MS8: Đánh giá tác động của công nghệ mương nổi đến sự phát triển của nghề nuôi cá biển ở Australia và Việt nam

•Công ty Cá Chẽm Việt: tại Vũng Tàu. Công ty thành lập năm 2007 để đáp ứng nhu cầu cá Chẽm giống của người nuôi. Ngay từkhi bắt đầu hoạt động, công ty đã quyết định sửdụng mương nổi để ương cá Chẽm từcỡ2 cm lên 10 cm. Công suất hoạt động dựkiến của công ty là 100 triệu cá bột/tháng. •Công ty Trường Thành: sửdụng mương nổi đểnuôi thương phẩm cá Chình Bông (Anguilla mamorata) ởPhú Yên. Vì công ty sửdụng hồchứa nước đểnuôi nên mương nổi SMART-2 đã được cải tiến tăng thểtích từ6 m3 lên 25 m3. Thửnghiệm nuôi bắt đầu từnăm 2008. •Trung tâm Khuyến ngưBình Đinh: sửdụng mương nổi SMART-2 để ương giống cá rô phi đơn tính. •Ngòai ra còn một số đơn vịmuốn sửdụng mương nổi để ương cá Chình giống như SởNông nghiệp Cà Mau, Viện NC NTTS 3 (Nha Trang) hoặc ương cá Mú giống ở Thạn Phú (Bến Tre).

pdf20 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2242 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu MS8: Đánh giá tác động của công nghệ mương nổi đến sự phát triển của nghề nuôi cá biển ở Australia và Việt nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Báo cáo số 8 | CARD VIE062/04 PROJECT 1 Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn BÁO CÁO TIẾN ĐỘ Dự án Nuôi thâm canh cá biển trong ao bằng mương nổi (CARD VIE 062/04) MS8: Đánh giá tác động của công nghệ mương nổi đến sự phát triển của nghề nuôi cá biển ở Australia và Việt nam Hoàng Tùng1, Michael Burke2 & Daniel Willet2 1 Trường Đại học Nha Trang, Việt Nam 2 Queensland Department of Primary Industries & Fisheries, Australia 04/2008 Báo cáo số 8 | CARD VIE062/04 PROJECT 2 LỜI MỞ ĐẦU Dự án CARD VIE062/04 “Nuôi thâm canh cá biển trong ao bằng mương nổi” được triển khai nhằm nghiên cứu phát triển một hệ thống ương giống và nuôi thương phẩm cá biển, có khả năng tận dụng các cơ sở hạ tầng sẵn có ở Australia và Việt Nam. Khởi đầu từ tháng 08/2005 Dự án được kỳ vọng góp phần phát triển nghề nuôi cá biển ở cả hai quốc gia nêu trên bằng cách gia tăng sản lượng cá giống kích thước lớn ở Việt Nam và cá nuôi thương phẩm tại Australia. Trong suốt thời gian này Dự án CARD VIE062/04 liên tục duy trì nỗ lực trong cả nghiên cứu phát triển hệ thống mương nổi và hoạt động khuyến ngư. Báo cáo này gồm 2 phần: một của hợp phần Việt Nam và một của hợp phần Australia, trình bày những tác động tức thời của Dự án đến nghề nuôi cá biển tại các địa phương nơi Dự án đã được triển khai. Tuy nhiên cũng cần phải nhấn mạnh rằng khoảng thời gian mà Dự án được thực hiện (2 năm) là quá ngắn cho các mục tiêu quá tham vọng, đặc biệt khi công nghệ mới này vẫn còn đang được nghiên cứu và hoàn thiện. Thời điểm mà Dự án được hoàn tất vào cuối năm 2007 mới là điểm khởi đầu thực sự để giới thiệu công nghệ mương nổi một cách rộng rãi đến người nuôi trồng thủy sản ở cả hai quốc gia. Vì thế mà tác động thực sự của Dự án sẽ được thể hiện rõ trong một vài năm tới đây. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn Chương trình CARD – Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Queensland Department of Primary Industries & Fisheries, Trường Đại học Nha Trang, Trung tâm Khuyến ngư Khánh Hòa (KFEC) đã hỗ trợ tích cực cho hoạt động của Dự án. Chúng tôi xin cảm ơn TS. Adrian Collins, Benjamin Russels, các cán bộ của BIARC, ThS. Lưu Thế Phương, ThS. Ngô Văn Mạnh, KS. Huỳnh Kim Khánh, KS. Bành Thị Quyên Quyên, các công nhân kỹ thuật của Trung tâm Khuyến ngư Khánh Hòa tại Ninh Lộc và các bạn sinh viên của Trường Đại học Nha Trang đã tích cực tham gia và góp phần quan trọng vào sự thành công của Dự án. Nhóm nghiên cứu của Dự án CARD VIE062/04 Báo cáo số 8 | CARD VIE062/04 PROJECT 3 Phần 1 Đánh giá tác động của công nghệ mương nổi lên sự phát triển của nghề nuôi cá biển tại Australia 1. ĐỐI TƯỢNG HƯỞNG LỢI VÀ CÁC LỢI ÍCH DO DỰ ÁN MANG LẠI Đối tượng hưởng lợi chính của việc phát triển công nghệ mương nổi tại Australia chính là người nuôi cá biển thương phẩm. Đặc biệt, việc sử dụng mương nổi để nuôi thương phẩm cá biểnc ho phép người nuôi tận dụng diện tích mặt nước đang sử dụng cho các mục đích khác như hồ chứa nước phục vụ nông nghiệp. Trong trường hợp này, mương nổi được xem là giải pháp phù hợp nhờ chi phí thấp trong đầu tư và vận hành, khả năng quản lý tốt hơn trên mọi khía cạnh từ thả giống, cho ăn, chăm sóc và phòng ngừa bệnh dịch, kiểm soát địch hại và thu hoạch. Đã có nhiều doanh nghiệp tại Queensland sử dụng hoặc đang xem xét sử dụng mương nổi cho hoạt động sản xuất của mình. Mặc dù các phỏng đoán ban đầu cho rằng người nuôi tôm có thể chuyển sang nuôi cá biển bằng công nghệ mương nổi, chỉ có 2 cơ sở đăng ký muốn thực hiện việc này tại Queensland. Nguyên nhân có thể là do độ sâu của các ao nuôi tôm thường thấp, vì thế nước lấy vào mương từ đáy ao dễ bị nhiễm bẩn. Điều này có thể ảnh hưởng đến dòng chảy trong ao nuôi tôm và việc quản lý dòng chảy để có thể thu gom chất thải một cách hữu hiệu nhằm duy trì chất lượng nước, đặc biệt khi việc trao đổi nước với môi trường xung quanh bị hạn chế. Việc định kỳ tháo cạn các ao này để thu hoạch và cải tạo ao cũng sẽ gây khó khăn cho các mương nổi nếu được làm bằng vật liệu là bạt HDPE vì chúng không gánh nổi trọng lượng của giàn gỗ làm khung mặt của mương và đường đi. Để giải quyết khó khăn này mương nổi phải được thiết kế thành nhiều phần nhỏ cho phép tháo lắp một cách dễ dàng khi cần tháo cạn ao. Kinh nghiệm của chúng tôi tại BIARC cho thấy các mương nổi khi được sử dụng trong môi trường nước biển thường có xu hướng bị các sinh vật bám tấn công lên bề mặt. Mặc dù bộ nâng nước đã được thiết kế để có thể tháo rời làm vệ sinh khi cần thiết, giàn khung nâng đỡ mương nổi (làm bằng bạt nhựa HDPE) rất lớn, nặng khiến cho thao tác vệ sinh vô cùng khó khăn. Mục tiêu của Dự án CARD là nghiên cứu phát triển một hệ thống nuôi với chi phí đầu tư thấp. Hệ thống mương nổi sử dụng tại BIARC đã đạt được mục tiêu này nhưng còn cần phải được cải tiến để khắc phục các khó khăn nêu trên, chẳng hạn như mương nổi nên được làm bằng các vật liệu có độ bền tốt hơn như nhựa plastic hoặc composite để có thể di chuyển chúng một cách dễ dàng và không bị biến dạng khi ao nuôi bị tháo cạn nước. Tất nhiên, giá thành của mương nổi sẽ tăng lên đáng kể. Trong thực tế, việc này sẽ do người nuôi quyết định cho phù hợp với điều kiện sản xuất và khả năng đầu tư của mình. Báo cáo số 8 | CARD VIE062/04 PROJECT 4 TÓM TẮT Ưu điểm • Chi phí xây dựng thấp • Nâng cao được khả năng quản lý con giống, việc cho ăn, tăng trưởng của đối tượng nuôi, quan trắc bệnh, kiểm soát địch hại và thu hoạch. • Hệ thống nâng nước có thể tháo rời và vệ sinh dễ dàng • Thích hợp cho các mặt nước nơi mà việc sử dụng các hệ thống nuôi khác không khả thi. Nhược điểm • Có thể ảnh hưởng đến dòng chảy trong các ao nuôi có diện tích nhỏ • Mương nổi làm bằng bạt HDPE phải được tháo ra khỏi khung mương khi cần tháo cạn ao. • Dễ bị các sinh vật bám làm bẩn và cần phải vệ sinh định kỳ 2. MỨC ĐỘ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ Hoạt động nghiên cứu của Dự án sử dụng mương nổi để nuôi thương phẩm cá với chi phí thấp đã nhận được sự quan tâm rộng rãi. Công nghệ này đã được giới thiệu đến người nuôi qua các báo cáo trình bày tại Hội nghị của Hội NTTS Thế giới năm 2006 tại Adelaide; Hội thảo Khuyến ngư tháng 10/2006 cho các cán bộ trong ngành thủy sản của bang Queensland; Hội nghị 2007 của Hiệp hội NTTS bang Queensland. Ngoài ra, đã có nhiều đoàn khách của chính phủ, đại điện các ngành sản xuất, sinh viên đến thăm BIARC và được giới thiệu về hệ thống. Mặc dù cần phải có một thời gian nhất định để dự án thể hiện những tác động tích cực lên hoạt động sản xuất, hiện tại việc ứng dụng mương nổi đang tiến triển tốt. Mương nổi đã được sửu dụng để nuôi cá tại một số nông trại, trong hệ thống xử lý nước thải dân dụng và trong các ao