Thứ tư, việc tăng thẩm quyền cho toà 
án cấp huyện không giải quyết triệt để
được tình trạng dồn án, đọng án ở toà án 
các cấp hiện nay. Theo tính toán cho thấy, 
quy định tại khoản 1 Điều 170 BLTTHS 
năm 2003 sẽdẫn đến việc toà án cấp huyện 
xét xử khoảng 75% tổng số khung hình 
phạt của BLHS so với khoảng 51% theo 
BLTTHS năm 1988 tính cảnhững tội loại 
trừthuộc thẩm quyền cấp huyện, tăng 24% 
so với Bộ luật cũ hiện hành. Tuy nhiên, 
hiện nay, toà án cấp huyện thực tế xét x ử
khoảng 60-65% tổng sốán thụlí xét xửsơ
thẩm và theo một sốdự đoán, khi BLTTHS 
năm 2003 có hiệu lực, toà án cấp huyện sẽ
xét xửvào khoảng 75-80% tổng sốán xét 
xửsơthẩm,
(17)
tức tỉlệán thực tếsẽtăng 
so với hiện nay khoảng 15%.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 7 trang
7 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3073 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số vấn đề về tăng thẩm quyền xét xử hình sự cho tòa án cấp huyện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
®Æc san vÒ bLtThS n¨m 2003 
74 T¹p chÝ luËt häc 
ThS. TrÇn §¹i th¾ng* 
1. Một số nhận định cho rằng tư tưởng 
về tăng thẩm quyền cho các cơ quan tư 
pháp cấp huyện đã được hình thành và phát 
triển từ cách đây gần nửa thế kỉ.(1) Điều đó 
có thể thấy rõ nếu xem xét cả quá trình 
hình thành và phát triển về thẩm quyền của 
các cơ quan tư pháp cấp huyện mà trực tiếp 
là của hệ thống toà án. Ngay sau khi Nhà 
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, 
hệ thống toà án nhân dân đã được hình 
thành với một loạt các văn bản liên quan, 
đặc biệt là Hiến pháp năm 1946, Sắc lệnh 
số 13 ngày 24/1/1946 về tổ chức toà án và 
ngạch thẩm phán, Sắc lệnh số 51 ngày 
17/4/1946 ấn định thẩm quyền các toà án 
và sự phân công giữa các nhân viên trong 
toà án. Hệ thống toà án khi đó gồm có: Toà 
án tối cao, các toà phúc thẩm, các toà đệ 
nhị cấp và toà sơ cấp. Toà sơ cấp là cơ chế 
xét xử thấp nhất trong hệ thống toà án có 
thẩm quyền xét xử chung thẩm những án 
hình sự vi cảnh nhỏ, chẳng hạn án phạt bạc 
dưới 9 đồng, xử sơ thẩm những án tiểu 
hình có phạt giam đến năm ngày (tù).(2) 
Toà án đệ nhị cấp xét xử phúc thẩm (chung 
thẩm) những án hình sự vi cảnh mà toà sơ 
cấp xử bị kháng cáo. Những vụ án hình sự 
không thuộc thẩm quyền xét xử của toà sơ 
cấp cũng thuộc thẩm quyền xét xử sơ thẩm 
của toà án cấp này (Điều 10, Điều 11 Sắc 
lệnh 51). 
Với cách thức phân định thẩm quyền 
như trên, toà sơ cấp, cấp toà thấp nhất 
trong hệ thống toà án lúc đó chỉ có thẩm 
quyền xét xử những vụ án hình sự đơn 
giản, mang tính chất vi cảnh. Có hai loại 
thủ tục xét xử được áp dụng: Thủ tục xét 
xử chung thẩm đối với những án vi cảnh 
nhỏ và thủ tục xét xử sơ thẩm đối với 
những án tiểu hình có phạt tù dưới 5 ngày. 
