Ngành hàng không Việt Nam trong quá trình hội nhập

Tính thiết yếu của đề tài. “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế” là chủ trương sáng suốt và đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta trước đòi hỏi tất yếu và cấp bách của toàn cầu hóa, quốc tế hóa ngày càng mạnh mẽ - quá trình này đang chi phối toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội của toàn thế giới. Với bước đi quan trọng trong quá trình hội nhập quốc tế đã được chỉ đạo kịp thời và chặt chẽ của Đảng và Nhà nước Việt Nam đã và đang nỗ lực tham gia vào các tổ chức và diễn đàn kinh tế khu vực, thế giới Hiện nay chúng ta đã là thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO, cùng những các khối liên kết kinh tế như AFTA, APEC Bên cạnh những cơ hội mang lại cho quá trình phát triển kinh tế Việt Nam – thì chúng ta cũng phải đương đầu với rất nhiều khó khăn và thách thức trước xu thế của thời đại. Trong quá trình đó ngành kinh tế nói chung và Hàng không nói riêng đều giữ vai trò quan trọng trong hoạt động giao lưu buôn bán quốc tế. Ngành hàng không đã có nhiều đóng góp trong việc thúc đẩy kinh tế phát triển, tăng thu ngoại tệ, cải thiện cán cân thanh toán. Đồng thời mở rộng trao đổi hàng hóa, giao lưu văn hóa, quảng bá hình ảnh đất nước Việt Nam với thế giới. Với vai trò đặc biệt quan trọng như vậy thì việc nghiên cứu Ngành hàng không trong quá trình hội nhập có ý nghĩa hết sức quan trọng và cần thiết. Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn này. “Ngành hàng không Việt Nam trong quá trình hội nhập” Đã được lựa chọn làm đề tài khóa luận tốt nghiệp. MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NGÀNH HÀNG KHÔNG VIỆTNAM . 2 1.1. LỊCH SỬ RA ĐỜI CỦA NGÀNH HÀNG KHÔNG VIỆT NAM. 2 1.1.1. Sự ra đời của ngành hàng không nói chung. 2 1.1.2. Sự hình thành và phát triển của ngành hàng không Việt Nam 5 1.2. ĐẶC ĐIỂM CỦA NGÀNH HÀNG KHÔNG VIỆT NAM . 8 1.2.1. Cơ cấu tổ chức của ngành hàng không Việt Nam. 8 1.2.2. Cơ sở hạ tầng của ngành Hàng không Việt Nam. 12 1.3. VAI TRÒ CỦA NGÀNH HÀNG KHÔNG 17 CHƯƠNG 2: SỰ TÁC ĐỘNG CỦA TOÀN CẦU HÓA TỚI HÀNG KHÔNG VIỆT NAM . 20 2.1. THỰC TRẠNG CỦA HÀNG KHÔNG VIỆT NAM TRƯỚC HỘI NHẬP. 20 2.1.1. Lĩnh vực dịch vụ KHCN. 22 2.1.2. Lĩnh vực thử nghiệm, sản xuất thử. 23 2.1.3. Các hoạt động dịch vụ khác: 23 2.2. HÀNG KHÔNG VIỆT NAM SAU THỜI KỲ HỘI NHẬP. 25 2.2.1. Những cơ hội. 26 2.2.2. Những khó khăn. 26 2.2.3. Những thị trường mới. 27 2.3. NHỮNG TỒN TẠI CỦA HÀNG KHÔNG VIỆT NAM SAU KHI HỘI NHẬP. 32 CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH HÀNG KHÔNG VIỆT NAM 37 3.1. ĐỊNH HƯỚNG VÀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN 37 3.1.1. Định hướng phát triển của ngành hàng không. 37 3.1.2. Chính sách phát triển của NHK Việt Nam. 40 3.2. GIẢI PHÁP. 41 KẾT LUẬN 47

doc52 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4389 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Ngành hàng không Việt Nam trong quá trình hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
: Cơ sở hạ tầng hàng không, sân bay hiện nay còn thiếu và chưa đồng bộ, một số sân bay nội địa đang trong tình trạng quá tải, chất lượng dịch vụ và đào tạo cán bộ vẫn chưa đạt yêu cầu đặt ra, nhưng KHVN đã khắc phục những khó khăn đó để tiếp tục phát triển và hội nhập. Trong hơn 40 năm qua (1956 – 2000), NHK Việt Nam không có nhiều biến đổi và phát triển chậm, cho đến khi thực hiện kế hoạch 5 năm 2001 - 2005, Ngành HKVN triển khai nhiệm vụ trong bối cảnh chính trị của đất nước ổn định, kinh tế không ngừng phát triển, quan hệ quốc tế ngày càng được mở rộng. Tuy nhiên, những biến cố lớn trong giai đoạn này (Sự kiện 11/9 năm 2001; chiến tranh Irắc năm 2002; dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp (SARS) năm 2003 và dịch cúm gia cầm năm 2004-2005) đã có những tác động nặng nề tới vận tải hàng không toàn cầu nói chung và vận tải hàng không Việt Nam nói riêng. Đây là những khó khăn cho toàn ngành trong việc thực hiện các định hướng, mục tiêu chiến lược cũng như các chỉ tiêu cụ thể đề ra cho cả một giai đoạn phát triển. Song, ngành HKVN đã nỗ lực phấn đấu và đã hoàn thành vượt mức kế hoạch 5 năm 2001-2005 đề ra trên tất cả các lĩnh vực. Đối với lĩnh vực Vận tải Hàng không đã tạo được môi trường pháp lý và môi trường kinh doanh thuận lợi. Nhờ vậy, các doanh nghiệp vận tải của Việt Nam đã từng bước vượt qua khó khăn về năng lực, vốn, công nghệ để ổn định sản xuất kinh doanh và phát triển. Đối với lĩnh vực quản lý và khai thác cảng hàng không, các cảng hàng không trong những năm qua đã được tập trung đầu tư nâng cấp, xây mới theo hướng hiện đại, góp phần giảm đáng kể tình trạng quá tải, chất lượng phục vụ hành khách ngày càng được nâng cao, sản lượng hành khách, hàng hóa thông qua các cảng hàng không không ngừng tăng và đã góp phần quan trọng đáp ứng nhu cầu tăng cường an ninh, quốc phòng, phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương. Hiện nay, ngành HK đang quản lý, khai thác 22 Cảng hàng không (CHK) trong đó có 3 CHK quốc tế và 19 CHK địa phương với tổng công suất là 14 triệu hành khách/năm. Có 10 CHK đạt cấp 4E, 10 CHK đạt cấp 4C và 2 CHK đạt cấp 3C theo phân cấp của Tổ chức Hàng không Dân dụng Quốc tế (Internationnal Civil Aviation Organization)[1, tr 4]. Về quản lý, điều hành bay: Việt Nam đang quản lý và điều hành các hoạt động bay trong vùng trời có diện tích khoảng 1.200.000 km2 thuộc 2 vùng thông báo bay (FIR) là FIR Hà Nội và FIR Hồ Chí Minh. Với nhiệm vụ này, ngành quản lý điều hành bay không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ không lưu, đạt được trình độ tiên tiến của các nước trong khu vực... Trước thời điểm Hội nhập Tổng giám đốc Tổng công ty HKVN, Viện Trưởng Viện KHHK ký quyết định phê duyệt thành lập Trung tâm dịch vụ KHCN. Các sản phẩm dịch vụ chủ yếu Trung tâm dịch vụ KHCN hiện nay đang triển khai thực hiện bao gồm: 2.1.1. Lĩnh vực dịch vụ khoa học công nghệ của ngành Hàng không.  Cung ứng các luận chứng kinh tế - kỹ thuật, các dự án quy hoạch, đầu ttheo đặt hàng.    