chứa nước ngầm. Dưới đây là các cơ sở sử dụng công nghệ mới này: • Kilcoy Fish Company (KFC): đã hợp tác chặt chẽ với các cán bộ của Dự án CARD để lắp đặt một hệ thống mương nổi đặt trong hồ chứa 7 ha tại một nông trại nuôi bò sữa. Hệ thống này gồm một loạt các mương nổi có thể tích 40m3 (dài 12, rộng 2.4 m) để nuôi thương phẩm cá. Mương nổi được làm bằng bạt nhựa HDPE giá rẻ theo thiết kế tương tự như của Dự án CARD (Hình 1). Đối tượng nuôi gồm Maccullochela peelii (Hình 2) và Scortum barcoo. Cơ sở này đã thành công, nuôi được cá Maccullochela peelii đến mật độ cao hơn 100 kg/m3 và bắt đầu bán sản phẩm của mình ra thị trường từ năm 2006. Báo cáo số 8 | CARD VIE062/04 PROJECT 5 • Integrated Recycle International Ltd (IRI): đã dùng mương nổi (có điều chỉnh thiết kế) để nuôi cá trong nước thải nhằm sản xuất bột cá. Mương nổi được thiết kế dựa theo thiết kế sử dụng của bạt HDPE của Dự án CARD. Tại cơ sở này, cá sử dụng thức ăn tự nhiên có trong nước luân chuyển qua mương. Dự án này của IRI sẽ được thực hiện tại Hervey Bay nằm ở Queensland Fraser Coast và sử dụng nước thải dân dụng (do chính quyền địa phương quản lý) làm nguồn dinh dưỡng cho ao nuôi. Các thử nghiệm ban đầu đã xác định được đối tượng nuôi thích hợp và dự án hiện đang trong giai đoạn xây dựng giàn bè nổi để nâng đỡ mương (Hình 3). Hình 1. Hệ thống mương nổi tại cơ sở của Kilcoy Fish Company. Mương nổi đựoc thiế kế theo phiên bản sử dụng bạt HDPE giá rẻ của Dự án CARD. Hình 2. Cá Mú (Murray cod) nuôi trong mương nổi tại cơ sở của KFC. Báo cáo số 8 | CARD VIE062/04 PROJECT 6 Hình 3. Không ảnh chụp hệ thống mương nổi đang được xây dựng tại Hervey Bay, Queensland trong khuôn khổ của dự án sản xuất bột cá của IRI. Sẽ có tổng cộng 54 mương nổi làm bằng HDPE mỗi mương có thể tích 58 m3 được treo vào hệ thống bè nâng đỡ này. • Thông tin thu được từ dự án CARD đã được sử dụng để xây dựng mô hình toán nhằm xem xét khả năng sử dụng nước mặn ngầm tại các mỏ khai thác khí than để nuôi cá. • Seafarm, một cơ sở nuôi tôm lớn ở phía Bắc bang Queensland đã xin thiết kế mương nổi để xem xét khả năng mở rộng sản xuất. Cơ sở này quan tâm đến việc sử dụng các ao nuôi tôm có sẵn và kênh dẫn nước để nuôi cá biển. • Gold Coast Marine Aquaculture (GCMA), một cơ sở nuôi tôm lớn ở Logan River, South Queensland hiện đang hợp tác với BIARC để nghiên cứu nuôi cá Giò (Rachycentron canadum). BIARC hiện đang giữ 16 con cá bố mẹ để thử nghiệm sản xuất giống trong năm 2008 và sẽ đưa cá giống đến nuôi thử nghiệm tại GCMA. Mương nổi đã được chọn làm hệ thống nuôi thử nghiệm. 3. PHÂN TÍCH KINH TẾ Phần trình bày về mức độ ứng dụng của mương nổi ở trên cho thấy hệ thống này có thể được sử dụng cả ở nước ngọt, nước mặn ngầm hoặc nước biển để nuôi thương phẩm cá cả loại có giá trị kinh tế cao đến những loại chỉ dùng để sản xuất bột cá. Tuy nhiên, chính sự đa dạng này cũng khiến cho việc khái quát hóa chi phí sản xuất trở nên khó khăn do sự khác biệt về mức độ Báo cáo số 8 | CARD VIE062/04 PROJECT 7 đầu tư, kích cỡ của mương và hệ thống hỗ trợ, yêu cầu sử dụng thức ăn. Chẳng hạn như mương nổi đã được IRI Ltd đưa vào kế hoạch sử dụng nằm nuôi cá ăn mùn xác hữu cơ trong các ao xử lý nước thải dân dụng để thu hoạch và sản xuất bột cá. Trong hệ thống này thức ăn của cá là thức ăn tự nhiên, có được nhờ việc luân chuyển nước trong ao xử lý qua 54 mương nổi có thể tích 58m3 nhờ hoạt động của các bộ nâng nước. Điều này có nghĩa là chi phí thức ăn sẽ không được tính vào chi phí sản xuất. Tuy nhiên, giá trị của sản phẩm nuôi lại thấp và dự án này chỉ có thể đạt được lợi nhuận nếu qui mô sản xuất lớn hơn 600 tấn/năm. Việc sử dụng mương nổi để nuôi cá có giá trị kinh tế ở mức trung bình như cá Chẽm vì thế cần được xem xét. Căn cứ vào điều kiện sản xuất tại Australia và các tính toán chi phí sản xuất, chi phí đầu tư, mức khấu hao, chi phí lao động, thức ăn và vận hành, chúng tôi cho rằng nuôi cá Chẽm bằng mương nổi hòan