Những nét mới trong chăn nuôi bò sữa hiện nay ở Nghĩa Đàn

Như vậy, chăn nuôi bò sữa hiện nay ở Nghĩa Đàn có rất nhiều điểm mói so với trước đây từ chỗ con giống, thức ăn đến kỹ thuật chăm sóc nuôi dưỡng cũng như quy trình khai thác sữa chủ yếu được sử dụng hệ thống công nghệ hiện đại. - Giống bò sữa chủ yếu là bò HF thuần nhập nội từ NewZelanld, Úc và một số được sinh ra tại nghĩa Đàn. - Về quy mô đàn lớn, cơ cấu đàn phù hợp với yều cầu đặt ra của mỗi trại - Quy trình sử dụng, chế biến thức ăn tiên tiến khác với trước đây cụ thể từ khâu chể biến đến cho ăn đều sử dụng bằng phương tiện cơ giới. khẩu phần ăn được trộn đều thức ăn thô và thức ăn tinh, đặc biệt việc sử dụng các loại thức ăn nhằm nâng cao sản lượng sữa mà trước đây rất ít hoặc không dùng như cây ngô cả bắp non.

pdf7 trang | Chia sẻ: builinh123 | Lượt xem: 1414 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những nét mới trong chăn nuôi bò sữa hiện nay ở Nghĩa Đàn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NHỮNG NÉT MỚI TRONG CHĂN NUÔI BÒ SỮA HIỆN NAY Ở NGHĨA ĐÀN Th.S NGUYỄN THỊ HOA TRƯỞNG BỘ MÔN CHĂN NUÔI - THÚ Y I.ĐẶT VẤN ĐỀ Như chúng ta đã biết chăn nuôi bò sữa xuất hiện ở Việt Nam từ những năm đầu thế kỷ XX, dưới thời pháp thuộc. Tuy nhiên, với hình thức chăn nuôi còn nhỏ lẻ ở một số địa phương chủ yếu là Hà Nội, Ba Vì. Từ Năm 1986 đến 1999 phong trào chăn nuôi bò sữa tư nhân đã hình thành và tỏ ra có hiệu quả. Trước tình hình đó Chính phủ đã có chủ trương đẩy mạnh phát triển chăn nuôi bò sữa trong giai đoạn (2001- 2010) ở nhiều tỉnh thành trong cả nước. Nghệ an là một trong những địa phương nằm trong vùng dự án chăn nuôi bò sữa và chế biến sữa tập trung quy mô công nghiệp tại huyện Nghĩa Đàn, nhằm định hình một ngành sữa hiện đại nhất tại Việt Nam. Dựa trên bí quyết quản lý và công nghệ tiên tiến nhất đạt tiêu chuẩn quốc tế của Israel. Để tìm hiểu quy trình chăn nuôi bò sữa theo hình thức chăn nuôi công nghệ tiên tiến chúng tôi xin giới thiệu những nét mới trong chăn nuôi bò sữa tại trại TH TRUE MILK và trại Vinamilk ở huyện Nghiã Đàn. II. NỘI DUNG 2.1. Quy mô cơ cấu đàn và cơ cấu giống bò của trại Tổng đàn bò của trại TH TRUE MILK hiện tại có khoảng 20.000 con trong đó có 6.000 con là bê được sinh ra tại nghĩa đàn, còn lại là bò HF thuần được nhập từ NewZelanld, Úc, Canada và khoảng 7.000 con cho sữa, mỗi ngày cung cấp khoảng 150 tấn/ngày . Theo ông Gil Inbar, đây là trang trại bò sữa có quy mô lớn nhất thế giới mà ông từng biết. “Bò của trang trại đã trải qua 2 mùa nắng trên vùng đất này. Bò mẹ đang ngày ngày cho ra sữa; bê con đang lớn và chuẩn bị có sữa Đàn bò tại trang trại bò sữa Vinamilk Nghệ An có quy mô chăn nuôi là 3.000 con; trong đó, có 1.500 con bò vắt sữa, cung cấp mỗi ngày 30 tấn sữa cho nhà máy chế biến của Vinamilk tại Nghệ An. Để đảm