Đáng chú ý là toà sơ cấp có một số thẩm 
quyền ngoài việc xét xử, mang tính chất tư 
pháp hành chính để phục vụ các hoạt động 
của toà án, công tố viên của cấp toà đệ nhị 
cấp như thi hành các mệnh lệnh của biện lí 
(chỉ có ở cấp toà đệ nhị cấp) hay phụ trách 
tư pháp cảnh sát trong địa hạt, điều tra đối 
với tội tiểu hình hay đại hình khi có vụ 
việc xảy ra.(3) 
Sau khi có Hiến pháp năm 1959, một 
loạt văn bản liên quan tới hệ thống tư pháp 
ra đời đã thay đổi cơ bản hệ thống tư pháp 
nước ta trong thời gian đó. Toà sơ cấp đã 
được đổi tên thành toà án huyện, quận, thị 
xã... và đã có thay đổi theo hướng tăng một 
bước về thẩm quyền. Theo điểm d Điều 12 
của Pháp lệnh năm 1961 quy định cụ thể 
* Viện khoa học kiểm sát 
 Viện kiểm sát nhân dân tối cao 
®Æc san vÒ bLtThS n¨m 2003 
T¹p chÝ luËt häc 75 
về tổ chức của Tòa án nhân dân tối cao và 
tổ chức các tòa án nhân dân địa phương, 
tòa án nhân dân cấp huyện có quyền phân 
xử những vụ án hình sự nhỏ không phải 
mở phiên toà và xét xử sơ thẩm những vụ 
án hình sự có thể phạt từ hai năm tù trở 
xuống. Cách thức phân định thẩm quyền 
như trên tồn tại tận đến năm 1981, sau khi 
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa 
Việt Nam thông qua Luật tổ chức toà án 
nhân dân ngày 4/7/1981. Theo quy định tại 
Điều 36 của Luật này, tòa án nhân dân cấp 
huyện có thẩm quyền xét xử sơ thẩm tất cả 
các vụ án hình sự, trừ những tội xâm phạm 
an ninh quốc gia, những tội phạm hình sự 
có tính chất nghiêm trọng, phức tạp hay 
gây hậu quả lớn. 
Tiếp sau đó, khi BLTTHS đầu tiên của 
Nhà nước ta được Quốc hội thông qua 
ngày 28/6/1988, thẩm quyền xét xử của toà 
án cấp huyện đã được thay đổi và quy định 
rõ ràng hơn so với Luật tổ chức toà án 
1981. Theo khoản 1 Điều 145 BLTTHS 
năm 1988, tòa án nhân dân cấp huyện được 
xét xử sơ thẩm những tội phạm mà Bộ luật 
hình sự quy định từ 7 năm tù trở xuống, trừ 
những tội đặc biệt xâm phạm an ninh quốc 
gia và một số tội khác của Bộ luật hình sự. 
Thẩm quyền này được giữ nguyên cho đến 
khi BLTTHS năm 2003 được ban hành. 
2. Như vậy, việc tăng thẩm quyền cho 
toà án cấp huyện đã được thực hiện trong 
suốt nửa thế kỉ đi cùng với tiến trình xây 
dựng nền tư pháp hình sự riêng của một 
chính thể mới trong lịch sử phát triển của 
dân tộc. Hơn 10 năm trở lại đây, chủ 
trương này đã được đề cập nhiều tại các 
diễn đàn, hội nghị khác nhau và hàng loạt 
chủ trương, chính sách của Đảng đã nhấn 
mạnh về việc tăng thẩm quyền cho toà án 
cấp huyện. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 
Ban chấp hành trung ương Đảng khoá VII 
nêu rõ: "Tăng thẩm quyền xét xử cho toà 
án nhân dân cấp huyện theo hướng việc xét 
xử sơ thẩm được thực hiện chủ yếu ở tòa 
án cấp này". Tiếp sau đó, Nghị quyết Đại 
hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII cũng chỉ 
rõ: "Phân định lại thẩm quyền xét xử của 
toà án nhân dân, từng bước mở rộng thẩm 
quyền xét xử sơ thẩm cho tòa án nhân dân 
cấp huyện". Thể chế hoá đường lối, chủ 
trương, quan điểm của Đảng trong xây 
dựng pháp luật, BLTTHS được Quốc hội 
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 
khoá XI kì họp thứ 4 thông qua ngày 
26/11/2003 đã thể hiện đầy đủ những tư 
tưởng, quan điểm đó. Khoản 1 Điều 170 
BLTTHS năm 2003 quy định tòa án nhân 
dân cấp huyện và tòa án quân sự khu vực 
xét xử những vụ án hình sự về những tội 
phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm 
trọng và tội phạm rất nghiêm trọng, trừ 
những tội xâm phạm an ninh quốc gia (14 
tội), các tội phá hoại hoà bình, chống loài 
người và tội phạm chiến tranh (4 tội) và 21 
tội phạm khác mà BLHS quy định hình 
phạt đến 15 năm tù nhưng có tính chất 
phức tạp. Đồng thời vẫn giữ quy định toà 
án nhân dân cấp tỉnh và tòa án quân sự cấp 
quân khu có thể lấy lên để xét xử những vụ 
án thuộc thẩm quyền của tòa án cấp huyện. 
Việc tăng thẩm quyền cho toà án cấp 
huyện cũng đồng thời dẫn đến yêu cầu phải 
tăng thẩm quyền điều tra, truy tố cho cơ 
®Æc san vÒ bLtThS n¨m 2003 
76 T¹p chÝ luËt häc 
quan điều tra và viện kiểm sát nhân dân 
cấp huyện nhằm đảm bảo tính đồng bộ 
trong hoạt động của các cơ quan tư pháp 
cấp huyện. Để đảm bảo tính khả thi của 
quy định tăng thẩm quyền cho các cơ quan 
tư pháp cấp huyện, Nghị quyết của Quốc 
hội quy định lộ trình thực hiện việc tăng 
thẩm quyền của các cơ quan tư pháp cấp 
huyện là 5 năm kể từ ngày Bộ luật có hiệu 
lực (1/7/2004) để các cơ quan tư pháp có 
thời gian sắp xếp, củng cố, tăng cường đội 
ngũ cán bộ, cơ sở vật chất và điều kiện 
làm việc. Ngoài ra, đối với một số địa 
phương có điều kiện cho phép tổ chức 
thực hiện kể từ ngày Bộ luật có hiệu lực, 
Uỷ ban thường vụ Quốc hội sẽ ra nghị 
quyết riêng. 
3. So với BLTTHS năm 1988, việc 
tăng thẩm quyền xét xử sơ thẩm của toà án 
cấp huyện từ 7 năm lên đến 15 năm tù là 
một bước thay đổi lớn có ý nghĩa đột phá 
trong tiến trình cải cách tư pháp. Có lẽ bức 
xúc về thực trạng dồn án, đọng án ở các 
toà án cấp tỉnh và Toà án nhân dân tối cao 
đã dẫn đến những đòi hỏi cần thiết phải 
tăng thẩm quyền cho toà án cấp huyện và 
hình thành ý tưởng thiết lập hệ thống toà 
án theo mô hình sơ thẩm - phúc thẩm - 
giám đốc thẩm tương ứng với toà án cấp 
huyện - toà án cấp tỉnh - Toà án nhân dân 
tối cao. 