toàn là một giải pháp phù hợp. Tuy vậy, qui mô sản xuất và khả năng cung ứng sản phẩm thường xuyên cho thị trường sẽ quyết định mức độ lợi nhuận thu được. Dựa trên những kinh nghiệm đã có về nghề nuôi cá Chẽm tại Australia, theo chúng tôi thì một cơ sở nuôi cá thương phẩm phải có khả năng xuất bán ra thị trường tối thiểu là 1000 kg/tuần thì mới có hiệu quả. Để làm được điều này cần phải có 26 mương nổi nuôi cá thương phẩm với thể tích 20m3/cái. Chỉ với qui mô sản xuất này doanh nghiệp mới có khả năng thiết lập thị trường và duy trì mãi lực mua bán. Hiện tại chi phí sản xuất cho 1 kg cá Chẽm bằng mương nổi theo ước tính của chúng tôi là A$ 8/kg. Mức chi phí này có thể sẽ giảm theo thời gian và cạnh tranh được với các hệ thống nuôi khác mà không cần phải đầu tư nhiều. Bảng 3. Số lao động cần thiết để vận hành 4 mương ương và 2 mương nuôi thương phẩm tại BIARC. Công việc cần thực hiện Tần suất Thời lượng (giờ/tuần) Quản lý ao và chất lượng nước 2 lần/ngày 4.25 Cho ăn 2 lần/ngày 7.5 Vệ sinh mương 2 lần/tuần * 6 mương 4.5 Vệ sinh bộ nâng nước 1 lần/tuần * 6 mương 2 Tổng công lao động 18.25 giờ/tuần cho 54.4 m3 mương (khoảng A$6/tuần/m3) Thuận lợi của việc sử dụng mương nổi là chi phí đầu tư không cần nhiều (do không phải xây dựng ao hoặc hệ thống nuôi tuần hoàn cần đầu tư rất nhiều tiền). Mương nổi tự nó đã là một hệ thống hoàn chỉnh và chỉ cần có mặt nước để thả (tất nhiên chất lượng nước phải đảm bảo) và nguồn khí để chạy bộ nâng nước là có thể vận hành được. Chi phí xây dựng và lắp đặt mương nổi cũng sẽ giảm nếu qui mô sản xuất và kích thước của mương nổi đủ lớn. Điều này thể hiện rõ khi so sánh hai dạng mương nổi mà chúng tôi thiết kế tại BIARC. Chi phí cho một m3 mương với mương lớn nuôi thương phẩm là A$130 và cho mương nhỏ để ương cá là A$335. Chi phí Báo cáo số 8 | CARD VIE062/04 PROJECT 8 nhân công cũng sẽ giảm nếu qui mô sản xuất lớn. Nghề nuôi cá Chẽm tại Queensland hiện tại sử dụng khoảng 1 FTE cho mỗi 16 tấn cá nuôi được. Nếu sử dụng mương nổi, con số này chỉ là 1 FTE cho mỗi 10 tấn (Bảng 1). Đây được coi là một thành công lớn đối với một hệ thống vẫn còn đang trong giai đoạn thử nghiệm khi so sánh với các hệ thống nuôi khác. Lợi ích kinh tế mà hệ thống có thể mang lại sẽ lớn hơn khi hệ thống này được hoàn thiện. Báo cáo số 8 | CARD VIE062/04 PROJECT 9 Phần 2: Đánh giá tác động của công nghệ mương nổi lên sự phát triển của nghề nuôi cá biển tại Việt Nam 1. CÁC ĐỐI TƯỢNG HƯỞNG LỢI Ở Việt Nam các đối tượng được hưởng lợi của Dự án bao gồm • Người ương hoặc nuôi thương phẩm cá biển • Người nuôi tôm muốn chuyển đổi hệ thống ao nuôi tôm hiện tại sang ương hoặc nuôi cá biển • Nghề nuôi cá biển tại địa phương 2. CÁC LỢI ÍCH ĐÃ ĐƯỢC THỂ HIỆN 2.1 So sánh hệ thống và phân tích chi phí 2.1.1 Các thuận lợi của việc sử dụng mương nổi Việt Nam đang phát triển nghề nuôi biển tập trung vào 2 nhóm đối tượng chính là giáp xác (tôm he, cua biển và tôm hùm) và cá biển (cá chẽm, mú, giò …). Để tạo nguồn cá giống người ta thường sử dụng các hệ thống ương truyền thống như bể xi măng, ao đất hoặc lồng nuôi kích thước nhỏ. Các khó khăn trong việc sử dụng những hệ thống này được trình bày ở Bảng 1 và đều được giải quyết một cách triệt để nhờ hệ thống mương nổi. Bảng 1: Những bất lợi của các hệ thống ương cá biển truyển thống ở Việt Nam đều được giải quyết một cách triệt để nhờ hệ thống mương nổi Hệ thống Bất lợi Mương nổi Bể xi măng • Chi phí đầu tư cao • Chi phí vận hành cao • Hạn chế về mật độ • Diện tích ương không lớn • Giảm chi phí, dễ di chuyển • Chi phí vận hành thấp hơn • Mật độ ương rất cao • Ít bị hạn chế về diện tích Ao đất • Khó quản lý thức ăn, sức khỏe cá, phân cỡ và thu hoạch • Mức độ phân đàn của cá lớn • Mật độ ương thấp • Khả năng kiểm soát dịch bệnh và địch hại kém • Hiệu quả trọng quản lý thức ăn, sức khỏe cá, phân cỡ, thu hoạch • Mức độ phân đàn thấp • Mật độ ương rất cao • Khả năng kiểm soát dịch bệnh và địch hại lớn