Luận văn Vị trí của thể loại truyền kì trong tiến trình phát triển của văn học Việt Nam

Truyền kì là một thể loại quan trọng của văn học trung đại, có sự đóng góp đáng kể trong quá trình phát triển của văn học trung đại Việt Nam cả về nội dung lẫn nghệ thuật. Thể loại này một mặt tiếp nối những truyền thống văn học dân gian, đóng vai trò là cầu nối giữa văn học dân gian và văn học viết, một mặt đánh dấu sự phát triển của văn xuôi tự sự trung đại, đưa văn học viết từ chỗ đơn thuần ghi chép sự việc hay sưu tầm tác phẩm dân gian đến chỗ sáng tác nghệ thuật thật sự. Mặt khác, thể loại này cũng ảnh hưởng lâu dài đến cả văn học hiện đại trong tiến trình phát triển của văn học dân tộc. Với vai trò là cầu nối giữa văn học dân gian và văn học viết, truyền kì khai thác đề tài từ các truyện cổ tích, truyền thuyết, ngụ ngôn của dân gian, đồng thời chịu ảnh hưởng của truyện dân gian trong nghệ thuật xây dựng cốt truyện, kết cấu, nghệ thuật khắc họa nhân vật, bên cạnh đó truyền kì cũng sử dụng nhiều môtip quen thuộc của truyện dân gian. - Những tác phẩm truyền kì, đặc biệt là những tác phẩm thuộc giai đoạn phát triển rực rỡ nhất của thể loại này (thế kỉ XV, XVI) thật sự là những sáng tác nghệ thuật độc đáo với rất nhiều sự dụng công của các tác giả, thể hiện được cá tính của người viết. Các truyện truyền kì phản ánh chân thực đời sống xã hội phong kiến với những nỗi thống khổ của nhân dân, khẳng định những tình cảm, tính cách đáng quý của con người, thể hiện sự đồng cảm của các tác giả với số phận và khao khát chính đáng của những con người bất hạnh trong một xã hội bất công

pdf150 trang | Chia sẻ: phamthachthat | Lượt xem: 3024 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Vị trí của thể loại truyền kì trong tiến trình phát triển của văn học Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à nàng hỏi cưới. Cha cô chê chàng nghèo, không chịu gả, cô sai người đưa vàng tặng chàng để chàng dùng làm đồ sính lễ. Hai chi tiết ấy có ý nghĩa nhấn mạnh sự chủ động của cô gái trong tình yêu và cũng cho thấy tình cảm sâu nặng của nàng. Diễn biến truyện tiếp tục với việc chàng trai vì phẫn chí nên bỏ xứ đi nơi khác lập thân, cô gái âm thầm đau khổ đến sinh bệnh rồi mất, trước khi mất còn dặn lại cha mình: “Trong ngực con chắc có một vật lạ. Sau khi con mất, xin cha cho hỏa táng để xem đó là vật gì.” [25,tr.425] Những câu chuyện tình kết thúc bằng cái chết của một trong hai người thật ra không hề xa lạ trong văn học, nhất là văn học thời trung đại, khi tự do yêu đương vẫn là điều cấm kị và cũng là khao khát của bao chàng trai cô gái. Nhưng Chuyện tình ở Thanh Trì quả thật rất giàu xúc cảm khi kể lại câu chuyện có vẻ quen thuộc đó. Chi tiết sau khi hỏa thiêu cô gái, “trong nắm xương tàn, sót lại một vật, to bằng cái đấu, sắc đỏ như son, không phải ngọc cũng chẳng phải đá, nó trong như gương, búa đập không vỡ, nhìn kĩ thì thấy trong khối ấy có hình một con đò, trên đò có một chàng trẻ tuổi đang ngả đầu tựa mái chèo nằm hát” [25,tr.426] là chi tiết giàu ý nghĩa, đầy sức ám ảnh. Nó minh chứng cho tình yêu mãnh liệt, đậm sâu, bất biến với thời gian của cô gái dành cho chàng trai. Nó cũng minh chứng cho nỗi đau khổ u uẩn sâu sắc của nàng. Nỗi niềm u uẩn ấy chỉ có thể hóa giải bằng sự cảm thông, thấu hiểu với tình yêu chân thành của chàng trai. Vậy nên, dù khối đá ấy “búa đập không vỡ” nhưng lại có thể tan ra thành nước, giọt giọt đều biến thành máu tươi khi nước mắt chàng trai nhỏ 123 vào. Quả là những chi tiết thật đắt. Nhờ vậy, truyện dù được kể khá ngắn gọn nhưng đọng rất sâu trong lòng người. Như trên có nói, truyện ngắn truyền kì tuy thường có kết cấu theo trật tự tuyến tính nhưng cũng có những lúc trật tự này bị phá vỡ. Với đặc trưng là dùng nhiều yếu tố hoang đường kì ảo, truyện truyền kì có thể đưa người đọc từ hiện tại của nhân vật trở về quá khứ kiếp trước hay tương lai kiếp sau của họ, có thể dồn mấy trăm năm thành một vài ngày, có thể đưa người đọc từ trần gian xuống địa phủ hay lên cung tiên Truyện Hai gái thần của Thánh Tông di thảo đưa chúng ta từ câu chuyện đang kể ở những năm đầu thời vua Lê Thái Tổ trở về thời xưa khi giặc Minh còn thôn tính nước ta với tiền thân kiếp trước của hai nhân vật: cháu dâu Long Vương và vợ sơn thần Đông Ngu. Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên trong Truyền kì mạn lục kết lại với chi tiết chàng Từ Thức vì nhớ nhà, chia tay Giáng Hương mà trở về quê cũ. Ngờ đâu, về đến nói chỉ thấy “vật đổi sao dời, thành quách nhân gian, hết thảy đều không như trước nữa.” Hóa ra, từ lúc chàng đến cõi tiên, chỉ một năm thôi, mà đã là tám mươi năm ở cõi trần. Quả thật, thời gian trong truyện truyền kì có thể co dãn như vậy đấy. Trong truyện Hải khẩu linh từ (Truyền kì tân phả), tác giả đang kể với chúng ta về cái chết của cung phi Bích Châu đời Trần Duệ Tông lại đưa người đọc đến hàng chục năm sau, thời vua Lê Thánh Tông với việc oan hồn của Bích Châu đến gặp vua xin vua “ra tay tế độ, vớt kẻ trầm luân”. Truyện Nhớ được ba kiếp (Lan Trì kiến văn lục) có kết cấu truyệnba phần lần lượt kể về ba kiếp trước của nhân vật. Hay truyện Biết chuyện kiếp trước cũng vậy, tác giả đưa người đọc đến kiếp trước của cậu bé con người đàn bà họ Trần, từ đó lí giải cho chúng ta biết nguyên do vì sao đứa trẻ “vừa lọt lòng mẹ đã biết nói”, cứ khóc mãi không nín đòi về nhà bố mẹ cũ. Có thể khẳng định rằng, dẫu chưa có được những kiểu kết cấu hiện đại như truyện ngắn sau thế kỉ XIX, kết cấu các truyện thuộc thể loại truyền kì vẫn mang tính nghệ thuật, tạo được sự hấp dẫn và góp phần đắt lực cho việc thể hiện tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Từ đó, ta có thể khẳng định những đóng góp về mặt nghệ thuật của thể loại này trong tiến trình phát triển của văn học trung đại. 124 3.2.2.3. Nhân vật trong truyền kì: đa dạng, giàu giá trị phản ánh hiện thực Ta bắt gặp trong truyền kì một thế giới nhân vật đa dạng, phong phú: từ con người trần thế với đủ giai cấp, thành phần đến nhân vật trong thế giới siêu nhiên như ma, quỷ, tinh vật, thần tiên Sự đa dạng của thế giới nhân vật phản ánh sự phong phú, phức tạp của hiện thực cuộc sống xã hội. Nhân vật là người trần thế trong thế giới truyền kì có thể là vua quan, có thể là nho sinh, có thể là lái buôn, tiều phu, ca nữ, hành khất Mỗi nhân vật đều có tính cách, số phận riêng được xây dựng một cách khéo léo, sinh động, phản ánh được hiện thực nhiều mặt của xã hội với đầy đủ tốt, xấu; thiện, ác Có vị vua là vị vua anh minh lo cho dân nước