Luận văn Nghiên cứu và đánh giá đúng thực trạng và nguyên nhân dẫn đến nghèo đói

Trong 05 năm (từ 2001 - 2005), tổng nguồn kinh phí thực hiện Chương trình XĐGN -việc làm là 68.614 triệu đồng, gồm các nguồn kinh phí của trung ương, địa phương, huy động cộng đồng, hợp tác quốc tế. . Từ các nguồn kinh phí này đã xây dựng nhiều công trình hạ tầng cơ sở; hỗ trợ cho hộ nghèo về vốn để sản xuất; cho vay giải quyết việc làm thường xuyên và trong mùa nước nổi; đặc biệt là hỗ trợ nhà ở để ổn định cuộc sống (nhà tình thương, nhà trả chậm), mang lại hiệu quả khá tốt cho công tác XĐGN.

pdf89 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2589 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu và đánh giá đúng thực trạng và nguyên nhân dẫn đến nghèo đói, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dứt điểm công tác xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tập trung ở các xã, thị trấn và các nền bán theo giá linh hoạt trên cụm tuyến dân cư vượt lũ; đồng thời tiếp tục hoàn thành việc đo đạc các đường cộ, đường thét trên địa bàn huyện. Có chính sách khuyến khích các nhà đầu tư mở các cơ sở dạy nghề tư nhân như: Cho vay vốn với lãi suất ưu đãi hoặc Nhà nước hỗ trợ lãi suất; Nhà nước giao đất, tư nhân đầu tư xây dựng, mua sắm trang thiết bị và quản lý điều hành; Nhà nước trả tiền thuê giáo viên dạy nghề cho các cơ sở có thiết bị, tay nghề tổ chức dạy nghề cho lao động tại xưởng, tại nhà và sau đó gởi tại cơ sở dạy nghề công lập để giải quyết việc làm tại cơ sở. Trung tâm dạy nghề của huyện vừa thực hiện đầy đủ chính sách hỗ trợ hộ nghèo học nghề theo quy định như: miễn học phí, hỗ trợ tiền ăn, hoãn thực hiện các nghĩa vụ đóng góp của địa phương, Ngân hàng Chính sách cho vay hỗ trợ chi phí học tập… để người nghèo có cơ hội học nghề và tìm được việc làm với thu nhập ổn định. 3.2.1.4 Tăng cường các biện pháp quản lý kinh tế, xã hội Uỷ ban nhân dân huyện và các xã - thị trấn phải tiến hành công bố công khai các quy hoạch: sử dụng đất; phát triển đô thị; xây dựng kết cấu hạ tầng; nhà ở, cấp điện, nước, chợ, bến xe, đường giao thông... và các chế độ, chính sách ưu đãi của Nhà nước trên phạm vi toàn huyện để các doanh nghiệp không phân biệt thành phần kinh tế, các hộ gia đình lựa chọn đầu tư và phát triển sản xuất kinh doanh. Tăng cường các biện pháp quản lý việc huy động và sử dụng vốn, quản lý đất đai; quản lý chặt chẽ và có hiệu quả quy trình xây dựng cơ bản, các chương trình, dự án đầu tư. Thực hiện phân cấp mạnh cho cơ sở trong lĩnh vực quản lý tài chính và ngân sách; quản lý và quyết định đầu tư theo hướng tăng quyền hạn và trách nhiệm cho cấp xã, đối tượng được hưởng lợi, kết hợp nâng cao năng lực cán bộ. Bảo đảm cho nhân dân nói chung và các hộ nghèo nói riêng có được đầy đủ thông tin về hoạt động kinh tế, các chỉ tiêu kế hoạch và các nguồn tài chính đầu tư cho các chương trình, dự án ở địa phương. Bảo đảm cho người dân hưởng lợi phải được tham gia ý kiến xây dựng kế hoạch, tham gia thực hiện, sử dụng và quản lý công trình. Thực hiện công khai, minh bạch nguồn thu và chi ngân sách địa phương, kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng đúng mục đích, đối tượng và có hiệu quả các nguồn vốn huy động được cho hoạt động XĐGN. Thường xuyên tổ chức tốt công tác cung cấp thông tin dự báo tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ, dự báo thị trường, giá cả để định hướng tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh cho người dân. Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các dịch vụ khuyến nông, các quỹ tín dụng nhân dân...đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất và tổ chức đời sống của nhân dân. Có kế hoạch tổ chức tốt các hoạt động quản lý thị trường. Nâng cao khả năng tiếp cận thị trường của người nghèo, vùng nghèo. Rà soát quy hoạch và tiến hành xây dựng hệ thống chợ nông thôn, các trung tâm buôn bán, chợ đầu mối ở các vùng nghèo để cung cấp kịp thời nhu cầu tiêu dùng hàng hoá và tiêu thụ các loại nông sản hàng hoá cho nông dân. Chống tình trạng tư thương lợi dụng ép giá, ép mua, ép bán các loại nông sản hàng hoá gây thiệt hại cho người sản xuất, nhất là vùng nghèo vốn đã chịu nhiều thiệt thòi. Tổ chức phân phối công bằng và đúng đối tượng các mặt hàng chính sách được trợ giá, trợ cước vận chuyển, các đối tượng thuộc diện được hưởng chính sách ưu đãi của Nhà nước. Tăng cường các biện pháp bảo vệ sản xuất và đời sống, hạn chế thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh. Cần có chính sách và kế hoạch thực hiện phòng trừ các loại sâu phá hoại mùa màng, các loại dịch bệnh đối với người, cây trồng, vật nuôi. Làm tốt công tác dự báo thời tiết, khí hậu, lịch thời vụ; dự báo bão, lũ lụt để người dân chủ động kế hoạch sản xuất và phòng tránh hợp lý. Đây cũng là một giải pháp quan trọng giúp Tân Châu (địa phương chịu ảnh hưởng thiên tai rất lớn) giảm thiểu rủi ro do thiên tai gây ra nhất là xã nghèo, người nghèo. Đẩy mạnh thực hiện cải cách thủ tục hành chính, áp dụng cơ chế một cửa thực sự có hiệu quả. Nâng cao tính hiệu quả của bộ máy hành chính, tính trách nhiệm và minh bạch trong các hoạt động của cơ quan công quyền, hạn chế gây phiền hà cho nhân dân và doanh nghiệp. Tăng cường các biện pháp chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm, xử lý nghiêm những vụ việc vi phạm, trước hết là trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, cấp phép đầu tư, đấu thầu, quản lý dự án, phân bổ ngân sách, quản lý đất đai; tranh chấp hợp đồng kinh tế, phá hủy môi trường, các hoạt động phá hoại sản xuất, buôn bán trái phép. Bảo vệ lợi ích chính đáng của người sản xuất và quyền lợi của người tiêu dùng. 3.2.2 Giải pháp hỗ trợ trực tiếp người nghèo 3.2.2.1 Vận động làm thay đổi ý thức người nghèo, vùng nghèo để họ tự vươn lên Mặc dù XĐGN là nhiệm vụ to lớn của toàn Đảng, Nhà nước và xã hội, nhưng để vượt qua nghèo đói lại phải bằng sự nỗ lực, sự vươn lên vượt qua nghèo đói của chính người nghèo, hộ nghèo. Nếu người nghèo, hộ nghèo và vùng nghèo không tự vươn lên thì không thể xóa được đói, giảm được nghèo. Đây là mối quan hệ qua lại giữa hộ nghèo, vùng nghèo với cộng đồng xã hội. Cộng đồng xã hội chỉ có thể tạo mọi điều kiện thuận lợi, hỗ trợ cho hộ nghèo, vùng nghèo tiếp cận các nguồn lực để phấn đấu vươn lên thoát nghèo. Do đó phải làm cho hộ nghèo, người nghèo tin vào triển vọng của cuộc sống, có điều kiện và môi trường xã hội thuận lợi để