Lồng nuôi biển • Không thích hợp với cá giống cỡ nhỏ thường được bán ra từ trại sản xuất • Khả năng kiểm soát dịch bệnh và địch hại kém • Có thể ương cá với kích thước nhỏ hơn kích thước thường được xuất ra từ trại giống • Khả năng kiểm soát dịch bệnh và địch hại lớn Báo cáo số 8 | CARD VIE062/04 PROJECT 10 Trong điều kiện của Việt Nam hai điểm bất lợi của hệ thống mương nổi là sự phụ thuộc vào năng lượng điện và mức đầu tư cao hơn khả năng của người dân nghèo. Tuy nhiên, chúng ta không thể kỳ vọng tất cả mọi người dân đều có thể áp dụng được công nghệ mới này. Họ có thể tập hợp lại thành một nhóm để chia sẻ chi phí và tăng cường hiệu quả sử dụng tài nguyên. 2.1.2 Phân tích kinh tế Ưu điểm của việc sử dụng hệ thống mương nổi để ương con giống cá biển cỡ lớn cũng đã được thể hiện thông qua việc so sánh những lợi ích kinh tế mà nó đem lại với hai hệ thống truyền thống thường được sử dụng nhất là bể xi măng và ao đất. Các lồng nuôi biển không được đưa vào so sánh này do chúng không thích hợp với việc ương con giống cỡ nhỏ. Kinh nghiệm thực tế cho thấy tỉ lệ sống của cá khi ương trong lồng nuôi biển thường rất thấp. Phiên bản mương nổi SMART-2 được sử dụng cho so sánh. Bảng 2: Chi phí đầu tư và vận hành một hệ thống gồm 3 mương nổi SMART-2. Mức chi phí được áp dụng cho đầu năm 2008. Hạng mục Giá đơn vị (triệu đồng) Chi phí (triệu đồng) CHI PHÍ ĐẦU TƯ 03 mương nổi SMART-2 22 66 02 máy thổi (máy cũ đã qua sử dụng) 4 8 Ống dẫn, phụ kiện điện 4 4 Chi phí thuê một ao 5,000 m2 trong 3 năm 15 45 Tổng CHI PHÍ SẢN XUẤT CHO CÁ CHẼM (1,5 tháng/vụ) Triệu đồng Triệu đồng 120.000 con giống cỡ 2 cm chiều dài 120 Thức ăn (INVE và GROBEST) 10 Tiền điện 2 3 02 công nhân 2 6 Vật liệu rẻ tiền và các loại khác 10 Khấu hao hệ thống mương (36 tháng)*1.5 tháng 3,2 5,1 Tổng 154,1 CHI PHÍ SẢN XUẤT CHO CÁ MÚ (1,5 tháng/vụ) (mil VND) (mil VND) 60.000 con giống cỡ 4-5 cm chiều dài 360 Thức ăn (INVE và GROBEST) 15 Tiền điện 2 3 02 công nhân 2 6 Vật liệu rẻ tiền và các loại khác 10 Báo cáo số 8 | CARD VIE062/04 PROJECT 11 Khấu hao hệ thống mương (36 tháng)*1.5 tháng 3,2 5,1 Tổng 399,1 CHI PHÍ SẢN XUẤT CHO CÁ GIÒ (1,5 tháng/vụ) Triệu đồng Triệu đồng 45.000 con giống cỡ 4-5 cm chiều dài 220 Thức ăn (INVE và GROBEST) 15 Tiền điện 2 3 02 công nhân 2 6 Vật liệu rẻ tiền và các loại khác 10 Khấu hao hệ thống mương (36 tháng)*1.5 tháng 3,2 5,1 TOTAL 259,1 GIÁ THÀNH SẢN XUẤT (đồng/con) Cá Chẽm Cá Mú Cá Giò Tỉ lệ sống (%) Số cá Giá thành Số cá Giá thành Số cá Giá thành 50 60.000 2.568 30.000 13.303 22.500 11.516 60 72.000 2.140 36.000 11.086 27.000 9.596 70 84.000 1.835 42.000 9.502 31.500 8.225 75 90.000 1.712 45.000 8.869 33.750 7.677 80 96.000 1.605 48.000 8.315 36.000 7.197 85 102.000 1.511 51.000 7.825 38.250 6.774 90 108.000 1.427 54.000 7.391 40.500 6.398 95 114.000 1.352 57.000 7.002 42.750 6.061 Mức tỉ lệ sống thường đạt được sau 40 – 45 ngày ương là 70% với cá chẽm, 90% với cá mú và 60% với cá giò. Với kết quả này hệ thống mương nổi hoàn toàn có thể cạnh tranh với 2 hệ thống ương truyền thống là bể xi măng và ao đất do giá thành sản xuất thấp hơn so với giá thị trường rất nhiều (Bảng 3). Tỉ lệ sống có thể được cải thiện hơn nữa nếu qui trình độ sản xuất (quản lý chất lượng nước, phân cỡ, cho ăn, chăm sóc sức khỏe cá, …) được thực hienẹ một cách nghiêm ngặt và chất lượng của cá giống tốt. Báo cáo số 8 | CARD VIE062/04 PROJECT 12 Bảng 3: Cỡ và giá của cá ương từ mương nổi Đối tượng nuôi Cỡ thu hoạch từ mương (cm) Giá thành (đồng/con) Giá thị trường (đồng) Tỉ suất lợi nhuận Cá Chẽm 10 1.835 7.000 2,82 Cá Mú 12 7.391 16.000 1,16 Cá Giò 20 9.596 20.000 1,08 Trong điều kiện thiếu hụt những thông tin về giá thành sản xuất của các loại cá giống trên khi được ương trong bể xi măng hoặc ao đất, rất khó để có thể so sánh một các chính xác với mương nổi. Tuy vậy, những thông tin trình bày dưới đây có thể được sử dụng cho những so sánh sơ bộ: • Ở Việt Nam cá Giò chỉ được