Tư vấn các vấn đề về thẩm định công nghệ, mua bán, chuyển giao công nghệ, sở hữu công nghiệp, bảo đảm tiêu chuẩn chất lượng hàng hoá, dịch vụ. Hàng năm trung tâm đều có các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học phục vụ trực tiếp cho công tác quản lý của Tổng công ty HKVN như: -   Chương trình áp dụng ISO 9000 trong Tổng công ty HKVN -   Sở hữu công nghiệp trong Tổng công ty HKVN năm 2000   Cung ứng, lắp đặt, hướng dẫn khai thác các thiết bị vật tư Khoa học công nghệ và môi trường sản xuất thử nghiệm các sản phẩm nghiên cứu triển khai phục vụ nhu cầu của các cơ quan, đơn vị trong Viện, Tổng công Ty, ngành và thị trường   Sửa chữa, bảo dưỡng, hiệu chỉnh vận hành các thiết bị Khoa học công nghệ và môi trường theo nhu cầu của Viện, Tổng công ty và thị trường. Các thiết bị, vật tư, phụ tùng thay thế trên máy bay và các trang thiết bị mặt đất. Đây là 2 nhiệm vụ hiện nay Trung tâm đang gấp rút xây dựng dự án đầu tư cơ sở vật chất và nhân lực nhằm đáp ứng nhu cầu rộng lớn, cấp thiết của Tổng công ty đang đặt ra hiện nay.  2.1.2. Lĩnh vực thử nghiệm, sản xuất thử. Hệ thống các sản phẩm tiềm năng của trung tâm, với thế mạnh là hoạt động trong lĩnh vực KHCN tiên tiến về Hàng không, Trung tâm đang xúc tiến tổ chức xây dựng các dự án đầu tư cụ thể để triển khai đồng bộ loại hình dịch vụ này. Hiện nay đội máy bay sở hữu của Vietnam Airlines đang tăng lên nhanh chóng, đi kèm với đội bay, hệ thống trang thiết bị phục vụ mặt đất cũng được đầu tư đồng bộ. Vật tư phụ tùng thay thế hàng năm hầu hết đều phải nhập ngoại. Nhiều đề tài nghiên cứu khoa học đã đánh giá và đề cập đến việc sản xuất vật tự phụ tùng thay thế đặc biệt là vật tư, phụ tùng trang thiết bị khai thác mặt đất. Một số sản phẩm dự kiến khai thác là: các loại ống hút cao su thuỷ lực, ống hút chất thải vệ sinh máy bay, thùng contener khoang hàng máy bay, tay ốp ghế máy bay... Dự kiến Trung tâm sẽ tổ chức phối hợp với một số đơn vị trong và ngoài ngành để nhanh chóng đưa các đề tài vào sản xuất thử và cung ứng kịp thời theo nhu cầu của thị trường. Năm 2000 kỷ niệm 990 năm Thăng Long – Hà Nội, Trung tâm đã sản xuất chế tạo thành công 9 con rồng bơm khí và được thả tại Hồ Hoàn Kiếm – Hà Nội do Th.s Phạm Văn Tới chủ trì thực hiện là một trong những ứng dụng đầu tiên của trung tâm trong việc sản xuất thử nghiệm các sản phẩm nghiên cứu. 2.1.3. Các hoạt động dịch vụ khác:    a) Phục vụ các hội nghị, hội thảo, đưa đón đoàn theo hợp đồng. Được giao nhiệm vụ khai thác cơ sở vật chất của Viện, trung tâm không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ các lớp học, hội nghị, hội thảo của các đơn vị có nhu cầu. Hệ thống phòng hội trường được trang bị âm thanh và ánh sáng hiện đại. Đội ngũ cán bộ công nhân viên phục vụ từng bước đã nắm bắt tốt hơn cách thức phục vụ các yêu cầu của khách hàng.  Thực hiện dịch vụ nhận giữ, bảo quản trang thiết bị, vật tư với hệ thống kho bãi của Viện dần đảm bảo được về cất lượng và an toàn đối với trang thiết bị, phương tiện giao thông, hàng hoá vật tư.  b) Tổ chức luyện thi tiếng Anh theo tiêu chuẩn TOEIC của ETS Học ngoại ngữ đang là nhu cầu cấp thiết đối với xã hội trong điều kiện kinh tế hội nhập, đặc biệt là trong ngành Hàng không luôn gắn ngoại ngữ trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của Tông công ty HKVN. Hàng năm, Trung tâm đã tổ chức cho hàng trăm lượt học viên là CBCNV ngành hàng không và các đối tượng có nhu cầu học tập tham gia các khoá ôn luyện thi TOEIC. Trung tâm luôn duy trì mở lớp hàng tháng và chất lượng ngày càng được nâng cao với đội ngũ giáo viên có nhiều năm kinh nghiệm luyện thi và đang giảng dạy trong các trường đại học có uy tín của Việt nam như Đại học ngoại thương, Đại học ngoại ngữ - Đại học quốc gia Hà Nội. c) Trung tâm dịch vụ KHCN Thực hiện thành công đề án "Thiết kế qui hoạch mạng sân bay dân dụng toàn quốc", được Chính phủ phê duyệt. Hoàn thành xuất sắc đề tài độc lập cấp Nhà nước: "Thiết kế chế tạo máy bay trực thăng siêu nhẹ" (giai đoạn 1). Thực hiện thành công các dự án quốc tế tài trợ như: VIE/89/016 về nâng cấp khí tượng Hàng không; RAS/93/101 về nâng cấp công tác an toàn, an ninh HK, tìm kiếm cứu nguy trong khu vực Đông Nam Á, ... Những con số ấn tượng trước thời điểm hội nhập[1 ,t r12]: Sản lượng vận chuyển hành khách từ 2001- 2005 đạt 25,3 triệu lượt, với mức tăng trưởng bình quân 12,8%/năm; Sản lượng hàng hóa đạt 459 nghìn tấn, tăng trưởng bình quân 13,1%/năm; Tổng sản lượng hành khách thông qua cảng HK đạt 53,5 triệu lượt, tăng bình quân 12,4%/năm, sản lượng hàng hóa thông qua cảng đạt 1,15 triệu tấn, tăng bình quân 19,4%/năm; Sản lượng điều hành bay đạt 1,036 triệu lần chuyến và 1,2 tỷ km điều hành, tăng tương ứng 8,8%/năm và 12%/năm. Tổng doanh thu toàn ngành đạt trên 83.000 tỷ đồng, tăng 16,3%/năm, nộp ngân sách đạt 7.148 tỷ đồng, tăng trưởng 9%/năm 2.2. HÀNG KHÔNG VIỆT NAM SAU THỜI KỲ HỘI NHẬP. Nhìn lại 5 năm tham gia tiến trình hội nhập (2001 – 2005), thị trường hàng không Việt Nam đã đạt được những bước tiến đáng kể với mức bình quân tăng trưởng hàng năm là 15%. Bộ Giao thông vận tải, Ngành hàng không Việt Nam đã nỗ lực tập trung đầu tư vào các dự án nâng cấp kết cấu hạ tầng, mua sắm trang thiết bị phục vụ, đào tạo con người, đơn giản hóa thủ tục nhằm khai thác hiệu quả các sân bay và cung ứng dịch vụ hàng không. Ngành hàng không Việt Nam đã chú trọng vào công tác đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu hội nhập và phát triển. Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang hội nhập toàn cầu như hiện nay, Ngành Vận tải hàng không (VTHK) thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng cũng đang vận hành theo xu thế đó. Để phát triển và hội nhập, Tổng Công ty HKVN đã và đang chủ động tham gia vào thị trường VTHK thế giới - một thị trường có tính cạnh tranh quốc tế rất khốc liệt, với nhiều đối thủ khổng lồ, có tiềm lực mạnh và kinh nghiệm dày dạn như Air France, Singapore Airlines, Lufthansa, Cathay Pacific… Nằm trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, nơi có lĩnh vực vận tải hàng không được coi là tốc độ phát triển cao nhất toàn cầu, Việt Nam đang được đánh giá là một thị trường đầy tiềm năng. Việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới  (WTO), ký kết các hiệp định thương mại song phương, hoàn thiện hơn nữa hệ  thống luật pháp, đã làm cho guồng máy của nền kinh tế hoạt động mạnh mẽ hơn,  nhu cầu đi lại và du lịch của người dân tăng cao, từ đó, tạo đà phát triển cho ngành  vận tải hàng không. Nắm bắt cơ hội trong một thị trường đầy tiềm năng, Tổng Công ty Hàng không Việt Nam (HKVN) đã thực hiện một bước đi quan trọng  mang tính chiến lược: Trở thành thành viên chính thức của Hiệp hội Vận tải Hàng  không Quốc tế (IATA) vào tháng 12/2006. Để trở thành thành viên của IATA, HKVN phải vượt qua quá trình kiểm tra cấp  chứng chỉ an toàn khai thác hết sức nghiêm ngặt của IATA. Với chứng chỉ  An toàn khai thác, HKVN đã đạt được những yếu tố an toàn bay và những tiêu chuẩn chung  về chất lượng dịch vụ và khai thác bay của thế giới. Vì thế, các rào cản xuất phát  từ lý do trình độ quản lý và khai thác của HKVN được dỡ bỏ, mở ra một loạt  những cơ hội cũng như thách thức mới cho HKVN. 2.2.1. Những cơ hội. Cơ hội đầu tiên khi gia nhập IATA là HKVN sẽ được tham gia vào một môi  trường kinh doanh bình đẳng hợp tác trong lĩnh vực vận chuyển hàng không, tham  gia khai thác tự do vùng trời ở mọi khu vực và tùng lãnh thổ. Hơn nữa, HKVN còn  có cơ hội khai thác và trao đổi thông tin, dữ liệu chung trên phạm vi toàn cầu về  thời tiết, nguy cơ khủng bố, các lỗi kỹ thuật... và nhận được sự hỗ trợ tối đa khi  khó khăn. Cùng với đó, việc đơn giản hóa các thủ tục kinh doanh cũng là một cơ  hội lớn khi tham gia IATA. Cam kết giữa các thành viên IATA trong quá trình đơn giản hóa thủ tục kinh doanh đã giúp giảm chi phí khai thác và tăng lợi nhuận cho các thành viên. Đổi mới khoa học, công nghệ và tạo nguồn nhân lực trình độ cao cũng là một hoạt động hỗ trợ của IATA dành cho các hãng hàng không thành viên. Có thể nói, trở thành thành viên của IATA không chỉ đem lại lợi ích về mặt thương mại mà còn có ý nghĩa rất lớn về mặt xây dựng và quảng bá tên tuổi của HKVN. Thương hiệu và biểu tượng "Vietnam Airlines" sẽ được đưa vào danh  sách các hãng hàng không thành viên của IATA, góp phần không nhỏ vào việc khẳng định đẳng cấp quốc tế cũng như chất lượng toàn cầu của các loại hình dịch vụ mà HKVN đang cung cấp. 2.2.2. Những khó khăn. Thách thức lớn nhất có lẽ là môi trường cạnh tranh khốc liệt với sự mở rộng của thị trường hàng không trong nước thời kỳ hậu WTO. Việc thâm nhập, mở rộng hoạt động của các hãng hàng không lớn với cơ sở hạ tầng vững chắc và nguồn lực dồi dào, sự ra đời và bùng nổ mạnh mẽ của hãng hàng không giá rẻ và luật tự do hóa bầu trời đang đi vào hoạt động, là thách thức đòi hỏi các nỗ lực không ngừng của HKVN. Cải tiến nâng cao chất lượng dịch vụ, khai thác an toàn nhằm duy trì hiệu lực của chứng chỉ IOSA là một điều kiện tiên quyết mà HKVN phải nỗ lực. Ngoài ra, là thành viên IATA, HKVN còn tham gia các chương trình cải cách lớn của Hiệp hội, như chương trình áp dụng vé điện tử đối với hành khách và hàng hóa mà hãng đang thực hiện. Các chương trình lớn nhằm mục đích số hóa công tác quản lý, sử dụng dữ liệu, đơn giản hóa các thủ tục đối với hành khách, tránh sai lỗi là quá trình cải cách đòi hỏi đầu tư phát triển dài hạn và đồng bộ. 2.2.3. Những thị trường mới. Ngoài các cơ hội và  thách thức kể trên, việc trở thành thành viên của IATA là bước khởi đầu thuận lợi cho kế hoạch mở đường bay tới Mỹ trong năm 2008 của HKVN. Để vươn tới thị truờng Mỹ, HKVN phải đạt chất lượng khai thác, bảo dưỡng, dịch vụ theo quy chế của nhà chức trách Hàng không Mỹ. Quy chế này về cơ bản bao hàm các yêu cầu  tương đương với tiêu chuẩn IOSA. Do vậy, các cố gắng không ngừng nghỉ đang từng bước đưa Hàng không Việt Nam tham gia vào một trong những thị trường hàng không sôi động nhất thế glớì, thị trường Hoa Kỳ.  HKVN, một hãng hàng không quốc gia trên con đường hội nhập và phát triển còn nhiều thử thách và trở ngại. Tuy nhiên, qua quá trình phát triển từ một hãng hàng  không khiêm tốn của thập niên 90 cuối thế kỷ trước, trở thành một Hãng hàng  không có tên tuổi trong cộng đồng IATA hôm nay, là một minh chứng rằng kết quả của những cố gắng, nỗ lực đó đã và đang được công nhận. Bước sang năm 2008, là mùa xuân thứ 10 liên tiếp HKVN an toàn tuyệt đối với con số vận chuyển kỷ lục: gần 9 triệu lượt hành khách. Đây là một thành tích mà trước đây vài năm không mấy người trong ngành HKVN dám mơ ước.Trong đó riêng hãng hàng không quốc gia Vietnam Airlines (VNA) thực hiện gần 70.000 chuyến bay an toàn tuyệt đối, vận chuyển hơn 8 triệu khách.  Ở ngành HKVN nói chung và Vietnam Airlines nói riêng, mọi hoạt động luôn được đặt trên nền tảng an toàn. Từ cách cầm chiếc cờ lê của người thợ ở xưởng sửa chữa tàu bay đến người làm ở văn phòng cơ quan quản lý, làm thủ tục bay... đều có mục tiêu trước hết là bảo đảm an toàn cho những chuyến bay.  Có thể nói, không có một nghị quyết, cuộc họp nào ở HKVN lại không nhắc đến an toàn. Ý thức đó cộng với hệ thống kiểm soát an toàn hiện đại, tiên tiến xuyên suốt từ hệ thống tổ chức con người tác nghiệp đến hệ thống luật pháp, kỹ thuật, kiểm soát chất lượng sản phẩm, quy chế an ninh... ngày càng hoàn thiện là nền tảng an toàn vững chắc của HKVN.  Từ năm 1992 trở lại đây khi nguồn cung cấp kỹ thuật, phương tiện từ Liên Xô không còn nữa, HKVN bắt đầu phải thuê, mua các thế hệ máy bay hiện đại về khai thác. Thời gian này bước khởi đầu hòa nhập với ngành Hàng không thế giới của HKVN. Cứ mỗi một hợp đồng thuê, mua tàu bay thì kèm theo là các hợp đồng tài trợ đào tạo người lái, nhân viên kỹ thuật...  Cùng các hợp đồng đào tạo theo các hợp đồng thương mại, HKVN tổ chức nhiều lớp đào tạo đủ các ngành nghề tiếp thu những quy trình kiểm soát an toàn khoa học, bài bản của các cường quốc hàng không. Hàng trăm lớp đào tạo thợ, chuyên gia, phi công, kiểm soát viên không lưu được cử đi Australia, Pháp, Anh, Mỹ, Nga, Ucraina, New Zealand học tập, tiếp thu những kiến thức tiên tiến nhất về khai thác hàng không, máy bay, trang thiết bị hiện đại.  Cùng với kiến thức, phi đội máy bay trẻ, hiện đại, HKVN còn có hệ thống tổ chức bộ máy quản lý ngày càng tiên tiến, hội nhập với hàng không thế giới. Những năm gần đây, cơ quan quản lý Nhà nước ngành HKVN đã tách hẳn khối sản suất kinh doanh, chấm dứt hiện tượng "vừa đá bóng, vừa thổi còi" trong lĩnh vực quản lý đặc biệt là giám sát an toàn bay.  Theo đó, các đơn vị, hãng hàng không phải tổ chức khai  thác, bảo dưỡng, sửa chữa tàu bay, các trang thiết bị phục vụ bay, đào tạo, huấn luyện nhân viên hàng không... theo đúng quy trình, tiêu chuẩn của Mỹ, châu Âu và các quy định của nhà chức trách HKVN còn ngặt nghèo hơn. Việc thuê, mua bất kể loại tàu bay chở khách gì, chất lượng tốt đến đâu, ngoài lai lịch phải rất rõ ràng, máy bay phải dưới 20 tuổi đời (thông thường hàng không thế giới cho phép khai thác thương mại máy bay đến 25 tuổi). Tất cả các loại vật tư, phụ tùng đều phải được chế tạo bởi những hãng sản xuất danh tiếng nhất...  Năm 2007 cũng cho thấy cố gắng phi thường của NHK Việt Nam và  Vietnam Airlines đã đi đầu trong việc quản lý chất lượng an toàn khai thác. Vietnam Airlines đã đạt được tiêu chuẩn an toàn khai thác (IOSA) của Hiệp hội các hãng hàng không quốc tế (IATA) sau nhiều năm thực hiện chương trình quản lý chất lượng ISO ở các công ty, xí nghiệp: A75, A76, xí nghiệp phục vụ kỹ thuật thương mại mặt đất Nội Bài, Tân Sơn Nhất...  Với thành quả đó, Vietnam Airlines được IATA kết nạp là thành viên chính thức. Đây là một mốc son rực rỡ của ngành HKVN. Bởi vì chỉ có những hãng hàng không có tổ chức quản lý chất lượng an toàn khai thác rất cao mới được gia nhập tổ chức này.  Nếu so sánh với những hãng hàng không lớn, có kinh nghiệm quản lý lâu đời hơn VNA rất nhiều ở Nga, Mỹ, và nhiều nước Đông Nam Á, châu Á, châu Phi mà vẫn chưa được gia nhập tổ chức này, mới thấy sự nỗ lực của VNA, ngành HKVN trong khi gặp không ít khó khăn: Khí hậu khắc nghiệt, mưa, bão... các hãng hàng không thiếu phương tiện, vật tư, phụ tùng...  Năm 2007, trong khi nhiều nước trên thế giới, trong khu vực, nhất là ở Indonesia, Philipines, Thailand... bị nhiều tai nạn thì HKVN chỉ gặp các sự cố nhưng vẫn nằm trong tầm kiểm soát, tất cả đều được điều tra làm rõ, rút kinh nghiệm kịp thời....  