Phân tích tính tất yếu của thời kỳ quá độ

Vấn đề thời kỳ quá độ được Lê Ninh nghiên cứu trong tác phẩm “ kinh tế và chính trị trong thời đại chuyên chính vô sản. và tác phẩm “nhà nước và cách mạng , những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền xô viết, về bệnh ấu trĩ tả khuynh và tính tiểu tư sản, tác phẩm sáng kiến vĩ đại”. Phương pháp nghiên cứu được Lênin đi từ trừu tượng hoá đến cụ thể. đối tượng nghiên cứu: thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Nội dung: thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ chuyển biến cách mang từ xã hội nọ sang xã hội kia, là thời kỳ đấu tranh quyết liệt giữa một bên các thế lực tư bản chủ nghĩa và tiểu tư sản đã bị lật đổ nhưng còn thế lực mạnh về kinh tế , với một bên là chủ nghĩa xã hội mới ra đời còn non yếu. Đây là cuộc đấu tranh phức tạp lâu dài nhưng thắng lợi cuối cùng sẽ thuộc về chủ nghĩa xã hội. Vì chính quyền nhà nước vô sản đưa ra và thực hiện đuơc một kiểu tổ chức cao hơn và có năng xuất lao động xã hội cao hơn chủ nghĩa tư bản. Trong tác phẩm: “ phê phán cương lĩnh Gô-ta”, Mác mới mô tả những nét bản chất nhất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội như một điều tiên đoán. Mác xác định : “ cái xã hội mà chúng ta đang nói ở đây là xã hội cộng sản, nhưng không phải là xã hội cộng sản đã phát triển trên những cơ sở của chính nó, mà trái lại, là một xã hội cộng sản vừa thoát thai từ xã hội tư bản; do đó là một xã hội về phương diện kinh tế đạo đức trí tuệ , xã hội còn mang những dấu vết của cái xã hội cũ đã đẻ ra nó. Phát triển tư tưởng của Mác, Lênin khẳng định sự tồn tại của thời kỳ quá độ: “ về lý luận, không thể nghi nghờ gì được rằng giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản có một thời kỳ quá độ nhất định”. Theo Lênin, sự cần thiết khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là do đặc điểm ra đời phát triển của phương thức cộng sản chủ nghĩa và cách mạng vô sản quy định. thứ nhất, cách mạng vô sản khác với cách mạng tư sản trước đây do quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, còn quan hệ sản xuất xã hội dựa trên chế dộ về công hữu về tư liệu sản xuất nên chủ nghĩa xã hội không thể ra đời trong lòng chủ nghĩa tư bản. phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa chỉ ra đời sau khi cách mạng vô sản thành công. thứ hai, sự phát triển của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa là một quá trình lâu dài. để phát triển lực lượng sản xuất, tăng năng xuất lao động, xây dựng chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa, xây dựng kiểu tổ chức xã hội mới cần phải có thời gian, đó là thời kỳ quá độ. Thời kỳ quá độ không phải là riêng có đối với nước Nga hoặc mỗi quốc gia nào đó, mà là tất yếu khách quan đối với bất kỳ nước nào. Nhưng hoàn cảnh lịch sử cụ thể, tương quan lực lượng giai cấp ở trong nước và trên trường quốc tế quyết định độ dài của thời kỳ quá độ cũng như những đặc điểm của việc thực hiện các quy luật chủ yếu của thời kỳ quá độ.

doc20 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 7377 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân tích tính tất yếu của thời kỳ quá độ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ểu và thấp hơn mức trung thu mua lương thực thừa trước đây. Thuế lương thực là một trong những hình thức quá độ từ “ chế độ cộng sản thời chiến”, một chế độ cộng sản đặc biệt do tình trạng cùng khốn cực độ, tình trạng hoang tàn và chiến tranh buộc chúng ta phải thi hành, sang chế độ trao đổi sản phẩm xã hội chủ nghĩa bình thường. và chế độ này lại là một trong những hình thức quá độ từ chủ nghĩa xã hội với những đặc điểm do tình trạng tiểu nông chiếm đại đa số trong dân cư tạo nên, sang chủ nghĩa cộng sản. Ở mỗi địa phương trong những hoàn cảnh nhất định sẽ có những mức cụ thể phù hợp. Ngay từ đầu vụ người nông dân đã được giao mức thuế phải nộp, do vậy, họ chủ động phấn đấu để có nhiều lương thực thừa để trao đổi lấy hàng công nghiệp 1. Thuế lương thực Trong điều kiện nước Nga lúc bấy giờ, giai cấp công nhân và nông nghiệp là nguồn nuôi sống xã hội. Sản xuất và đời sống xã hội phụ thuộc vào nông nghiệp. Khó khăn lớn nhất mà Nhà nước vấp phải là thiếu lương thực. Nạn đói 1921 càng tăng thêm khó khăn đó. Vì vậy, mục đích trực tiếp của thuế lương thực là một trong những “biện pháp cấp tốc cương quyết nhất, cấp thiết nhất để cải thiện đời sống của người nông dân và nâng cao lực lượng sản xuất của họ “(1) Thực hiện thuế lương thực, xoá bỏ chế độ trưng thu lương thực thừa có nghĩa là chuyển từ biện pháp hành chính thuần tuý sang biện phap kinh tế, thuế lương thực có vai trò của bước quá độ đó. Lúc ấy Lênin đã đặt ra câu hỏi: “Tại sao nhà nước vô sản trước hết lại cải thiện đời sống của nông dân chứ không phải là công nhân”. Và người là người trực tiếp trả lời câu hỏi đó: “vì muốn cải thiên đời sống của người công nhâ thì phải có bánh mỳ và nhiên liệu. Đứng về phương diện toàn bộ nền kinh tế quốc dân của chúng ta hiện nay, trở ngại lớn nhất là ở đó, thế mà chúng ta chỉ có thể tăng thêm sản xuất và thu hoạch lúa mỳ, tăng thêm dự trữ và vận tải nhiên liệu bằng cách cải thiện đời sống nông dân.Người nào không hiểu điều đó, người nào có ý coi việc đưa vấn đề nông dân lên hàng đầu như thế là một sự “từ bỏ ” chuyên chính vô sản hoặc tương tự như vậy thì “chẳng qua chỉ là vì người đó không chịu suy nghĩ kĩ càng vấn đề đó và bị lời nói trống rỗng chi phối ”. Người vô sản nào hoặc đại diện nào của giai cấp vô sản muốn cải thiện đời sống của giai cấp công nhân bằng con đường khác thì thực tế chỉ là những kẻ trợ lực cho bọn bạch vệ và bọ tư bản mà thôi. Vì đi theo con đường khác có nghĩa là đặt lợi ích phường hội của giai cấp công nhân lên trên lợi ích của giai cấp họ”. Nhưng mặt khác để cải thiện đời sống của nông dân thì mức thuế lương thực phải thấp, như vậy Nhà nước phải làm thế nào để có đủ số lương thực cần thiết? Tác dụng kích thích của thuế lương thực đối với nông dân sản xuất và có điều kiện cải thiện đời sống của mình là ở mức thuế thấp. Mức thuế lương thực đã được giảm xuống thấp hơn mức trưng thu gần 1/2, thủ tục thuế được đơn giản hoá. Từ tháng 5/1923 thực hiện thuế đồng nhất với hình thức hỗn hợp bằng tiền tệ hoặc hiện vật tuỳ theo sự lựa chọn của nông dân, còn từ năm 1924, hình thức tiền tệ của thuế là chủ yếu. Mức thuế có phân biệt đối với các bộ phận nông dân: đối với bần nông thì thu thuế bằng 1,2% thu nhập, trung nông thu 3,5% thu nhập còn đối với phú nông thì thu 5,6% thu nhập. Do mức thuế thấp nên năm 1921, nhà nước chỉ thu được 240 triệu pút lúa mỳ sa với 423 triệu pút trưng thu trước đây. Nhưng để bù lại, do nông dân hăng hái sản xuất, mở rộng diện tích nên tổng sản lượng lương thực của xã hội và các nông sản khác tăng lên. Nhà nước qua con đường trao đổi có được khối lượng lương thực nhiều hơn. Ngoài ra, ro mức thuế ổn định người nông dân nào cũng biết trước số thuế phải nộp và cố gắng để sản xuất vượt quá mức đó. Nhà nước càng thu thuế dễ dàng, thuận lợi. Thuế lương thực là đòn xéo mạnh mẽ để khôi phục nền nông nghiệp sau chiến tranh, biểu hiện yêu cầu của tính quy luận đầu tiên của quá trình khôi phục kinh tế, bởi vì “Thuế lương thực sẽ giúp vào việc cải thiện đời sống nông dân. Bây giờ nông dân sẽ bắt tay vào việc một cách yên tâm hăng háihơn đó chính là điều chủ yếu ”. C. Ý nghĩa của NEP và bài học thành công Chính sách kinh tế mới NEP có ý nghĩa cực kì quan trọng. Trước hết nó khôi phục được nền kinh tế Xô Viết sau chiến tranh. Chỉ trong một thời gianngắn đã tạo ra một bước phát triển quan trọng biết một nước Nga bị tàn phá năng lề sau chiến tranh trở thành một đất nước có nguồn lương thực dồi dào. Từ đó, nó khắc phục khủng hoảng chính trị, củng cố lòng tin của nhân dân vào sự thắng lợi tất yếu và bản chất tốt đẹp của CNXH theo nguyên lý mà Lênin đã vạch ra. Chính sách kinh tế mới của Lênin còn đánh dấu một bước phát triển mới về lý thuyết nền kinh tế nhiều thành phần, các hình thức kinh tế quá độ, việc duy trì và phát triển quan hệ hàng hoá tiền tệ, quan tâm tới lợi ích kinh tế cá nhân. Trước hết là những vấn đề có tính chất nguyên tắc trong việc xây dựng mô hình nền kinh tế XHCN. Từ đó chính sách kinh tế mới có ý nghĩa quốc tế to lớn đối với các nước phát triển theo định hướng XHCN, trong đó có nước ta. Những quan điểm kinh tế của Đảng ta nhất là từ đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V đến nay đã thể hiện sự nhận thức vận dụng quan điểm của Lênin trong chính sách kinh tế mơi. Tất nhiên, do thời gian và không gian cách xa nhau, trải qua những biến động khác nhau, nên nhận thức và vận dụng có thể có sự khác nhau về bước đi nội dung và biện pháp cụ thể trong khi tiến hành ở nước ta. Với một ý nghĩa vô cùng to lớn như vậy, cùng với những thành công rực rỡ mà nó thu được trong công cuộc cải tổ nước Nga Xô Viết đã xây dựng bài học cho tất cả các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là những nước đi lên từ điểm xuất phát thấp. Thứ nhất, là chiến lược liên minh công nông về mặt thành tích. Tính tất yếu phải lựa chọn con đường quá độ đặc biệt lên CNXH xét một cách khái quát chủ yếu là do giai cấp công nhân chưa phát triển hay phát triển chưa đầy đủ. Do đó, chưa có đủ tiền đề vè kinh tế xã hội, chưa có chỗ dựa về chính trị cho công cuộc xây dựng CNXH bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng và cho phép Nhà nước thực hiện chức năng quản lý của mình có hiệu quả. Phát huy vai trò sức mạnh của giai cấp công nhân bằng cách hình thành khối liện minh bằng hai sức mạnh: bên trong là liện minh giữa giai cấp công nhân và nông dân, bên ngoài là liên minh quốc tế XHCN. Điều này sẽ giúp củng cố nhà nước trẻ tuổi chưa có cơ sở kinh tế xã hội vững vàng. Đồng thời, xây dựng động lực cách mạng trong giai đoạn mới, biến công cuộc xây dựng CNXH thành sự nghiệp của quân chúng. Điều kiện đầu tiên để khởi động phong trào quần chúng là phải ổn định, cải thiện ít nhiều đời sống quần chúng vốn rất thấp và đã chịu thiếu thốn nhiều năm trong chiến tranh. Để liên minh công nông về mặt kinh tế đáp ứng được yêu cầu xây dựng cớ sở kinh tế bước đầu của CNXH và tạo đưọc động lực cho quá trình ấy thì phải bắt đầu từ nông nghiệp và nông thôn. Thứ hai, là con đường từ nền kinh tế nhiều thành phần đến nền kinh tếXHCN Đặc điểm kinh tế chủ yếu trong thời kì quá độ là tính chất nhiều thành phần của nền kinh tế có nghĩa là trong chế độ hiện nay có những thành phần,những bộ phận, những mảnh của CNTB lẫn vào CNXH.(1) chỉ trong một thời gian ngắn của mấy năm đầu thập kỉ 20, trong nền kinh tế Xô Viết đã diễn ra hai quá trình chuyển biến kinh tế cơ bản. Quá trình thứ nhất, chuyển thành phần kinh tế XHCN sang quỹ đạo NEP. Đây là đòi hỏi của quy luật về quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ lực lượng sản xuất. Trước hết là phải đảm bảo những cân đối nhất định về tài chính, nguyên liệu và nhiên liệu. Muốn vậy, phải kiên quyết tổ chức lại sản xuất khu vực kinh tế XHCN lựa chọ những đơn vị cần thiết nhất có đủ điều kiện sản xuất và quản lý để tập trung đầu tư, sớm phát huy vai trò của chúng trong quá trình tái sản xuất xã hội. Tiếp theo, phải chuyển các cơ sở kinh tế XHCN sang hoạch toán kinh tế, tạo điều kiện cho cúng hoạt động theo yêu cầu mới bằng cách: phát huy quyền chủ động sản xuất kinh doanh của cơ sở,đổi mới nội dung và hình thức quản lý kinh tế Nhà nước. Quá trình thứ hai, chuyển hướng quản lý điều tiết các thành phần kinh tế tư nhân và cá thể sang quỹ đạo NEP. Với một ý nghĩa lịch sử to lớn, với bài học thành công trong công cuộc xây dựng CNXH, chính sách kinh tế mới NEP của Lênin đã, đang và se được vận dụng sáng tạo trong điều kiện nước ta nhằm đưa đất nước vững bước tiến vào thế kỉ mới với một nền kinh tế giàu mạnh, chính trị ổn định, xã hội công bằng văn minh. 3.Xuất khẩu tư bản vị trí: đối tượng nghiên cứu: ppnc: Nội dung: Theo Lênin, điểm điển hình của chủ nghĩa tư bản cũ trong đó sự cạnh tranh tự do còn hoàn toàn thống trị, là việc xuất khẩu hàng hoá. Điểm điển hinh của chủ nghĩa tư bản mới trong đó các tổ chức độc quyền thống trị là việc xuất khẩu tư bản. Chủ nghĩa tư bản là nền sản xuất hàng hoá ở mức độ phát triển cao nhất khi mà chính ngay sức lao động cũng trở thành hàng hoá. Sự phát triển của trao đổi trong nước và đặc biệt là trên quốc tế là một đặc điểm tiêu biểu của chủ nghĩa tư bản. Sự phát triển không đều và có tính chất nhảy vọt của các doanh nghiệp khác nhau, của các ngành công nghiệp khác nhau và của những nước khác nhau là điều không tránh khỏi trong chế độ tư bản chủ nghĩa. Theo Lênin: Nếu chủ nghĩa tư bản có phát triển được nông nghiệp là lĩnh vực hiện nay, ở mọi nơi, vẫn còn hết sức lạc hậu so với công nghiệp, nếu chủ nghĩa tư bản có thể nâng cao được mức sống của quần chúng nhân dân là những người hiện nay, ở khắp các nước vẫn còn thiếu ăn và nghèo khổ, mặc dù kỹ thuật phát triển rất nhanh nhưng vẫn không thể nào có chuyện tư bản thừa được. Chừng nào chủ nghĩa tư bản vẫn còn là chủ nghĩa tư bản, số tư bản thừa vẫn còn được dùng không phải để nâng cao mức sống của quần chúng trong nước đó, vì thế sẽ đi đến kết quả là làm giảm bớt lợi nhuận của mọi tư bản mà là để tăng thêm lợi nhuận bằng cách xuất khẩu tư bản ra nước ngoài vao những nước lạc hậu… Trong các nước lạc hậu này, lợi nhuận thường cao vì tư bản vẫn còn ít, giá đất đai tương đối thấp, tiền công hạ, nguyên liệu rẻ. Sở dĩ có thể xuất khẩu được tư bản là vì một số nước lac hậu đã bị lôi cuốn vào quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản thế giới. Sở dĩ cần phải xuất khẩu tư bản là vì trong một số ít nuớc chủ nghĩa tư bản đã “quá chín” và tư bản thiếu địa bàn đầu tư “ có lợi” (trong điều kiện nông