ương trong bể xi măng. Cá ương trong ao đất ven biển, ví dụ như tại công ty Hoằng Ký, lại bị nhiễm ký sinh trùng nặng và chết hàng loạt khi đưa ra nuôi thương phẩm (trao đổi riêng với Như Văn Cẩn – Viện NC NTTS 1, Niels Sevennevig – Marine Farm). Kích cỡ lớn nhất của cá khi ương trong bể xi măng là 10 cm chiều dài do hạn chế về sinh khối ương. Mật độ ương thích hợp cho bể xi măng là 1.000 con/m3 với mức trao đổi nước là 200%/ngày (trao đổi riêng với Như Văn Cẩn – Viện NC NTTS 1). Vì thế để ương 45.000 con cá giống thì phải cần 45 m3 bể. Chi phí xây dựng bể, thay nước hàng ngày và xử lý nước cao hơn so với chi phí đầu tư 3 mương nổi SMART-2. Hơn nữa, cá khi ương trong mương nổi cso thể đạt kích thước đến 20 cm chiều dài. • Đối với cá Mú thì công ty TNHH Đài Loan – Việt Nam tại Phú Yên hoặc công ty Hoằng Ký ở Khánh Hòa chuyên về ương cá Mú thì giá bán cá Mú Malaba có chiều dài thân 12 cm phải là 22.000 đồng hoặc 20.000 đồng/con thì mới có lợi nhuận. Căn cứ theo những tính toán ở trên, cá Mú Malaba nếu ương trong mương nổi thì có thể bán với giá thấp đến cỡ 10.000 đồng/con. • Với cá Chẽm có kích thước 10 cm chiều dài, giá thị trường tối thiểu phải là 6.000 đồng/con nếu ương trong bể xi măng hoặc 4.000 đồng/con nếu ương trong ao đất (trao đổi riêng với Võ Đình Linh, Sở Thủy sản Bến Tre). Trong khi đó giá thành sản xuất một con cá Chẽm 10 cm nếu sử dụng mương nổi chỉ là từ 1.350 đến 2.560 đồng. 2.2 Hoạt động khuyến ngư Trong thời gian 24 tháng thực hiện Dự án CARD VIE062/04 đã tổ chức 3 hội thảo khuyến ngư và có 4 báo cáo với các đối tượng có khả năng sử dụng công nghệ ở cả trong và ngoài nước (Bảng 4). Các hoạt động này vừa cho thấy những nỗ lực không mệt mỏi của Dự án vừa phản ánh mức độ quan tâm ngày càng tăng của người nuôi. Báo cáo số 8 | CARD VIE062/04 PROJECT 13 Bảng 4: Các hội thảo khuyến ngư đã tổ chức ở Việt Nam để quảng bá kết quả của dự án Ngày Địa điểm Đơn vị tổ chức/Nội dung Số người tham dự 01/2006 Trung tâm khuyến ngư Khánh Hòa, Ninh Lộc CARD VIE062/04 Nguyên lý hoạt động của mương nổi và ứng dụng trong NTTS 60 người nuôi và cán bộ khuyến ngư của Khánh Hòa 12/2006 Trường Đại học Nha Trang CARD VIE062/04 Kết quả nghiên cứu của Dự án tại Australia và Việt Nam Hơn 100 người nuôi, cán bộ khuyến ngư, sinh viên và giảng viên của ĐH Nha Trang 02/2007 San Antonio, Texas, USA World Aquaculture Society 2 báo cáo trình bày kết quả nghiên cứu ở Australia và Việt Nam 1,700 04/2007 Huế Trường Đại học Nông Lâm Huế Sử dụng mương nổi SMART-1 và SMART-2 để ương con giống cá biển Hơn 40 người 05/2007 Cam Ranh, Khánh Hòa Trung tâm Khuyến ngư KHòa Nâng cao năng suất nuôi cá biển bằng cách sử dụng con giống cỡ lớn Hơn 50 người nuôi và cán bộ địa phương 08/2007 Hà Nội Bộ Thủy sản và Hội NTTS Thế giới Quầy triển lãm về mương nổi và 2 báo cáo tại hội nghị 1.200 Hình 1: Hội thảo thứ 1(trái); Giới thiệu công nghệ với công ty tư nhân (phải) Báo cáo số 8 | CARD VIE062/04 PROJECT 14 Hình 2: Theo chiều kim đồng hồ: người NTTS ở địa phương đến thăm quan mương nổi tại Trung tâm Khuyến ngư Khánh Hòa, thảo luận với công ty Phat Fish tại Vũng Tàu về việc sử dụng mương nổi thay cho bể ương, Hội thảo khuyến ngư và Quầy triển lãm tại Hội nghị NTTS tại Hà Nội. 2.3 Phát triển nghề nuôi cá biển ở địa phương Dự án CARD VIE062/04 được xây dựng năm 2004 khi nghề nuôi cá biển của tỉnh Khánh Hòa chỉ mới bắt đầu khởi sự. Nhìn chung nghề nuôi cá biển của Việt Nam phát triển chậm, thậm chỉ sản lượng nuôi còn giảm trong năm 2007 mặc dù Việt nam có tham đạt sản lượng 20 nghìn tấn cá biển nuôi năm 2010 (Hình 3). Các khó khăn cho việc phát triển nghề nuôi cá biển bao gồm sự thiếu hụt • Vốn đầu tư • Cá giống có chất lượng, kích thước lớn • Thức ăn thương phẩm thích hợp cho giai đoạn nuôi thịt (nghề nuôi cá biển hiện phụ thuộc vào nguồn thức ăn là cá tạp) • Công trình nuôi qui mô công nghiệp (ví dụ như lồng nuôi biển cỡ lớn) Trong khoảng 2004-2005, khi Dự án CARD