phát triển bằng khả năng sẵn có, bằng lao động, bằng đào tạo, bồi dưỡng để hình thành khả năng đó, tính chất trợ giúp hỗ trợ phát triển là nét nổi bật của XĐGN. Mặc khác, trong chương 2 đã phân tích, do thiên nhiên ưu đãi trong sản xuất nông nghiệp, nuôi và đánh bắt cá mùa nước nổi cộng thêm nếp sống văn hóa ở địa phương, người nghèo quan niệm chỉ cần thỏa mãn nhu cầu ăn là đủ. Họ ngại bươn chải kiếm sống và cho rằng nước lũ lên cũng hết. Do đó ý thức ngại vươn lên là cản trở lớn nhất trong công tác XĐGN ở Tân Châu. Chính vì vậy cần tiếp tục tuyên truyền vận động cộng đồng xã hội và người nghèo nâng cao nhận thức, có ý chí quyết tâm không cam chịu đói nghèo, tự lực vươn lên xóa nghèo ở địa phương, cho chính bản thân mình để có cuộc sống ngày càng khá hơn làm cho người nghèo đã có chuyển biến tích cực trong nhận thức, có cố gắng trong việc tìm giải pháp cho mình để vươn lên thoát nghèo. Để làm thay đổi ý thức của người nghèo, có ý chí vươn lên thoát khỏi đói nghèo thì vai trò của chính quyền địa phương, cán bộ, các tổ chức đoàn thể, cộng đồng và cả dòng họ... vận động, khuyến khích giúp đỡ cả về vật chất, tinh thần và kinh nghiệm làm ăn... cho người nghèo. Các hình thức tác động đến ý thức của người nghèo có thể đa dạng, linh hoạt tùy vào đối tượng được giúp đỡ. Các biện pháp cần thực hiện là: - Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục, nhằm làm chuyển biến nhận thức từ nội bộ quần chúng về tầm quan trọng cũng như tính cấp bách trong công tác XĐGN để động viên toàn xã hội chăm lo cho người nghèo. Nâng cao trách nhiệm của các ngành, các cấp trong việc chăm lo hỗ trợ, giúp đỡ hộ nghèo, huy động cộng đồng tham gia chia sẻ trách nhiệm cùng thực hiện mục tiêu giảm nghèo, song cần làm chuyển biến nhận thức của hộ nghèo, không ỷ lại trông chờ vào Nhà nước, xây dựng ý thức tự lực phấn đấu vươn lên thoát nghèo là chính. Tập trung tuyên truyền, vận động người nghèo học nghề, chủ động tạo việc làm, tích cực tham gia xuất khẩu lao động. - Tổ chức tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, xây dựng tài liệu tuyên truyền dưới các hình thức như: tờ bướm, tờ rơi, đưa nội dung công tác giảm nghèo, biểu dương điển hình tốt, phê phán hiện tượng lười lao động, ỷ lại thiếu phấn đấu vươn lên của một bộ phận hộ nghèo. - Đẩy mạnh phong trào xây dựng nhà tình thương, đồng thời tranh thủ nguồn tài trợ để xóa nhà tre lá, tạm bợ cho người nghèo. Kiên quyết không còn tình trạng hộ nghèo không có nhà để ở. Mặc khác huyện cần xây dựng chương trình hỗ trợ cho xã nghèo, người nghèo phát triển thực cụ thể, hiệu quả, thực hiện tốt “ngày vì người nghèo”. - Triển khai và thực hiện tốt các chương trình, dự án xã hội, huy động nguồn lực cộng đồng cùng với ngân sách trong việc cứu trợ đột xuất, khắc phục khó khăn cho người nghèo khi họ gặp rủi ro trong cuộc sống. - Tiếp tục thực hiện Nghị quyết 07 của tỉnh ủy về dạy nghề, giải quyết việc làm và XĐGN. Bởi thời gian qua khi thực hiện triển khai Nghị quyết 07 đã có tác động rất lớn đến huyện Tân Châu trong công tác XĐGN, tỷ lệ hộ nghèo giảm ở tất cả các xã - thị trấn. Do đó thời gian tới, các xã - thị trấn trong huyện cần thực hiện đầy đủ và kịp thời hơn nữa các chính sách hỗ trợ cho người nghèo (y tế, giáo dục, tín dụng, bảo trợ xã hội...). Đẩy mạnh chính sách thu hút đầu tư vào các xã nghèo nhằm tạo nhiều công ăn việc làm cho người nghèo. Đây có thể là một trong các giải pháp quan trọng nhất trong XĐGN ở Việt Nam nói chung, ở huyện Tân Châu nói riêng. - Việc phân cấp quản lý hộ nghèo cho cơ sở từng bước đi vào ổn định, từ đó việc phân loại, rà soát hộ nghèo sát với thực tế, đồng thời góp phần nâng cao vai trò quản lý và lập kế hoạch giảm nghèo ở cơ sở. 3.2.2.2 Hỗ trợ khoa học kỹ thuật, vốn và kinh nghiệm làm ăn cho hộ nghèo, xã nghèo Mặc dù đã được Nhà nước giúp đỡ hỗ trợ cho hộ nghèo, nhưng thực tế đã chứng minh rằng nếu chỉ có hộ nghèo với qui mô sản xuất nhỏ bé thì khả năng thoát nghèo là rất khó khăn. Do đó cần có sự giúp đỡ của tập thể, ở Tân Châu chính là các hợp tác xã (HTX) trong sản xuất nông nghiệp và chăn nuôi, đánh bắt cá (HTX xã Vĩnh Xương) và các tổ dịch vụ khác. Trong lĩnh vực nông nghiệp ngoài củng cố nâng chất lượng hoạt động dịch vụ của các HTX, số còn lại mạnh dạn huy động nội lực mở rộng ngành nghề - dịch vụ, để tiến đến thành lập HTX “đa mục tiêu” như: bốc xếp, thu hoạch, phơi sấy, bảo vệ thực vật… tạo nhiều việc làm, nâng cao thu nhập cho xã viên, thu hút lao động nghèo vào HTX. Trong lĩnh vực công nghiệp - giao thông ngoài việc nâng chất hoạt động HTX thêu đan (xã Châu Phong) hoạt động có hiệu quả hơn. Cần phải củng cố các HTX đã thành lập mà không hoạt động hoặc hoạt động chưa đúng luật, nhất là quan tâm HTX se tơ vì loại hình HTX này có khả năng thu hút được nhiều lao động vừa gắn với việc học nghề vừa có việc làm rất phù hợp với lao động nghèo. Cơ sở Dệt, thêu, đan Kim Loan là một ví dụ thành công ở lĩnh vực này. Tăng cường các lớp huấn luyện chương trình 3 giảm - 3 tăng kết hợp tiết kiệm nước, lớp kỹ năng chọn tạo giống nâng cao và thực hiện nhiều điểm trình diễn để nông dân thực hiện theo, trong đó chú trọng biện pháp làm cho cây lúa khỏe để tăng sức chống chịu của dịch bệnh. Tổ chức trồng thí điểm trình diễn giống lúa, giống bắp lai, đậu, dưa có triển vọng để chọn giống thích nghi thay thế giống cũ đã thoái hóa. Về vật nuôi phát triển các mô hình nuôi ếch đồng, nuôi lươn và cá lóc trong bể lót nylon, nuôi heo hướng nạc, bò cao sản, nuôi vịt an toàn sinh học… Thực hiện chuyển giao tiến bộ khoa học đến nông dân, đồng thời tăng cường công tác tuyên truyền cho người dân biết tầm quan trọng của việc xuống giống tập trung và kỹ thuật chăm sóc cho cây lúa khỏe để chống chịu với bệnh vàng lùn và lùn xoắn lá. Thực hiện tốt công tác dự tính, dự báo trên cơ sở xây dựng bẫy đèn theo dõi kết hợp kiểm tra trên đồng ruộng, để phát hiện các sâu bệnh gây hại sớm và hướng dẫn người dân phòng trị kịp thời. Hướng dẫn nông dân sản xuất theo qui trình trồng cây lúa khỏe và tiếp tục huấn luyện chương trình 3 giảm - 3 tăng kết hợp tiết kiệm nước và đi đến 5 giảm (giảm giống, phân đạm, thuốc bảo vệ thực vật, thất thoát trong và sau thu hoạch, giảm thất thoát lượng nước tưới) đảm bảo hạ giá thành đến mức thấp nhất để tăng thu nhập của người dân, đồng thời tăng tính cạnh tranh trên thị trường. Mặc khác để giúp người nghèo thoát nghèo một cách bền vững cần phải hỗ trợ họ về kiến thức và kỹ năng xây dựng kế hoạch, bố trí sản xuất hợp lý, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào tổ chức sản xuất kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm gắn với giải pháp hỗ trợ vốn, tăng thu nhập bền vững. Đối tượng cần tập trung ưu tiên khi thực hiện chính sách hỗ trợ người nghèo cách làm ăn là những hộ nghèo có lao động, có đất sản xuất nhưng thiếu kinh nghiệm, kiến thức; những hộ nghèo thuộc đối tượng chính sách, phụ nữ nghèo. Thông qua các lớp tập huấn tại địa bàn dân cư; hội nghị đầu bờ; xây dựng mô hình trình diễn; sử dụng các tờ rơi; quảng cáo, phát hành tài liệu để phổ biến kiến thức cho nhân dân, nhất là các đối tượng nghèo. Nội dung cần tập trung ưu tiên hướng dẫn, phổ biến trong thời gian tới là: những kiến thức, kỹ năng về xây dựng kế hoạch, ra quyết định sản xuất kinh doanh phù hợp với thị trường; bố trí sản xuất; quản lý chi tiêu trong gia đình, quản lý sản xuất. Hướng dẫn kỹ thuật canh tác, trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, một số ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ buôn bán nhỏ...Cung cấp thông tin về khoa học kỹ thuật, thị trường, nhất là các đối tượng ở vùng sâu, vùng xa. Các chương trình, dự án đào tạo, tập huấn hướng dẫn người nghèo cách làm ăn phải phù hợp với tâm lý của người nghèo, phong tục của từng địa phương, bảo đảm cho đối tượng nghèo mau chóng có ý thức vươn lên tự thoát nghèo; Nhà nước giảm dần sự trợ giúp cho không. Đối với những hộ nghèo có khả năng lao động nhưng thiếu vốn để đầu tư sản xuất kinh doanh tự vươn lên thoát nghèo, Nhà nước tạo điều kiện để họ được vay vốn tín dụng với lãi suất ưu đãi; ưu tiên đối với hộ nghèo có chủ hộ là phụ nữ; đối tượng chính sách. Ngoài ra, những hộ mới thoát nghèo hay cận nghèo cũng cần hỗ trợ cho hộ được vay vốn tín dụng có lãi suất ưu đãi. Thủ tục cho vay, thu hồi vốn phải đơn giản, thuận tiện, nhanh chóng và thời gian cho vay phải phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh. Áp dụng linh hoạt các phương thức cho vay, trong đó chủ yếu sử dụng tín chấp thông qua hình thức nhóm tín dụng - tiết kiệm, hoặc các nhóm tương trợ tự nguyện của người nghèo, các đoàn thể xã hội. Tùy theo điều kiện, tình hình của từng địa bàn để cung cấp vốn vay bằng tiền hay bằng hiện vật theo yêu cầu của hộ nghèo. Đẩy mạnh các biện pháp huy động để tạo nguồn vốn, đáp ứng nhu cầu vốn và sử dụng vốn vay có hiệu quả. Kiểm soát chặt chẽ vốn đầu tư, nhằm đảm bảo hiệu quả, tiết kiệm, sử dụng đúng mục đích, chống lãng phí, thất thoát và các hiện tượng tiêu cực trong quản lý, sử dụng vốn. Quá trình hỗ trợ vốn tín dụng cần ưu tiên cho vay: theo dự án cơ sở vừa dạy nghề vừa tạo việc làm tại chỗ. Các xã - thị trấn cần thành lập “Tổ quản lý vốn” hoạt động kiêm nhiệm để quản lý loại hình cho vay theo hình thức “Tổ tương trợ trả góp” để dần dần hình thành “Quỹ tương trợ” phát triển nguồn vốn XĐGN của địa phương. Thông qua nguồn vốn XĐGN bình quân hàng năm cho vay 70% số hộ nhằm giúp cho hộ nghèo từng bước thoát nghèo và ngăn chặn số hộ có nguy cơ tụt nghèo. Phối hợp chặt chẽ với các ngành giúp vốn cho hộ cá thể phải bảo đảm qui định “học nghề - giúp vốn - việc làm”. Huy động nguồn từ cộng đồng và thực hiện mô hình quản lý nguồn vốn có sự tham gia của người dân, kế hoạch sử dụng nguồn vốn được bàn bạc, thảo luận công khai tại cộng đồng và tập thể số đông sẽ quyết định làm gì, làm ở địa điểm nào và cách làm như thế nào. Nguồn vốn này có thể sử dụng vào củng cố cơ sở hạ tầng quy mô rất nhỏ phục vụ đời sống và sản xuất của người dân như: nước sạch, cơ sở chế biến lương thực, các hoạt động chuyển giao kỹ thuật, công nghệ phục vụ sản xuất, trợ giúp vốn, giống cho các gia đình khó khăn. Nguồn quỹ này cũng được sử dụng để trợ giúp các gia đình không may gặp rủi ro đột xuất (như có người ốm nặng, không có tiền chạy chữa, thiên tai hỏa hoạn, hoàn cảnh khó khăn không thể khắc phục được). Với cách làm dân chủ, công khai sử dụng nguồn vốn và cơ chế huy động sự đóng góp của người dân (tiền của, nguyên vật liệu, sức lao động) kể cả sự hỗ trợ của những người có kinh tế khá giả, giàu có ở nông thôn. Người dân sẽ thảo luận và quyết định mức đóng góp, quyết định sử dụng nguồn vốn và giám sát quá trình thực hiện để vốn sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả, hạn chế được thất thoát. Ngoài ra từng địa phương có thể huy động vốn từ cộng đồng trên cơ sở đóng góp tự nguyện của nhân dân và các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp thông qua Mặt trận Tổ quốc phát động đóng góp “Ngày vì người nghèo” để hình thành quỹ XĐGN của địa phương. 3.2.2.3 Đào tạo nghề cho người nghèo Thông qua các cơ quan thông tin đại chúng và hoạt động của các tổ chức đoàn thể đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động nhằm làm thay đổi nhận thức trong gia đình và xã hội xóa bỏ tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước. Giúp cho người dân thấy được rằng học nghề là vì quyền lợi của bản thân mình nhằm tạo cơ hội tìm việc làm, có thu nhập cao để ổn định cuộc sống cho bản thân và gia đình. Phát động phong trào thi đua, xây dựng và nhân rộng điển hình về xã hội hóa dạy nghề, từng bước đẩy lùi tư tưởng bao cấp trong lĩnh vực đào tạo nghề. Trung tâm dạy nghề đi vào hoạt động, phải xây dựng ngay kế hoạch phối hợp với các ngành dạy nghề trong và ngoài huyện, để mở các lớp theo nhu cầu thị trường. Bên cạnh thực hiện đầy đủ các chính sách hỗ trợ theo qui định như: miễn học phí, hỗ trợ tiền ăn… Tăng cường công tác quản lý Nhà nước trong lĩnh vực lao động, nhằm tạo động lực cho người sử dụng lao động và người lao động phải qua đào tạo nghề hoặc đào tạo lại, thông qua việc sát hạch tay nghề mà chi phí đào tạo do cơ sở kinh doanh chi trả theo qui định. Lồng ghép chương trình dạy nghề cho hộ nghèo với các chương trình dạy nghề nông dân và thợ thủ công. Quá trình vận động tổ chức lớp học cố gắng tạo điều kiện mỗi lớp đạt 35% học viên lao động nghèo hoặc đối tượng yếu thế vào học nhằm trang bị thêm kiến thức làm ăn và tiếp thu kỹ thuật để có đủ điều kiện nhận vốn và sử dụng có hiệu quả. Bằng nguồn vốn XĐGN của địa phương hoặc kinh phí “xóa mù chữ” hàng năm hỗ trợ tập, sách giáo khoa cho các con em hộ nghèo đến trường. Cần quan tâm việc phân luồng học sinh không có điều kiện học lên cấp trên, giáo dục định hướng nghề nghiệp các học sinh lớp cuối cấp trung học cơ sở và trung học phổ thông để làm thay đổi nhận thức “Đại học không