thị số 02/1998/CT-TTG về việc tăng cường phổ biến giáo dục pháp luật trong gia đoạn hiện nay; 29. Thủ tướng Chính phủ (2004), Quyết định phê duyệt Chương trình hành động quốc gia PBGDPL và nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho các bộ, nhân dân ở xã, phường, thị trấn từ năm 2005 đến năm 2010; 30. Thủ tướng Chính phủ (2008), Quyết định phê duyệt chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật từ năm 2008 đến năm 2012; 31. Thủ tướng Chính phủ (2009), Đề án Củng cố, kiện toàn và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đáp ứng yêu cầu đổi mới phát triển đất nước; 32. Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định phê duyệt Đề án “Tăng cường phổ biến, giáo dục pháp luật cho cán bộ, nhân dân vùng biên giới, hải đảo giai đoạn 2013-2016; 33. Từ điển Tiếng Việt (2009), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội; 34. Đào Trí Úc (1995), Xây dựng lối sống ý thức và lối sống theo pháp luật, Chương trình khoa học cấp nhà nước KX.07, đề tài Kx.07.17, Hà Nội; 35. Ủy ban nhân dân huyện Kiên Hải (2008), Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện pháp luật về tổ chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở, Kiên Hải; 36. Ủy ban nhân dân huyện Kiên Hải (2008), Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện quyết định số 1067/QĐ-TTG ngày 25/11/1998 của Thủ tướng chính phủ về việc phê duyệt dự án xây dựng và quản lý tủ sách pháp luật ở xã, phường, thị trấn, Kiên Hải; 37. Ủy ban nhân dân huyện Kiên Hải (2010), Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện Chương trình Phổ biến, giáo dục pháp luật từ năm 2005 - 2010, Kiên Hải; 38. Ủy ban nhân dân huyện Kiên Hải (2012), Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật của Chính phủ từ năm 2008 - 2012, Kiên Hải; 39. Ủy ban nhân dân huyện Kiên Hải (2016), Báo cáo tổng kết 3 năm triển khai thực hiện Đề án “Tăng cường PBGDPL cho cán bộ, nhân dân vùng biên giới, hải đảo giai đoạn 2013-2016”, Kiên Hải; 40. Ủy ban nhân dân huyện Kiên Hải (2016), Báo cáo sơ kết 3 năm thực hiện Luật hòa giải ở cơ sở, Kiên Hải; 41. Ủy ban nhân dân huyện Kiên Hải (2016), Báo cáo sơ kết 3 năm thực hiện Quyết định số 06/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc xây dựng, quản lý, khai thác Tủ sách pháp luật, Kiên Hải; 42. Ủy ban nhân dân huyện Kiên Hải (2016), Báo cáo sơ kết 3 năm thực hiện Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật, Kiên Hải; 43. Vụ phổ biến, giáo dục pháp luật (1997), Một số vấn đề về phổ biến pháp luật trong giai đoạn hiện nay, Nxb. Thanh Niên, Hà Nội.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_giao_duc_phap_luat_tren_dia_ban_huyen_kien_hai_tinh.pdf
Luận văn liên quan