VIE062/04 mới khởi đầu, nghề nuôi biển của Khánh Hòa chỉ giới hạn trên một số đối tượng thuộc 3 nhóm chính là: tôm biển (chủ yếu là tôm Sú), vẹm Xanh (Perna viridis) và tôm hùm gai (chủ yếu là tôm Hùm Bông Panulirus ornatus). Chỉ có duy nhất một cơ sở sản của Đài Loan tại Vạn Ninh thử nghiệm nuôi thương phẩm cá Giò (Rachycentron canadum) trong lồng lớn; và một công ty của Na Uy (Marine Farm) đang trong Báo cáo số 8 | CARD VIE062/04 PROJECT 15 giai đoạn hoạch định và xây dựng cơ sở. Mặc dù vậy thành công của Trường ĐH Nha Trang trong sản xuất giống cá Chẽm và của Công ty Hoằng Ký trong sản xuất con giống cá Mú đã thúc đẩy mạnh sự phát triển của nghề nuôi cá biển ở Khánh Hòa. 0 2000 4000 6000 8000 10000 2004 2005 2006 2007 Year Production (tons) Hình 3: Sản lượng cá biển nuôi của Việt Nam từ 2004 – 2007 (theo Bộ Thủy sản) Quang Ninh, 3440 Hai Phong, 1200Nam Dinh, 720 Thanh Hoa, 45 Nghe An, 400 Ha Tinh, 350 Quang Binh, 2 Da Nang, 50 Phu Yen, 162 Ba Ria Vung  Tau, 95 Kien Giang, 278 Khanh Hoa, 1560 Hình 4: Đóng góp của tỉnh Khánh Hòa cho nghề cho tổng sản lượng cá biển nuôi của Việt Nam năm 2006 Điều tra nhanh của chúng tôi vào đầu năm 2008 cho thấy số lượng trại sản xuất giống cá biển tăng nhanh ở Khánh Hòa, đặc biệt là các trại sản xuất giống cá Chẽm (Hình 5). Đây là dấu hiệu cho thấy nghề nuôi cá biển đang phát triển tốt ở Khánh Hòa và các tỉnh miền Trung Việt nam và phần nào lý giải tỉ lệ đóng góp đến 18.7% của Khánh Hòa vào tổng sản lượng cá biển nuôi trong năm 2006 của Việt Nam (Hình 4). Báo cáo số 8 | CARD VIE062/04 PROJECT 16 0 2 4 6 8 10 12 14 2004 2005 2006 2007 N um be r o f h at ch er ie s Year Grouper Barramundi Cobia Hình 5: Sự phát triển của hệ thống trại sản xuất giống cá biển tại Khánh Hòa Mặc dù kích thước lớn nhất của con giống cá Chẽm do các trại sản xuất giống bán ra có thể đạt 5 cm chiều dài thân, có đến 95% số cá được bán cho người nuôi chỉ ở cỡ 2.5 cm. Năm 2006 ước tính có khoảng 12 triệu con giống cỡ này được sản xuất tại Khánh Hòa (Hoàng Tùng và ctv, số liệu chưa công bố). Để thả nuôi trong ao thương phẩm hoặc lồng thì cỡ 2.5 cm là quá nhỏ. Theo Trung tâm Khuyến ngư Khánh Hòa với cỡ cá giống này thì tỉ lệ sống trong nuôi thương phẩm là rất thấp (<20%) ở Cam Ranh, ảnh hưởng lớn đến năng suất và lợi nhuận (Nguyễn Thị Hậu, trao đổi riêng). Ngay cả một số cơ sở sản xuất hoặc ương giống cá Mú cỡ 4 – 6 cm hoặc cá Giò 6 – 14 cm thì kích thước này vẫn còn thấp hơn so với kích thước cần thiết để đạt được hiệu quả cao trong nuôi thương phẩm. Hình 6: Cá Chẽm giống sản xuất tại địa phương (trái) và đóng túi xuất bán (phải) Điều tra ngẫu nhiên trên 50 hộ nuôi ở Khánh Hòa đầu năm 2008 của chúng tôi cho thấy người nuôi cá Chẽm muốn mua cá giống có kích thước từ 4 - 12 cm. Cũng theo người nuôi thì Báo cáo số 8 | CARD VIE062/04 PROJECT 17 kích thước tối thiểu để thả nuôi trong ao là 3 ÷ 4 cm và để thả nuôi trong lồng là 8 ÷ 10 cm (Hoàng Tùng và ctv, số liệu chưa công bố). Tương tự, Công ty Ngọc Trai Nha Trang (của Đài Loan) và Marine Farm Co. (của Na Uy) đều nuôi cá Giò và muốn thả giống cỡ 20 cm mà cơ sở sản xuất giống chưa cung cấp được. Vì thế mà cá giống của cả ba đối tượng trên cần phải qua một giai đoạn ương nữa. Với cá Giò thì hiện tại không có hệ thống ương nào tỏ ra tối ưu bằng mương nổi (xem báo cáo kỹ thuật số 5). Tác động của Dự án CARD VIE062/04 thể hiện ở chỗ giải pháp sử dụng mương nổi có thể giúp tạo nguồn con giống có kích thước lớn cho người nuôi tại địa phương. Trong thời gian từ đầu năm 2006 đến cuối năm 2007, người nuôi cá ở Khánh Hòa chỉ có thể mua cá Chẽm giống cỡ lớn (6-10 cm) tại Trung tâm Khuyến ngư Khánh Hòa, đơn vị hợp tác với Dự án CARD VIE062/04. Phản hồi từ người nuôi cho thấy cá lớn nhanh và có tỉ lệ sống cao. Nhờ đó mà tháng 4/2008 Trung tâm Khuyến ngư Khánh Hòa đã ký được hợp đồng hỗ trợ cho công ty Australis mỗi tháng ương 250.000 con giống cá Chẽm cỡ lớn tại Nha Trang. Công ty này sẽ phân