bảo nguồn con giống tôt, từ đó cho chất lượng sữa cao, đàn bò tại trang trại Vinamilk Nghệ An sẽ được tiếp tục tăng đàn thông qua nhập con giống bò sữa cao sản từ Úc và áp dụng công nghệ phối giống tinh giới tính toàn cái. Những bê cái gieo từ tinh giới tính đầu tiên tại Việt Nam do công ty thực hiện đã ra đời tại trang trại. Hình 1. Đàn bò của Trại bò sữa Vinamilk 2.2. Nguồn thức ăn, quy trình chế biến và sử dung thức ăn cho bò Thức ăn cho bò được lên thực đơn theo ngày, bò lấy sữa, bò nuôi con, bê có chế độ ăn khác nhau. Thức ăn cho bò được chia ra 2 thành phần là thực phẩm xanh (như ngô, cao lương, cỏ; trong đó có cả những loại cỏ nhập khẩu từ Mỹ) và các thực phẩm khác như tinh bột các loại, gỉ mật Việc ủ chua cỏ để diệt khuẩn, phối trộn, vận chuyển thức ăn đến chuồng được thực hiện bằng máy xúc, ô tô, máy trộn cỡ lớn và được điều khiển bằng hệ thống máy tính. - Nguồn thức ăn + Thức ăn thô xanh cho bò chủ yếu được sản xuất tại Nghĩa Đàn gồm có cỏ trồng, cao lương và ngô, tùy theo loại bò có thể sử dụng cây ngô non chưa ra bắp hoăc cây ngô đã có bắp ngậm sữa thường được dùng cho bò đang cho sữa (Đây là một điều mới trong sử dụng thức ăn cho bò sữa hiện nay) + Thức ăn thô khô như rơm, cỏ khô chủ yếu thu mua ở các địa phương khác làm nguồn thức ăn dữ trữ và một phần bổ sung vào khẩu phần thức ăn thô xanh, nếu bò ăn hoàn toàn thức ăn thô xanh thường dẫn đến sữa kém phẩm chất như vón sữa, độ kiềm cao,v.v. Ngoài ra trang trại còn nhập một số cỏ khô từ Mỹ. Việc nhập những tấn cỏ từ Mỹ với giá 260 USD/tấn như hiện nay không phải là giải pháp lâu dài cho TH và trại Vinamilk Nghệ An. Để khắc phục, TH đã dành ra 1.500ha, trại Vinamilk dành 30 héc ta để trồng các giống cỏ, cao lương. Các giống cây trồng cho bò này chủ yếu được nhập khẩu từ Mỹ, cho năng suất và chất lượng cao. Công đoạn xuống giống, chăm sóc và thu hoạch cũng được tự động hoá gần như hoàn toàn. trại TH và trại Vinamilk Nghệ An trang bị những giàn máy có thể tưới, phun thuốc bảo vệ thực vật, phân đạm trên diện tích hàng trăm ha. Việc thu hoạch cũng được tiến hành bằng máy cắt và xe tải với công suất lớn, 10 phút thu hoạch xong 1 tấn. Ngoài ra, TH mua lại Nhà máy Đường Nghệ An Tate & Lyle của Anh, đóng gần địa điểm của trang trại cũng không nằm ngoài mục đích lấy nguồn bã mía, gỉ mật để cung cấp cho trại bò. Quy trình chế biến và cách sử dụng thức ăn Tất cả các nguồn thức ăn được tập trung về khu vực chế biến tùy theo từng loại bò mà sử dụng các công thức chế biến khác nhau, nhưng tất cả được sử dụng các phương tiện bằng cơ giới như cắt thái thức ăn có kích thước phù hợp cho bò, sau khi cắt thái hối hợp khẩu phần cũng bằng máy đảo trộn thức ăn thô, thức ăn tinh, thức ăn bổ sung cùng với nhau theo tỷ lệ của bò cạn sữa, bò cho sữa, v.v. Khi cho ăn được sử dụng phương tiện bằng xe