Thực tiễn xét xử những năm qua cho 
thấy hàng năm tòa án cấp tỉnh thụ lí và giải 
quyết theo thủ tục sơ thẩm khoảng 32 đến 
35% tổng số vụ án thực tế xảy ra. Trong 
khi đó toà án cấp tỉnh còn phải thụ lí và xét 
xử một số lượng lớn vụ án hình sự theo 
thủ tục phúc thẩm, chiếm khoảng 46% số 
vụ án thụ lí và 60% vụ án đã xét xử sơ 
thẩm ở cấp huyện. Do vậy, toà án cấp tỉnh 
không có điều kiện để tập trung làm tốt 
công tác xét xử phúc thẩm và hướng dẫn 
tòa án cấp huyện áp dụng thống nhất pháp 
luật. Tương tự như vậy, số vụ án hình sự 
xét xử theo thủ tục phúc thẩm ở các toà 
phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao còn 
chiếm tỉ lệ rất lớn, bằng số vụ án phải xét 
xử phúc thẩm ở tòa án cấp tỉnh (khoảng 
7000 đến 8000 vụ/năm) do vậy, việc xét xử 
bị kéo dài, quá hạn luật định, tồn đọng…(4) 
Một yêu cầu nữa đặt ra là việc toà án 
cấp tỉnh hiện nay vẫn phải xét xử phần lớn 
những vụ án hình sự (sơ thẩm, phúc thẩm) 
và các toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối 
cao vẫn phải xét xử quá nhiều các vụ án 
hình sự theo thủ tục phúc thẩm đã gây khó 
khăn nhất định đến việc tham gia phiên toà 
của những người tham gia tố tụng (nhân 
chứng, bị hại, người có quyền lợi và nghĩa 
vụ liên quan, nguyên đơn và bị đơn dân 
sự…). Nếu những người này vắng mặt tại 
phiên toà sẽ ảnh hưởng rất lớn đến việc 
giải quyết vụ án nhanh chóng và kịp thời, 
khách quan. Vì vậy, có nhiều hi vọng đối 
với việc tăng thẩm quyền xét xử cho toà 
án cấp huyện sẽ đáp ứng yêu cầu đấu 
tranh phòng và chống tội phạm trong giai 
đoạn mới, đảm bảo quyền dân chủ của 
công dân trong tố tụng hình sự, tạo điều 
kiện cho các toà án và các cơ quan tiến 
hành tố tụng khác có khả năng nâng cao 
hiệu quả hoạt động. 
4. Tuy nhiên, qua nghiên cứu xem xét 
các mô hình tố tụng hình sự của hầu hết 
®Æc san vÒ bLtThS n¨m 2003 
T¹p chÝ luËt häc 77 
các nước trên thế giới thì thấy rằng không 
có nước nào có hệ thống toà án theo cơ cấu 
3 cấp: Sơ thẩm - phúc thẩm - giám đốc 
thẩm và rất ít nước cho phép toà án cấp 
thấp nhất được xử những tội phạm nghiêm 
trọng có hình phạt đến 15 năm tù. Ba mô 
hình tố tụng hình sự phân tích dưới đây, 
điển hình cho 3 loại tố tụng đặc thù hiện 
nay: Án lệ hay tranh tụng (adversarial 
system) - Bang Victoria của Australia; dân 
sự hay thẩm cứu (Inquisitorial system) - 
Pháp và một mô hình có thể nói là hỗn hợp 
ở một nước đông dân gần với nước ta - 
Nhật Bản. 
- Bang Victoria(5) 
Hệ thống tư pháp hình sự của Bang 
Victoria, nếu không nói đến hệ thống tư 
pháp hình sự của Liên bang có thẩm quyền 
đối với những tội phạm liên bang, hệ thống 
toà án của Bang gồm ba cấp: Toà án tối 
cao; toà án cấp quận (District court) - toà 
án trung cấp và toà án địa phương - cấp 
thấp nhất (Magistrate court). Toà án cấp 
quận và các toà án địa phương không tổ 
chức song song với hệ thống hành chính 
mà theo khu vực, căn cứ vào số dân cư ở 
các vùng, các địa phương. Toà án tối cao 
của Bang có thẩm quyền giám đốc thẩm 
những bản án của toà án cấp dưới nhưng 
cũng được quyền xử sơ thẩm những vụ 
phạm tội nghiêm trọng như giết người và 
phản bội tổ quốc. Toà án cấp quận được 
quyền xét xử phúc thẩm những bản án của 
toà án địa phương, xử những tội nghiêm 
trọng có mức hình phạt trên 3 hoặc 5 năm 
tù.(6) Riêng toà án địa phương, cấp toà thấp 
nhất trong hệ thống toà án chỉ được quyền 
xét xử những tội vi cảnh, tội ít nghiêm 
trọng dưới 3 hoặc 5 năm tù và cả những tội 
nghiêm trọng nếu bị cáo đồng ý bị xét xử 
theo thủ tục rút gọn.(7) Đặc biệt, cấp toà 
này còn có một số thẩm quyền mang tính 
chất tư pháp hành chính (Qua si - judicial) 
như phê chuẩn giam giữ hay cho tại ngoại, 
lấy lời khai của nhân chứng, bị hại và nhận 
hồ sơ từ công tố viên, điều tra viên về vụ 
án, quyết định chuyển vụ án cho toà cấp 
quận. Những hoạt động này chiếm một 
khối lượng lớn công việc của cấp toà địa 
phương và nếu vụ án thuộc thẩm quyền toà 
án cấp quận, toà án cấp quận hầu như chỉ 
cần đưa vụ án ra xét xử. Tuy rằng không 
có thẩm quyền xét xử những vụ án nghiêm 
trọng, phức tạp, hầu như tất cả các hoạt 
động điều tra, truy tố... trong tố tụng đều 
diễn ra xoay quanh toà án cấp này. 