như vua Lê Thánh Tông (Tinh chuột – Thánh Tông di thảo; Hải khẩu linh từ - Truyền kì tân phả), cũng có vị vua là hôn quân chỉ biết bóc lột tiền của, công sức của dân, ham thích săn bắn, chẳng bận tâm đến đời sống nhân dân (vua Hồ Quý Li trong Câu chuyện đối đáp của người tiều phu núi Na; vua Trần Phế Đế trong Chuyện bữa tiệc đêm ở Đà Giang – đều thuộc Truyền kì mạn lục). Quan có người thanh liêm, thương dân như Dương Đức Công (Chuyện gã trà đồng giáng sinh – Truyền kì mạn lục) cũng có những kẻ tham nhũng, tàn ác (như Lí Hữu Chi trong Chuyện Lí tướng quân, Thân Trụ quốc trong Chuyện nàng Túy Tiêu – Truyền kì mạn lục). Những chàng nho sinh thì có người chuyên tâm học hành (như người chồng trong Tinh chuột – Thánh Tông di thảo), khẳng khái, cương trực (như Tử Văn trong Chuyện chức phán sự đền Tản Viên – Truyền kì mạn lục), si tình như Phật Sinh (Chuyện Lệ Nương – Truyền kì mạn lục); cũng có kẻ dâm ô, trụy lạc, không lo học hành (như Hà Nhân trong Chuyện kì ngộ ở trại Tây – Truyền kì mạn lục; hay ham mê bài bạc, phá gia chi tử như Trọng Quỳ trong Chuyện người nghĩa phụ Khoái Châu – Truyền kì mạn lục) Nhân vật trong thế giới siêu nhiên cũng đa dạng không kém. Họ tham gia vào câu chuyện với vai trò là nhân vật chính của truyện, có cuộc sống, số phận, tính cách riêng, cũng suy nghĩ, hành động và mang những tình cảm như con người trần thế. Đó có thể là hồn ma của người chết như hồn ma Nhị Khanh trong Chuyện cây gạo, hồn ma Thị Nghi (Chuyện yêu quái ở Xương Giang), có thể là các tinh vật (con 125 vật hay cây lâu năm thành người) như con chuột thành tinh trong Tinh chuột, Liễu Nhu Nương và Đào Hồng Nương (Chuyện kì ngộ ở trại Tây), có thể là tiên bướm (nàng Mộng Trang – Duyên lạ xứ Hoa), hải tiên (nàng Ngọa Vân - Chuyện lạ nhà thuyền chài), thần Thuồng luồng dưới thủy cung (Câu chuyện đối tụng ở Long cung – Truyền kì mạn lục ; Hải khẩu linh từ - Truyền kì tân phả), là tiên cõi trời như Giáng Hương (Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên – Truyền kì mạn lục; Giáng Tiên – Vân Cát thần nữ, Giáng Kiều – Bích câu kì ngộ trong Truyền kì tân phả). Dẫu chưa đi sâu vào phân tích tâm lí nhân vật, diễn biến tâm lí nhân vật chưa được khắc họa sắt nét như các tác phẩm tự sự hiện đại sau này nhưng những nhân vật trong truyền kì, dù là nhân vật trần tục hay nhân vật siêu nhiên, vẫn hiện lên chân thật, sinh động, phản ánh được tư tưởng chủ đề của tác phẩm và quan niệm của tác giả. Ta hãy xem xét vài ví dụ trong một số truyện từ Thánh Tông di thảo , Truyền kì mạn lục đến Truyền kì tân phả, Lan Trì kiến văn lục. Trong Chuyện lạ nhà thuyền chài, bằng một vài chi tiết, tác giả đã vẽ nên trước mắt chúng ta một nàng hải tiên hiền thảo, hết lòng vì chồng và gia đình chồng, dẫu phải hi sinh cả mạng sống của mình cũng không hề từ nan. Lời nàng dặn dò hai kình ngư khi nhờ họ đưa cha mẹ chồng về nhà thể hiện sự quan tâm lo lắng chân thành của một nàng dâu đối với cha mẹ chồng, hành động quên thân mình bảo vệ cả gia đình chồng khỏi trận hồng thủy là minh chứng rõ nhất cho tấm lòng hiếu thuận của người con dâu, tấm lòng vị tha trong sáng. Lời hát cuối truyện khi từ tạ chất chứa bao tình cảm xót xa và nhớ nhung vì xa cách. Mỗi chi tiết đều được xây dựng khéo léo thể hiện sinh động phẩm chất của Ngọa Vân. Đặc biệt, không thể không kể đến nghệ thuật xây dựng nhân vật trong Truyền kì mạn lục, có thể xem là một thành công mẫu mực trong việc khắc họa nhân vật của loại hình tự sự trung đại. Bằng những tình tiết chọn lọc, từ những nhân vật trong truyện dân gian, Nguyễn Dữ xây dựng nên những nhân vật mang diện mạo tính cách riêng, có cuộc sống riêng và có những nhân vật được khắc họa rất ấn tượng, trở thành nhân vật điển hình của văn học trung đại. Câu chuyện đối đáp của người tiều phu núi Na ít tình tiết, không nhiều sự kiện nhưng tính cách nhân vật tiều phu vẫn được khắc họa sắc sảo chỉ qua một vài chi tiết: qua 126 lời hát trong hai bài ca Thích ngủ và Thích cờ, qua những lời tranh luận hùng hồn với Trương Công. Nàng Nhị Khanh trong Chuyện người nghĩa phụ Khoái Châu được xây dựng như hình mẫu của một nghĩa phụ theo quan niệm xã hội xưa bằng nhiều chi tiết chọn lọc tinh tế. Khi Trọng Quỳ phải theo cha đi trấn thủ nơi xa, thấy chàng có ý bịn rịn, quyến luyến, nàng lấy đạo cha con, nghĩa vợ chồng để khuyên nhủ; chồng ra đi nhiều năm trời không tin tức, nhiều kẻ mang vàng bạc đến cầu thân, cô nàng khuyên nàng “bạn lành kén lựa, duyên mới vương xe”, nàng sợ hãi quên ăn mất ngủ. Vì lòng chung thủy với chồng, nàng chủ động nhờ người bõ già lặn lội đường xa dò hỏi tin chồng, nhờ vậy gia đình đoàn tụ. Nhưng chồng nàng vì thua bạc mà bán nàng cho Đỗ Tam. Nhị Khanh có thể chờ chồng trong cảnh bơ vơ trơ trọi, giữa những lời “giăng gió cợt trêu” nhưng không thể chị đượng được sự phụ bạc của chồng vì vậy mà chọn cho mình cái chết như một lẽ tất yếu. Thế nhưng, dẫu chết rồi tình yêu thương chồng con vẫn vẹn nguyên, vậy nên khi chồng có ý hối hận, nàng lại trở về tha thứ cho chồng, hướng chí cho con. Quả thật, Nhị Khanh đã được tác giả xây dựng như một điển hình của tính cách trung hậu, tiết nghĩa, đảm đang bằng những chi tiết, sự việc đã kể. Nàng Vũ Thị Thiết trong Chuyện người con gái Nam Xương cũng là một tính cách và số phận điển hình cho người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Vũ Thị Thiết vốn con nhà kẻ khó, được Trương Sinh mến vì dung hạnh cưới về. Dù Trương Sinh có tính đa nghi nhưng Vũ Nương khéo léo cư xử nên vợ chồng chưa từng thất hòa. Không bao lâu sau ngày cưới, Trương Sinh phải đầu quân đi lính. Bằng lời lẽ của Vũ Nương lúc tiễn chồng, Nguyễn Dữ đã chứng minh nhân cách của nàng như đã giới thiệu từ trước: tính đã thùy mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp. Trong lời tiễn, nàng thể hiện lòng quan tâm lo lắng chân thành cho sự an nguy của chồng, “không mong ngày về được đeo ấn phong hầu, chỉ xin hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Mẹ chồng bệnh, Vũ Nương hết lời khôn khéo khuyên lơn, lễ bái thần phật; mẹ chồng mất nàng lại lo liệu ma chay chu đáo Tất cả những chi tiết ấy đều không hề thừa thãi khi xây dựng tính cách nhân vật. Nguyễn Dữ để cho người mẹ chồng trăng trối lại: “Xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã không phụ mẹ” càng nhấn mạnh phẩm chất tốt đẹp của nàng. Lời 127 phân trần của Vũ Nương khi bị chồng nghi oan vừa khẳng định tiết hạnh của nàng đồng thời cũng nhấn mạnh số phận bi kịch của người phụ nữ thủy chung đoan chính trong xã hội nam