Vào những ngày cuối năm 2007, Vietnam Airlines đã huy động được nguồn tài chính để ký hợp đồng mua thêm 42 máy bay hiện đại nhất gồm 10 chiếc A350, 20 chiếc A321 của châu Âu và 12 chiếc B787 của Mỹ. Đây cũng là cơ sở quan trọng cho nỗ lực không ngừng nâng cao an toàn của HKVN. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu diễn ra từ giữa năm 2008 đang ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế thế giới trong đó có Việt Nam. Tình hình thị trường hàng không cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Theo dự báo của Hiệp hội Hàng không quốc tế (IATA) NHK thế giới sẽ lỗ 6,1 tỷ USD, mức cao nhất từ năm 2003[6, tr 3]. NHK Việt Nam cũng không nằm ngoại lệ, càng bay nhiều càng lỗ, một số hãng đã phải cắt giảm đường bay, chuyến bay, giảm nhiều nhân lực, cơ cấu lại các chuyến bay để giảm lỗ tới mức thấp nhất có thể chịu đựng được. Đối với hoạt động kinh tế, trong khó khăn vẫn có những cơ hội nếu chúng ta biết nắm bắt. Mặc dù mọi chỉ tiêu kinh tế - xã hội của đất nước trong thời kì hội nhập này đều giảm sút nhưng Việt Nam vẫn được đánh giá là một thị trường tiềm năng và có tốc độ tăng trưởng vẫn cao nhất nhì khu vực và thế giới. Việc giá dầu thế giới đã giảm từ mức 148 USD/thùng giữa năm 2008 xuống mức 40 – 50 USD/ thùng vào cuối năm 2008, dự báo năm 2009 cũng sẽ chỉ dao động ở mức tương tự là điểm rất thuận lợi cho NHK Việt Nam. Bên cạnh đó, những chính sách của nhà nước cũng từng bước tạo thuận lợi cho NHK, trong đó có việc mới đây nhà nước đã xóa bỏ giá trần trên các đường bay nội địa, cho phép áp dụng phụ thu nhiên liệu khi giá dầu tăng quá mức và bắt đầu áp dụng chính sách chống độc quyền đối với các dịch vụ phục vụ ở các CHK, SB, cung ứng nhiên liệu… Một trong những động thái đầu tiên để ngành hàng không Việt Nam bước vào hội nhập là điều chỉnh các loại giá theo hướng bằng mức trung bình của khu vực ASEAN, xóa bỏ phân biệt về mức thu giữa các hãng hàng không trong và ngoài nước. Hiện nay với NHK Việt Nam, nhà nước chỉ quản lý 6 loại giá, bao gồm giá dịch vụ điều hành bay đi/đến; hạ – cất cánh; soi chiếu an ninh; cung cấp bổ sung dịch vụ điều hành bay quá cảnh; giá dịch vụ phục vụ hành khách tại cảng hàng không và giá đường bay chuẩn Hà Nội – TP HCM. Theo Quyết định số 13/2006 của Bộ Tài chính ban hành ngày 13/3/2006, hai loại giá gồm giá soi chiếu an ninh (thu từ các hãng hàng không) và phục vụ hành khách sẽ tăng. Giá soi chiếu an ninh được điều chỉnh từ mức thu 30 – 70 USD/chuyến; bay quốc tế lên mức 30 – 170 USD/chuyến (tương đương 0,51 USD/hành khách với hệ số sử dụng ghế 70%); giá ở các đường bay nội địa vẫn giữ nguyên bằng 50% mức giá bay quốc tế. Hai loại giá được giữ nguyên là hạ - cất cánh và bổ sung dịch vụ điều hành bay quá cảnh. Riêng giá điều hành bay đi – đến giảm theo hướng có lợi cho cả hãng hàng không trong và ngoài nước. Ở đường bay quốc tế, hãng hàng không nước ngoài được giảm 25% giá hiên hành để bằng mức áp dụng cho hãng hàng không Việt Nam bay quốc tế. Theo Ban Tài chính Cục hàng không Việt Nam, mức thu một số dịch vụ tại cảng hàng không điều hành bay tại Việt Nam cao hơn mức bình quân ASEAN đã làm giảm bớt năng lực cạnh tranh của các hãng hàng không Việt Nam so với một số cảng lớn trong khu vực. Hiện nay, các hãng hàng không đang nỗ lực duy trì “dải giá” rộng tới các mức thấp để người dân có thể tiếp cận dễ dàng hơn với vận tải hàng không, nhưng vé máy bay nội địa mới có khoảng hơn 10 loại giá với mức chênh lệch giữa khung giá cao và khung giá thấp không quá 2 lần. Các loại vế bay trong ngày, bay theo giờ đều đã được tính toán nhưng chưa thể thực hiện vì bị khống chế giá trần. 2.3. NHỮNG TỒN TẠI CỦA HÀNG KHÔNG VIỆT NAM SAU KHI HỘI NHẬP. Sau khi Hội nhập ngành HKVN còn gặp nhiều khó khăn và hạn chế về khả năng tài chính của doanh nghiệp, vốn đầu tư nhỏ không đáp ứng được nhu cầu đầu tư cho phát triển đội bay, đào tạo con người, chuyển giao công nghệ khai thác và bảo dưỡng máy bay. Các doanh nghiệp HKVN chưa thực sự thích nghi với môi trường cạnh tranh, còn quen với sự độc quyền và bảo hộ của Nhà nước. Đến nay, Nhà nước vẫn phải duy trì một số chính sách bảo hộ đối với hoạt động của Tổng công ty HKVN dưới những hình thức như chính sách trao đổi thương quyền; giá, phí ưu đãi tại các cảng hàng không và phí quản lý bay; hỗ trợ tài chính và ưu đãi về thuế… Chi phí cho một đơn vị sản phẩm còn ở mức cao do chi phí khấu hao ban đầu và chi phí cho tiền thuê máy bay lớn. Đội bay còn nhỏ bé và thiếu, chưa đáp ứng được yêu cầu vận tải hành khách và hàng hoá. Số lượng máy bay tầm ngắn và tầm trung chưa đáp ứng đủ nhu cầu khai thác của cả trong nước và quốc tế. Lượng máy bay tầm xa còn quá mỏng nên hạn chế trong việc khai thác các đường bay xuyên lục địa, bị động và gây xáo trộn trong lịch khai thác khi hết thời hạn thuê và trả máy bay. Các doanh nghiệp cũng chưa có đội máy bay chuyên chở hàng hoá. Sự kết hợp giữa vận tải hàng không với du lịch và các loại hình giao thông khác còn chưa chặt chẽ, hài hoà. Sau 5 năm áp dụng (2001 – 2005), biểu giá hiện hành đã có những bất cập, chưa phù hợp với các quy định trong Hiệp định hàng không Việt Nam đã kí với các nước cũng như thông lệ quốc tế và khuyến cáo của tổ chức hàng không dân dụng quốc tế (ICAO) do vẫn còn phân biệt về giá giữa các đối tượng trong và ngoài nước. Đặc biệt chưa thực hiện tốt chính sách ưu đãi về giá để thu hút nhiều hơn nữa các hãng hàng không nước ngoài đến Việt Nam, nhất là các thị trường đang mở cửa là Hà Nội và Đà Nẵng. Việc điều chỉnh theo Quyết định số 13/2006/QĐ – BTC sẽ đưa biểu giá hàng không của Việt Nam từng bước hòa đồng với mức trung bình của khu vực. Năm 2008 là năm rất khó khăn đối với ngành vận tải nước nhà nói chung và vận tải hàng không nói riêng. Trong năm qua, các hãng HKVN đã phải đối mặt với nhiều tác động lớn ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động kinh doanh vận tải hàng không, đặc biệt là sự biến động, tăng cao bất thường của giá xăng dầu, sự suy thoái kinh tế trên phạm vi toàn cầu kéo theo đó là sự sụt giảm nhu cầu đi lại bằng đường hàng không. Mặc dù vậy, năm 2008, các hãng HKVN vẫn đạt được kết quả khả quan trong sản xuất kinh doanh, cụ thể, các hãng HKVN vận chuyển dự kiến đạt 10,53 triệu lượt khách, 136,5 nghìn tấn hàng hoá, tăng lần lượt 20,5% và 13,2% so năm 2007[1, tr 19]. Vietnam Airlines đóng vai trò chủ lực với kết quả vận chuyển đạt hơn 9 triệu khách trong đó có khoảng 3,6 triệu khách thực hiện trên các đường bay quốc tế. Năm 2008 cũng chứng kiến sự ra đời của hai hãng hàng không mới là Indochina Airlines (đã khai thác tháng 11/2008) và Mekong Aviation[7, tr 5]. Để triển khai các qui định của Luật Hàng không dân dụng 2006 một cách chủ động, kịp thời, phù hợp với tình hình thực tiễn, tạo điều