- Pháp 
Có 3 loại thủ tục chính trong tố tụng 
hình sự Pháp và tương ứng là 3 cấp toà 
án.(8) Đối với các tội đại hình như giết 
người, hiếp dâm, hay cướp có vũ khí mà 
hình phạt áp dụng là từ 5 năm tới chung 
thân, vụ án sẽ được xét xử ở một trong 33 
toà đại hình trên toàn nước Pháp, án xử có 
hiệu lực ngay và không có thủ tục phúc 
thẩm, trừ khi xin được xem xét lại ở Toà 
tối cao - Toà phá án. Đối với các tội có 
mức hình phạt có thể áp dụng từ 2 tháng 
đến 5 năm tù hoặc phạt tiền tới và trên 
25.000 france, vụ án sẽ được xét xử ở toà 
tiểu hình (Tribunal correctionnel). Cấp toà 
thấp nhất là toà vi cảnh xét xử những án 
phạt tù từ một ngày đến dưới hai tháng tù 
hoặc phạt tiền tối đa dưới 25.000 france. 
®Æc san vÒ bLtThS n¨m 2003 
78 T¹p chÝ luËt häc 
Tất cả các kháng cáo, kháng nghị phúc 
thẩm đối với những bản án, quyết định đã 
tuyên ở toà vi cảnh hay toà tiểu hình đều 
được xử ở cấp toà phúc thẩm - cấp toà độc 
lập không trực thuộc Toà án tối cao.(9) Mô 
hình tố tụng Pháp cho thấy thẩm quyền xét 
xử ở cấp toà thấp nhất chỉ hạn chế đối với 
những vụ án không nghiêm trọng, đơn giản 
và có sự phân định rõ thẩm quyền giữa các 
toà để xét xử các loại tội: Vi cảnh, tiểu 
hình, đại hình; giữa toà xét xử sơ thẩm và 
toà phúc thẩm chuyên trách. Bên cạnh đó 
sự phân loại tội phạm (tội đại hình, tiểu 
hình và vi cảnh) có ý nghĩa cơ bản để xác 
định thủ tục tố tụng và thẩm quyền tố tụng 
tương ứng. Đây là điểm then chốt cần phải 
tham khảo trong quá trình xây dựng pháp 
luật hình sự và tố tụng hình sự của nước ta. 