quyền. Ngô Tử Văn trong Chuyện chức phán sự đền tản Viên được xây dựng với tính cách một con người vị nghĩa vong thân, cứng cỏi, thẳng ngay, sẵn sàng vì dân trừ hại. Và chỉ cần một đoạn văn ngắn ở đầu truyện, tác giả đã vừa gợi ra được tình huống truyện, vừa miêu tả được tính cách nhân vật: “Cuối đời nhà Hồ, quân Ngô sang lấn cướp, vùng ấy thành một nơi chiến trường. Bộ tướng của Mộc Thạnh có viên Bách hộ họ Thôi tử trận ở gần đền, từ đấy làm yêu quái trong dân gian. Tử Văn rất tức giận, một hôm tắm gội chay sạch, khấn trời rồi châm lửa đốt đền. Mọi người đều lắc đầu lè lưỡi lo sợ thay cho Tử Văn nhưng chàng vẫn vung tay không cần gì cả” [11, tr.115]. Sự việc châm lửa đốt đền không chút e sợ và thái độ “ngất ngưởng tự nhiên” khi hồn ma Bách hộ đến đe dọa, thái độ “không chịu chùn nhụt chút nào” khi đối chất trước Diêm Vương đã khẳng định bản tính cương trực, dám làm việc “hơn cả thần và người” của Tử Văn. Nhiều nhân vật siêu nhiên trong truyện truyền kì của Nguyễn Dữ rất gần gũi với chúng ta vì tình cảm, số phận của họ không khác nào con người trần thế. Có thể lấy nhân vật Nhị Khanh, một hồn ma, trong Chuyện cây gạo, Thị Nghi, cũng là một hồn ma, trong Chuyện yêu quái ở Xương Giang làm ví dụ. Là những hồn ma nhưng hai nhân vật này xuất hiện trong tác phẩm với vai trò là nhân vật chính thể hiện chủ đề về số phận người phụ nữ trong xã hội xưa chứ không phải như những nhân vật chức năng thường xuất hiện để nhân vật chính bộc lộ phẩm chất, tính cách của mình như trong truyện dân gian. Nhị Khanh và Thị Nghi đều là những cô gái chết trẻ và khi còn sống cũng chịu đựng nỗi đau khổ. Nhị Khanh chết khi tuổi chỉ mới đôi mươi, còn Thị Nghi từ nhỏ đã bị bán vào nhà phú thương họ Phạm, lớn lên lại bị vợ của Phạm ghen tuông đánh chết. Cả hai nàng dù chết mà vẫn khát khao tình yêu, khát khao hạnh phúc tuổi trẻ - những niềm khát khao rất đời thường mà người trần tục nào cũng có. Vì mang nặng khát khao đó, họ nhập vào cuộc sống dương gian để tìm bạn. Nguyễn Dữ, bằng một vài chi tiết đã khắc họa rõ nét chân dung hai người phụ nữ mạnh mẽ, táo bạo, với khát vọng sống mãnh liệt. Nhị Khanh ngay từ buổi đầu 128 gặp Trình Trung Ngộ đã bộc lộ không chút e dè quan niệm sống, khát vọng hưởng thụ tuổi trẻ của mình: “Nghĩ đời người ta, thật chẳng khác gì giấc chiêm bao. Chi bằng trời để sống ngày nào, nên tìm lấy những thú vui. Kẻo một sớm chết đi, sẽ thành người dưới suối vàng, dù có muốn tìm cuộc hoan lạc ái ân, cũng không thể được nữa.” Tính cách táo bạo, bướng bỉnh, phá cách của Nhị Khanh càng được thể hiện rõ qua chi tiết sau khi Trung Ngộ biết nàng là hồn ma, nàng “vẫn thường qua lại, có lúc đứng trên bãi sông gọi eo éo, có lúc đến bên cửa sổ nói thì thào”, trên hết là hình ảnh nàng cùng hồn ma Trung Ngộ tìm đến nương hồn trên cây gạo và thường xuất hiện với thân thể lõa lồ. Hình ảnh đó như tung hê tất cả trật tự, lề thói của xã hội phong kiến lúc bấy giờ. Nàng Thị Nghi trong Chuyện yêu quái ở Xương Giang cũng cùng một tính cách mạnh mẽ, dữ dội như thế. Dường như để trả thù trước cái chết oan uổng của mình, hồn Thị Nghi hưng yêu tác quái, biến huyễn đủ vẻ, ngay cả khi bị đào mả vứt hài cốt rồi, hồn nàng vẫn tìm về cõi trần, kết duyên vợ chồng với viên quan họ Hoàng. Khi hạnh phúc đời thường nàng đang có có nguy cơ lung lay trước người thuật sĩ, nàng cố công bảo vệ bằng việc lấy gậy đập vỡ chai thuốc, mắng người ấy “Anh chàng huyễn thuật này ở đâu đến đây ly gián vợ chồng ta, chia rẽ nhà cửa ta”. Quả thật, dẫu là những hồn ma nhưng Thị Nghi, Nhị Khanh không hề xa lạ với chúng ta khi họ cũng có cùng những khát vọng đời thường như bao con người trần thế. Số phận của họ cũng là số phận của những con người “liễu yếu đào tơ”, thấp cổ bé họng trong một xã hội mà họ không có tiếng nói riêng, không được quyền hưởng hạnh phúc. Cả Nhị Khanh lẫn Thị Nghi đều phải nhận lấy kết cục đau đớn: Nhị Khanh thì bị sáu bảy trăm lính đầu trâu mặt ngựa gông trói đi, Thị Nghi bị thiên binh thần tướng bắt xuống âm cung. Bằng tài năng xây dựng nhân vật của Nguyễn Dữ, Truyền kì mạn lục đã để lại trong lòng người đọc những dấu ấn khó quên về các kiểu nhân vật khác nhau, những con người với tính cách, số phận rất gần gũi. Đoàn Thị Điểm cũng khiến người đọc không thể quên được nàng Giáng Tiên mà bà đã dụng công xây dựng trong Vân Cát thần nữ. Từ nhân vật trong truyền thuyết dân gian là bà chúa Liễu Hạnh, qua ngòi bút khắc họa nhân vật khéo léo của Hồng Hà nữ sĩ, nàng Giáng Tiên hiện lên sinh động và chân thật với tài 129 phép huyền ảo, kì lạ mà cũng rất đời thường với khát vọng được thỏa nguyện ước ba sinh cùng người mình yêu thương, khát vọng được sống tự do, không ràng buộc Khi xây dựng nhân vật, các tác giả truyền kì đã chú ý thể hiện tính cách nhân vật qua những đoạn đối thoại hoặc đôi khi là lời độc thoại. Lời người con gái trong truyện Chồng dê (Thánh Tông di thảo ) khi nói với chàng trai do dê hóa thành thì đoan chính, lời nàng Vũ Nương (Chuyện người con gái Nam Xương) khi phân trần cùng chồng rõ ràng là lời của một phụ nữ coi trọng phẩm tiết, hết lòng thủy chung, lời của Nhị Khanh (Chuyện cây gạo) thì táo bạo, phóng túng, lời cung phi Bích Châu (Hải khẩu linh từ) thì sắc sảo, thể hiện mình là con người có học thức Bên cạnh đó, truyền kì đã bắt đầu chú ý đến việc miêu tả nội tâm nhân vật, rõ nhất là trong Truyền kì mạn lục, Truyền kì tân phả. Nội tâm nhân vật có khi được thể hiện qua lời miêu tả trực tiếp của tác giả, có khi được thể hiện qua những bài thơ, bài ca do nhân vật ngâm đọc. Nỗi niềm thương nhớ gia hương của Từ Thức (Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên) khi đang sống ở cõi tiên đã được Nguyễn Dữ khắc họa bằng những câu văn nhiều hình ảnh và gợi cảm: “Từ khi bỏ nhà đi, thấm thoát đã được một năm, ao sen đã thay màu biếc. Những đêm sương sa gió thổi, bóng trăng sáng dòm qua cửa sổ, tiếng thủy triều nghe vẳng đầu giường, đối cảnh chạnh lòng, một nỗi buồn bâng khuâng, quấy nhiễu không sao ngủ được”[11,tr.139] Nỗi nhớ nhung của người vợ xa chồng ở Đinh phu nhân trong An Ấp liệt nữ (Truyền kì tân phả) khiến người đọc cảm động qua đoạn văn miêu tả tâm trạng của Đoàn Thị Điểm: “Mỗi khi gặp cảnh xuân quang, thời tiết thay đổi, mưa trôi hoa lạnh, khói ngậm quất hồng, đó là những lúc phu nhân đau từng khúc ruột vậy. Có khi nghe ve kêu buổi tối, chim hót buổi sáng đó là lúc phu nhân buồn não nuột vậy. Mưa Sở mây Tần, cảnh từng ngao ngán, trông mặt trăng thêm than thở, hứng gió mát luống ngại ngùng. Mối u sầu phát ra thơ văn, kể có đến hơn ba mươi bài” [25,tr.347]. Dẫu rằng tác giả chưa thoát khỏi việc dùng những hình ảnh ước lệ quen thuộc của thơ văn trung đại khi miêu tả nỗi buồn nhớ nhưng đoạn văn trên vẫn giúp người đọc hình dung được tâm sự của nhân vật và cảm thông với nỗi niềm tâm sự đó. 130 Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện truyền kì thật sự đã đạt đến một trình độ cao hơn so với những thể loại thuộc loại hình truyện kí trước đó. Các truyện kí trước đó vì nặng về ghi chép nên thường ít chú ý đến tính cách và cuộc sống riêng của nhân vật. Truyện truyền kì đã khắc phục được điều này và bước đầu đã quan tâm đến việc miêu tả nội tâm nhân vật. Đây là một giá trị cần ghi nhận khi nghiên cứu về vị trí của thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam. 3.3. Dấu vết của truyền kì trong văn học hiện đại Thời đại của thể loại truyền kì đã chấm dứt ở cuối thế kỉ XIX với những tác phẩm Tân truyền kì lục, Lan Trì kiến văn lục, nhưng điều đó không có nghĩa những đặc điểm của thể loại này hoàn toàn bị triệt tiêu trong văn học hiện đại. Dư ba của kiểu truyện truyền kì vẫn còn vang động trong nhiều sáng tác truyện ngắn và tiểu thuyết giai đoạn 1930 – 1945 mà Nguyễn Huệ Chi gọi là truyện “phỏng truyền kì” và dấu ấn của thể loại này cũng được thể hiện rất đậm nét trong những truyện ngắn sau 1975 với sự tham gia của các yếu tố kì ảo. 3.3.1. Dấu vết của truyền kì trong văn học 1930 – 1945 Từ đầu những năm 30 của thế kỉ XX đến khoảng năm 1945, bên cạnh sự phát triển của truyện ngắn hiện thực phê phán, truyện ngắn lãng mạn, truyện ngắn hiện thực cách mạng, văn học Việt Nam còn ghi nhận sự xuất hiện của các truyện ngắn mang nhiều yếu tố kì ảo, ghê rợn với sự góp mặt của các nhân vật ma, quỷ, thần như những sáng tác của Nhất Linh, Thế Lữ, Tchya (Đới Đức Tuấn), Nguyễn Tuân, Thanh Tịnh Giới nghiên cứu phê bình gọi loại truyện này bằng những cái tên “truyện kì ảo”, “truyện kinh dị”, “truyện đường rừng” Ở đây, chúng tôi sử dụng cách gọi của Nguyễn Huệ Chi trong tuyển tập Truyện truyền kì Việt Nam là “phỏng truyền kì”. Quả thật, khảo sát một số truyện ngắn loại này như Lan rừng (Nhất Linh), Tiếng hú ban đêm, Trại Bồ Tùng Linh (Thế Lữ), Thần hổ, Ai hát giữa rừng khuya (Tchya), Xác ngọc lam, Lửa nến trong tranh (Nguyễn Tuân), Chiều sương, Một trận bão cuối năm (Bùi Hiển), Ngậm ngải tìm trầm (Thanh Tịnh) chúng ta sẽ thấy một vài đặc điểm của thể loại truyền kì thời trung đại ghi dấu trong những tác phẩm này. Hẳn nhiên, không vì vậy mà ta gọi đây là những tác phẩm thuộc thể 131 truyền kì, vì dẫu mang trong mình một số đặc điểm của thể loại này, những sáng tác này về mục đích sáng tác, nội dung, nghệ thuật, có nhiều điểm khác biệt so với những sáng tác truyền kì mà ta khảo sát ở trên. Nếu như những sáng tác truyền kì trung đại sử dụng những yếu tố kì ảo, kì lạ để chủ yếu, thông qua đó phơi bày hiện thực xã hội phong kiến cùng những số phận cụ thể của những con người trong xã hội đó, đồng thời gửi gắm một bài học đạo đức hay lí tưởng sống thì với những tác phẩm phỏng truyền kì của văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945, những yếu tố kì ảo, huyễn hoặc, ma quái lại được sử dụng với nhiều mục đích, chức năng khác nhau. Có khi, yếu tố kì ảo, huyễn hoặc trong các truyện này được dùng để tạo không khí rùng rợn, li kì cho câu chuyện; có khi để thể hiện những trăn trở của con người trước cuộc sống; có khi lại được dùng để thể hiện những quan niệm của người viết về con người, cuộc đời; có lúc yếu tố kì ảo lại là phương tiện để các tác giả đi vào thế giới tâm linh của con người, hay để gửi gắm những khát khao về tình yêu đôi lứa và cũng có trường hợp, các sáng tác 1930 – 1945 kể lại những câu chuyện mang màu sắc huyền ảo nhưng những hiện tượng huyền ảo, kì bí lại được giải thích một cách khoa học. Các truyện truyền kì trung đại khai thác đề tài từ văn học dân gian với những câu chuyện có thể rất quen thuộc trong kho tàng cổ tích, truyền thuyết, ngụ ngôn. Các truyện phỏng truyền kì của văn học hiện đại Việt Nam 1930 – 1945 cũng mang sắc màu dân gian nhưng đậm nét về tín ngưỡng dân gian hơn là về văn học dân gian. Khẳng định điều này bởi lẽ chúng tôi nhận thấy rằng nhiều truyện truyền kì trung đại khai thác từ các truyện dân gian có sẵn thì ở truyện phỏng truyền kì giai đoạn này lại chủ yếu khai thác yếu tố kì ảo dựa trên niềm tin của nhân dân ta từ xưa đến nay (tin rằng có ma quỷ, thần thánh) mà sáng tạo ra những câu chuyện mang màu sắc huyền ảo, hoang đường. Ta rất dễ tìm thấy trong truyện phỏng truyền kì giai đoạn này đủ các loại ma: ma xó, ma trành, ma giữ của, ma cụt đầu, ma thuyền chài, ma khách Điều đó phản ánh tín ngưỡng tâm linh của dân gian: tin rằng có sự tồn tại của thế giới cõi âm, thế giới sau khi con người mất đi. Thế giới ma ấy tạo nên một không khí rùng rợn, ảo huyền bao trùm nhiều tác phẩm tác phẩm giai đoạn 1930 – 1945. Nhưng đó không phải là chức 132 năng chủ yếu duy nhất của các yếu tố kì ảo trong truyện phỏng truyền kì. Sử dụng các yêu tố kì ảo trong sáng tác của mình, các nhà văn viết truyện ngắn kì ảo thời hiện đại còn thể hiện nỗi niềm trăn trở, suy tư về về cuộc đời, về con người. Mượn câu chuyện về người hóa hổ (Ngậm ngải tìm trầm) Thanh Tịnh gợi lên trong người đọc những suy nghĩ về hai chữ “con người”. Con người khác với con vật ở chỗ dù có biến đổi về nhân hình, nhân tính trong họ vẫn không hề mất đi hoàn toàn. Thế nên, dù đã hóa hổ, bác Diệm trai vẫn cố gắng trở về nhà thăm con, thăm vợ bởi tình yêu thương vẫn nặng trong lòng. Hình ảnh “Trong bầu sáng nhạt, nhuộm sương khuya, bác Diệm thấy một bóng người – không, một con vật thì đúng hơn – chụm mạnh bốn chân xuống đất, ngẩng đầu lên cao, đang đăm đăm nhìn về phía bác Bác ôm mặt khóc rất thê thảm. Con hổ cũng rú lên một hơi dài như để đáp lại tiếng lòng của vợ. Tiếng hú nghe lạnh và buồn”[9,tr.530] khiến ta thương cảm cho đôi vợ chồng từ nay phải chia cắt vĩnh viễn và đọng lại trong ta nhiều nghĩ suy về tình người trong cuộc đời. Tiếng hú ban đêm (Thế Lữ), Thần hổ (Tchya) lại mang đến cho ta những trăn trở về sự hận thù. Sức mạnh của sự thù hận thật ghê gớm, nó cho con người những khả năng phi thường nhưng cũng có thể khiến con người suốt đời đau khổ và liệu hận thù có phải chỉ được hóa giải bằng việc trả thù? Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn hiện đại giai đoạn này có lúc được sử dụng để giúp người đọc thâm nhập, tìm hiểu thế giới tâm linh của con người. Bóng người trên sương mù (Nhất Linh) là câu chuyện vừa hư vừa thực, không khiến ta cảm thấy ghê sợ mà xúc động thấm thía với niềm tin giữa những người thân yêu có cái gọi là “thần giao cách cảm”, khả năng đó có thể cứu rỗi con người. Câu chuyện vì vậy còn là sự khẳng định về sức mạnh của tình cảm vợ chồng. Những truyện ngắn Chiều sương, Một trận bão cuối năm như thừa nhận có một thế giới của những hồn oan, những người đã chết. Những con người ấy dẫu chết rồi vẫn có khi gặp gỡ, chuyện trò với người sống như tìm chút hơi ấm. Một số tác phẩm, đặc biệt là những sáng tác của Nguyễn Tuân, lại dùng yếu tố kì ảo để khẳng định, ca ngợi cái đẹp, ca ngợi giá trị vật chất và giá trị tinh thần do con người tạo ra. Cái đẹp ấy ở trong những bức tranh cổ (Lửa nến trong tranh), cái đẹp ấy trong những trang giấy dó nhà họ Chu (Xác ngọc lam), 133 cái đẹp ấy cũng có thể hiện thân trong những hồn ma phụ nữ như Hoàng Lan Hương (Trại Bồ Tùng Linh), nàng Peng Slao (Thần hổ), nàng Sao (Lan rừng) (Giống như truyện truyền kì thời trung đại, các nhân vật nữ trong các sáng tác kì ảo giai đoạn này đều rất đẹp). Đi liền với cái đẹp là tình yêu. Nhiều truyện phỏng truyền kì thể hiện niềm khát khao hạnh phúc tình yêu, hạnh phúc trần thế của con người. Về điểm này truyện phỏng truyền kì giai đoạn 30 – 45 khá tương đồng với truyện truyền kì trung đại. Người đọc có thể tìm thấy mối tình đắm đuối như mối tình của Tuấn và cô gái kì bí, không rõ người hay ma Hoàng Lan Hương (Trại Bồ Tùng Linh), một tình yêu nồng nàn, mãnh liệt như tình yêu giữa Đèo Lầm Khẳng và nàng ma trành Peng Slao (Thần hổ), hay một tình yêu tha thiết, trong trẻo như tình yêu của Quang và Sao - tinh hoa lan (Lan rừng) Một điều khác biệt khá rõ giữa truyện truyền kì trung đại và truyện phỏng truyền kì giai đoạn này đó là các tác giả văn học trung đại không hề dùng yếu tố kì ảo để lí giải một cách khoa học về các hiện tượng kì bí trong đời sống, trong khi đó ở truyện ngắn 1930 – 1945 điều này lại có. Ví như truyện Vàng và máu (Thế Lữ) hay truyện Lửa nến trong tranh (Nguyễn Tuân) chẳng hạn. Truyện của Thế Lữ đưa người đọc từ chỗ ghê sợ trước lời nguyền của thần linh đến chỗ thấy được sức mạnh của lí trí con người khi để cho quan Châu khám phá ra bí mật: những người vào hang tìm vàng không chết vì sự trừng phạt của thần linh mà chết vì những hòn đá cuội có trát thuốc độc. Nguyễn Tuân lí giải hiện tượng kì bí: bức tranh sáng bừng lên và ông tướng Hàn Kì hiện lên trên bức tranh như thật, như thể “là người của cuộc đời này và đang là một vị khách ngoài thời gian của ấp chủ đây” bằng những hiểu biết rất khoa học thông qua lời của công sứ Lê Bích Xa. Đó là nhờ bức tranh được tạo từ chất liệu đặc biệt: “lấy chất lân trộn vào thuốc để điểm ngọn lửa tranh, lấy thạch nhung để làm nến tranh” Bằng cách đó lí giải các hiện tượng kì bí một cách khoa học, các tác giả đã thể hiện niềm tin tưởng vào khoa học và con người. Dấu ấn rõ nhất của thể loại truyền kì trong các sáng tác mà chúng tôi đang đề cập có lẽ chính là sự góp mặt của các nhân vật ma, thần, những tinh vật trong truyện. Nhân vật kì ảo là ma ta có thể tìm thấy trong các truyện: Thần hổ, Ai hát 134 giữa rừng khuya của Tchya, Trại Bồ Tùng Linh (Thế Lữ), Chiều sương, Một trận bão cuối năm (Bùi Hiển); có nhân vật kì ảo là thần có thể kể đến các truyện Thần hổ, Trên đỉnh non Tản (Nguyễn Tuân); ta gặp nhân vật kì ảo là tinh vật trong những truyện Lan rừng (Nhất Linh), Xác ngọc lam (Nguyễn Tuân) Và môtip thường gặp nhất của thể loại truyền kì trong văn học trung đại được tìm thấy trong những sáng tác này chính là môtip về sự gặp gỡ, yêu đương và ân ái giữa ma và người, giữa người và tinh vật như trong các truyện Lan rừng, Trại Bồ Tùng Linh, Thần hổ, Ai hát giữa rừng khuya Có điều, trong nhiều sáng tác truyền kì thời trung đại, bên cạnh thái độ cảm thông với khát vọng tình yêu của nhân vật trong truyện, tác giả có khi phê phán những tình cảm này là trái với luân thường, là đồi phong bại tục, nhất là ở những chàng nho sinh chỉ đắm đuối trong tình dục. Còn ở truyện phỏng truyền kì mà chúng ta đang nói, có thể nói, chỉ thấy tinh thần ngợi ca tình yêu, đồng cảm với những khát khao yêu thương của con người. Ngoài ra, những môtip khác như sự thụ thai, ra đời kì lạ, chết kì lạ, thưởng – phạt mà ta vẫn hay gặp ở truyện truyền kì lại ít thấy ở truyện phỏng truyền kì. Ta cũng sẽ không thấy kiểu câu văn biền ngẫu hay văn xuôi nhưng xen thơ phú trong những truyện kì ảo của văn học 1930 – 1945. Ngôn ngữ của truyện phỏng truyền kì giai đoạn này vẫn là ngôn ngữ giàu hình ảnh nhưng không phải là những hình ảnh ước lệ quen thuộc trong truyện kì. Không gian của truyện phỏng truyền kì có thể là không gian siêu nhiên như không gian núi tiên, nơi ở của thần Tản Viên (Trên đỉnh non Tản), không gian tiên cảnh trong Trên Bồng Lai nhưng vẫn có điểm khác biệt so với truyện truyền kì trung đại. Nếu không gian siêu nhiên trong truyện trung đại là không gian tưởng tượng như tiên cảnh, thủy phủ, âm ti thì không gian trong truyện phỏng truyền kì không hoàn toàn là không gian tưởng tượng mà vừa hư, vừa thực, mang sắc màu rùng rợn hoặc kì bí hoặc huyễn hoặc phù hợp với diễn biến nội dung truyện và cũng phù hợp với thời gian truyện: ban đêm. Không gian ấy tràn ngập trong các truyện như Bóng người trên sương mù, Lan rừng, Trại Bồ Tùng Linh, Một đêm trăng, Thần hổ, Ai hát giữa rừng khuya như một yếu tố nghệ thuật tạo nên sự hấp dẫn cho truyện. Chính những điểm này đã đưa chúng tôi đến kết luận: dấu ấn thể loại truyền kì vẫn còn ghi 135 dấu trong các sáng tác văn xuôi 1930 – 1945 nhưng không thể xem những truyện này là truyện truyền kì như các sáng tác Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Truyền kì tân phảcủa thời trung đại vì có rất nhiều điểm khác biệt. Những truyện kì ảo của văn học Việt Nam 1930 – 1945 kế thừa những đặc điểm của truyện truyền kì trung đại nhưng đồng thời cũng chịu ảnh hưởng của kiểu truyện kinh dị phương Tây như một số truyện Vàng và máu, Một truyện ghê gớm 3.3.2. Dấu vết của truyền kì trong văn học Việt nam hiện đại sau 1975 Từ sau 1975, đặc biệt là từ sau 1986 trở đi, văn học Việt Nam chứng kiến sự ra đời của nhiều tác phẩm mang nhiều yếu tố kì ảo và sắc màu huyền thoại, tạo thành một xu hướng quan trọng của văn học đương đại: xu hướng văn học kì ảo. Những yếu tố kì ảo gợi chúng ta nhớ đến thể loại truyền kì trung đại xuất hiện đậm đặc trong nhiều sáng tác truyện ngắn và tiểu thuyết của các cây bút đương thời như Nguyễn Huy Thiệp, Võ Thị Hảo, Hồ Anh Thái, Hòa