nghiệp lạc hậu, quần chúng nghèo khổ). Việc xuất khẩu tư bản ảnh hưởng đến sự phát triển của chủ nghĩa tư bản và thúc đẩy hết sức nhanh sự phát triển đó trong những nước đã được đầu tư. Cho nên nếu trên một mức độ nào đó việc xuất khẩu có thể gây ra một sự ngừng trệ nào đó trong sự phát triển của các nước xuất khẩu tư bản, thì việc đó lại làm cho CNTB phát triển rộng và sâu thêm trên toàn thế giới mà thôi. Các nước xuất khẩu tư bản hầu như bao giờ cũng có khả năng thu được một số “khoản lợi” nào đó, và tính chất của những khoản lợi này làm sáng tỏ trưng của thời đại tư bản tài chính và độc quyền. Theo ông, Tư bản tài chính đã tạo ra thời đại của các tổ chức độc quyền cũng thực hành những nguyên tắc độc quyền. Việc dùng những “mối liên hệ” để ký kết có lợi đã thay thế cho sự cạnh tranh trên thị trường công khai. Tình hình xuất khẩu tư bản ở việt nam trong tình hình hiện nay. Thuận lợi Trở thành thành viên của WTO, hàng hoá của VN có cơ hội có mặt trên thị trường thế giới và hấp dẫn các công ty nước ngoài đầu tư vào thị trường VN. Xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế sẽ giúp doanh nghiệp có điều kiện tiếp thu những thành tựu khoa học côg nghệ, phương thức quản lý tiên tiến từ các nước phát triển. Đây là cơ hội để các doanh nghiệp trong nước học hỏi cách thức quản lý mới, sử dụng công nghệ mới trong sản xuất và hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Cải tiến và hoàn thiện các dây chuyền sản xuất theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá sẽ giúp các doanh nghiệp giảm được chi phí, tạo ra những sản phẩm mới có chất lượng, đa dạng về mẫu mã, bao bì…tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước đủ sức cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài. Gia nhậpWTO, thực thi theo đúng các nguyên tắc của tổ chức này thì hàng hoá của VN được đối xử bình đẳng như hàng hoá của các nước thành viên khác, các doanh nghiệp của VN có vị thế ngang bằng với doanh nghiệp của các nước thành viên khác, các doanh nghiệp VN cũng được đối xử công bằng như các doanh nghiệp nước ngoài. Doanh nghiệp trẻ, năng động, chấp nhận mạo hiểm, dám đối đầu với cạnh tranh cùng với đội ngũ nhân viên kinh doanh nhạy bén với những thay đổi của thị trường giúp cho doanh nghiệp nhanh chóng rút ngắn khoảng cách thua kém về tài và lực, nâng cao vị thế của doanh nghiệp VN ngang bằng với doanh nghiệp nước ngoài trong môi trường hội nhập nhanh chóng và cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Các doanh nghiệp đã nhận thức được tầm quan trọg của mẫu mã, chất lượng hàng hoá, mạnh dạn trong việc đổi mới công nghệ để nâng cao khả năng cạnh tranh. Khả năng thâm nhập thị trường xuất khẩu của các doanh nghiệp VN tăng Khó khăn Các doanh nghiệp xuất khẩu chưa nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của giá cả, tính cạnh tranh của giá cả còn thấp. Phần lớn việc định giá là dựa vào giá cả của đối thủ cạnh tranh. Các doanh nghiệp doanh nghiệp xuất khẩu vẫn chưa thật sự chủ động trong việc nghiên cứu nhu cầu thị trường để hoạch định chiến lược giá. Nguồn vốn lưu động của các doanh nghiệp xuất khẩu hiện nay vẫn cón ít nên việc thu mua, dự trữ hàng hoá còn hạn chế, đấy cũng chính là nguyên nhân khiến các doanh nghiệp xuất khẩu chưa có khả năng chủ động trong việc định gá. Hơn nữa do có khả năng xoay chuyển vốn lưu động còn thấp khiến cho doanh nghiệp luôn ở trong tình trạng cạn vốn mặc đù đã thế chấp tài sản để vay ngân hàng vẫn không đảm bảo được nguồn vốn kinh doanh cho doanh nghiệp Đa số doanh nghiệp VN còn chưa thể đáp ứng được các quy định nghiêm ngặt về an toàn vệ sinh thực phẩm và các quy đinh về chất lượng. Trước hội nhập kinh tế toán cầu, làn sóng nhập khẩu đang phát triển mạnh mẽ, thì tất cả các nước phải có các chiêu bài để bảo vệ các doanh nghiệp sản xuất trong nước, một trong những chiêu bài đó là đề ra những quy định nghiêm ngặt về vệ sinh an toàn thực phẩm. Hiện nay, các mặt hàng xuất khẩu của ta chưa đáp ứng được các yêu cầu nghiêm ngặt này. Sử dụng thiết bị công nghệ lạc hậu chi phí nguyên vật liệu cao, năng suất lao động thấp do đó chi phí kinh doanh cao nên lợi nhuận thấp, doanh nghiệp không có nguồn lực để phát triển. Không thiết lập và duy trì mối quan hệ tốt đẹp với các đối tác chuyên nghiệp như: vận chuyển hàng hoá, dịch vụ hải quan, ngân hàng, luật sư đại diện. Hầu hết các danh nghiệp đều tự mình thực hiện tất cả các khâu trong quá trình xuất nhập khẩu. Điều này sẽ dẫn đến việc các doanh nghiệp sẽ mất rất nhiều thời gian và nhiều lúc gặp khó khăn từ phía đối tác. Doanh nghiệp thiếu hiểu biết về hệ thống pháp luật, thông lệ quốc té, thiếu thông tin và không tích cực tìm hiểu những quy định của các nước nhập khẩu hay những quy định của tổ chức thương mai thế giới mà VN giờ đây đã là thành viên thứ 150. CHính sự thiếu hiểu biết này đã gây không tít khó khăn cho doanh nghiệp xuất khẩu VN, làm hạn chế khả năng kinh doanh của doanh nghiệp như việc nước ta từng bị kiện bán phá giá các tra, cá basa, tôm (DN Mỹ kiện), giày da (DN EU khởi kiện), nhãn hiệu nước mắm Phú Quốc bị Thái Lan chiếm dụng nhãn hiệu. Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu VN Tích cực đổi mới công nghệ và phương thức quản lý để nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Vấn đề đổi mới công nghệ luôn là vấn đề rất nan giải đối với các doanh nghiệp VN. DN xuất nhập khẩu VN còn thiếu nhiều thông tin về các công nghệ tiên tiến hiện nay nên có khi đã bỏ tiền ra mua công nghệ đã trở nên lạc hậu ở thời điểm hiện tại…Vì vậy, ta nên đưa ra một số giải pháp để doanh nghiệp có thể đỏi mới công nghệ như: Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ vay vốn để họ có khả năng “đổi mới công nghệ”. Cụ thể là ta nên xây dựng các quỹ đầu tư mạo hiểm để giúp các doanh nghiệp trong lúc họ cần vốn, làm cho các doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng với nguồn vốn vay từ ngân hàng. Bên cạnh đó, doanh nghiệp còn có thể phát hành chứng khoán để huy động vốn. Cần xây dựng hệ thống thông tin khoa học công nghệ để cung cấp thông tin cập nhật, chính xác và chi tiết về các công nghệ hiện đại, qua đó doanh nghiệp có thể an tâm lựa chọn công nghệ thích hợp nhất cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình. Đồng thời, giúp doanh nghiệp sử dụng hiệu quả và triệt để công nghệ đó tránh gây lãng phí. Thực hiện cổ phần hoá các trung tâm nghiên cứu công nghệ để có thể hoạt động tốt hơn, đồng thời triển khai hướng các trung tâm này vào việc phục vụ cho các doanh nghiệp có hiệu quả hơn. Chú trọng đầu tư vào con người giúp người lao động lẫn người quản lý có đầy đủ kiến thức, hiểu biết để khai thác triệt để các công nghệ mới và hiện đại Để đẩy manh xuất khẩu trước hết các doanh nghiệp cần phải xác định được chiến lước mặt hàng xuất khẩu và chiến lược thị trường đúng đắn. Trên cơ sở lựa chọn thị trường và xác định được mặt hàng xuất khẩu chủ lực thì các doanh nghiệp cần lựa chọn phương thức đổi mới công nghệ sản xuất, công nghệ quản lý sao cho phù hợp. Mặt hàng xuất khẩu phải đảm bảo các tiêu chuẩn theo đúng yêu cầu của nước nhập khẩu. Phát triển thị trường, tạo bản sắc riêng cho doanh nghiệp để xây dừng thương hiệu vững chắc nhằm khẳng định vị thể của doanh nghiệp trên trường quốc tế. Phải tăng cường liên kết hợp tác theo chiều dọc và the chiều ngang đảm bảo nguồn cung nguyên liệu và phải luôn nhận thức được tầm quan trọng giữa cạnh tranh và hợp tác. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ, vốn ít cần phải tăng cường hợp tác, liên kết để giúp đỡ lẫn nhau. Phải hoàn thiện cơ chế quản lý; đào tạo và phát huy năng lực lãnh đạo của nhà quản trị doanh nghiệp. Các doanh nghiệp xuất khẩu cần nhận thức được vai trò các tổ chức này thật sự là cầu nối giữa doanh nghiệp và các doanh nghiệp và các cơ quan nhà nước. Tích cực tiến hành các hoạt động xức tiến thương mại. Hội nhập kinh tế quốc tế trong một thế giới toàn cầu hoá. Sự biến động trên thị trường các nước sẽ tác động mạnh đến thị trường trong nước. Điều này đòi hỏi chúng ta phải có chính sách kinh tế vĩ mô đúng đắn có năng lực dự báo và phân tích tình hình, cơ chế quản lý phải tạo cơ sở để nền kinh tế có khả năng phản ứng tích cực, hạn chế được những ảnh hưởng tiêu cực trước những biến động trên thị trường thế giới. Những biến động dù rất nhỏ nhưng nếu không tích cực phân tích, tìm hiểu nguyên nhân, dự báo xu hướng tiếp diễn và có biện pháp phòng ngừa thì việc chúng ta bị ảnh hưởng là rất lớn. Khi hội nhập, sự thiếu liên kết giữa các doanh nghiệp với nhau không những giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh mà giảm khả năng cạnh tranh mà còn đe doạ đến sự sống còn của chính doanh nghiệp đó. Giò đây, cạnh tranh ngày càng gay gắt đòi hỏi phải liên kết, hợp tác giữa các doanh nghiệp trở nên cấp bách và cần thiết hơn bao giờ hết. Nâng cao chất lượng sản phẩm phù hợp với tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm của nước nhập khẩu. Các doanh nghiệp xuất khẩu phải tiến hành kiểm tra sản phẩm một cách chặt chẽ, có hệ thống từ đầu vào cho đến đầu ra. 1.Đặc điểm thứ nhất của CNĐQ: Tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền. Vị trí: Đối tượng nghiên cứu: Phương pháp nghiên cứu: Nội dung: *Hiện tượng đánh dấu bước chuyển của chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do sang độc quyền. Nghiên cứu chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ rằng: tự do cạnh tranh sinh ra tích tụ và tập trung sản xuất, tích tụ và tập trung sản xuất phát triển đến một mức độ nào đó sẽ dẫn đến độc quyền. V.I.Lênin đã tiếp tục phát triển những tư tưởng của C.Mác và Ăngghen và khẳng định, vào cuối TK XIX đầu TK XX, chủ nghĩa tư bản và phát triển lên giai đoạn mới cao hơn – giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền. Chủ nghĩa tư bản độc quyền xuất hiện do những nguyên nhân sau - Sự phát triển của lực lượng sản xuất dưới tác động của tiến bộ khoa học kỹ thuật đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, hình thành các xí nghiệp có quy mô lớn. - Trong điều kiện phát triển của khoa học kỹ thuât, sự tác động của quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản như quy luật giá trị thặng dư, quy luật tích luỹ ngày càng mạnh mẽ, làm biến đổi cơ cấu kinh tế của xã hội tư bản theo hướng tập trung sản xuất quy mô lớn. - Cạnh tranh khốc liệt buộc các nhà tư bản phải tích cực cải tiến kỹ thuật, tăng quy mô tích luỹ để thắng thế trong cạnh tranh. Đồng thời, cạnh tranh gay gắt làm cho các nhà tư bản vừa và nhỏ bị phá sản, còn các nhà tư bản lớn phát tài, làm giàu với số lượng tư bản tập trung và quy mô xí nghiệp ngày càng to lớn. Lênin viết: “Hàng vạn xí nghiệp thật lớn chiếm hết cả, còn hàng triệu xí nghiệp nhỏ thì chẳng có gì” và “gần một nửa tổng số sản xuất trong nước mà lại do một phần trăm tổng số xí nghiệp cung cấp” (trang 397, 398). - Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1873 trong toàn bộ thế giới tư bản chủ nghĩa làm phá sản hàng loạt các xí nghiệp vừa và nhỏ, thúc đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung tư bản. - Sự phát triển của hệ thống tín dụng tư bản chủ nghĩa trở thành đòn bẩy mạnh mẽ thúc đẩy tâp trung sản xuất, nhất là việc hình thành các công ty cổ phần, tạo tiền đề cho sự ra đời của các tổ chức độc quyền. Từ những nguyên nhân trên, Lênin khẳng định: “Tự do cạnh tranh đẻ ra tập trung sản xuất và sự tập trung sản xuất này, khi phát triển đến mức độ nhất định, lại dẫn tới độc quyền”. Cạnh tranh tự do biến thành độc quyền là hiện tượng nổi bât, đánh dấu sự chuyển biến từ CNTB cũ sang CNĐQ, đánh dấu sự biến đổi về chất trong bản thân quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Do đó Lênin nhấn mạnh: “Cạnh tranh biến thành độc quyền, đó là một trong những hiện tượng quan trọng - nếu không phải là hiện tượng quan trọng nhất – trong nền kinh tế của CNTB hiện đại” (trang 398). *Sự phát triển của độc quyền qua các hình thức: Tích tụ và tập trung sản xuất cao dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền là đặc trưng kinh tế cơ bản của chủ nghĩa đế quốc. Tổ chức độc quyền là tổ chức liên minh giữa các nhà tư bản lớn để tập trung vào trong tay phần lớn việc sản xuất và tiêu thụ một số loại hàng hoá nào đó nhằm mục đích thu được lợi nhuận độc quyền cao. Lênin rút ra quy luật là tập trung sản xuất tất yếu dẫn đến độc quyền, Lênin tiếp tục đi sâu nghiên cứu các hình thức tổ chức độc quyền ở thời kỳ đó: Các-ten, Xanh-đi-ca, Tơ-rớt và Công-xoóc-xi-om. Người chỉ rõ sức mạnh, vai trò của các độc quyền cà các mối quan hệ nhân quả do sự thống trị của chúng sinh ra. Các-ten là hình thức tổ chức độc quyền giữa các nhà tư bản ký hiệp nghị thoả thuận với nhau về giá cả, quy mô sản lượng, thị trường tiêu thụ, kỳ hạn thanh toán…Các nhà tư bản tham gia Các-ten vẫn độc lập về sản xuất và thương nghiệp. Xanh-đi-ca là hình thức tổ chức độc quyền cao hơn, ổn định hơn cacten. Các xí nghiệp tham gia vẫn giữ độc lập về sản xuất, chỉ mất độc lập về lưu thông: mọi việc mua bán do một ban quản trị chung của xanhdica đảm nhận. Mục đích của xanhdica là thống nhất đầu mối mua và bán để mua nguyên liệu với giá rẻ, bán hàng hoá với giá đắt nhằm thu lợi nhuận độc quyền cao. Tơrớt là một hình thức độc quyền ca hơn cacten và xanhdica, nhằm thống nhất giá cả về sản xuất, tiêu thụ, tài vụ đều do một ban quản trị thống nhất quản lý. Các nhà tư bản tham gia tơrớt trở thành những cổ đong thu lợi nhuận theo số lượng cổ phần. Công-xooc-xi-om là hình thức tổ chức độc quyền có trình độ và quy mô lớn hơn các hình thức độc quyền trên. Tham gia Công-xooc-xi-om không chỉ có các nhà tư bản lớn mà còn có cả các xanhđica, tơrớt, thuộc các ngành khác nhau nhưng liên quan với nhau về kinh tế, kỹ thuật. Một công-xooc-xi-om có thể có hàng trăm xí nghiệp liên kết trên cơ sở hoàn toàn phụ thuộc về tài chính vào một nhóm tư bản kếch xù. Những biểu hiện mới của tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền trong thời đại ngày nay. Sự xuất hiện các công ty đôc quyền xuyên quốc gia bên cạnh sự phát triển của các xí nghiệp vừa và nhỏ. Do sự phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học công nghệ nên đã diễn ra quá trình hình thành sự liên kết giữa các độc quyền theo cả chiều dọc và chiều ngang ở cả trong và ngoài nước. Từ đó những hình thức tổ chức độc quyền mới đã ra đời. Đó là các Consơn và các Conglôlơmêrết. -Consơn: Là tổ chức độc quyền đa ngành, thành phần của nó hàng trăm xí nghiệp có quan hệ với ngành khác nhau và được phân bố ở nhiều nước. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến độc quyền đa ngành là: trong điều kiện cạnh tranh gay gắt giữa các độc quyền và sự biến động nhanh chóng của thị trường thị việc kinh doanh chuyên môn hoá hẹp dễ bị phá sản. Hơn nữa, hình thức độc quyền đa ngành còn là kết quả của sự chuyển hoá, thay thế các tơrớt để đối phó với luật chống độc quyền ở hầu hết các nước tư bản chủ nghĩa -Conglôlơmêrết: Là hình thức tổ chức độc quyền xuất hiện từ những năm 60 của thế kỷ XX. Đó là sự kết hợp vài ba chục những hãng vừa và nhỏ không có bất kỳ sự liên quan nào về sản xuất hoặc dịch vụ cho sản xuất. Mục đích chủ yếu của Conglôlơmêrết là chiếm đoạt lợi nhuận bằng kinh doanh chứng khoán. Do vậy, phần lớn các Conglôlơmêrết dễ bị phá sản nhanh hoặc chuyển thành các consơn. Tuy nhiên một bộ phận các Conglôlơmêrết vẫn tồn tài vững chắc bằng cách kinh doanh trong lĩnh vực tài chính trong nhhững điều kiện thường xuyên biến động của nền kinh tế thế giới. Mặt khác, ở các nước tư bản lớn lại phát triển rất nhiều công ty vừa và nhỏ, chiếm hơn 90% tổng số hãng có đăng ký ở các nước tư bản phát triển. Trong những ngành mới như tin học, chất dẻo, điện tử, các hãng nhỏ chiếm tỷ lệ tuyệt đối. Sự xuất hiện nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ là do: một là, việc ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ cho phép tiêu chuẩn hoá và chuyên môn hoá sản xuất sâu, dẫn đến hình thành hệ thống gia công, nhất là trong các ngành sản xuất ô tô, máy bay, cơ khí, dệt. Thứ hai, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có những thế mạnh như: nhạy cảm với thay đổi trong sản xuất, linh hoạt ứng phó với sự biến động của thị trường, mạnh dạn đầu tư vào những ngành mới đòi hỏi sự mạo hiểm, dễ đổi mới trang thiết bị kỹ thuật mà không cần nhiều chi phí bổ sung. Ngoài ra, độc quyền cũng xh ở những nước đang phát triển. Đó là kết quả của sự thâm nhập cua các công ty xuyên quốc gia vào các nước này và sự ứng dụng những thành tựu ha học - kỹ thuật hiện đại khiến cho một xí nghiệp hoặc một công ty cũng đủ sức mạnh chi phối việc sản xuất và tiêu thụ của cả một ngành mới và đời ở một nước đang phát triển và tới mức độ nhất định có thể bành trướng ra bên ngoài. Các tổ chức độc quyền ra đời luôn có xu hứơng bành trướng quốc tế. Trong điều kiện hiện nay,xu hướng của chúng là trở thành các công ty xuyên quốc gia và liên minh với nhà nước hình thành chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Đó là biểu hiện mới của độc quyền và là hình thức vận động mới của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong điều kiện lịch sử mới. Tư bản tài chính và đầu sở tài chính (nhóm 8) 1.Nguyên nhân hình thành tư bản tài chính : Lê – nin đã định nghĩa tư bản tài chính như sau : “ …tư bản tài chính là kết quả của sự dung hợp tư bản của vài ngân hàng lũng đoạn lớn với tư bản của những tập đoàn các nhà công nghiệp lũng đoạn ’’. Nói vắn tắt tư bản tài chính là tư bản ngân hàng lũng đoạn hỗn hợp với tư bản công nghiệp lũng đoạn. Tư bản tài chính gồm 3 nhân tố quan trọng “ Tích tụ sản xuất; do tích tụ đã đẻ ra tổ chức lũng đoạn; việc dung hợp hay hỗn hợp giữa ngân hàng và công nghiệp , - đó là lịch sử hình thành tư bản tài chính và nội dung của khái niệm tư bản tài chính ’’. Tức là, khi nghiên cứu tư bản tài chính không thể chỉ chú ý đến việc dung hợp của tư bản ngân hàng và tư bản công nghiệp, mà còn phải chú ý đến lịch sử hình thành tư bản tài chính và tính tất yếu của nó. Trong công nghiệp, cạnh tranh tự do dẫn đến tích tụ sản xuất, tích tụ sản xuất lại dẫn đến lũng đoạn. Trong nghành ngân hàng cũng như thế.Cạnh tranh dẫn đến tích tụ tư bản ngân hàng; ngân hàng nhỏ luôn luôn bị chèn ép, bị thôn tính; con số ngân hàng thường xuyên bị giảm xuống, song tư bản của ngân hàng và phạm vi nghiệp vụ của nó lại ngày càng mở rộng. Tích tụ tư bản ngân hàng dẫn đến lũng đoạn trong ngành ngân hàng vai trò mới của ngân hàng. Bằng cách mua cổ phiếu, trao đổi cổ phiếu và cho vay, ngân hàng lớn giật dây và khống chế các ngân hàng nhỏ. Giữa vài ngân hàng lớn lại ký hiệp định có tính chất lũng đoạn, tổ chức tơ-rớt ngân hàng. Đi đôi với sự tích tụ và lũng đoạn của nghành ngân hàng, tác dụng của ngân hàng cũng thay đổi.Từ một người mô giới đơn giản, ngân hàng biến thành kẻ lũng đoạn vạn năng của thị trường tài chính.Ngân hàng cho xí nghiệp vay dài hạn và giám sát việc sử dụng những khoản vay ấy; thông qua việc gửi tiền không kỳ hạn và các thủ tục tài chính khác để dò xét tình hình kinh doanh của các nhà tư bản và khống chế họ; bằng cách tăng thêm hay rút bớt tiền cho vay để điều khiển họ, quyết định số phận của họ. Sự liên hiệp cá nhân giữa ngân hàng và xí nghiệp công thương lớn cũng ngày càng tiến triển. Hai bên đều nắm giữ cổ phiếu của nhau, giám đốc ngân hàng đồng thời là quản trị của xí nghiệp công thương; ngược lại, giám đốc xí nghiệp công thương cũng có thể đồng thời là quản trị của ngân hàng.Như vậy, tư bản ngân hàng lũng đoạn đã hỗn hợp với tư bản công nghiệp lũng đoạn, trở thành tư bản tài chính. Đầu sỏ tài chính đã hình thành trên cơ sở tư bản tài chính, đầu sỏ tài chính là vài nhà tư bản lũng đoạn lớn nắm giữ tư bản tài chính. 