chuyên dụng trên xe có gắn cân, căn cứ vào tiêu chuẩn ăn của từng ô chuỗng đã được tính sẵn xe chuyên dụng phân phối thức ăn đến từng ô chuồng tự động thả lượng thức ăn đủ theo yêu cầu cho bò ăn. Như vậy về quy trình chế biến sử dụng và cách cho bò ăn hoàn toàn được sử dụng bằng phương tiện cơ giới nhằm giảm bớt được công lao động rất nhiều, mặt khác đảm bảo được chất lượng thức ăn hơn so với hình thức thủ công trước đây ta đã sử dụng. 2.3. Nguồn nước dùng trong chăn nuôi bò sữa Nước uống sử dụng cho bò được lấy từ hồ sông Sào (đây là hồ rộng thứ hai của tỉnh Nghệ An, còn có chức năng điều hoà không khí cho trại bò) được lọc qua 3 khâu bằng giàn máy Amiad với các chỉ số sinh, hoá của nước sau khi lọc như tiêu chuẩn nước sinh hoạt và được cung cấp đến tại chuồng cho bò theo hệ thống tự động. Hình 2. Một trại bò trong hệ thống trang trại của TH TruMilk 2.4. Quy trình kỹ thuật chăm sóc nuôi dưỡng bò Quy trình kỹ thuật chăm sóc bò được quản lý thông qua hệ thống thông tin điện tử. Người cán bộ quản lý đàn tuy không thường xuyên trực tiếp ở chuồng trại những có thể nắm bắt diễn biến đàn bò một cách cụ thể như tổng đàn, bò ốm, sản lượng sữa, bò động dục,v.v. Đàn bò tại đây được chăm sóc với công nghệ hiện đại trên cơ thể mỗi con bò được đeo một con chíp định dạng (Identification Tag) trên cổ và được kiểm soát bằng hệ thống quản lý đàn Alpro hiện đại do DeLaval (công ty con của tập đoàn TetraPak – Thụy Điển) cung cấp. Những chíp điện tử này giúp lưu trữ và cung cấp thông tin chính xác của từng con bò trong suốt cuộc đời của chúng. Trên cổ mỗi con bò còn được trang bị thêm một con chíp hoạt động (Activity Tag). Tín hiệu hoạt động phát ra từ chíp này được thu nhận bởi các an-ten gắn trong chuồng và gửi về hệ thống quản lý đàn giúp xác định tình trạng sức khoẻ của bò, đồng thời xác định chính xác thời điểm động dục bò ốm hay sản lượng sữa của bò có thay đổi, người quản lý đều nắm được để kịp thời bào cho các bộ phận trực tiếp kiểm tra, xử lý một cách kịp thời và chính xác. Mỗi dãy chuồng có một cán bộ trực tiếp chăn nuôi chủ yếu làm nhiệm vụ kiểm tra thức ăn và hỗ trỡ công tác về sinh chuồng trại đường đi lối lại vừa trực tiếp theo dõi diễn biến của đàn bò mỗi khi người cán bộ quản lý đàn báo về tình hình dễn biến cụ thể. Ví dụ bò số 5 có hiện tượng động dục. Thì báo cho bộ phận thú y để tiến hành phối giống. Còn việc cung cấp thức ăn nước uống cho bò, quét dọn chuồng đều thực hiện bằng cơ giới. Nơi “ở” của bò được nuôi tập trung trong các khu trại có mái che kèm có hệ thống quạt làm mát. ô nằm nghỉ của bò được lót nệm. Khu chuồng trại còn được lắp đặt hệ thống âm thanh, phát nhạc cổ điển để kích thích sự tiết sữa của bò. Bên cạch đó, trang trại cũng được đầu tư hệ thống xử lý chất thải hiện đại nhằm bảo vệ môi trường. Toàn bộ chất thải rắn từ trang trại sẽ được thu hồi sản xuất phân bón cho các đồng cỏ. Nước thải sẽ được xử lý sinh học thông qua hồ lắng và sử dụng tưới cho đồng cỏ. Cán bộ thú y làm nhiệm vụ theo dõi điều trị bệnh và chăm sóc bê. Đối bê sơ sinh được bú sữa mẹ trong một tuần đầu, song cho bú gián tiếp. sau 10 ngày được sử dụng sữa đầu của những con khác nếu thiếu thì dùng sữa bột để bổ sung, cách cho bú trong vài ngày đầu có thể cho sữa vào tay tập cho bê liếm sau khi quen, cho sữa vào máng ăn bê tư uống theo nhu cầu mỗi ngày cho bê bú từ 6- 4 lân . Bò sau khi đẻ 10 ngày đầu sữa được dùng cho bê, sau đó dùng làm sữa hàng hóa. Ngoài công tác chăm sóc nuôi dưỡng bê tiến hành theo dõi điều trị bệnh cho đàn bò cán bộ thú y còn trực tiếp phối giống theo phương pháp thụ tinh nhân tạo. Đối bò mới nhập về được đưa vào khu vực nuôi tân đáo sau thời gian một tháng khi bò quen dần với điều kiện môi trường, thức ăn nước uống được nhập đàn do đó tình trạng bò bị bệnh xẩy ra ở trại rất ít nhất là bệnh truyền nhiễm. Bò ở đây chủ yếu mắc các bệnh sản khoa như viêm vú, viêm tử cung song được điều trị kịp thời và sử dụng thuốc đặc trị nên hiệu quả điều trị cao. Về quy trình chăn nuôi phòng bệnh của trại rất nghiêm ngặt hạn chế khách tham quan, học tập. Những người ngoài muốn vào khu vực chăn nuôi ít nhất cũng phải lưu lại ở trại sau 2 ngày mới được tiếp cận khu vực chăn nuôi, các phương tiện cũng như người trước khi vào khu vực chăn nuôi đều được xử lý sát trùng cẩn thân. 2.5. Quy trình khai thác sữa Bò được vắt sữa trong hệ thống vắt sữa hiện đại và tự động. Mỗi con bò sẽ được đeo con chíp điện tử để kiểm tra sản lượng sữa chính xác từng cá thể. Hệ thống khai thác sữa được thực hiện một hệ thống tự động hóa tối đa gồm: nhà khai thác sữa trong đó được lăp ráp một hệ thồng để vắt nhiều con cùng một lúc (60 con), bò được đưa vào phòng vắt sữa riêng biệt và đứng thành hai hàng theo vị trí đã được cố định sau khi bò dã đứng vào vị trí người vắt sữa làm công tác vệ sinh bầu vú mỗi con có một khăn bằng chất cao su để lau bầu vú và núm vú sạch sẽ trước khi vắt đồng thời hệ thống sát trùng tự động phun thuốc sát trùng để sát trùng núm vú, tiếp đến người vắt sữa chỉ việc cắm cốc vắt sữa lên núm vú của bò, lượng sữa của mỗi con đều được máy tự động ghi lại và toàn bộ lượng sữa được chuyển theo đường ống đổ vào bồn làm lạnh. Mỗi đơn vị vắt gồm có 4 ống cao su (cốc vắt sữa) để lắp vào 4 núm vú của bò. Khi sử dụng người vắt sữa tay trái cầm máy, tay phải lắp ống theo đúng thứ tự quy định như sau: + Ống thứ nhất lắp vào núm vú trước phía phải. + Ống thứ hai lắp vào núm vú sau phía phải. + Ống thứ ba lắp vào núm vú trước phía trái. + Ống thứ tư lắp vào núm vú sau phía trái. Khi vắt sữa phải đóng mạch điện, khóa các ống chân không, kiểm tra áp suất, khi đạt 300 - 400mmHg là vừa. Sau đó kiểm tra