kiện cho hoạt động của các hãng Hàng không Việt Nam, trong năm qua, Bộ GTVT đã tham mưu cho Chính phủ và chỉ đạo Cục HKVN hoàn thiện các văn bản qui phạm pháp luật liên quan đến việc cho phép các hãng Hàng không Việt Nam phụ thu phí xăng dầu, dỡ bỏ giá trần trên một số đường bay nội địa, giá dịch vụ tại CHK. Bên cạnh đó, Bộ GTVT, Cục HKVN cũng đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, thực hiện nhanh chóng, minh bạch và tuân thủ các qui định của pháp luật trong quản lý, điều hành và giám sát hoạt động của các hãng hàng không, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động trong việc xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh, khai thác đường bay và phát triển đội tàu bay, đáp ứng nhu cầu tăng trưởng vận tải hàng không đồng thời đảm bảo an toàn tuyệt đối trong hoạt động khai thác. Suy thoái kinh tế và khủng hoảng tài chính ở qui mô toàn cầu sẽ kéo theo những hệ luỵ khó lường đối với nền kinh tế Việt Nam như sụt giảm trong các lĩnh vực đầu tư, thương mại, xuất nhập khẩu, du lịch… Vì vậy, năm 2009 được dự báo là năm đặc biệt khó khăn đối với kinh doanh vận tải hàng không. Để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho hoạt động khai thác cho các hãng HKVN, Bộ GTVT sẽ tiếp tục đẩy mạnh công tác cải cách hành chính; chỉ đạo Cục HKVN nghiên cứu, thực hiện việc điều chỉnh các đường hàng không quốc tế và nội địa, các phương thức bay tại các sân bay Việt Nam theo hướng rút ngắn thời gian bay, góp phần giảm tiêu hao nhiên liệu hàng không, giảm khí thải. Ngoài ra, Bộ Giao thông Vận tải (GTVT) và Cục HKVN cũng phải tích cực, chủ động theo dõi những biến đổi của tình hình thực tiễn để có thể tham mưu chính xác cho Chính phủ và đưa ra những quyết sách đúng đắn, kịp thời trong công tác quản lý, điều hành và giám sát hoạt động của các hãng hàng không nhằm giảm nhẹ khó khăn cho doanh nghiệp, giữ vững mục tiêu tăng trưởng và an toàn khai thác máy bay. Đến thời điểm hiện tại, Việt Nam có 06 hãng hàng không kinh doanh vận chuyển hành khách thường lệ, bao gồm: Vietnam Airlines, Công ty cổ phần hàng không Jetstar Pacific Airlines (thay cho tên cũ Pacific Airlines), VASCO, ViêtJet Air, Indochina Airlines, Mekong Aviation, và 01 hãng hàng không kinh doanh trong lĩnh vực phục vụ dầu khí, hàng không chung bằng tàu bay trực thăng là Tổng công ty CT bay dịch vụ Việt Nam (SFC). Trên cơ sở đánh giá tình hình thực tiễn và nhu cầu tăng trưởng thị trường vận tải hàng không, kế hoạch phát triển của các hãng hàng không, năng lực tiếp nhận và phục vụ tàu bay của các CHK, năng lực giám sát an toàn của Nhà chức trách hàng không và tham khảo thực tiễn của một số quốc gia trong khu vực trong việc cấp phép thành lập hãng hàng không, có thể khẳng định, số lượng hãng hàng không này là phù hợp cho giai đoạn từ nay đến năm 2010. Việc xem xét, cho phép thành lập thêm các hãng hàng không sẽ được thực hiện sau năm 2010 trên cơ sở nhu cầu thị trường, sự hoạt động và mở rộng của các hãng hàng không đã được cấp phép và thực tiễn hạ tầng cơ sở ngành HKDDVN. Tồn tại tiếp theo của HKVN sau khi hội nhập là các chuyến bay bị chậm giờ. Có 6 nguyên nhân chính dẫn đến các chuyến bay bị chậm, huỷ như: kiểm soát không lưu, điều kiện thời tiết, các yêu cầu về khai thác, điều kiện kỹ thuật, đòi hỏi về thương mại... Đặc biệt, nguyên nhân thời tiết thường chiếm 60-70% các chuyến bay chậm, huỷ. Người đi máy bay khi mua vé, đặt chỗ tức là đã thoả thuận với hãng vận chuyển bản hợp đồng dân sự, trong đó người tiêu dùng trả một khoản tiền đổi lấy việc hãng đưa hành khách đến nơi đúng ngày, giờ ghi trong vé một cách an toàn. Ngược lại, hãng vận chuyển phải bồi thường cho người tiêu dùng vì sự chậm trễ, huỷ chuyến hoặc gây tai nạn chết hành khách. Nếu vì tai nạn, bị thương, bị chết thì đã có các điều ước rõ ràng của tổ chức hàng không quốc tế (ICAO) mà HKVN Việt Nam là một thành viên. Những vụ tai nạn hàng không xảy ra của HKVN thời gian qua đã được cơ quan bảo hiểm và hãng vận chuyển thực hiện khá tốt đúng luật pháp và thông lệ quốc tế. Riêng trường hợp các chuyến bay bị chậm, huỷ thì phức tạp hơn tuỳ theo quy định của luật pháp và chính sách của hãng vận chuyển. Trên các đường bay quốc tế hiện nay, các hãng HK của Việt Nam như Vietnam Airlines, Pacific Airlines, Vasco đều phải cạnh tranh với các đối tác nước ngoài nên việc bồi thường cho hành khách khi chậm, huỷ chuyến không còn là một trong những chính sách cạnh tranh. Không có luật thì họ vẫn phải làm hết sức mình để giành hành khách, bảo vệ thương hiệu của hãng. Riêng đối với mạng đường bay nội địa, đặc biệt trên đường Hà Nội - TP Hồ Chí Minh thì việc bồi thường cho khách khi các chuyến bay chậm, huỷ tương đối "nhạy cảm". Có thể nhà chức trách HKVN nên căn cứ tình hình thực tế, từng thời điểm mà quy định việc bồi thường cho người tiêu dùng. Về cơ bản thời gian qua, Vietnam Airlines vì thương hiệu của doanh nghiệp cũng đã có những quy định khá cụ thể đối với hành khách. VNA đã có nhiều chính sách hỗ trợ, bồi thường, giảm bớt thiệt hại cho người tiêu dùng phù hợp thông lệ quốc tế. Từ việc thông báo chuyến bay bị chậm, huỷ, cung cấp dịch vụ cho chuyến bay chậm, huỷ như: nước uống, gọi điện thoại về gia đình, đối tác, ăn uống, vận chuyển mặt đất, giải trí, bố trí chuyến bay bổ sung, bố trí vận chuyển mặt đất đến nơi đến, bồi thường tiền mặt theo 4 mức... Vấn đề ở đây là việc tự giám sát thực hiện chính sách và quy định bồi thường này của hãng còn yếu, thái độ của nhân viên hàng không với người dân chưa đúng mực. Miền Bắc Việt Nam là một khu vực có thời tiết thuộc loại phức tạp nhất thế giới. Ngoài mưa, bão nhiều, miền Bắc còn có những mùa sương mù rất "kỵ" với nghề bay. Mùa này kéo dài suốt từ tháng 11,12 năm trước đến hết tháng 3 năm sau gây khó khăn cho hoạt động bay. Nhiều phi công nước ngoài bay đến VN rất sợ mùa sương mù ở xứ ta. Có những ngày, giờ hoạt động bay hoàn toàn ngưng trệ. Cuối tháng 2 đầu tháng 3 hàng năm, năm nào cũng có những ngày có 30 - 40% số chuyến bay bị chậm, huỷ do thời tiết. Cứ mỗi chuyến bị chệch thời gian sẽ kéo theo khoảng 5 - 6 chuyến khác bị ảnh hưởng tuỳ theo lượng máy bay dự bị của doanh nghiệp. Cơ sở hạ tầng hàng không của VN cũng góp phần không nhỏ gây nên chậm, huỷ chuyến, ở VN hiện chỉ có sân bay Tân Sơn Nhất và sắp tới là Nội Bài có trang thiết bị đạt tiêu chuẩn CAT 2 (tiêu chuẩn bay) tức là máy bay được phép hạ cánh khi tầm nhìn 800 m, trần mây 60-63 m, còn lại là CAT 1- cấp thấp nhất. CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH HÀNG KHÔNG VIỆT NAM 3.1. ĐỊNH HƯỚNG VÀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN Hiện tại, Việt Nam đứng thứ 6 trong ASEAN, thứ 42-43 trên thế giới về vận tải hàng không, với 4 hãng hàng không: Vietnam Airlines, Pacific Airlines, VASCO, Tổng công ty Bay dịch vụ (SFC) và 43 hãng hàng không nước ngoài khai thác đến Việt Nam. Hệ thống sân bay gồm 22 cảng hàng không, trong đó có 3 cảng quốc tế và 19 cảng nội địa. Thời gian qua, vận tải hàng không Việt Nam đã phát triển nhanh chóng với tốc độ cao, đạt 14,5 triệu khách/năm (tăng bình quân 11,7%/năm). Tính đến nay, có 25 đường bay đến 18 thành phố, thị xã trên toàn quốc, trong đó đường bay trục Bắc - Nam nối liền 3 thành phố Hà Nội - Đà Nẵng - Hồ Chí Minh chiếm hơn 65% tổng lượng khai thác vận chuyển nội địa. Mạng đường bay quốc tế của HKVN có 39 đường bay (36 đường bay trực tiếp và 3 đường bay liên danh). Tổng doanh thu của các hãng HKVN năm 2006 đạt xấp xỉ 16.000 tỷ đồng, trong đó doanh thu của Vietnam Airlines chiếm khoảng 92%. Tổng số tàu bay của các doanh nghiệp vận chuyển HKVN hiện có 71 chiếc[2, tr 7,8]. 