Vang, Lê Minh Hà Những yếu tố kì ảo trong văn học giai đoạn này khá phong phú và mang những điểm khác so với truyện phỏng truyền kì văn học giai đoạn 1930 – 1945 và cũng khác truyện truyền kì trung đại. Yếu tố kì ảo trong văn học Việt Nam sau 1975 xuất hiện trong nhiều truyện ngắn “viết lại” từ truyền thuyết, cổ tích dân gian như Gióng (Lê Minh Hà), Sự tích những ngày đẹp trời (Hòa Vang), Trương Chi (Nguyễn Huy Thiệp), trong những truyện ngắn “giả cổ tích” của Nguyễn Huy Thiệp với Những ngọn gió Hua tát, và trong nhiều truyện viết về cuộc sống, con người hiện đại yếu tố kì ảo cũng góp mặt khi thì thoáng qua, khi thì đậm đặc như Hậu thiên đường (Nguyễn Thị Thu Huệ), Dây neo trần gian (Võ Thị Hảo), Gió lẻ (Nguyễn Ngọc Tư), Bướm trắng (Thái Bá Tân), Hạc vừa bay vừa kêu thảng thốt (Nguyễn Huy Thiệp), Cõi người rung chuông tận thế (Hồ Anh Thái) Nếu trong truyền kì trung đại, yếu tố kì ảo là phương thức phản ánh hiện thực và chuyển tải quan niệm “văn dĩ tải đạo”, và trong những tác phẩm phỏng truyền kì nhằm tạo không khí rùng rợn, kì bí hay để đi vào thế giới tâm linh, hoặc thể hiện những quan niệm của người viết về cuộc đời, con người thì những yếu tố kì ảo, 136 mang sắc màu huyền thoại trong văn học hiện đại lại được dùng với những chức năng khác. Khi “viết lại” những huyền thoại xưa trong văn hóa dân gian của dân tộc, các tác giả hiện đại đã “nhận thức lại” con người và cuộc sống trong truyện cổ, gắn những nhân vật trong truyền thuyết, cổ tích với cuộc đời thường, với những suy tư, tình cảm rất “người”. Vì vậy, dẫu mượn yếu tố kì ảo, hoang đường của truyện cổ, của huyền thoại, những truyện Gióng, Sự tích những ngày đẹp trời, Trương Chi vẫn là những câu chuyện của hiện tại, mang hơi thở của cuộc sống đương thời. Những nhân vật từ truyền thuyết, cổ tích trở về với chúng ta, qua ngòi bút của các tác giả văn học hiện đại rất gần gũi. Một mặt, ở họ vẫn có những cái cao cả đáng ngưỡng mộ, mặt khác họ vẫn mang những tính cách, suy nghĩ như con người bình thường. Bằng những chi tiết hoang đường kì ảo ta vẫn gặp trong truyền kì, các tác giả mang đến cho người đọc những câu chuyện sinh động, hấp dẫn đồng thời cũng khiến người đọc “phản tỉnh”, “nghĩ lại” về những con người trong huyền thoại, cổ tích xa xưa. Trong truyện dân gian, Gióng là nhân vật chính được khắc họa bằng những chi tiết miêu tả về ngoại hình, hành động thì trong truyện của Lê Minh Hà, hình ảnh Gióng được xây dựng chủ yếu bằng những nghĩ suy, bằng những dòng tâm trạng nối nhau của người mẹ sinh ra Gióng. Truyền thuyết dân gian kết thúc với chi tiết Gióng bay về trời sau khi đánh tan giặc Ân để trở thành bất tử, Lê Minh Hà mang Gióng trở về với cuộc đời trần thế cùng bao tâm trạng ngỡ ngàng, sững sờ và xót xa của người mẹ khi con trở về trong sự cô đơn, trong những đổi thay của nhân tình thế thái. Sự tích những ngày đẹp trời của Hòa Vang cũng là một cách nhìn lại, một cuộc “đối thoại” lại về truyền thuyết Sơn Tinh Thủy Tinh, thể hiện sự táo bạo của tác giả khi “đi ngược” lại với những gì truyền thuyết đã kể và người Việt Nam từ bao đời nay vẫn nghĩ, cách nghĩ một chiều. Tác giả đã nhìn thấy ở Mị Nương nỗi nhớ quê nhà tha thiết, đã thấu suốt ở Thủy Tinh một tình yêu mãnh liệt, say đắm và thủy chung. Tình yêu ấy Thủy Tinh biến thành những giọt mưa thu để có thể gặp mặt người yêu. Qua ngòi bút của Hòa Vang, Sơn Tinh, Thủy Tinh, Mị Nương là những con người bình thường trong cuộc đời này chứ không phải chỉ là những nhân vật huyền thoại, những thần tiên xa lạ nữa. Viết Trương Chi, Nguyễn 137 Huy Thiệp vẫn giữ nguyên hình ảnh một Trương Chi xấu xí nhưng hát cực hay và có một tâm hồn thật đẹp. Nhưng chàng Trương Chi ấy vẫn là con người bình thường với những hành động, cử chi bình thường. Và Trương Chi còn là một người rất đỗi si tình chứ không phải Mị Nương như trong truyện dân gian. Mị Nương của Nguyễn Huy Thiệp cũng có những lúc “rỗng tuếch và tẻ nhạt”, cũng đầy hoài nghi. Trương Chi của Nguyễn Huy Thiệp cố vượt qua những giới hạn bình thường của cuộc đời dung tục để tình yêu mình hướng vào cái tuyệt đối. Những truyện như Sói trả thù, Nàng Sinh, Chiếc tù và bị bỏ quên, trong chùm truyện Những ngọn gió Hua Tát lung linh sắc màu cổ tích dân tộc Tây Bắc từ ngôn ngữ, giọng điệu kể chuyện đến nội dung truyện. Và bằng những câu chuyện mang sắc màu kì ảo ấy, tác giả hướng người đọc vào những vấn đề luôn day dứt, ám ảnh con người từ bao đời. Sói trả thù là câu chuyện về một gia đình tưởng đã có thể bước qua được lời nguyền của những người đi rừng thế nhưng cuối cùng đứa con trai duy nhất của gia đình nổi tiếng về săn bắt thú rừng ấy lại chết đau đớn dưới họng con sói dữ. Những người đi rừng đã từng khuyên người cha “hãy biết sợ rừng”, nhưng người cha ấy chỉ “cười khẩy” và cho con mình vào rừng săn thú từ lúc mới năm tuổi thay vì mười ba tuổi như tục lệ. Một lần, hai cho con vào rừng săn sói, giết được sói đầu đàn và bắt những con sói con mang về. Đúng ngày người cha cúng ma cho con để bước qua lời nguyền, đứa bé sảy chân té, máu trào ra từ miệng đứa bé đã thức tỉnh tiềm thức mơ hồ của con sói con ngày xưa bị mất mẹ, nó chồm lên táp vào cổ đứa bé. Cái chết của đứa bé thật khủng khiếp. Trong nỗi đau mất con, người cha cầm rìu tiến về phía con sói, tưởng rằng ông sẽ bổ xuống đầu nó những đòn trí mạng, nhưng không, ông chặt đứt dây xích cho nó chạy vào rừng. Câu chuyện khiến người đọc bị ám ảnh, không phải chỉ vì cái chết của thằng bé San mà còn vì những điều kì bí không thể giải thích hết được trong cuộc đời. Sói trả thù cũng là lời nhắc nhở con người phải biết sống hài hòa với tự nhiên, tự nhiên cũng cần được tôn trọng, được sống bình đẳng như con người. Nàng Sinh là một câu chuyện đầy dư vị sâu xa, ngắn nhưng chất chứa tính nhân văn thông qua chi tiết hư cấu kì ảo ở cuối truyện. Hòn đá thiêng tích tụ bao nhiêu nỗi đau khổ và những lời cầu xin của người trong bản Hua Tát. Hòn đá 138 ấy, tuy nhỏ, nhưng không ai nhấc lên nổi. Thế mà, nàng Sinh, người con gái thân phận con hươn, sống thui thủi như con chim cút, bị dân làng lãng quên lại nhấc lên thật dễ dàng. Trên tay nàng Sinh, hòn đá ấy bỗng tan thành nước, những giọt nước trong như nước mắt, chảy qua kẽ tay nàng, đôi bàn tay chai sạn, ngón không ra ngón. Phải chăng Nguyễn Huy Thiệp muốn nói với chúng ta: chỉ những con người thật sự chịu đựng những đau khổ đắng cay trong sự cô đơn, ghẻ lạnh mà không oán thán, những con người có tâm hồn hoàn troàn thánh thiện mới có khả năng hóa giải những khổ đau? Chiếc tù và