phối số cá trên đến người nuôi ở Khánh Hòa và Phú Yên và thu mua lại sản phẩm. Ngoài ra, số lượng các doanh nghiệp NTTS đã sử dụng hoặc có kế hoạch sử dụng mương nổi để ương cá Chẽm giống tăng dần lên, cho thấy tác động tích cực của Dự án CARD 062/04 Project (xem phần sử dụng công nghệ). Mặc dù đã có những thăm dò sơ bộ về khả năng sử dụng mương nổi vào đầu năm 2007, cơ sở sản xuất con giống cá Giò tốt nhất của Việt Nam là Viện NC NTTS 1 vẫn chưa sử dụng công nghệ này. Vì thế sẽ còn phải mất nhiều thời gian nữa cơ sở này mới có thể đáp ứng được yêu cầu về con giống cá Giò có kích thước lớn. Hình 7: Cá Giò ương trong mương nổi tại Trung tâm Khuyến ngư Khánh Hòa năm 2007 3. MỨC ĐỘ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ Cho đến thời điểm hiện tại, đã có một số số cơ sở sản xuất ở Việt Nam sử dụng công nghệ mương nổi bao gồm: Báo cáo số 8 | CARD VIE062/04 PROJECT 18 • Công ty Minh Thuận: chuyên sản xuất con giống tôm Sú (Penaeus monodon). Từ cuối năm 2007 bắt đầu sản xuất con giống cá Chẽm (Lates calcarifer). Nhận biết được nhu cầu con giống cỡ lớn, công ty đã thiết lập hai cơ sở, một tại Ninh Thuận và một tại Bến Tre sử dụng mương nổi phiên bản SMART-1 để ương cá Chẽm từ cỡ 2 cm lên cỡ 6 – 10 cm. Công ty này còn dự định thử nghiệm ương giống cá Tra bằng mương nổi. • Australis (USA): hiện tại công ty Australis cung cấp con giống cá Chẽm cỡ lớn cho người nuôi thương phẩm ở miền Trung Việt Nam và thu mua lại sản phẩm để xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Australis đã tiếp xúc và bày tỏ ý định sử dụng mương nổi SMART-2 để ương cá Chẽm khi đến thăm quầy triển lãm của Dự án tại Hội nghị APC Aquaculture 2007 ở Hà Nội tháng 8/2007. Tháng 4/2008 Australis đã ký văn bản hợp tác với Trung tâm Khuyến ngư Khánh Hòa để sử dụng hệ thống mương nổi do Dự án CARD VIE062/04 hỗ trợ cho Trung tâm và làm thêm 6 mương nổi SMART-2 mới ương cá Chẽm giống. Dự kiến sản lượng hàng tháng là 250 nghìn con cỡ 10 cm. Hình 8: Làm khuôn để đúc mương nổi 25-m3 bằng composite để nuôi cá Chình Bông tại Phú Yên (Ảnh: Hoàng Tùng) Báo cáo số 8 | CARD VIE062/04 PROJECT 19 Hình 8: Lắp đặt mương nổi SMART-2 để sản xuất giống Rô phi đơn tính tại Trung tâm Khuyến ngư Bình Định (Ảnh: Hoàng Tùng) • Công ty Cá Chẽm Việt: tại Vũng Tàu. Công ty thành lập năm 2007 để đáp ứng nhu cầu cá Chẽm giống của người nuôi. Ngay từ khi bắt đầu hoạt động, công ty đã quyết định sử dụng mương nổi để ương cá Chẽm từ cỡ 2 cm lên 10 cm. Công suất hoạt động dự kiến của công ty là 100 triệu cá bột/tháng. • Công ty Trường Thành: sử dụng mương nổi để nuôi thương phẩm cá Chình Bông (Anguilla mamorata) ở Phú Yên. Vì công ty sử dụng hồ chứa nước để nuôi nên mương nổi SMART-2 đã được cải tiến tăng thể tích từ 6 m3 lên 25 m3. Thử nghiệm nuôi bắt đầu từ năm 2008. • Trung tâm Khuyến ngư Bình Đinh: sử dụng mương nổi SMART-2 để ương giống cá rô phi đơn tính. • Ngòai ra còn một số đơn vị muốn sử dụng mương nổi để ương cá Chình giống như Sở Nông nghiệp Cà Mau, Viện NC NTTS 3 (Nha Trang) hoặc ương cá Mú giống ở Thạn Phú (Bến Tre). Mặc dù Dự án CARD VIE062/04 kết thúc vào cuối năm 2007 các thông tin vừa đề cập bên trên đã phần nào cho thấy công nghệ mà Dự án nghiên cứu và trình diễn đã được chấp nhận. Các doanh nghiệp trong nước cần có thêm thời gian để biết, tìm hiểu và ứng dụng công nghệ tiên tiến này. Vì vậy mà tác động thực sự của Dự án chỉ có thể được đánh giá một cách đúng mức sau một vài năm nữa. Chương trình CARD nên có những hoạt động hỗ trợ để quảng bá Báo cáo số 8 | CARD VIE062/04 PROJECT 20 kết quả nghiên cứu của Dự án này và các dự án tương tự đến các địa phương khác ở Việt Nam. Để biết thêm thông tin xin vui lòng liên hệ PGS.TS. Hoàng Tùng Khoa Công nghệ Sinh học Trường Đại học Quốc tế Linh Trung, Thủ Đức, TP Hồ Chí Minh Email: htung@hcmiu.edu.vn Phone: +84.979710372

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnong_nghiep_106__3152.pdf
Luận văn liên quan