3.1.1. Định hướng phát triển của ngành hàng không. Trong giai đoạn phát triển mới, các cảng hàng không ở nước ta cần phải hiện đại hóa hơn nữa để hội nhập được với cộng đồng hàng không Quốc tế; nhanh chóng đưa các sân bay Quốc tế trở thành các trung tâm trung chuyển vận tải hàng không lớn của khu vực và Thế giới. Với tốc độ tăng trưởng như hiện nay, vận tải hàng không (hành khách và hàng hoá) đang đứng trước thực trạng vượt quá khả năng đáp ứng của cơ sở hạ tầng (trang thiết bị phụ trợ dẫn đường và dịch vụ hàng không). Dẫn đến tình trạng sân bay bị quá tải, không đủ để phục vụ. Hoạt động quản lý và điều hành trở nên khó khăn và phức tạp. Hiện tượng tắc nghẽn không lưu ở nhiều khu vực do tăng tần suất bay và mật độ bay quá lớn. Mục tiêu của HKVN đến năm 2010, là tiếp tục tập trung huy động mọi nguồn lực cần thiết, thúc đẩy làm chủ công nghệ mới theo hướng đi thẳng vào hiện đại, đạt trình độ khu vực, có một số lĩnh vực ngang tầm tiên tiến của thế giới, xây dựng Ngành hàng không thành một ngành kinh tế mạnh. Kế hoạch phát triển NHK thông qua 3 giai đoạn, từ nay tới năm 2010 NHK Việt Nam sẽ cần khoảng 1 tỷ USD xây dựng mở rộng cơ sở hạ tầng; giai đoạn 2 từ năm 2011 tới 2015 cần 1,800 triệu USD; giai đoạn 3 từ năm 2016 tới 2020 cần thêm 2,700 triệu USD[6, tr 1]. Việc ưu đãi cho các phi trường quốc tế được đặt lên hàng đầu. Từ năm 1995 tới 2005 lượng hành khách tăng đều mỗi năm lên 11%, lượng hàng hóa tăng 13,4% và sẽ tiếp tục tăng mạnh đến năm 2010. Căn cứ kết quả phân tích, nhận định thị trường cũng như những mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước, chỉ tiêu tăng trưởng cho ngành hàng không Việt Nam được đặt ra trong giai đoạn 2010 – 2020 theo Quyết định của Thủ tướng chính phủ ngày 08/01/2009, số 21/QĐ-TTg là 14 – 16% cho tổng thị trường vận tải hành khách và 16 – 18% cho tổng thị trường vận tải hàng hóa. Việc phát triển giao thông hàng không được xem là mục tiêu quan trọng, đóng góp tích cực vào công cuộc Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa (CNH – HĐH) đất nước. Vì thế, vẫn còn nhiều cơ hội cho các hãng hàng không mới gia nhập thị trường. Theo kế hoạch phát triển đội máy bay đến năm 2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 18/10, số lượng máy bay khai thác của Tổng công ty Hàng không Việt Nam (Việt Nam Airlines) không ngừng tăng lên trong đó có nhiều loại máy bay mới, hiện đại, bay xuyên lục địa. Cụ thể, số lượng máy bay được đưa vào khai thác sẽ tăng từ 60 chiếc (năm 2010) lên 85 chiếc (năm 2015) và 107 chiếc (năm 2020). Số lượng máy bay này có thể được điều chỉnh phù hợp với tình hình phát triển thực tế của thị trường. Trong giai đoạn 2006 - 2020, Việt Nam Airlines sẽ mua 43 máy bay gồm 20 máy bay A321 (loại 150 ghế), 8 máy bay B787-8 (280 ghế), 5 máy bay ATR 72 (70 ghế) và 10 máy bay A350-900 (300 ghế, bay xuyên lục địa). Thủ tướng Chính phủ cho phép Việt Nam Airlines thực hiện chỉ định thầu đặc biệt (không phát hành hồ sơ yêu cầu chào hàng), đàm phán trực tiếp với Boeing về hợp đồng mua 12 máy bay B787-8, hoàn thành ký hợp đồng trước ngày 16/11/2007 và với Airbus về hợp đồng mua 10 máy bay A350, 20 máy bay A321, hoàn thành ký hợp đồng trước ngày 21/12/2007[1, tr 9]. Thủ tướng Chính phủ đồng ý cấp 904 tỷ đồng vốn Ngân sách Nhà nước cho dự án đầu tư 4 máy bay B787-8 (đã ký hợp đồng mua năm 2005). Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Tài chính chủ trì triển khai thực hiện cổ phần hóa Việt Nam Airlines. Bộ Tài chính sẽ bảo lãnh miễn phí các khoản vốn vay mua máy bay, động cơ máy bay của Việt Nam Airlines và Công ty cổ phần Cho thuê máy bay Việt Nam. Đến năm 2020 sẽ có mức tăng trưởng 11-14%/năm, đạt 32,4 triệu khách và 0,8 triệu tấn hàng hóa, mạng đường bay được mở rộng với tần suất khai thác cao, dịch vụ trung chuyển tốt tại 2 trung tâm Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, phát triển đội tàu bay lên 140 - 150 chiếc (trong đó sở hữu 70-80 chiếc)[9, tr 5]. Đến năm 2020, sẽ mở rộng hoạt động kinh doanh vận tải hàng không, xoá độc quyền, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội, phấn đấu đứng trong top 3 của ASEAN về vận tải hàng không, với tối đa 10 hãng hàng không. Đồng thời, nâng công suất, năng lực khai thác của toàn mạng cảng hàng không lên gấp 4 lần so với hiện nay vào thời điểm năm 2020. Chúng ta nên đánh giá cao vai trò của ngành hàng không dân dụng trong việc bảo đảm hạ tầng cho tăng trưởng kinh tế - xã hội. Ngành cần tích cực tìm ra mô hình tổ chức hoạt động, định hướng phát triển phù hợp, tháo gỡ những điểm "thắt nút" để đẩy nhanh được tốc độ phát triển. "Hàng không cần phát triển trước một bước để đảm bảo hạ tầng cho tăng trưởng kinh tế. Trong chiến lược phát triển sắp tới, cần rà soát, đưa vào định hướng, mục tiêu phát triển phù hợp với xu thế của thế giới, đặc biệt là xem xét mục tiêu tăng trưởng cao hơn, nhanh hơn, quy mô lớn hơn cả về mạng đường bay, đội tàu bay cũng như hệ thống cảng hàng không". Bên cạnh đó, cần lưu ý rằng hàng không thực chất là một ngành công nghệ cao, vì vậy trong quản lý cần có những chính sách, chế độ thích hợp đối với việc đổi mới công nghệ, tiêu chuẩn, chất lượng dịch vụ, lực lượng lao động, nhất là đội ngũ phi công. Đặc biệt, trong quản lý Nhà nước cần phân định rõ chức năng nào sắp tới sẽ được chuyển sang chức năng điều tiết để cán bộ, người lao động trong ngành có được cơ chế đãi ngộ phù hợp. Với quan điểm chuyển sang giá thị trường, chuyển đổi mô hình hoạt động của các đơn vị trực thuộc, nghiên cứu thành lập Tập đoàn HKVN theo hướng tạo ra một tổ chức kinh doanh có quy mô ngành, có tiềm lực mạnh, tăng cường huy động các nguồn vốn đầu tư cho phát triển kết cấu hạ tầng giao thông hàng không. Trong đó,cần lưu ý chủ động, tự huy động nguồn vốn đầu tư cho đội máy bay, phát triển công nghiệp hàng không, các cơ sở dịch vụ đồng bộ... 3.1.2. Chính sách phát triển của NHK Việt Nam. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nhấn mạnh, mục tiêu của NHK Việt Nam là phát triển trở thành hãng hàng không, tập đoàn hàng không mạnh tầm cỡ khu vực đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Trong đó,Vietnam Airlines tập trung xây dựng và sớm trình Chính phủ cụ thể chiến lược phát triển theo hướng này. Thủ tướng khẳng định: Chính phủ sẽ tạo điều kiện để Vietnam Airlines giữ vững vai trò lực lượng chủ lực, chủ đạo trong vận tải hàng không của quốc gia. Thủ tướng nhấn mạnh: trong bối cảnh khó khăn năm 2009, Vietnam Airlines cần nhận rõ những thời cơ, thuận lợi để khai thác và phát huy, đặc biệt là trong đầu tư xây dựng hạ tầng, phát triển máy bay, khai thác tối đa nhu cầu trong nước…phấn đấu đứng vững trong khó khăn để phát triển. Tiêu chí đứng vững để phát triển theo Thủ tướng là phải giữ vững các đường bay, không cắt giảm nhân viên, tiếp tục đẩy mạnh đầu tư, phát triển đội tàu bay, đào tạo nguồn nhân lực, quan trọng hơn là phải tiết kiệm thu chi để kinh doanh không thua lỗ…Thủ tướng cũng yêu cầu Vietnam Airlines xây dựng đảng bộ trong sạch, vững mạnh, tập thể đoàn kết, nhất trí nhằm vượt qua khó khăn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, không để xảy ra những vụ việc tiêu cực như năm vừa qua. Ngành hàng không Việt Nam đặt ra mục tiêu lấy việc kinh doanh vận chuyển hàng không làm nòng cốt, đồng thời phát triển đa dạng các loại hình dịch vụ liên quan tới hàng không như: bảo dưỡng, sửa chữa máy bay và thiết bị hàng không; vận chuyển hàng hóa nội đia, quốc tế…với chủ trương tăng cường hợp tác cùng phát triển trong cộng đồng hàng không. Năm 2009 Ngành hàng không đặt ra hai mục tiêu cụ thể và có kế hoạch chi tiết để thực hiện thành công. Đó là thực hiệ kế hoahj bay thương mại và đạt được cấp chứng chỉ AOC (chứng chỉ nhà khai thác). 3.2. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGÀNH HÀNG KHÔNG VIỆT NAM. Việc điều chỉnh quy hoạch CHK,SB muốn thực hiện được tốt cần phải có các phương pháp và giải pháp, các động thái đúng đắn, khách quan thích hợp trong từng thời kỳ. Dưới đây sơ bộ trình bày một vài kiến nghị ban đầu: 3.2.1. Việc đầu tiên là phải kiểm tra, đánh giá phương pháp thiết kế quy hoạch hệ thống CHK, SB mà đề án lần thứ nhất đã đưa ra. Từ đó, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện một cách thật cơ bản cả về lý luận và thực tiễn để đề xuất một phương pháp thiết kế quy hoạch thật khoa học, khách quan, có tính mở, hiện đại và khả thi với một hệ thống các tiêu chí cần thiết và một chương trình phần mềm xử lý hữu hiệu, chính xác. Đó là phương tiện để tiến hành thiết kế, quy hoạch hệ thống CHK, SB trong giai đoạn mới. thống CHK, SB Cần khẩn trương tiến hành thiết kế, quy hoạch hệ nhằm điều chỉnh thiết kế quy hoạch CHK, SB toàn quốc phù hợp với những đòi hỏi của sự phát triển kinh tế - xã hội và an ninh quốc phòng trong giai đoạn hiện nay và đáp ứng tiến trình hội nhập quốc tế. Hệ thống CHK, SB đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ cao trong tổng thể quy hoạch giao thông vận tải quốc gia, khu vực và quốc tế sẽ góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành HKDD Việt Nam trên trường quốc tế, đóng góp một phần xứng đáng vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 3.2.2.Hoàn thiện cơ chế chính sách thúc đấy ngành hàng không phát triển. Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, quy trình, quy phạm kinh tế - kỹ thuật đồng bộ, thống nhất trong toàn ngành về CHK, SB, sớm trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt ban hành. 3.2.3. Lập trung tâm ngân hàng dữ liệu về hệ thống CHK,SB, tiến hành đăng bạ để quản lý và cho phép xúc tiến biên soạn, ban hành các quy chế, khu vực lân cận, tiếp giáp sân bay theo các điều 23 và 25 của Luật HKDD Việt Nam. 3.2.4.Xuất phát từ thực tiễn của ngành không hiện nay, nước ta chưa có sân bay hoạt động riêng cho quân sự và dân dụng vì thế Chính phủ cần sớm ban hành quy chế quản lý các sân bay dùng chung giữa quân sự và dân dụng theo hướng một chủ thể quản lý công trình thống nhất: Ngành HKDD quản lý trong thời bình, ngành Quốc phòng quản lý trong thời chiến. 3.2.5. Cần sớm thiết kế, quy hoạch các CHK,SB quốc gia trên mặt nước. Đối với 10 CHK,SB đã thiết kế kết hợp với xây dựng đường cao tốc cần giao cho địa phương quản lý cụ thể. Đối với sân bay chưa đưa vào hệ thống CHK,SB lần 1, nay rà soát lại và sau đó giao cho các địa phương quản lý, khai thác, bảo quản theo quy định thống nhất. Khi cần, Nhà nước sẽ thu hồi cho xây dựng phát triển. 3.2.6. Nhà nước cần nghiên cứu khả năng thành lập quỹ xây dựng CHK,SB quốc gia một tài khoản đặc biệt do Nhà nước thống nhất quản lý sử dụng. 3.2.7.Trong quá trình hội nhập cùng thế giớ thì ngành HK giứ một vai trò vô cùng quan trọng vì vậy Nhà nước cần có chính sách đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ về CHK,SB đủ đáp ứng nhu cầu phát triển của hệ thống CHK,SB cho ngành HKDD Việt Nam trong tương lai. 3.2.8. Việc điều chỉnh quy hoạch hệ thống CHK,SB cần được tiến hành thận trọng, có tính kế thừa và tính phát triển, có tính mở, có lý luận và thực tiễn, phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng và đáp ứng tiến trình hội nhập quốc tế của đất nước. 3.2.9. Chọn cơ quan chủ trì có đủ năng lực và kinh nghiệm. Sau khi đề án điều chỉnh được phê duyệt, cần phải phân công trách nhiệm rõ ràng, đầy đủ cho các cơ quan chức năng có thẩm quyền quản lý kết quả đề án, cập nhật thông tin theo quy định và đề xuất việc tiếp tục điều chỉnh cho phù hợp với sự phát triển chung của thời đại trong tương lai. Công tác đào tạo của HKVN cần tập trung vào những hướng sau đây: + Xây dựng chiến lược đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt là đội ngũ cán bộ KHCN và chuẩn hóa đào tạo theo tiêu chuẩn quốc tế một cách đồng bộ, phù hợp với yêu cầu của sản xuất - kinh doanh và với tỷ lệ hợp lý giữa các chuyên ngành. + Xây dựng chương trình đào tạo - huấn luyện theo nguyên tắc đi tắt, đón đầu, với nội dung được cập nhật thường xuyên, phù hợp với từng lĩnh vực chuyên ngành và theo sát chiến lược phát triển của Tổng Công ty. Đồng thời, hoàn thiện hệ thống tổ chức, quản lý đào tạo - huấn luyện của HKVN. + Đa dạng hóa các loại hình đào tạo - huấn luyện và tăng cường ứng dụng thành tựu công nghệ thông tin hiện đại vào công tác đào tạo - huấn luyện như đào tạo tập trung, đào tạo từ xa, đào tạo qua Internet, kết hợp đào tạo tại chỗ, gửi ra nước ngoài và đào tạo trong nước… + Xây dựng thư viện điện tử, phuc vụ công tác đào tạo - huấn luyện và nghiên cứu khoa học, góp phần nâng cao trình độ và cập nhật kiến thức cho đội ngũ nhân lực trình độ cao. Thư viện này sẽ được xây dựng giống như cửa sổ Window hay cổng vào Internet, giúp người sử dụng có thể truy cập, tra cứu nhiều thông tin liên quan đến công việc của mình một cách nhanh chóng và thuận tiện. Ngoài ra, có thể cập nhật những yêu cầu cho từng vị trí công việc vào đây, nhằm giúp