bị bỏ quên cũng là một lời nhắc nhở con người đừng quên đi nguồn cội, tổ tiên. Sự lãng quên những giá trị thiêng liêng từ quá khứ chính là mối nguy cho cuộc sống hiện tại chứ không phải là loại sâu mọt; hay nói cách khác, sâu mọt, hiểu theo hàm nghĩa, chính là sự lãng quên truyền thống, tổ tiên, quá khứ của con người. Yếu tố kì ảo ở phần cuối truyện Hậu thiên đường của Nguyễn Thị Thu Huệ như nhấn mạnh sự bất lực của người mẹ nhìn con mình đang bước vào địa ngục mà tưởng là đang ở thiên đường. Yếu tố kì ảo ấy còn là một sự thức tỉnh đối với người đọc: đừng để sự quan tâm của mình dành cho những người thân yêu trở thành quá muộn. Câu chuyện, dù mang sắc màu kì ảo ở cuối truyện, lại đề cập đến những vấn đề của hiện thực nóng hổi: những gia đình không trọn vẹn, con cái sẽ thế nào, ở tuổi mười sáu, tuổi mới lớn, người con gái cần gì ở người mẹ, và những sai lầm thế hệ trước đã trải qua, liện thế hệ sau có tránh được, nhất là khi giữa họ là khoảng cách về tình cảm; thiếu sự thấu hiểu, quan tâm?... Dây neo trần gian của Võ Thị Hảo lại mượn yếu tố kì ảo để khẳng định một chân lí: tình yêu thương chân thành có sức mạnh kì diệu. Cái đã “neo” được người đàn ông trong truyện phải đâu là 999 bím tóc quấn quanh tấm ảnh mà chính là khát khao mãnh liệt của nhân vật “tôi” trong truyện, khát khao người yêu mình sống lạc quan, vượt qua bệnh tật và khát khao gieo vào lòng anh niềm tin đó. Điểm qua một vài truyện có yếu tố kì ảo trong văn học hiện đại sau 1975, có thể thấy những yếu tố kì ảo được vận dụng để chuyển tải nhiều nội dung phong phú chứ không chỉ đơn thuần phản ánh hiện thực và thể hiện quan niệm đạo đức như trong truyền kì trung đại. Một số tác phẩm tự sự còn khai thác yếu tố kì ảo để đề cập đến 139 những vấn đề được cho là “nhạy cảm”, là khó nói như mặt trái của chiến tranh, chuyện tính dụcnhư các tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh, Mảnh đất lắm người nhiều ma Thế giới nhân vật trong truyện hiện đại mang dấu vết của truyền kì cũng đa dạng phong phú như thế giới nhân vật trong truyện truyền kì trung đại. Ở những tác phẩm tự sự hiện đại có yếu tố kì ảo ngoài nhân vật là những con người bình thường trong trần thế, còn có nhân vật là thần (Gióng, Sự tích những ngày đẹp trời), là ma (Bướm trắng, Gió lẻ), là con người lạ thường với diện mạo kì quái (Trương Chi), lại có cả nhân vật có thể biến hình như người họa sĩ trong Hạc vừa bay vừa kêu thảng thốt biến thành cánh hạc khi biết người con gái mình hẹn không còn nữa Nếu truyện truyền kì trung đại mượn chuyện ma quỷ, thần linh để nói chuyện người, chuyện đời trong xã hội phong kiến thì ở các truyện mang âm vang truyền kì cũng mượn các nhân vật kì ảo ấy để phản ánh hiện thực, nhưng mặt khác, những nhân vật này còn thể hiện nhu cầu nhận thức mới, một quan niệm nghệ thuật mới về con người trong xã hội đương đại, hướng con người đến với cái đẹp nhân bản. Nếu phần nhiều các truyện kì ảo trung đại có kết thúc có hậu, kết cấu chặt chẽ và khá nhất quán thì các truyện mang yếu tố kì ảo của văn học hiện đại sau 1975 lại thường có kết cấu mở. Kiểu kết cấu này tạo ra tính đa nghĩa, để lại nhiều suy tư cho người đọc, trao cho người đọc quyền khám phá, quyết định. Nếu truyện truyền kì trung đại chịu ảnh hưởng của văn học cổ Trung Quốc, truyện phỏng truyền kì giai đoạn 1930 – 1945 chịu ảnh hưởng của truyện kinh dị phương Tây thì các truyện có yếu tố kì ảo trong văn học Việt Nam sau 1975 lại tiếp nhận ảnh hưởng của loại truyện kì ảo phương Tây thế kỉ XX. Sự hồi sinh của những yếu tố hoang đường, kì ảo trong các truyện hiện đại sau 1975 cũng như trong các truyện phỏng truyền kì giai đoạn 1930 – 1945 đã cho thấy dư ba của thể loại truyền kì trung đại lên văn học hiện đại Việt Nam. Điều này cũng chứng tỏ, dù thể loại truyền kì của loại hình tự sự trung đại không còn nữa trong văn học hiện đại, nhưng sức sống của thể loại này là rất lớn, sức ảnh hưởng và cuốn hút cũng không hề nhỏ, dẫu thời gian có qua đi. Qua đó, phần nào ta thấy được vị trí quan trọng của thể loại truyền kì trong suốt chiều dài lịch sử phát triển của văn học 140 Việt Nam. Theo ý kiến của người viết, dù đã có một số bài viết và công trình nghiên cứu về yếu tố kì ảo trong văn học hiện đại Việt Nam nhưng xem xét sự ảnh hưởng của thể loại truyền kì lên văn học hiện đại cũng vẫn là một vấn đề đáng quan tâm và còn có thể khai thác thêm nhiều phương diện. 141 KẾT LUẬN Truyền kì là một thể loại quan trọng của văn học trung đại, có sự đóng góp đáng kể trong quá trình phát triển của văn học trung đại Việt Nam cả về nội dung lẫn nghệ thuật. Thể loại này một mặt tiếp nối những truyền thống văn học dân gian, đóng vai trò là cầu nối giữa văn học dân gian và văn học viết, một mặt đánh dấu sự phát triển của văn xuôi tự sự trung đại, đưa văn học viết từ chỗ đơn thuần ghi chép sự việc hay sưu tầm tác phẩm dân gian đến chỗ sáng tác nghệ thuật thật sự. Mặt khác, thể loại này cũng ảnh hưởng lâu dài đến cả văn học hiện đại trong tiến trình phát triển của văn học dân tộc. Với vai trò là cầu nối giữa văn học dân gian và văn học viết, truyền kì khai thác đề tài từ các truyện cổ tích, truyền thuyết, ngụ ngôn của dân gian, đồng thời chịu ảnh hưởng của truyện dân gian trong nghệ thuật xây dựng cốt truyện, kết cấu, nghệ thuật khắc họa nhân vật, bên cạnh đó truyền kì cũng sử dụng nhiều môtip quen thuộc của truyện dân gian. - Những tác phẩm truyền kì, đặc biệt là những tác phẩm thuộc giai đoạn phát triển rực rỡ nhất của thể loại này (thế kỉ XV, XVI) thật sự là những sáng tác nghệ thuật độc đáo với rất nhiều sự dụng công của các tác giả, thể hiện được cá tính của người viết. Các truyện truyền kì phản ánh chân thực đời sống xã hội phong kiến với những nỗi thống khổ của nhân dân, khẳng định những tình cảm, tính cách đáng quý của con người, thể hiện sự đồng cảm của các tác giả với số phận và khao khát chính đáng của những con người bất hạnh trong một xã hội bất công. Truyền kì vì vậy vừa có giá trị hiện thực, giá trị yêu nước lại giàu giá trị nhân văn, nhân bản. Nghệ thuật tự sự của truyền kì đánh dấu một bước tiến mới so với những tác phẩm tự sự trước khi thể loại này ra đời thể hiện ở các mặt xây dựng kết cấu, khắc họa nhân vật, ngôn ngữ kể chuyện - Những yếu tố hoang đường, kì ảo – điểm nổi bật của truyện truyền kì trung đại vẫn được tìm thấy trong những sáng tác của văn học hiện đại. Tuy nhiên, các tác giả hiện đại sử dụng các yếu tố kì ảo trong những tác phẩm của mình với những 142 mục đích, chức năng phong phú hơn là