2. Vị trí của tư bản tài chính và đầu sỏ tài chính trong nền kinh tế của chủ nghĩa tư bản đế quốc. Tư bản tài chính là tư bản xuất hiện trên cơ sở tập trung sản xuất, là sự thâm nhập hay dung hợp lẫn nhau giữa các tổ chức độc quyền ngân hàng và các tổ chức độc quyền công nghiệp. Vì thế mà tư bản tài chính phát triển ngày càng mạnh và có thế lực kinh tế rất lớn. Trong tư bản tài chính có một nhóm nhỏ gồm những nhà tư bản giàu có nhất, có thế lực mạnh nhất chi phối toàn bộ đời sống kinh tế và chính trị của toàn xã hội tư bản gọi là đầu sỏ tài chính. Các thành viên của giới đầu sỏ tài chính kiếm được trực tiếp từ địa vị xã hội của chúng ta là nhà tư bản, nhưng chúng còn duy trì và phát triển thế lực của chúng nhờ chiếm được những vị trí thống trị trong nền kinh tế, nhà nước và xã hội. Thống trị về kinh tế là cơ sở để bọn đầu sỏ tài chính thống trị về chính trị và các mặt khác. Về mặt chính trị, bọn đầu sỏ tài chính chi phối mọi hoạt động của các cơ quan nhà nước, biến nhà nước tư sản thành công cụ phục vụ lợi ích cho chúng. Dĩ nhiên những vị trí thống trị đó chỉ tồn tại do có sự chiếm hữu thật sự những bộ phận tư bản xã hội có thể gọi là tài sản của chúng. Bây giờ còn cần giải thích xem sự chiếm hữu đó giúp như thế nào cho giới đầu sỏ tài chính quyết định sự vận động tổng quát của xã hội bằng cả một loạt công cụ trung gian, một hệ thống ảnh hưởng và môi trường trung gian phức hợp. Đặc biệt, sự chiếm hữu đó cho phép giới đầu sỏ tài chính trích được “từ xa” một phần giá trị thặng dư xã hội ngày càng lớn và nhất là một phần lao động thặng dư của những người sản xuất nhỏ không phải là tư bản (thí dụ nông dân, thợ thủ công) và cả một phần trong số giá trị thặng dư mà các nhà tư bản khác thu được do bóc lột sức lao động. Như vậy, giới đầu sỏ tài chính cướp đoạt đông đảo những người sản xuất nhỏ và các nhà tư bản nhỏ. Trong khi nắm giữ những “vị trí then chốt”, mở rộng ảnh hưởng của mình bằng vô số công cụ trung gian ( kinh tế nhưng cũng bằng cả những công cụ trung gian chính trị, hành chính, thể chế), các nhóm độc quyền tìm cách duy trì, củng cố và phát triển sự tái sản xuất ra bản thân chúng với tính cách là các tổ chức độc quyền. Tuy nhiên chúng vẫn không tránh khỏi tình trạng mâu thuẫn ngày càng sâu sắc của phương thức sản xuất. Cơ chế thống trị của tư bản tài chính. Tư bản Tài chính theo Lênin “là sự hợp nhất hay hòa hợp vào nhau giữa Ngân hàng và Công nghiệp – đó là lịch sử phát sinh của TBTC và là nội dung của khái niệm tư bản tài chính”. Đây là hình thức sở hữu hỗn hợp TBNH và TBCN do quá trình tích tụ và tập trung tư sản xuất đưa tới. Do sở hữu tập thể, tư bản tài chính không tồn tại dưới hình thức riêng lẻ, mà hình thành nên các nhóm hay các tập đoàn thống trị ở các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế. Tập đoàn tư bản tài chính bao gồm hàng loạt công ty công, thương nghiệp độc quyền hoạt động dựa vào nguồn tài chính chủ yếu do 1 số ngân hàng lớn cung cấp. Các ngân hàng lớn này chịu sự điều tiết, khống chế và chi phối của một ngân hàng trung tâm. Ngân hàng này gọi là ngân hàng khống chế, các tập đoàn những nhà tư bản tài chính chỉ cần thông qua ngân hàng khống chế mà điều tiết sự vận động của tất cả các xí nghiệp trong tập đoàn. Những nhà tư bản tài chính thiết lập sự thống trị của mình đối với nền kinh tế thông qua cơ chế hay “chế độ tham dự”. Chế độ tham dự là chế độ kiểm soát của một công ty lớn nhất với tư cách là một công ty gốc (hay là công ty mẹ) đối với những công ty khác, dựa trên cơ sở nắm số cổ phiếu khống chế. Vào thời kỳ đầu, khi mới xuất hiện tư bản tài chính, số cổ phiếu khống chế thường trên 50% tổng số cổ phiếu của công ty gốc. Tỷ lệ này giảm xuống khi lượng các công ty trong tập đoàn mở rộng hay giá trị của một cổ phiếu giảm xuống. Khi đã khống chế và điều tiết được công ty gốc, các nhà tư bản tài chính sử dụng vốn của công ty này mua cổ phiếu khống chế ở các công ty phụ thuộc để hình thành các công ty con. Sau đó lại sử dụng tư bản của các công ty con mua cổ phiếu khống chế ở các công ty phụ thuộc để hình thành các công ty con. Sau đó lại sử dụng tư bản của các công ty con mua cổ phiếu khống chế ở các công ty khác, hình thành nên các công ty cháu… Với chế độ tham dự và phương pháp tổ chức tập đoàn theo kiểu móc xích như vậy, bằng một lượng tư bản đầu tư nhỏ, các nhà tư bản độc quyền tài chính có thể khống chế và điều tiết được một lượng tư bản lớn hơn rất nhiều lần. Khi chủ nghĩ tư bản độc quyền phát triển đến giai đoạn cao hơn thì vai trò thống trị của tư bản tài chính trở lên cố định và vững chắc hơn. Cùng với chế độ tham dự, còn xuất hiện “chế độ uỷ nhiệm”. Chế độ này dẫn đến kết quả là: cho phép tư bản tài chính huy động được nguồn vốn rộng lớn từ mọi tầng lớp dân cư của xã hội, giúp cho nhà tư bản độc quyền tài chính với lực lượng tư bản có hạn của mình có thể khống chế và chi phối được một lượng tư bản lớn hơn nhiều và ngày càng mở rộng: tỷ lệ lượng cổ phiếu khống chế cho phép giảm từ trên 50% xuống đến 20% và cá biệt chỉ còn thấp hơn 1% (chẳng hạn công ty Boeing, Macdonan, …. số lượng tư bản của họ trong tổng số chỉ chiếm 0,1%- 0,2%). Do việc phát hành cổ phiếu nhỏ làm cho số lượng cổ đông lớn , phân bố rải rác, do đó thực tế họ không có khả năng đến dự đại hội cổ đông, phải uỷ quyền cho các ngân hàng hay những đại hội cổ đông khác thay mặt mình ở Hội nghị quyết định chiến lược kinh doanh và bầu ban quản trị của công ty. Ngoài chế độ tham dự và chế độ uỷ nhiệm, tư bản tài chính còn sử dụng thủ đoạn như: lập công ty mới, phát hành chứng khoán, kinh doanh công trái, đầu cơ chứng khoán có giá ở sở giao dịch, đầu cơ ruộng đất …để thu được lợi nhuận độc quyền cao. Dưới sự thống trị của bọn tài phiệt, đã nảy sinh và hình thành nhiều xu thế cực đoan và quân phiệt như: chạy đua vũ trang, gây chiến tranh xâm lược để áp bức, nô dịch các nước đang phát triển và chậm phát triển. Chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa quân phiệt và các thứ chủ nghĩa phản động khác đều là sản phẩm của nền thống trị của tư bản tài chính. 4. Biểu hiện mới của tư bản tài chính trong điều kiện hiện nay. Do sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học- công nghệ trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đã xuất hiện nhiều ngành kinh tế mới, đặc biệt là các ngành thuộc lĩnh vực dịch vụ, bảo hiểm. Các ngành này ngày càng chiếm tỷ trọng lớn. Thích ứng với sự biến đổi đó hình thức tổ chức và cơ chế thống trị của tư bản tài chính đã thay đổi. Sự thay đổi diễn ra ngay trong quá trình liên kết và xâm nhập vào nhau giữa tư bản ngân hàng và tư bản công nghiệp. Nếu trước kia mối liên kết này là chủ yếu và bao trùm quá trình hình thành các tập đoàn tài chính thì nay nó chỉ có ý nghĩa như một hạt nhân. Ngày nay phạm vi liên kết và xâm nhập vào nhau được mở rộng ra nhiều ngành, do đó các tập đoàn tư bản tài chính thường tồn tại dưới hình thức một tổ hợp đa dạng kiểu công- nông –thương –tín - dịch vụ hay công nghiệp – quân sự, dịch vụ quốc phòng… Còn nội dung của liên kết trở lên đa dạng và phức tạp hơn. Chẳng hạn, ngân hàng cho tư bản nông nghiệp vay vốn và đảm bảo tín dụng cho nó kinh doanh, nếu có lợi thì cùng hưởng, thất bại thì cùng chịu, ngân hàng cho tư bản công nghiệp hay các doanh nghiệp khác thuê những tư liệu sản xuất hiện đại như: hệ thống máy tính, dàn khoan thăm dò dầu khí … dưới hình thức dịch vụ. Như vậy vai trò của ngân hàng từ chỗ là trung tâm thanh toán và tín dụng đến chỗ điều tiết và khống chế kinh doanh của các công ty phụ thuộc, đến nay lại nhảy vào các khâu của quá trình kinh doanh trực tiếp. Ngày nay ngân hàng còn tham gia vào lĩnh vực bảo hiểm, thông tin, lưu trữ và hoạt động cầm cố , tín dụng cho tiêu