phải là con đường tiến thân duy nhất” mà tùy theo khả năng, học vấn, kinh tế gia đình và nhu cầu thị trường lao động để tạo cho mình hướng lập thân, lập nghiệp phù hợp. Đội ngũ giáo viên dạy nghề hàng năm cần bổ sung, phát triển nhất là nâng chất lượng để đáp ứng nhu cầu dạy nghề, đặc biệt là bổ sung giáo viên dạy nghề ở lĩnh vực, ngành nghề mới…tại Trung tâm dạy nghề của huyện. Ngoài ra cần xây dựng và ban hành chính sách thu hút, đãi ngộ, đào tạo, bồi dưỡng đối với giáo viên dạy nghề; có chính sách thu hút học sinh vào học nghề, đặc biệt là những nghề mũi nhọn của tỉnh. Nâng cấp và mở rộng việc thực hiện qui định “hành nghề phải có tay nghề”. Từng bước xây dựng và ban hành quy định về trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi của doanh nghiệp, người sử dụng lao động và người lao động đối với việc đào tạo và học nghề; mặc khác cần có cơ chế phối hợp giữa cơ sở dạy nghề với doanh nghiệp theo hướng doanh nghiệp có trách nhiệm tạo điều kiện để người lao động học nghề được tiếp cận, thực tập trên thiết bị sản xuất thực tế tại doanh nghiệp. Đa dạng hóa các loại hình đào tạo, kể cả áp dụng các hình thức liên kết đào tạo cung ứng lao động cho thị trường trong và ngoài tỉnh, kể cả xuất khẩu lao động với số lượng, chất lượng ngày càng cao. Xuất khẩu lao động: Huyện phải chủ động phối hợp với các Trung tâm dạy nghề của tỉnh tổ chức tại các xã - thị trấn để tư vấn, thông tin về chủ trương, chính sách, thị trường và chi phí tham gia để gia đình và người lao động định hướng lựa chọn đi lao động ở nước nào. Đối tượng tuyên truyền tư vấn phải là thanh niên, phụ nữ, công nhân lao động chưa tìm được việc làm, quân nhân xuất ngũ nhưng không có điều kiện học nghề… Các xã - thị trấn cần chủ động lựa chọn thời gian và địa điểm để tuyên truyền người thật việc thật, gương điển hình cũng như một số trường hợp vi phạm hợp đồng về nước trước hạn để người dân hiểu và có chấn chỉnh kịp thời những thông tin sai lệch vì những thông tin từ gia đình và người thân của chính người tham gia xuất khẩu lao động có tác động rất lớn đối với người dân. Hiện nay huyện Tân Châu tham gia xuất khẩu lao động phần lớn là lao động giản đơn, không có tay nghề, nên người lao động có thu nhập thấp. Vì vậy về lâu dài xuất khẩu lao động có tay nghề nhất định. 3.2.2.4 Phát huy vai trò của phụ nữ trong xóa đói giảm nghèo Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng khẳng định: Nâng cao trình độ mọi mặt về đời sống vật chất, tinh thần, thực hiện bình đẳng giới. Tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai trò người công dân, người lao động, người mẹ, người thầy đầu tiên của con người. Bồi dưỡng, đào tạo để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động xã hội, các cơ quan lãnh đạo và quản lý ở các cấp... [8]. Để xóa nghèo cho phụ nữ các địa phương đòi hỏi phải có những hướng giải quyết thiết thực vì nếu một người phụ nữ, một gia đình hay một địa phương nào chỉ giải quyết riêng lẻ một giải pháp tức thời hay chỉ quan tâm đến kết cấu hạ tầng mà không đầu tư đồng bộ vào việc nâng cao tư duy kinh tế, kế hoạch hóa dân số, nâng cao trình độ hiểu biết chung, thay đổi những thủ tục lạc hậu, kế hoạch hóa chi tiêu trong gia đình của mình thì hiệu quả của công cuộc XĐGN chỉ dừng lại ở mức độ thấp. Để góp phần thực hiện mục tiêu XĐGN theo hướng phát triển bền vững, trong thời gian tới, các tầng lớp phụ nữ huyện Tân Châu mà đại diện là Hội liên hiệp phụ nữ cần thực hiện một số giải pháp sau: Thứ nhất, vận động các tầng lớp phụ nữ thực hiện có hiệu quả chương trình mục tiêu quốc gia XĐGN trên cơ sở phát huy, nhân rộng những mô hình hay, những kinh nghiệm tốt đã được đúc kết. Củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động và phát triển các nhóm phụ nữ tiết kiệm ở cơ sở. Thứ hai, tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục phụ nữ tự lực vươn lên XĐGN, thi đua làm kinh tế giỏi. Thứ ba, tăng cường phối hợp chặt chẽ với các ngành chuyên môn như nông nghiệp, lao động, thương binh và xã hội, giáo dục và đào tạo... nhằm đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ vốn, dạy nghề, chuyển giao khoa học - kỹ thuật, chế biến sản phẩm, giúp chị em sản xuất có hiệu quả, thực hiện XĐGN bền vững, từng bước tiến tới khá giả và giàu có. Thông qua Hội phụ nữ và các ngành có liên quan Tổ chức tư vấn dạy nghề và giới thiệu việc làm đến tận các địa bàn dân cư, tại các tổ Hội nhằm thực hiện tốt vai trò của người phụ nữ trong gia đình và xã hội. Quan tâm đến các ngành nghề tại địa phương như: móc chỉ len, thêu trên len, dệt len, se tơ... vì các nghề này thu hút nhiều lao động nữ, có việc làm tại chỗ, hoặc có thể đem về nhà vừa làm việc nhà, vừa nhận hàng về làm có thu nhập thêm cho gia đình. Thực tế cho thấy phụ nữ nghèo ít có thời gian rỗi và không ít phụ nữ nghèo không biết sử dụng thời gian rỗi một cách tích cực. Các hình thức giải trí của phụ nữ nghèo còn đơn điệu. Chính vì thế, công tác tập huấn cho phụ nữ nghèo sử dụng thời gian rỗi một cách hợp lý và hiệu quả nhằm nâng cao trình độ, tay nghề kiến thức cũng như đáp ứng được nhu cầu giải trí, thư giản là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhằm thúc đẩy bình đẳng giới. Đồng thời, tùy theo tình hình địa phương mà Hội phụ nữ tiến hành các hoạt động, các phong trào thể dục thể thao, giải trí cho phụ nữ để giúp họ cân bằng tâm sinh lý trước những áp lực nặng nề mà xã hội đòi hỏi. Các hoạt động này cần xuất phát từ nhu cầu của chính phụ nữ nghèo ở địa phương và phải được hoạch định cũng như quản lý bởi chính họ. Việc sử dụng thời gian rỗi hợp lý sẽ mang lại những hiệu quả tích cực cho phụ nữ nghèo, cả trong hoạt động thư giãn, giải trí lẫn học hỏi nâng cao tay nghề, góp phần nâng cao nhận thức, cải thiện đời sống cho phụ nữ nghèo nhằm tiến tới thực hiện bình đẳng giới một cách thiết thực. 3.2.3 Ưu tiên hỗ trợ gia đình chính sách Tổ chức thăm hỏi động viên các gia đình chính sách, người có công với cách mạng nhân dịp các ngày lễ lớn. Đôn đốc việc xét chọn, đề nghị công nhận xã - thị trấn làm tốt công tác chính sách Thương binh liệt sĩ và người có công. Tổ chức xét đề nghị khen thưởng và nhân rộng các điển hình tiên tiến về khắc phục khó khăn vươn lên trong cuộc sống. Gắn với chương trình giảm nghèo và giải quyết việc làm tạo điều kiện cho hộ chính sách được ưu tiên vay vốn làm ăn như: chăn nuôi, trồng trọt, kinh doanh... để vươn lên thoát nghèo, cải thiện cuộc sống gia đình. Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng công tác quản lý, lưu trữ hồ sơ người có công với cách mạng. Tăng cường phối hợp kiểm tra công tác quản lý và chi trả trợ cấp ưu đãi đối với người có công nhằm ngăn ngừa và hạn chế những tiêu cực có thể xảy ra. Rà soát lại số xã - thị trấn đã được Ủy ban nhân dân tỉnh công nhận làm tốt công tác thương binh, liệt sĩ và người có công để đánh giá được từng mặt, qua đó có giải pháp khắc phục tiêu chuẩn điểm yếu, chỉ đạo việc củng cố, giữ vững danh hiệu được công nhận. Chú ý thực hiện những biện pháp ngăn chặn, xử lý sai sót, tiêu cực và nâng cao mức sống cho các gia đình có công. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ nhận thức đầy đủ ý nghĩa của phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, là đạo lý truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Mặc khác cần đặc biệt quan tâm hỗ trợ kinh phí xây dựng hay sửa chữa nhà tình nghĩa cho các hộ thật sự gặp khó khăn, bức xúc về nhà ở. Ngoài ra phải tổ chức tốt việc thăm viếng, tặng quà trong dịp lễ, tết, cấp thẻ bảo hiểm y tế, miễn giảm học phí, đưa đi điều dưỡng tập trung... Hỗ trợ người nghèo khi gặp rủi ro và những hộ nghèo thuộc diện chính sách mà không có khả năng lao động. Trong cuộc sống thường xảy ra các rủi ro gây thiệt hại bất thường như mất mùa, sản xuất kinh doanh thua lỗ, tai nạn, ốm đau... làm cho rất nhiều người không nghèo cũng trở nên nghèo và cần sự hỗ trợ của Nhà nước, cộng đồng. Đối với người nghèo khi gặp những trường hợp trên càng dễ bị tổn thương nhiều hơn, nhất thiết phải có sự trợ giúp kịp thời của xã hội để họ có thể vượt qua. Ở Tân Châu ngoài hai đối tượng trên, còn có một bộ phận khá lớn hộ nghèo, người nghèo thuộc đối tượng chính sách xã hội, chính sách người có công không có khả năng lao động mà cuộc sống của họ chủ yếu dựa vào sự quan tâm hỗ trợ của Nhà nước và cộng đồng. Vì vậy, trong chương trình XĐGN và thực hiện các chính sách xã hội luôn phải có một chính sách riêng, kế hoạch cụ thể để hỗ trợ kịp thời cho các đối tượng này. Tuy chỉ là những chính sách XĐGN mang tính ngắn hạn, nhưng chính sách trợ cấp người nghèo khi gặp rủi ro là một chính sách hiệu quả nhất đứng từ phía người nghèo, đồng thời phản ánh tính nhân văn sâu sắc của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Thường xuyên phối hợp rà soát nắm chắc hoàn cảnh gia đình của các đối tượng chính sách để chủ động có kế hoạch hỗ trợ, chăm sóc đạt hiệu quả. Cùng Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, các ngành, các cấp đẩy mạnh phong trào vận động đóng góp quỹ “Đền ơn đáp nghĩa” để chăm lo cho gia đình chính sách. Thực hiện tốt phương châm xã hội hóa công tác chăm sóc đời sống đối tượng chính sách là “Nhà nước - nhân dân - đối tượng” cùng chăm lo. Đẩy mạnh phong trào xã - thị trấn làm tốt công tác chính sách. Thường xuyên nghiên cứu cải cách các mặt công tác quản lý, giải quyết chế độ ưu đãi cho đối tượng chính sách, đưa công tác này ngày càng có nề nếp và hiệu quả. Tăng cường kiểm tra, chấn chỉnh công tác chi trả ở các cơ sở, kết hợp tổ chức tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ xã - thị trấn để tránh sơ hở, ngăn ngừa tiêu cực hoặc gây phiền hà. Phối hợp làm tốt công tác thông tin, tuyên truyền, biểu dương và khen thưởng kịp thời các đơn vị, tổ chức, cá nhân có nhiều thành tích trong phong trào đền ơn đáp nghĩa, nêu gương người tốt, việc tốt về đối tượng chính sách khắc phục khó khăn phấn đấu vươn lên trong cuộc sống. Kết hợp hỗ trợ với động viên để tránh cho đối tượng mặc cảm bị coi là ỷ vào Nhà nước không tự lực vươn lên. 3.2.4 Nhóm giải pháp khác 3.2.4.1 Phát triển mạnh mẽ phong trào xã hội hoá các hoạt động văn hoá - xã hội Xã hội hoá các hoạt động văn hoá - xã hội là vận động và tổ chức sự tham gia rộng rãi của nhân dân, toàn xã hội vào sự phát triển sự nghiệp văn hoá - xã hội, nhằm từng bước nâng cao mức hưởng thụ về giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao và sự phát triển về thể chất, tinh thần của nhân dân. Yêu cầu chung của xã hội hoá là phải đa dạng hoá được các hình thức hoạt động để khai thác tiềm năng và nguồn lực trong xã hội; thiết lập mối quan hệ chặt chẽ, đồng bộ có tác dụng hỗ trợ, thúc đẩy sự phát triển toàn diện đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân. Các hoạt động xã hội hoá do tập thể hoặc cá nhân thực hiện phải nằm trong khuôn khổ chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; mở rộng các cơ hội cho các tầng lớp nhân dân chủ động và bình đẳng tham gia. Xã hội hoá không có nghĩa là giảm nhẹ trách nhiệm của Nhà nước, giảm bớt phần ngân sách của Nhà nước mà thực chất là Nhà nước phải thường xuyên tạo thêm nguồn thu để từng bước tăng tỷ lệ chi ngân sách cho các hoạt động này, đồng thời tăng cường quản lý tốt hơn để nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn kinh phí được cấp. Thực hiện xã hội hoá các hoạt động văn hoá - xã hội, cũng là một trong những giải pháp để thực hiện chính sách công bằng xã hội, tạo điều kiện cho toàn xã hội, đặc biệt là các đối tượng chính sách, người nghèo được hưởng thụ tốt hơn thành quả giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục - thể thao...ở mức độ ngày càng cao hơn. - Về giáo dục - đào tạo: Thực hiện xã hội hoá đi đôi với nâng cao quản lý Nhà nước. Huy động tổng hợp các nguồn lực để phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo. Ngân sách Nhà nước ưu tiên đầu tư những nhiệm vụ trọng điểm, vùng khó khăn...Tăng cường mối quan hệ giữa nhà trường, gia đình và xã hội. Khuyến khích các ngành, địa phương, tổ chức kinh tế, xã hội và người sử dụng lao động tham gia xây dựng trường, hỗ trợ kinh phí cho người ở cơ quan, đơn vị mình đi học. Xây dựng quy chế, quy định về huy động, sử dụng các nguồn đóng góp của nhân dân, của cộng đồng để xây dựng trường học và các mục tiêu khác cho phát triển giáo dục - đào tạo. Khuyến khích thành lập các cơ sở giáo dục - đào tạo và dạy nghề ngoài công lập. Nâng cao chất lượng các cơ sở giáo dục từ xa, trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm học tập cộng đồng. Quan tâm đào tạo nghề cho lực lượng lao động ở nông thôn theo yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn. Đặc biệt huyện quan tâm hơn nữa đến tình trạng học sinh bỏ học bằng các giải pháp thiết thực: - Thực hiện tốt công tác nắm tình hình, sớm phát hiện học sinh có nguy cơ bỏ học, xác định nguyên nhân để theo dõi, giúp đỡ kịp