phản ánh hiện thực cuộc sống và chuyển tải đạo lí như truyền kì trong trung đại. Bên cạnh đó, dù mang trong mình nhiều yếu tố hoang đường, kì ảo nhưng các sáng tác hiện đại vẫn mang nhiều điểm khác biệt về nội dung chủ đề, nghệ thuật phản ánh hiện thực cuộc sống, con người so với truyền kì trung đại. Nghiên cứu vị trí thể loại truyền kì trong tiến trình phát triển của văn học Việt Nam là một cách khẳng định giá trị của thể loại, thể hiện cái nhìn khách quan, công bằng hơn đối với đóng góp của thể loại này trong lịch sử văn học. Luận văn Vị trí của thể loại truyền kì trong tiến trình phát triển văn học Việt Nam hi vọng có thể thực hiện được phần nào yêu cầu này. 143 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lại Nguyên Ân, Từ điển Văn học Việt Nam, từ nguồn gốc đến hết thế kỉ XIX, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005 2. Trần Lê Bảo, “Liêu trai” hiện đại Việt Nam, Văn học Việt Nam sau 1975 – Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, NXB Giáo dục, 2009 3. Ngữ văn 6, Bộ Giáo dụ và đào tạo, NXB Giáo dục, 4. Ngữ văn 9, tập 1, Bộ giáo dục và đào tạo, NXB Giáo dục, 2005 5. Ngữ văn 10, tập 2, Bộ Giáo dục và đào tạo, 2006 6. Lê Nguyên Cẩn, Cái kì ảo trong tác phẩm Balzac, NXB Đại học Sư phạm, 2003 7. Nguyễn Đổng Chi, Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, http//wwwe.thuvien.com 8. Nguyễn Huệ Chi, Truyện truyền kì Việt Nam, Tập 2, NXB Giáo dục, 2009 9. Nguyễn Huệ Chi, Truyện truyền kì Việt Nam, Tập 3, NXB Giáo dục, 2009 10. 11. Nguyễn Dữ, Truyền kì mạn lục, NXB Trẻ, NXB Hồng Bàng, 2011 12. Kỉ yếu Hội thảo khoa học của học viên cao học và nghiên cứu sinh năm 2010, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. 13. Đặng Anh Đào, Vai trò của yếu tố kì ảo trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam, 14. Lê Đạt, Lê Minh Hà, Truyện cổ viết lại, NXB trẻ, 2006 15. Phan Cự Đệ, Truyện ngắn Việt Nam - Lịch sử, Thi pháp, Chân dung, NXB Giáo dục, 2007 16. Phan Cự Đệ (Chủ biên), Văn học Việt Nam 1900 – 1945, NXB Giáo dục, 2010 17. Đoàn Lê Giang, Vũ nguyệt vật ngữ của Ued Akanari và Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ, Trang điện tử trường ĐHKHXHNV, Khoa Văn học và Ngon ngữ, 2010 144 18. Phùng Hữu Hải, Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Việt Nam hiện đại sau 1975, 19. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên), Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, 2010 20. Lại Văn Hùng, Bàn thêm về tác giả, tác phẩm Truyền kì mạn lục, Tạp chí văn học 10/2002 21. Lê Văn Hùng, Bước tiến của thể loại truyện ngắn truyền kì Việt Nam qua Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ, Báo cáo nghiên cứu khoa học trường Cao đẳng Sư phạm Bà Rịa Vũng Tàu, 2007 22. Nguyễn Thị Thu Huệ, 37 truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ, NXB Văn học, 2010 23. Đinh Gia Khánh (Chủ biên), Văn học Việt Nam thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX, NXB Giáo dục, 2006 24. Nguyễn Văn Long, Lã Nhân Thìn, Văn học Việt Nam sau 1975 – Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, NXB Giáo dục, 2009 25. Sương Nguyệt Minh (tuyển chọn), Truyện ngắn 5 tác giả nữ, NXB Thời đại, 2011 26. Nguyễn Đăng Na, Đặc điểm văn học Việt Nam trung đại – Những vấn đề văn xuôi tự sự, NXB Giáo dục, 2007 27. Nguyễn Đăng Na, Văn xuôi tự sự Việt Nam trung đại, tập 1 – Truyện ngắn, NXB Giáo dục, 1999 28. Nguyễn Đăng Na, Truyền kì mạn lục dưới góc độ so sánh văn học, Con đường giải mã văn học trung đại, NXB Giáo dục, 2006 29. Hoài Nam, Thơ, văn xuôi và những kết hợp nghệ thuật, CAND.com.vn 30. Trần Thế Pháp, Lĩnh Nam chích quái, NXB trẻ - NXB Hồng Bàng, 2011 31. Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện đại (2 tập), NXB Khoa học Xã hội, 1989 32. Nguyễn Hữu Sơn, Tương đồng mô hình cốt truyện dân gian và sáng tạo trong truyền kì mạn lục, Trang điện tử trường KHXHVNV, Khoa Văn học và Ngôn ngữ, 2006 33. Trần Đình Sử, Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, NXBĐHQGHN, 2005 145 34. Đại Việt sử kí toàn thư (2 tập), Viện Sử học, NXB Văn hóa Thông tin, 2004 35. Bùi Duy Tân, Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam, Tập 1, NXB Giáo dục, 2004 36. Bùi Duy Tân, Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam, Tập 2, NXB Giáo dục, 2004 37. Bùi Duy Tân, Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam, Tập 3, NXB Giáo dục, 2004 38. Trần Thị Băng Thanh, Đi tìm nguyên mẫu Chế thắng phu nhân, Trang điện tử Báo Văn hóa Nghệ An, tháng 3/ 2012 39. Trần Thị Băng Thanh, Mối liên hệ giữa Truyền kì tân phả và lễ hội văn hóa dân gian, Trang điện tử của Viện Văn học, 2011 40. Vũ Thanh, Đóng góp của Nguyễn Dữ cho thể loại truyền kì Đông Á, Trang điện tử của Viện Văn học, 2006 41. Vũ Thanh, Thể loại truyện kì ảo Việt Nam thời trung đại – quá trình nảy sinh và phát triển đến đỉnh điểm, in trong Văn học Việt Nam thế kỉ X – XIX – Những vấn đề lí luận và lịch sử, NXB Giáo dục, 2007 42. Vũ Thị Phương Thanh, Thánh Tông di thảo – nhìn từ truyền thống truyện dân gian Việt Nam và từ đặc điểm truyện truyền kì, Báo cáo nghiên cứu khoa học trường Đại học Vinh, 2008 43. Trần Nho Thìn, Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa, NXBGD, 2008 44. Trần Viết Thiện, Huyền thoại trong truyện ngắn đương đại Việt Nam, , 2011 45. Nguyễn Huy Thiệp, Truyện ngắn chọn lọc, NXB Hội Nhà Văn, 1995 46. Nguyễn Thanh Trường, Một vài đặc điểm truyện ngắn miền núi 1930 – 1945, Tạp chí khoa học ĐHSPHN, số 5/ 2006 47. Bùi Thanh Truyền, Sự hồi sinh của những yếu tố kì ảo trong văn xuôi đương đại Việt Nam, 48. Bùi Thanh Truyền, Truyện kì ảo trong đời sống văn học đương đại, 146 49. Trần Văn Tùng, Yếu tố kì ảo trong văn xuôi lãng mạn Việt Nam 1930 -1945, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn trường ĐHSP TPHCM 50. Nguyễn Ngọc Tư, Gió lẻ và 9 câu chuyện khác, NXB Trẻ, 2009 51. Lê Trí Viễn (Chủ biên), Văn học trung đại Việt Nam, Giáo trình khoa Ngữ văn trường ĐHSP TPHCM, 1999 52. Trần Ngọc Vương, Văn học Việt Nam thế kỉ X – XIX – Những vấn đề lí luận và lịch sử, NXB Giáo dục, 2007 53. Lý Tế Xuyên, Việt điện u linh, NXB Văn học, 1960 54. Nghiên cứu số phận người phụ nữ Việt Nam trong Truyền kì mạn lục, Luận văn Thạc sĩ, nguồn: tailieu100.com 55. Từ điển Văn học Việt Nam (Bộ mới), NXB Thế giới, 2004. 56. Truyện ngắn Hòa Vang, Thư viện ebook,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfvi_tri_cua_the_loai_truyen_ki_trong_tien_trinh_phat_trien_cua_van_hoc_viet_nam_5519.pdf
Luận văn liên quan