- Nhật Bản 
Trong tố tụng hình sự, hệ thống toà án 
được chia thành 4 cấp:(10) Toà án tối cao, 
toà án cấp cao, toà án quận và toà án giản 
lược (Supreme court, Hight court, District 
court and Summary court). Toà án tối cao 
có vai trò là toà phá án, toà án cấp cao có 
thẩm quyền xét xử phúc thẩm những vụ án 
có kháng cáo, kháng nghị đối với bản án, 
quyết định của toà án quận và toà án giản 
lược. Ngoài ra, toà án này cũng có quyền 
xét xử những vụ án liên quan đến bị cáo 
phản bội tổ quốc. Toà án quận xét xử mọi 
tội phạm trừ những tội phạm thuộc thẩm 
quyền của toà án cấp cao và toà án giản 
lược. Toà án giản lược chỉ xử những vụ án 
có bị cáo phạm tội có thể bị áp dụng hình 
phạt dưới 3 năm tù. Như vậy, cấp toà thấp 
nhất - toà án giản lược chỉ được xử những 
vụ án đơn giản, ít nghiêm trọng và trung 
tâm xét xử của hệ thống tố tụng hình sự 
Nhật Bản là toà án cấp quận - cấp trung 
gian của hệ thống toà án.(11) 
5. Những phân tích trên cho thấy có 
những bất cập trong hệ thống tư pháp hình 
sự nước ta. Tất cả các toà án ở cấp thấp 
nhất trong các hệ thống tố tụng nêu trên 
đều không có thẩm quyền xử những vụ án 
lớn, phức tạp mà chỉ xử những vụ án vi 
cảnh, đơn giản, nhỏ mà hình phạt tù áp 
dụng thường không quá 5 năm. Việc tăng 
thẩm quyền cấp huyện và biến toà án cấp 
huyện trở thành những pháo đài trong tố 
tụng hình sự để hình thành mô hình xét xử 
sơ thẩm - phúc thẩm - giám đốc thẩm trong 
hệ thống tư pháp sẽ dẫn đến một loạt các 
vấn đề khó có thể dự đoán hết, đó là: 
Thứ nhất, điều đó sẽ đòi hỏi một số 
lượng lớn thẩm phán cho cấp toà này. Một 
thực tế là ở các toà án nhân dân cấp huyện 
đang có tình trạng thiếu thẩm phán, chưa 
tìm được người đủ tiêu chuẩn để bổ sung 
cho một vài năm tới. Hiện nay, gần 100 toà 
án huyện - chiếm khoảng gần 1/6 tổng số 
toà án cấp huyện, chỉ có 1 hoặc 2 thẩm 
phán (trong khi còn phải xử lí những loại 
việc dân sự, kinh tế... khác).(12) Số thẩm 
phán huyện còn thiếu khoảng 1.067 người, 
trình độ chuyên môn nghiệp vụ của thẩm 
phán huyện còn rất hạn chế và không đồng 
đều ở các khu vực.(13) Cơ sở vật chất, 
phương tiện làm việc của các cơ quan tư 
pháp cấp huyện nhiều nơi còn thiếu thốn 
và lạc hậu, chưa tương xứng với yêu cầu 
của nhiệm vụ mới. Tất nhiên những cản trở 
trên có thể được giải quyết trong khoảng 
®Æc san vÒ bLtThS n¨m 2003 
T¹p chÝ luËt häc 79 
thời gian nhất định nhưng còn rất nhiều 
những vấn đề tồn tại khác. 
Thứ hai, việc tăng thẩm quyền dẫn đến 
việc cấp toà này sẽ xét xử những vụ án lớn, 
phức tạp trong khi trình độ của đội ngũ cán 
bộ thẩm phán cấp huyện hiện nay có nhiều 
bất cập, chênh lệch giữa khả năng trình độ 
và nhiệm vụ được giao. Hiện nay, trong số 
thẩm phán tòa án nhân dân cấp huyện còn 
một số lượng khá lớn chưa có trình độ cử 
nhân luật, đội ngũ hội thẩm nhân dân ở tòa 
án cấp huyện có trình độ pháp lí còn hạn 
chế (chỉ có khoảng 14% có trình độ cử 
nhân luật).(14) Tăng thẩm quyền cho toà án 
cấp huyện đòi hỏi sự đồng bộ với các cơ 
quan tư pháp khác nhưng thực tế chỉ có 
khoảng 48% kiểm sát viên có trình độ cử 
nhân luật và còn khoảng 50% điều tra viên 
chưa có trình độ đại học.(15) Đất nước ta đã 
thống nhất gần 30 năm, các trường đại học 
có đào tạo trình độ đại học luật đã mở từ 
cách đây hơn 20 năm nhưng chúng ta vẫn 
chưa có đủ đội ngũ cán bộ tư pháp cấp 
huyện để đáp ứng đòi hỏi nhiệm vụ theo 
thẩm quyền hiện nay (theo BLTTHS năm 
1988). Tuy có Nghị quyết của Quốc hội về 
tăng cường đội ngũ cán bộ tư pháp cho cấp 
huyện trong thời gian tới nhưng điều đó 
khó có thể thực hiện trong thời gian ngắn 
nếu so sánh với công tác tăng cường đội 
ngũ cán bộ trong những năm qua. 