người sử dụng có thể tìm tháy những công việc phù hợp với khả năng và sở thích của họ, qua đó, khuyến khích họ tự học hỏi, nâng cao trình độ, khuyến khích sự cầu tiến và nỗ lực nâng cao tay nghề của mỗi cá nhân. + Chú trọng phát triển nguồn nhân lực làm công tác quản lý. Việc lựa chọn, đào tạo, huấn luyện nguồn nhân lực quản lý là đòi hỏi tất yếu trước sức ép cạnh tranh toàn cầu. Bản chất của quá trình đổi mới và hiện đại hóa công nghệ quản lý - điều hành là đổi mới tổ chức, thiết lập và vận hành hệ thống các qui trình theo tiêu chuẩn quốc tế tiên tiến. Vì vậy, phải căn cứ vào mục tiêu và chiến lược phát triển của doanh nghiệp và đòi hỏi của thị trường để trang bị và cập nhật kịp thời những kiến thức quản lý hiện đại cho nguồn nhân lực này, đặc biệt là những người có kiến thức và năng lực lãnh đạo, quản lý. + Có chính sách phù hợp khuyến khích người lao động tham gia học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, thường xuyên cập nhật kiến thức; lập kế hoạch tái đào tạo người lao động để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thực tế sản xuất kinh doanh. 3.2.10.Hoàn thiện cơ chế chính sách thúc đẩy ngành hàng không phát triển. Tiếp tục hoàn thiện cơ bản việc xây dựng hệ thống pháp luật đảm bảo cho ngành hàng không phát triển thuận lợi. Phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước đi đôi với phát triển mạnh mẽ các thành phần kinh tế và ngành hàng không,áp dụng mô hình quản lí hiện đại; đổi mới cơ bản phương thức hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công; hình thành, phát triển đồng bộ đa dạng ngành hàng không trong cả nước; từng bước liên thông với thị trường khu vực và thế giới; giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với công bằng và tiến bộ xã hội, bảo vệ môi trường ; nâng cao hơn nữa hiệu lực quản lí nhà nước, nâng cao vai trò của nhân dân trong quản lí phát triển kinh tế- xã hội. -Hoàn thiện chính sách đầu tư cho ngành hàng không. Nguồn vốn đầu tư có thế huy động cả trong và ngoài nước. Giải pháp thu hút vốn đầu tư trong nước: + Thiết lập các định chế nhằm tổ chức, phát triển thị trường vốn dài hạn, ngắn hạn, thị trường chứng khoán, hoàn thiện cơ chế tín dụng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có thể tham gia vào vòng luân chuyển vốn của xã hội. Huy động mọi tiềm năng về vốn trên thị trường của pháp luật. + Thúc đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa,thực hiện phát hành cổ phiếu thu hút vốn đầu tư của cán bộ, công nhân viên và của xã hội nhằm phát triển kinh doanh. Giải pháp thu hút vốn đầu tư nước ngoài: + Cần tranh thủ nguồn vốn ODA, vốn viện trợ sử dụng đầu tư phát triển các kết cấu hạ tầng. +Cần có chính sách ưu đãi, thông thoáng và tổ chức xúc tiến đầu tư phát triển các kết cấu hạ tầng của ngành hàng không. Đầu tư khoa học công nghệ để nâng cao sức cạnh tranh với ngành hàng không nước ngoài. Đặc biệt chú trọng khắc phục sự mất cân đối giữa cơ chế hệ thống khoa học công nghệ và cơ cấu kinh tế. Tập trung phát triển công nghệ theo hai hướng: / Công nghệ cơ bản liên quan đến nhiều ngành kinh tế hoặc phát huy lợi thế về nguồn tài nguyên thiên nhiên và nguồn nhân lực dồi dào. / Đầu tư công nghệ chứa hàm lượng cao về trí tuệ,các loại máy bay tiên tiến,hiện đại,có sức chứa lớn..hoàn thiện và nâng cao bộ phận nghiên cứu và phát triển. Để đáp ứng được nhu cầu trên thì cần phải chú trọng thu hút đầu tư vào ngành hàng không Tăng cường liên kết và xúc tiến hoạt động hợp tác khu vực ASEAN để liên kết các hãng hàng không đa quốc gia dưới sự bảo trợ của chính phảu các nước ASEAN. KẾT LUẬN Hội nhập kinh tế quốc tế với tinh thần chủ động mở rông thị trường, tranh thủ lợi thế từ bên ngoài (vốn, kinh nghiệm quản lý…) để thúc đẩy Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa theo định hướng XHCN. Muốn thực hiện nhiệm vụ kinh tế giai đoạn 2006 – 2010 cần phải coi phát triển kinh tế là ưu tiên hàng đầu. Trong đó, hoạt động của ngành hàng không đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy kinh tế phát triển. Từ việc phân tích và làm rõ những vấn đề liên quan đến ngành hàng không Việt Nam trong quá trình hội nhập bài khóa luận đã hệ thống hóa được những vấn đề sau: Thứ nhất: Nêu ra được những kết quả về ngành hàng không Việt Nam, qua đó nêu lên đặc điểm, vai trò quan trọng của ngành hàng không Việt Nam và tính tất yếu phải đẩy mạnh hàng không phát triển trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Thứ hai: Trên cơ sở phân tích thực trạng ngành hàng không Việt Nam từ trước và sau hội nhập, luận văn đã phản ánh đúng những thành tựu đã đạt được và những tồn tại mà ngành hàng không Việt Nam cần khắc phục. Thứ ba: Sau khi phân tích hiện trạng, khóa luận đã bước đầu đưa ra những định hướng và giải pháp phát triển ngành hàng không Việt Nam. Như vậy, thực trạng của ngành hàng không Việt Nam bên cạnh những thành tựu đã đạt được, còn rất nhiều những hạn chế từ phía cơ chế chính sách đến thực tiễn kinh doanh. Vì vậy, để biến những giải pháp thành hành động thực tiễn, đồng thời đem lại kết quả tích cực cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành, sự nỗ lực của ngành hàng không và sự hỗ trợ nhiệt tình của nhà nước. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Noibaiairport, Báo cáo tháng năm 2007, Hà Nội tháng 12/2008. Noibaiairport, Báo cáo năm 2008, Hà Nội tháng 12/ 2008. Tập thể tác giả, Thương mại quốc tế, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội năm 2002. Tập thể tác giả, Quan hệ Kinh tế Quốc tế, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội năm 2003. LỜI CẢM ƠN Trước tiên em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới TS. Nguyễn Văn Lịch, người đã trực tiếp, tận tình hướng dẫn em trong suốt quá trình thực hiện khóa luận này. Em xin chân thành cảm ơn các thầy, cô trong Khoa Quan hệ quốc tế Trường Đại học Dân lập Đông Đô đã giảng dạy và tạo mọi điều kiện cho em trong 4 năm học vừa qua để em có những kiến thức cơ bản hoàn thành bài khóa luận này. Cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè đã động viên giúp đỡ em cả về vật chật lẫn tinh thần. Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 30 tháng 4 năm 2009. Sinh viên Lê Thị Thanh Hải DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT STT Nội dung cần viết tắt Chữ viết tắt 1 Cảng hàng không CHK 2 Sân bay SB 3 Hàng không dân dụng HKDD 4 Ngành hàng không NHK 5 Tổng công ty bay dịch vụ SFC 6 Bộ Giao thông Vận tải Bộ GTVT 7 Hiệp hội vận tải hàng không quốc tế IATA 8 Tổ chức Thương mại Thế giới WTO 9 Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa CNH - HĐH 10 Khoa học công nghệ KHCN 11 Vận tải hàng không VTHK 12 Chuyển giao công nghệ CGCN MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNgành hàng không Việt Nam trong quá trình hội nhập.doc
Luận văn liên quan