thời bằng nhiều biện pháp từ phía đại diện cha mẹ học sinh, thầy cô giáo và bạn bè trong lớp. Giới thiệu để Hội khuyến học, các tổ chức đoàn thể tham gia hỗ trợ về vật chất và tinh thần cho những học sinh này. - Động viên, hướng dẫn cha mẹ học sinh quan tâm đến việc học tập của con em bằng nhiều hình thức như: tình hình học tập, đạo đức của con em mình để phối hợp giáo dục, biết tình hình hoạt động và khó khăn của nhà trường để tham gia hỗ trợ, biết những chủ trương, chính sách về công tác giáo dục và đào tạo để cùng thực hiện. - Thực hiện đồng bộ các chính sách xã hội, chương trình XĐGN, giải quyết việc làm, hỗ trợ sản xuất, giúp người dân ổn định, nâng cao cuộc sống. Gắn nghĩa vụ học tập với quyền lợi của người dân, khi thực hiện chính sách xã hội có xem xét việc thực hiện nghĩa vụ học tập của từng gia đình. - Thực hiện phương châm phối hợp chặt chẽ giữa gia đình - nhà trường - xã hội và thực hiện các biện pháp ngăn ngừa học sinh bỏ học là chính. Cần theo dõi chặt chẽ học sinh có nguy cơ bỏ học, tạo điều kiện thuận lợi nhất để học sinh được tiếp tục đi học, đồng thời vận động ngay khi học sinh mới nghỉ học bằng các hình thức thích hợp. - Về y tế: Nhà nước phải tiếp tục tăng đầu tư ngân sách cho y tế; trong đó ưu tiên bảo đảm kinh phí hoạt động cho y tế cộng đồng, chăm sóc sức khỏe cho các đối tượng chính sách, người nghèo và trẻ em dưới 6 tuổi. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho hệ thống y tế dự phòng, y tế cơ sở, nhất là khu vực vùng sâu, vùng xa. Hỗ trợ đào tạo cán bộ y tế cơ sở và vùng biên giới. Khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia hoạt động từ thiện, hỗ trợ trang thiết bị y tế và khám chữa bệnh cho người dân trên địa bàn. Củng cố và mở rộng hoạt động bảo hiểm y tế theo hướng đa dạng các loại hình bảo hiểm; Từng bước thực hiện người đóng bảo hiểm y tế có quyền được lựa chọn cơ sở khám chữa bệnh phù hợp. Tiếp tục thực hiện tốt chính sách khám chữa bệnh miễn phí cho người nghèo, vùng có nhiều khó khăn. Tăng cường quản lý Nhà nước đối với hoạt động y tế nhất là các cơ sở y tế tư nhân, kinh doanh thuốc, dược liệu... - Đẩy mạnh việc hoàn thành mục tiêu phát triển bảo hiểm y tế toàn dân vào năm 2010: Trong thực hiện phải có sự hợp tác nhiệt tình và sự phối hợp nhịp nhàng của cả hệ thống chính trị, các ngành cần có các chương trình hành động cụ thể nhằm có biện pháp hoàn thành bảo hiểm y tế toàn dân. Tăng cường công tác tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân hiểu được ý nghĩa và lợi ích khi tham gia bảo hiểm y tế toàn dân. Phát triển mạng lưới đại lý thu bảo hiểm y tế tự nguyện, mỗi ấp có ít nhất một cán bộ làm đại lý thu Bảo hiểm y tế tự nguyện. Nâng cao chất lượng chuyên môn, phục vụ tận tình cho người dân, chuyên môn hóa cán bộ đại lý, cập nhật kịp thời kiến thức về chính sách bảo hiểm y tế để có thể giải đáp thắc mắc của người dân khi cần. - Như trong chương 2 đã đề cập một trong những nguyên nhân của hộ nghèo là do đông con, thiếu lao động. Do đó việc tuyên truyền vận động người dân ở nông thôn, biên giới nên sinh từ 1 đến 2 con để có điều kiện chăm sóc con tốt hơn. Mặc khác cần tăng cường đầu tư cơ sở vật chất và thực hiện có hiệu quả chương trình dân số kế hoạch hoá gia đình, bảo vệ tốt sức khoẻ bà mẹ và trẻ em, giảm nhịp độ tăng dân số tự nhiên ở các vùng nông thôn. Đây là giải pháp góp phần cho công tác XĐGN mang tính bền vững. Nâng cao trình độ, năng lực cho cán bộ cơ sở: Đây là nhân tố quan trọng để chuyển tải đúng những thông tin, chủ trương, chính sách, pháp luật và những ưu đãi của Đảng và Nhà nước đến tận người dân, tránh được tình trạng hiểu sai, gây thắc mắc, khiếu kiện hoặc thực hiện sai. Mặt khác cán bộ cơ sở là những người trực tiếp theo dõi, tổ chức quản lý và thực hiện các kế hoạch, dự án ở cơ sở. Mục tiêu của kế hoạch, dự án được thực hiện thành công hay không phụ thuộc rất nhiều vào trình độ và năng lực của chính đội ngũ cán bộ trực tiếp quản lý và tổ chức thực hiện. Kinh nghiệm nhiều nơi cho thấy, việc nâng cao trình độ, năng lực cho cán bộ cơ sở sẽ thu được kết quả tốt hơn khi triển khai thực hiện các kế hoạch và dự án XĐGN ở cơ sở. Trong những năm vừa qua, huyện Tân Châu cũng đã quan tâm công tác đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ cấp xã, ấp và những cán bộ làm công tác XĐGN trong toàn huyện, nhưng nhìn chung trình độ và năng lực của đội ngũ cán bộ chính quyền cơ sở còn rất yếu. Vì vậy, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở để góp phần XĐGN là yêu cầu rất bức thiết hiện nay ở Tân Châu. Cần tổ chức đào tạo đồng bộ có hệ thống cho đội ngũ cán bộ này cả về chính trị, chuyên môn, kiến thức về pháp luật, quản lý kinh tế, đạo đức người cán bộ và cả lòng nhiệt tình, tâm huyết nghề nghiệp. Hướng ưu tiên đào tạo về trình độ chuyên môn của đối tượng này là tập trung đạo tạo kiến thức về sản xuất nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản; quản lý kinh tế, những kiến thức quản lý xã hội, quản lý hành chính. Thông qua các chương trình, dự án đào tạo tổ chức nhiều hơn nữa các lớp tập huấn cho cán bộ xã, ấp về các hình thức trợ giúp hộ nghèo. Kế hoạch đào tạo phải gắn với bố trí sử dụng cán bộ hợp lý; ưu tiên đào tạo và sử dụng người tại chỗ để cán bộ này trực tiếp về làm việc tại cộng đồng. Kế hoạch đào tạo và bố trí sử dụng cán bộ phải bảo đảm các xã vùng khó khăn sớm có khả năng làm được chủ đầu tư và quản lý có hiệu quả các công trình, dự án phân cấp cho cấp xã. Khẩn trương hoàn thiện và tổ chức thực hiện đề án tăng cường cán bộ cho các xã nghèo. Trước mắt chọn một số cán bộ có trình độ, năng lực, có lòng nhiệt tình bố trí tăng cường cho các xã Phú Lộc (xã thuộc chương trình 135). Có chính sách khuyến khích để cán bộ, công chức tích cực tự học tập, nâng cao trình độ năng lực làm việc, ưu tiên tuyển dụng đối với các sinh viên tốt nghiệp loại giỏi tại các trường đại học, cao đẳng về nhận công tác tại huyện; chính sách hỗ trợ cán bộ công tác ở vùng khó khăn. Phòng chống tệ nạn xã hội: Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật Nhà nước về phòng chống các tệ nạn xã hội ở cộng đồng, đưa các nội dung giáo dục phòng chống mại dâm, ma túy vào các chương trình chính khóa và ngoại khóa trong nhà trường nhằm nâng cao nhận thức trong học sinh. Tăng cường quản lý địa bàn, không để vụ việc phát sinh, không để gia tăng đối tượng mới, tổ chức ký cam kết, xây dựng hương ước, quản lý chặt chẽ tạm trú, tạm