Thứ ba, hiệu quả vận hành của hệ 
thống tố tụng và hiệu quả kinh tế nói 
chung cũng đặt ra yêu cầu cần cân nhắc. 
Sự phân bố không đồng đều các cấp toà do 
gắn với hệ thống hành chính dẫn đến tình 
trạng là án của một tỉnh nhỏ chưa bằng số 
án phải giải quyết của một quận ở nội 
thành Hà Nội hay thành phố Hồ Chí Minh. 
Trong khi rất nhiều thẩm phán ở toà án 
huyện, tỉnh không có việc hay đủ việc để 
làm thì ở nơi khác số án quá nhiều gây tình 
trạng tồn đọng... và đi theo đó là những vi 
phạm trong tố tụng. Tăng thẩm quyền cho 
toà án cấp huyện dẫn đến phải đầu tư cơ sở 
vật chất, tăng cường đội ngũ cán bộ nhưng 
quy mô của một toà án cấp huyện không thể 
xây dựng như một toà án cấp tỉnh. Tình 
trạng tương tự như vậy cũng diễn ra ở cơ 
quan tư pháp cấp huyện khác như viện kiểm 
sát, cơ quan điều tra. Xét đến hiệu quả vận 
hành của hệ thống tố tụng trong tổng thể và 
hiệu quả kinh tế có thể thấy rõ có những 
vấn đề cần phải nghiên cứu, cân nhắc.(16) 
Thứ tư, việc tăng thẩm quyền cho toà 
án cấp huyện không giải quyết triệt để 
được tình trạng dồn án, đọng án ở toà án 
các cấp hiện nay. Theo tính toán cho thấy, 
quy định tại khoản 1 Điều 170 BLTTHS 
năm 2003 sẽ dẫn đến việc toà án cấp huyện 
xét xử khoảng 75% tổng số khung hình 
phạt của BLHS so với khoảng 51% theo 
BLTTHS năm 1988 tính cả những tội loại 
trừ thuộc thẩm quyền cấp huyện, tăng 24% 
so với Bộ luật cũ hiện hành. Tuy nhiên, 
hiện nay, toà án cấp huyện thực tế xét xử 
khoảng 60-65% tổng số án thụ lí xét xử sơ 
thẩm và theo một số dự đoán, khi BLTTHS 
năm 2003 có hiệu lực, toà án cấp huyện sẽ 
xét xử vào khoảng 75-80% tổng số án xét 
xử sơ thẩm,(17) tức tỉ lệ án thực tế sẽ tăng 
so với hiện nay khoảng 15%. Đó là một tỉ 
lệ tăng đáng kể và nếu không giải quyết 
thoả đáng những vấn đề liên quan như cơ 
®Æc san vÒ bLtThS n¨m 2003 
80 T¹p chÝ luËt häc 
sở vật chất, cán bộ sẽ tạo ra sức ép về số 
lượng án phải giải quyết cùng với hàng 
loạt các vấn đề phát sinh ở toà án cấp 
huyện, nhất là ở những địa bàn trọng điểm 
ở thành phố lớn. Hơn nữa, toà án cấp tỉnh 
tuy giảm được một số lượng án xử sơ thẩm 
nhưng lại phải xử nhiều án phúc thẩm hơn. 
Toà án tối cao có thể giảm số án xét xử 
phúc thẩm nhưng thực tế đây không phải là 
vấn đề tồn tại chính của Toà án tối cao mà 
ở số đơn kiến nghị các bản án, quyết định 
đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám 
đốc thẩm.(18) Hơn nữa, tỉ lệ án phải xử 
phúc thẩm quá lớn (60% số án cấp huyện 
đã xử sơ thẩm) và số lượng lớn đơn kiến 
nghị xem xét lại các bản án và quyết định 
đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám 
đốc thẩm, tái thẩm đặt ra những câu hỏi, 
suy nghĩ về chất lượng xét xử và thủ tục 
phúc thẩm, cơ chế giám đốc thẩm, tái thẩm 
cũng như hiệu quả của hoạt động điều tra, 
truy tố xét xử hiện nay./. 