các bộ phận cân đối của máy, bảo đảm nhịp hút khoảng 60lần/phút, tiến hành vắt trong 4 -5 phút thì tắt máy, lấy cố vắt sữa ra khỏi đầu vú và tiến hành vệ sinh lại bầu vú. Trong quá trình vắt do bò được gắn một con chíp để theo dõi nếu con nào có hiện tượng sụt sữa, hiện tượng bị viêm tuyến vú,v.v. máy tự động ngừng vắt. Điều đó giúp ta biết được để có kế hoách sử dung khai thác sữa cũng như kịp thời điều trị. Sau khi vắt xong bò được đưa về chuồng, đối với những con không bình thường được hệ thống cữa điều chỉnh tự động cho về khu vực riêng để theo dõi điều trị cụ thể ( ở cữa vào khu vắt sữa có một cữa chính, một cựa phụ. Sau khi vắt xong những con bị bệnh đi qua cựa chính tự đóng lại và mở cựa phụ cho bò đi ra). Hình 3. Quy trình vắt sữa III. KẾT LUẬN Như vậy, chăn nuôi bò sữa hiện nay ở Nghĩa Đàn có rất nhiều điểm mói so với trước đây từ chỗ con giống, thức ăn đến kỹ thuật chăm sóc nuôi dưỡng cũng như quy trình khai thác sữa chủ yếu được sử dụng hệ thống công nghệ hiện đại. - Giống bò sữa chủ yếu là bò HF thuần nhập nội từ NewZelanld, Úc và một số được sinh ra tại nghĩa Đàn. - Về quy mô đàn lớn, cơ cấu đàn phù hợp với yều cầu đặt ra của mỗi trại - Quy trình sử dụng, chế biến thức ăn tiên tiến khác với trước đây cụ thể từ khâu chể biến đến cho ăn đều sử dụng bằng phương tiện cơ giới. khẩu phần ăn được trộn đều thức ăn thô và thức ăn tinh, đặc biệt việc sử dụng các loại thức ăn nhằm nâng cao sản lượng sữa mà trước đây rất ít hoặc không dùng như cây ngô cả bắp non. - Về quy trình chăn nuôi các bước được thực hiện bằng thiết bị công nghệ như vệ sinh chồng trại vệ sinh thân thể. Đặc biệt trên cơ thể bò được gắn hai con chíp để theo dõi diễn biến về sức khỏe, hoạt động sinh lý sinh dục,v.v. của bò một cách nhanh và chính xác. - Quy trình vệ sinh thú y được thực hiện một cách nghiêm ngặt - Quy trình khai thác sữa cũng rất hiện đại được thực hiện theo hệ thống khai thác sữa tự động. - Với quy trình chăn nuôi tiên tiến cùng với con giống tốt nên năng suất sữa của bò rất cao 6000 – 7000lit/ck so với trước đây chỉ đạt 4000 – 4500lit/ck. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hoàng Kim Giao và cs (2005), Cẩm nang chăn nuôi bò sữa. Nxb Nông nghiệp, Hà Nội 2. Nguyễn Xuân Trạch, Mai Thị Thơm (2004) Giáo trình chăn nuôi trâu bò. Nxb Nông nghiệp Hà Nội 3. Phùng Quốc Quảng, Nguyễn Xuân Trạch (2002) Khai thác sữa năng suất – chất lượng – vệ sinh. Nxb Nông nghiệp, Hà Nội 4. Phùng Quốc Quảng, Nguyễn Xuân Trạch (2003) Thức ăn và nuôi dưỡng bò sữa. Nxb Nông nghiệp, Hà Nội 5. Ban chỉ đạo Dự án Chăn nuôi bò sữa và chế biến sữa tập trung quy mô công nghiệp tỉnh Nghệ An. Công văn số 2229- CV/TU ngày 14/8/2008

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnhung_net_moi_trong_chan_nuoi_bo_sua_hien_nay_o_nghia_dan_6523.pdf
Luận văn liên quan