vắng; đẩy mạnh công tác kiểm tra ngăn chặn kịp thời tệ nạn mại dâm trong các cơ sở kinh doanh, dịch vụ nhạy cảm. Triển khai đồng bộ các biện pháp phòng ngừa tội phạm buôn bán phụ nữ và trẻ em vì mục đích mại dâm tại gia đình, cộng đồng dân cư, cơ quan, tổ chức. Kết hợp truy quét, triệt phá, xử lý nghiêm đường dây hoạt động mại dâm, buôn bán phụ nữ trẻ em. Gắn kết công tác hỗ trợ giáo dục, tạo việc làm, giúp tái hòa nhập cộng đồng cho các đối tượng mại dâm hoàn lương, các đối tượng phụ nữ và trẻ em bị buôn bán từ các chương trình XĐGN, chương trình quốc gia giải quyết việc làm, dạy nghề và các chương trình dự án nhân đạo khác. Có biện pháp quản lý các đối tượng đã đi cai nghiện tại các Trung tâm cai nghiện về địa phương nhằm hạn chế tình trạng tái nghiện, thực hiện các biện pháp quản lý sau cai như: dạy nghề, giải quyết việc làm, hỗ trợ vốn nhằm giảm tỷ lệ tái nghiện… Tăng cường hợp tác quốc tế, đặc biệt là hợp tác với Campuchia trong công tác phòng chống mại dâm và phòng chống tội phạm buôn bán phụ nữ và trẻ em qua biên giới. Thực hiện bảo trợ xã hội: Thực hiện tốt chương trình, các dự án xã hội: Ngăn chặn và giải quyết tình trạng trẻ em lao động nặng nhọc, độc hại và nguy hiểm; ngăn chặn và giải quyết tình trạng trẻ em bị xâm hại tình dục; Tiếp nhận và hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng cho trẻ em bị lường gạt buôn bán qua biên giới… Đẩy mạnh huy động nguồn lực trong cộng đồng, xã hội và bù đắp thêm ngân sách trong việc cứu trợ đột xuất, hỗ trợ nhà ở cho đối tượng xã hội. Tăng cường xã hội hóa công tác bảo trợ xã hội, nhất là thực hiện xã hội hóa trong việc nuôi dưỡng đối tượng tại các Trung tâm có cơ chế hỗ trợ của Nhà nước theo qui định mới. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục tạo lòng tin và ý chí vươn lên trong đối tượng xã hội, kết hợp các biện pháp hỗ trợ cụ thể như: dạy nghề, hỗ trợ vốn, tạo việc làm… Tranh thủ nguồn tài trợ quốc tế thực hiện các dự án nhân đạo nhằm tăng thêm nguồn lực trong công tác bảo trợ xã hội (phẫu thuật chỉnh hình, cấp xe lăn cho người tàn tật và chương trình chăm sóc trẻ có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn). Chủ động có kế hoạch và tổ chức cứu trợ kịp thời cho nhân dân bị rủi ro, thiên tai, hỏa hoạn. Thường xuyên theo dõi sát tình hình, nắm kịp thời các hộ cần cứu trợ. Huy động mọi nguồn lực để tổ chức ngăn chặn và làm hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại về người và tài sản, ổn định đời sống và sản xuất của nhân dân. Đồng thời đẩy mạnh phong trào nhà tình thương, đồng thời tranh thủ nguồn tài trợ nhằm thực hiện xóa dần nhà tre lá, tạm bợ cho người nghèo. KẾT LUẬN Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách nhằm tạo cơ hội cho người nghèo thoát khỏi cảnh nghèo khó, hòa nhập cộng đồng, cùng cộng đồng tham gia xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Chính phủ đã đầu tư ngày càng nhiều hơn cho chương trình XĐGN, hỗ trợ ngày càng thiết thực và có hiệu quả hơn về mọi mặt cho các xã đặc biệt khó khăn. Với quan điểm những vấn đề xã hội được giải quyết bằng các phương thức xã hội. Việc xây dựng và triển khai chương trình XĐGN với nhiều biện pháp sáng tạo nhằm giúp đỡ hộ nghèo, xã nghèo thoát khỏi khó khăn như: cho hộ nghèo vay vốn tín dụng từ Ngân hàng Chính sách - xã hội, tập huấn kiến thức, hướng dẫn kinh nghiệm sản xuất kinh doanh cho hộ nghèo, khám chữa bệnh miễn phí cho người nghèo, miễn giảm học phí cho con hộ nghèo, đào tạo nghề... đã góp phần hỗ trợ hộ nghèo, xã nghèo sớm thoát khỏi cuộc sống khó khăn, nhanh chóng hòa nhập cộng đồng. XĐGN không chỉ có nội dung kinh tế mà cần thực thi bằng các nhóm giải pháp kinh tế và còn chứa đựng trong đó sự phong phú của các vấn đề xã hội, tính nhân văn và văn hoá sâu sắc. Để giải quyết một cách thực chất và bền vững vấn đề này cần áp dụng đồng bộ và có hệ thống các giải pháp kinh tế gắn liền với giải pháp xã hội. Đây là cơ sở lý luận và thực tiễn của việc lồng ghép các chương trình, giải pháp XĐGN ở nước ta hiện nay. Mặc khác, XĐGN là mục tiêu quan trọng của phát triển kinh tế - xã hội bền vững, tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với XĐGN, đảm bảo công bằng và tiến bộ xã hội, hạn chế tốc độ gia tăng khoảng cách giàu nghèo. Thực hiện mục tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo của huyện Tân Châu đến cuối năm 2010 xuống dưới 3%. Trong những năm qua, các cấp, các ngành đã nỗ lực với nhiều giải pháp, triển khai thực hiện nhiều chương trình lồng ghép về phát triển kinh tế - xã hội với chương trình XĐGN của huyện góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu đề ra. Trong 05 năm (từ 2001 - 2005), tổng nguồn kinh phí thực hiện Chương trình XĐGN - việc làm là 68.614 triệu đồng, gồm các nguồn kinh phí của trung ương, địa phương, huy động cộng đồng, hợp tác quốc tế... . Từ các nguồn kinh phí này đã xây dựng nhiều công trình hạ tầng cơ sở; hỗ trợ cho hộ nghèo về vốn để sản xuất; cho vay giải quyết việc làm thường xuyên và trong mùa nước nổi; đặc biệt là hỗ trợ nhà ở để ổn định cuộc sống (nhà tình thương, nhà trả chậm), mang lại hiệu quả khá tốt cho công tác XĐGN. - Nhận thức của các cấp ủy, chính quyền, các ngành, các cấp ngày càng được nâng lên, quan tâm và tập trung chỉ đạo, điều hành thực hiện chương trình đạt hiệu quả. - Quan điểm giải quyết đói nghèo đã có nhiều thay đổi mang tính toàn diện hơn. Từ chỗ chỉ giải quyết cho hộ nghèo vay vốn làm ăn chuyển sang giúp phương tiện mưu sinh, dạy nghề, chuyển giao khoa học kỹ thuật, giúp người nghèo biết cách tự tạo việc làm. Tập trung thực hiện các mục tiêu cơ bản để cho người nghèo từng bước ổn định cuộc sống như: Y tế, giáo dục, nhà ở, trợ cấp xã hội, miễn giảm thuế... để họ tự lực nâng dần mức thu nhập cho bản thân và gia đình. - Thông qua công tác tuyên truyền giáo dục và tập trung nguồn lực thực hiện chính sách trợ giúp cho hộ nghèo chí thú làm ăn đã có tác động tích cực đến việc chuyển biến nhận thức trong hộ nghèo, nhiều hộ cố gắng tự lực vươn lên vượt qua đói nghèo khá vững chắc. - Tỉ lệ hộ nghèo giảm nhanh, đời sống được cải thiện đáng kể, nhất là trong đồng bào dân tộc. Bộ mặt xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn có thay đổi rõ rệt về hạ tầng cơ sở, khoảng cách chênh lệch mức sống giữa các vùng thu hẹp dần. - Tính liên kết cộng đồng trong Chương trình XĐGN ngày càng cao và chặt chẽ thông qua mô hình do các đoàn thể tổ chức như nhóm tương trợ tiết kiệm, tự nguyện góp vốn, tích luỹ nguồn quỹ để dành hỗ trợ giúp đỡ những hội viên khó khăn, những tổ nhóm giúp vốn, kỹ thuật, tự hướng dẫn nhau kinh nghiệm sản xuất. Công tác XĐGN đã thu hút sự tham gia đông đảo của các tầng lớp nhân dân, các tổ chức kinh tế xã hội với những đóng góp công sức, tiền của cho người nghèo, xã nghèo... - Kết quả thành công của huyện Tân Châu còn là sự lồng ghép phối hợp khá tốt các dự án về XĐGN với các chính sách phát triển kinh tế - xã hội khác, dù trực tiếp hoặc gián tiếp cũng đều có tác dụng tích cực đến công tác XĐGN. Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo huyện Tân Châu giai đoạn 2006 -2010 được thiết kế với một hệ thống giải pháp, cơ chế, chính sách đồng bộ, nhằm nâng cao năng lực, cũng như khả năng tiếp cận của người nghèo về các dịch vụ phát triển sản xuất, dịch vụ xã hội, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số; tạo cơ hội thuận lợi để người nghèo tự lực thoát nghèo bền vững, vươn lên khá, giàu, từng bước nâng cao và cải thiện chất lượng cuộc sống. Nội dung của Chương trình đã thể hiện được định hướng chung về giảm nghèo giai đoạn 2006 - 2010 là toàn diện hơn, công bằng hơn, bền vững và hội nhập. Đồng thời thể hiện tính khả thi và quyết tâm cao của Đảng, Nhà nước và nhân dân về XĐGN./. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bệnh viện Đa khoa huyện Tân Châu (2007), Báo cáo tổng kết hoạt động chăm sóc sức khoẻ nhân dân. 2. Bộ Lao động - Thương binh và xã hội (2004), Những định hướng chiến lược của Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo giai đoạn 2006 - 2010. 3. Bộ Lao động - Thương binh và xã hội (2004), UNDP 2004. 4. Bộ Lao động - Thương binh và xã hội (2004), UNDP và Ngân hàng thế giới. 5. Bộ Lao động - Thương binh và xã hội (2005), Phương pháp xác định chuẩn nghèo. 6. Đảng bộ huyện Tân Châu (2005), Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Đảng bộ huyện Tân Châu lần thứ IX, nhiệm kỳ 2005-2010. 7. Đảng bộ huyện Tân Châu (2005), Lịch sử Đảng bộ huyện Tân Châu. 8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 9. Đàm Hữu Đức (2008), “Phát huy thành quả, thực hiện thắng lợi mục tiêu của Quốc hội về giảm nghèo năm 2008”, Tạp chí Cộng sản, (785). 10. Thái Văn Hoạt (2006), Giải pháp XĐGN trên địa bàn tỉnh Quảng Trị trong giai đoạn hiện nay, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 11. Hội đồng phổ biến giáo dục pháp luật huyện Tân Châu (2007), Báo cáo kết quả phổ biến giáo dục pháp luật từ năm 2003 - 2007. 12. Hội Liên hiệp phụ nữ huyện Tân Châu (2007),Báo cáo sơ kết 3 năm công tác liên tịch với Ngân hàng chính sách xã hội về hỗ trợ vốn vay ủy thác cho hộ nghèo. 13. Hội nghị Thượng đỉnh về phát triển xã hội ở Copenhagen - Đan Mạch năm 1995. 14. Bùi Đức Huy (2007), “Giải pháp góp phần XĐGN”, Tạp chí Cộng sản, (7). 15. Phạm Gia Khiêm (2005), "Định hướng chung cho giảm nghèo giai đoạn 2006 - 2010 là toàn diện, công bằng, bền vững và từng bước hội nhập”, Tạp chí Lao động và Xã hội, (267). 16. Phạm Thị Thanh Mai (2004), Phát triển các dịch vụ xã hội cho người nghèo trên địa bàn Thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 17. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 18. Ngân hàng chính sách xã hội huyện Tân Châu (2007), Báo cáo tổng kết hoạt động của Phòng giao dịch Ngân hàng chính sách xã hội huyện Tân Châu giai đoạn 2003-2007. 19. Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Tân Châu (2007), Báo cáo tổng kết ngành Giáo dục năm 2007. 20. Phòng Lao động - Thương binh và xã hội huyện Tân Châu (2007), Báo cáo thực hiện chương trình giảm nghèo. 21. Phòng Thống kê huyện Tân Châu (2006), Niên giám thống kê năm 2006. 22. Phòng Văn hóa và Thông tin huyện Tân Châu (2007), Báo cáo tổng kết công tác Văn hóa và thông tin năm 2007. 23. Phòng Y tế huyện Tân Châu (2007), Báo cáo tổng kết công tác Y tế năm 2007. 24. Sở Lao động - Thương binh và xã hội tỉnh An Giang (2007),Tài liệu tập huấn công tác giảm nghèo và bảo trợ xã hội. 25. Sở Lao động - Thương binh và xã hội tỉnh An Giang (2007), Báo cáo thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo năm. 26. GS.TSKH Nguyễn Quang Thái và PGS.TS Ngô Thắng Lợi (2007), Phát triển bền vững ở Việt Nam, thành tựu, cơ hội, thách thức và triển vọng, Nxb Lao động - xã hội, Hà Nội. 27. Tỉnh ủy An Giang (2007), Nghị quyết 07/NQ- TU của Tỉnh ủy An Giang về đẩy mạnh công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm, xuất khẩu lao động và giảm nghèo giai đoạn 2006 - 2010. 28. Trung tâm nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn - Trường Đại học An Giang (2006), Kỷ yếu Hội thảo những vấn đề xã hội tỉnh An Giang. 29. Uỷ ban giảm nghèo khổ ESCAP (1995), Báo cáo tại Đại hội lần thứ II. 30. Ủy ban nhân dân huyện Chợ Mới (2007), Báo cáo sơ kết chương trình hành động về đẩy mạnh thực hiện XĐGN và định hướng chương trình XĐGN đến 2010 của huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. 31. Ủy ban nhân dân huyện Tân Châu (2006), Báo cáo tổng kết công tác XĐGN giai đoạn 2001-2005. 32. Uỷ ban nhân dân huyện Tân Châu (2006), Kế hoạch đào tạo và giải quyết việc làm cho lao động huyện Tân Châu giai đoạn 2006 - 2010. 33. Uỷ ban nhân dân huyện Tân Châu (2006), Kế hoạch thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo giai đoạn 2006 - 2010. 34. Ủy ban nhân dân huyện Tân Châu (2007), Báo cáo tổng kết việc thực hiện nhà ở cho người nghèo của huyện Tân Châu năm 2007. 35. Ủy ban nhân dân huyện Tân Châu (2007), Kế hoạch đào tạo và giải quyết việc làm cho người lao động huyện Tân Châu Châu năm 2007. 36. Ủy ban nhân dân huyện Tân Châu (2007), Lược sử Tân Châu xưa và nay. 37. Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang (2005), Kế hoạch thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo tỉnh An Giang giai đoạn 2006 - 2010. 38. Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang (2007), Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 07/NQ-TU của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh An Giang về đẩy mạnh công tác dạy nghề, giải quyết việc làm xuất khẩu lao động và thực hiện có hiệu quả Chương trình giảm nghèo giai đoạn 2006 - 2010. 39. Ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre (2007), Báo cáo tổng hợp đánh giá nghèo đói nông thôn của tỉnh Bến Tre.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Nghiên cứu và đánh giá đúng thực trạng và nguyên nhân dẫn đến nghèo đói.pdf
Luận văn liên quan