dung của mọi tầng lớp dân cư. Sự thống trị đa ngành đã biến các tập đoàn tư bản tài chính gia đình trước đây thành các tập đoàn tài chính được hình thành theo địa phương và vùng lãnh thổ như Tập đoàn tài chính vùng Đông Bắc, Trung- Tây, Califoocnia…(Mỹ). Các tập đoàn này là cơ sở hình thành nền thống trị về kinh tế và chính trị của từng vùng. Để vươn ra địa bàn thế giới và thích ứng với các quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế, các tập đoàn tư bản tài chính đã thành lập các ngân hàng đa quốc gia và xuyên quốc gia thực hiện việc điều tiết các nguồn vốn đầu tư, các chi nhánh( concern và Conglomerate ) xâm nhập vào nền kinh tế của các quốc gia khác. Sự ra đời của các trung tâm tài chính thế giới thuộc các nước tư bản phát triển như Nhật Bản , Mỹ , Đức và ở cả các nền kinh tế công nghiệp mới như Hồng Kông , Singapo… là kết quả hoat động của các tập đoàn tài chính quốc tế. Trong quá trình toàn cầu hoá, vai trò quốc tế của tư bản tài chính ngày càng tăng lên. Ngày nay, tư bản tài chính không chỉ có vai trò to lớn trong nền kinh tế thế giới mà còn cả trong lĩnh vực chính trị, xã hội. Tư bản tài chính đã can thiệp ngày càng sâu vào những vấn đề chiến tranh, hoà bình, phát triển, môi trường sinh thái… Song, dù biểu hiện dưới hình thức nào, có sự thay đổi cơ chế thống trị ra sao, thì bản chất của tư bản tài chính cũng không thay đổi. 5. Sự thống trị của CNTBTC là giai đoạn phát triển tột cùng của CNTB? Đặc tính của chủ nghĩa tư bản là sự tách rời quyền sở hữu tư bản khỏi việc đầu tư tư bản vào sản xuất; sự tách rời tư bản tiền tệ khỏi tư bản công nhiệp hay còn gọi là tư bản sản xuất; sự tách rời người thực dụng khỏi nhà kinh doanh, tách rời các quốc gia có sức mạnh tài chính với tất cả các quốc gia khác. Sự tách rời này thể hiện sự thống trị của TBTC, nhưng Lênin khẳng định: sự thống trị của tư bản tài chính, là giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản, khi mà sự tách rời ấy đạt tới một quy mô rất lớn (có thể phát hành mọi chứng khoán) Tư bản tài chính là sự hợp nhất giữa tư bản ngân hàng của một số ít ngân hàng độc quyền lớn nhất, với tư bản của những liên minh độc quyền các nhà công nghiệp. Sự phát triển của TBTC dẫn đến sự hình thành của 1 nhóm nhỏ độc quyền chi phối toàn bộ đời sống kinh tế và chính trị của xã hội tư bản gọi là đầu sỏ tài chính. Như vậy tư bản tài chính là sự tập trung hợp nhất cao nhất của tất cả các ngân hàng vừa và nhỏ để tạo lên các tập đoàn ngân hàng có quy mô lớn, có các chi nhánh trên toàn thế giới. Ngân hàng này có quyền khống chế và chi phối mọi hoạt động của nền kinh tế thế giới. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường quốc tế buộc các nhà tư bản phải tích cực cải tiến kĩ thuật, tăng quy mô. Để có thể làm được như vậy các nhà tư bản phải vay vốn đầu tư, đến lượt mình các tập đoàn ngân hàng lại làm nhiệm vụ cho vay. Sự ra đời của các tập đoàn đầu tư quốc tế, không những làm nhiệm vụ cho vay mà còn đầu tư vào các công ty, các tập đoàn hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế. Cùng với nó là sự phát triển của các tập đoàn tài chính thế giới và các trung tâm tài chính thế giới. Hiện nay thì tư bản tài chính tồn tại dưới hình thức tổ hợp công- nông- thương- tín- dịch vụ hay công nghiệp quốc phòng. Như vậy Tư bản tài chính ngày càng quan trọng chi phối mọi mặt của đời sống kinh tế- chính trị- xã hội. 1.Trong tác phẩm “Về bệnh ấu trĩ “tả khuynh” và tính tiểu tư sản”. Lên nin đã chỉ rõ các thành phần kinh tế trong thời kì quá độ ở nga.Năm 1918, nước Nga đang xen kẽ nhau 5 thành phần kinh tế: 1.kinh tế nông dân kiểu gia trưởng 2.sản xuất hàng hoá nhỏ 3.CNTBTN 4.CNTBNN 5.CNXH Lênin phân tích từng thành phần kinh tế và chỉ ra mối quan hệ giữa chúng. Ngay sau khi cách mạng tháng 19 nga thành công,bối cảnh chính trị ở nứơc Nga có những thay đổi.Lúc này cần có khái niệm về thành phần kinh tế rõ ràng hơn nhằm làm rõ kinh tế và giai cấp ,cũng như cơ cấu của chúng.Khái niệm thành phần kinh tế được lênin sử dụng để chỉ một loại thành phần kinh tế nào đó ứng với mỗi phương thức sản xuất nào đó. Theo Lênin nền kinh tế trong TKQĐ kà nền kinh tế nhiều thành phần.Các thành phần kinh tế tồn tại bên cạnh nhau,xen kẽ nhau,hợp tác va cạnh tranh với nhau.Đó cũng là đặc điểm lớn nhất,xuyên suốt nhất,bao trùm nhất của nền kinh tế trong thời kì quá độ.Tương ứng với cơ cấu kinh tế này là cơ cấu nhiêu giai cấp khác nhau,trong đó có 3 giai cấp cơ bản la giai cấp tiểu tư sản,giai cấp tư sản,giai cấp công nhân và người lao động tập thể. Lênin cho rằng “thành phần kinh tế XHCN đối lập với thành phần kinh tế XHCN và thành phần kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ ; thành phần kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ,về bản chất,có hai mặt :nông dân vừa là người lao dộng ,vừa là người tư hữu . Ý nghĩa tác phẩm: đây là cơ sở lí luận vững chắc cho vấn đề phát triển nên kinh tế hàng hoá nhiều thành phần hiện nay,đặc biệt là thành phần kinh tế tư bản Nhà nước.CNTBNN đã được xây dựng ở Việt nam vận dụng ngay từ thời kì khôi phục và phát triển kinh tế dau khi hoà bình lập lại ỏ miền Bắc.Thực tế cho thấy ,việc vận dụng sáng tạo quan điểm của Lenin về xây dựng và phát triển kinh tế-xã hội của TKQĐ,trong hoàn cảnh cụ thể, sẽ đảm bảo cho sự thành công của cách mạng. Trong tác phẩm “kinh tế và chính trị trong thời đại chuyên chính vô sản”, Lênin cho rằng trong nền kinh tế của TKQĐ có 3 thành phần có bản: CNTB,sản xuất hàng hoá,và CNCS.Tỷ trọng các thành phần kinh tế này không giống nhau ở các nước và trong từng thời kì. Trong tác phẩm này Lênin chỉ rõ sự tồn tại thành phần kinh tế nông dân kiểu gia trưởng là do đặc thù của nó.Trong TKQĐ ở nước Nga diễn ra cuộc đấu tranh giữa những yếu tố đầu tiên của lao động tiên tiến theo nguyên tắc CSCN với nền tiểu sản xuất hàng hoá và CNTB đang còn duy trì. Yếu tố đầu tiên mà Lênin nói tới ở nước nga mới chỉ có một phần nhỏ,đó là :thủ tiêu được quyền tư hữu ruộng đất,tịch thu tài sản của địa chủ,việc tổ chức nền đại công nghiệp,công nhân thực hiện quản lý công xưởng, nhà máy mới thực hiện được những vấn đề cơ bản.Dặc biêt về nông nghiệp thì NGa lúc nào cũng mới bắt đầu : + xây dựng công trường +thành lập hợp tác xã +Thu mua và cung cấp hàng nông sản +……….. Lênin nhìn thẳng vào thực tế nước Nga : “Nên kinh tế nông dân hiện vẫn còn là một nên tiểu sản xuâts hàng hoá.