(1).Xem: Khuất Văn Nga, "Những tư tưởng mới của 
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003", Tạp chí kiểm sát 
4/2004, tr.13-18. 
(2).Xem: Điều 5, 6 và 7 Sắc lệnh số 51 ngày 
17/4/1946 ấn định thẩm quyền các toà án và sự phân 
công giữa các nhân viên trong toà án. 
(3).Xem: Điều 15 Sắc lệnh số 51. 
(4), (12), (14).Xem: Ngô Quang Liễn, "Vấn đề tăng 
thẩm quyền cho cơ quan tư pháp cấp huyện trong Bộ 
luật tố tụng hình sự", tài liệu Hội thảo về phổ biến 
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Viện kiểm sát nhân 
dân tối cao ngày 22-23/3/2004. 
(5). Theo R G Fox, Victorian Criminal Procedure, 
state and federal law, 10th ed. Monash Law book co-
operative limited, 2000, page. 77-88. 
(6).Xem: Điều 36A Đạo luật Courty court act 1958. 
Nguyên nghĩa: Indictable offences. Không có quy 
định cứng quy định từ bao nhiêu năm tù là tội nghiêm 
trọng mà mỗi đạo luật khác nhau khi quy định một 
hành vi nào đó là tội phạm thì sẽ định nghĩa đó là tội 
nghiêm trọng hay ít nghiêm trọng - Summary 
offences. Ở Úc, các bang đều có đạo luật hình sự 
riêng nhưng Quốc hội khi ban hành luật đều có thể 
quy định một hành vi nào đó là tội phạm. 
(7).Xem: Điều 25 Đạo luật Magistrate’s Court Act 1989. 
(8). Theo Comparative criminal procedure, page. 21-23. 
Và Bộ luật tố tụng hình sự Pháp 1958 (bản tiếng 
Việt), Nhà pháp luật Việt Pháp, Nxb. Chính trị quốc 
gia, H.1998. Quyển thứ hai: Các cơ quan xét xử. 
(9).Xem: Điều 496, Điều 547 Bộ luật tố tụng hình 
sự Pháp. 
(10). Theo Luật tổ chức toà án Nhật Bản. In trong tập 
Law Bulletin series, Japan,Volume II. Điều 16 - 33. 
(11). Cần phân biệt, cấp quận đây không phải như 
một địa bàn hành chính cấp quận huyện như ở Việt 
Nam, việc phân bổ toà án của Nhật Bản cũng như hầu 
hết các nước không gắn với hệ thống cơ quan quản lí 
hành chính. 
(13), (15). Uỷ ban pháp luật Quốc hội khoá XI, Báo 
cáo thẩm tra Dự án Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi) 
ngày 8/5/2003, tr. 16-17. 
(16). Chính vì những lí do trên trong quá trình xây 
dựng Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, có những ý 
kiến đưa ra là vẫn giữ thẩm quyền cho toà án cấp 
huyện và toà án cấp tỉnh như hiện nay và thành lập các 
toà phúc thẩm riêng, không trực thuộc toà án tối cao. 
(17). Giải trình của Viện kiểm sát nhân dân tối cao 
với Uỷ ban thường vụ Quốc hội ngày 26/4/2003 về 
Dự án Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, tr.16. 
(18). Tính trung bình một năm từ 1998 đến 2002, chỉ 
riêng Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhận được khiếu 
nại đối với khoảng trên dưới 4000 vụ kiện dân sự, 
chiếm khoảng gần 40% số vụ án đã xét xử phúc thẩm. 
- Đề tài khoa học cấp cơ sở, "Một số giải pháp nâng 
cao chất lượng kháng nghị giám đốc thẩm đối với bản 
án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật tại 
Viện kiểm sát nhân dân tối cao", Vụ KSXX dân sự, 
2002, tr.16-17. Số liệu án hình sự tương đương là gần 
2000 vụ việc trong tổng số 7-8000 vụ toà phúc thẩm 
Toà án nhân dân tối cao xét xử. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 ths_tran_dai_thang_tths_tang_tham_quyen_xet_xu_5847.pdf ths_tran_dai_thang_tths_tang_tham_quyen_xet_xu_5847.pdf