Đó là một cơ sở vô cùng rộng lớn của CNTB,một cơ sỏ có những cội rễ vô cùng sâu và rất chắc.Chính trên cơ sở ấy,mà CNTB được duy trì và phục hồi lai trong cuộc đâu tranh ác liệt nhất chống CNCS” Giai cấp công nhân:trở thành giai cấp thống trị,nắm tư liệu sản xuất và thực hiện sự lãnh đại chính trị. Giai cấp tư sản:không mất ngay đi,vẫn nuôi hy vọng phục hồi CNTB. Nông dân: có ruộng,tự sản xuất kinh doanh thoát khỏi bóc lột,họ có quyền bình đẳng thực sự, Lenin cho rằng: “ CNXH là sự xoá bỏ giai cấp” và muốn xoá bỏ giai cấp trước hết cần phải đánh đổ địa chủ và tư bản, quan trọng hơn là cần xoá bỏ sự khác nhau giữa công nhân và nông dân,làm cho tất cả mội người đều là lao động. Để thực hiện được điều này cần chuyển từ nền kinh tế hàng hoá nhỏ ,cá nhân, riêng lẻ, sang nền kinh tế tập thể lớn. Khi phân tích tới thành phần kinh tế CNCS,Lênin nhận xét: “Đứng về phương diện sự thắng lợi của CNCS đối với CNTB mà nói thì tình hình của chúng ta đang được cải thiện một cách tù từ nhưng liên tục”Trên thực tế, cuộc sống mới đã thực sự tạo niềm tin đối với người nông dân,họ sẵn sàng liên minh với giai cấp công nhân xây dựng và bảo vệ nền kinh tế mới trong xã hội mới trên đất nước Nga Xô-viết. Ý nghĩa tác phẩm: Tác phẩm là những gợi ý về chính sách kinh tế của Nhà nước chuyên chính vô sản trong TKQĐ ở các nước.Việt nam là một quốc gia trong đó có trên 80% dân số là nông dân,vận dụng quan điểm,đường lối đối với nông dân của lênin trong điều kiện cụ thể ở Viêt nam có ý nghĩa đặc biêt quan trọng .Trên thực tế,Việt nam đã thực hiện tốt mối đoàn kết nông dân và công nhân.Nó cho phép phát huy được sức mạnh của nông dân trong phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn, cũng như trong nền kinh tế hang hoá nhiều thành phần của TKQĐ... 2.Thành phần kinh tế ở Việt nam trong thời kì quá độ Trong công cuộc đổi mới kinh tế,Viêt nam đã thực hiện nhất quán việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ,bao gồm :kinh tế Nhà nước,kinh tế tập thể,kinh tế tư bản tư nhân.kinh tế tư bản Nhà nước,kinh tế cá thể và tiểu chủ,kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. 2.1.Tính tất yếu khách quan của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần -Quy luật phù hợp giữa LLSX và QHSX. -Bước vào thời kì quá độ,nền kinh tế nước ta còn ở trình độ kém phát triển,lực lượng sản xuất tồn tại ở nhiều thang bậc khác nhau,do đó chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất sẽ có nhiều hình thức,tức là nền kinh tế nhiều thành phần.Các thành phần kinh tế không tồn tại biệt lập với nhau mà có quan hệ hữu cơ với nhau,tạo thành cơ cấu kinh tế. -Một số thành phần kinh tế do xã hội cũ để lại,sản xuất nhỏ như TBTN, kinh tế tự cung tụ cấp. -Một số thành phần kinh tế mới xuất hiện:hợp tác xã , CNTBNN -Ứng với mỗi loại hình sở hữu lại có 1 loại hình kinh tế. 2.2.Một vài đặc điểm của thành phần kinh tế việt nam a.Các thành phần kinh tế Việt nam vừa mang tính thông nhất vừa mang tính mâu thuẫn. + Tính thống nhất :trong thời kì quá độ lên CNXH ,cơ chế hoạt động của nền kinh tế là cơ chế thị trường.Do đo các thành phần kinh tế không tồn tại biệt lập với nhau.Mỗi thành phần kinh tế là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế quốc dân thống nhất.Mỗi thành phần kinh tế dựa trên một hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất.Các hình thức sở hữu tư về tư liệu sản xuất tuy có sự độc lập với nhau và có bản chất riêng nhưng hoạt động sản suất,kinh doanh trong môi trường chung,cùng chịu tác động của các nhân tố, các qui luật thị trường.ĐỒng thời,các thành phần kinh tế tác động lẫn nhau,cả tích cực và tiêu cực.Sự biến đổi của thành phần kinh tế này sẽ làm ảnh hưởng tới các thành phần kinh tế khác.Hơn thế nữa các thành phần kinh tế có thể liên kết với nhau trong sản xuất,kinh doanh.Trong nền kinh tế quốc dân thống nhất do nhà nước hướng dẫn,điều tiết.các chủ thể sản,kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế vừa hợp tác với nhau vừa bổ sung cho nhau,bình đẳng trước pháp luật. Nền kinh tế nhiều thành phần là cơ sở tồn tại các giai cấp hoặc tầng lớp xã hội khác nhau mà tổng hợp toàn bộ các giai hoặc tầng lớp xã hội đó tạo thành cơ cấu xã hội-giai cấp.Trong xã hội đó,các chủ thể sản xuất ,kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế đều có những lợi ích kinh tế riêng ,vừa thống nhất,vừa mâu thuẫn với nhau. + Tính mâu thuẫn : mối thành phần kinh tế có dặc điểm riêng về quan hệ sở hữu TLSX.Trên cơ sở đó, ở mỗi thành phần kinh tế ngoài các qui luật kinh tế chung còn có các quy luật dặc thù hoạt động,chi phối mỗi thành pần.Như vậy,mỗi thành phần kinh tế mang bản chất kinh tế khác nhau,thậm chí đối lập với nhau,thậm chí đối lập với nhau. Mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế làm cho cạnh tranh trở thành tất yếu.Cạnh tranh là động lực quan trọng để cải tiến kĩ thuật ,phát triển LLSX.Do đó nhà nước cần tạo môi trường cạnh tranh .Tuy nhiên ,mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế, đặc biệt là mâu thuẫn một bên là kinh tế nhà nước,kinh tế tập thể và kinh tế tư bản nhà nước với một bên là tính tự phát của kinh tế tư nhân là mâu thuẫn nổi bật. Giảt quyết mâu thuẫn này phải băng cách tạo điều kiện có lợi cho quốc tế dân sinh,hưóng các thành hần kinh tế tư nhân đi vào con đường CNTBNN thông qua nhiều hình thức và mức độ khác nhau : hiệp tác,liên kết,liên doanh. b. Nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo định hướg xã hội Các thành phàn kinh tế đều là “bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,bình đẳng trước phấp luật ,cùng phát triển lâu dài,hợp tác cà cạnh tranh lành mạnh.” Giải phóng lực lượng sản xuất ,đọng viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên gnoài cho cong nghiệp hoá,hiện đại hoá,nâng cao hiệu quả kinh tế,cải thiện đời sống nhân dân làm mục tiêu hàng đầu trong việc khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế và hình thưc tổ chức sản xuất kinh doanh. Chủ động đổi mới ,phát triển, nâng cao hiệu qủa kinh tế nhà nước,kinh tế tập thể.Đảm bảo vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển. Thực hiện chế độ phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế,đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất ,kinh doanh. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế.. 2.3.Vai trò cơ cấu kinh tế nhiều thành phần kinh tế trong thời kì quá độ Tồn tại nhiều hình thức quan hệ sản xuất ,sẽ phù hợp với thực trạng kém và không đồng đều của LLSX.Sự phù hợp này , đến lượt nó ,lại có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế tăng năng suất lao động,tăng trưởng kinh tế trong các thành phần kinh tế và trong toàn bộ nền kinh té quốc dân ở nước ta. Thúc đẩy phát triển kinh tế hàng hoá phát triển,góp phần thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh,cải thiện và nâng cao đời sống kinh tế - xã hội. Khai thác và sử dụng có hiệu quả sức mạnh tổng hợp của các thnàh phần kinh tế trong nước như: vốn,lao động,… Tạo điều kiện và mở rộng các hình thức kinh tế quá độ,trong đó có hình thức kinh tế TBNN. Tạo tiền đề khắc phục tình trạng độc quyền,tạo ra quan hệ cạnh tranh,thúc đẩy cải tiến kĩ thuật,phát triển lực lượng sản xuất.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPhân tích tính tất yếu của thời kỳ quá độ.doc
Luận văn liên quan