Quan điểm triết học Mác – Lênin về con người

LỜI MỞ ĐẦU Con người cùng với thế giới người mà nó tạo ra là cả một thiên hà các vấn đề. Vấn đề con người từ đâu tới, các quan hệ của nó, sự tồn tại thế giới bên trong, thế giới bên ngoài trong thực tiễn lịch sử - xã hội của con người; con người đi đâu và về đâu; các tổ chức xã hội của con người, các kiểu con người trong tiến trình lịch sử v.v. và v.v đã từng là cội nguồn tạo ra những khoa học nghiên cứu con người và thế giới con người.”(Trích bài viết của Đỗ Huy – Tạp chí Triết học) Con người, từ muôn đời là đề tài nghiên cứu của cả những nhà khoa học, triết học. Trước Marx, đã có rất nhiều nhà Triết học cả Phương Đông và Phương Tây nghiên cứu, đề cập về con người. Tuy nhiên, con người chỉ được định nghĩa đơn giản theo những quan điểm duy tâm – Với Thần thánh, Chúa trời Đến thời Mác - Lênin, con người đã được nhận định một cách đúng đắn và khách quan hơn, con người được coi là thực thể sinh vật – xã hội, là chủ thể của lịch sử, và bản chất của con người là tổng hòa các quan hệ xã hội. Với tư tưởng Hồ Chí Minh, con người càng được đề cao với những quyền lợi bất khả xâm phạm. Trong thời đại hiện nay, việc xây dựng con người nói chung, người Việt Nam nói riêng trở thành một vấn đề rất quan trọng. Chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài về “Xây dựng con người Việt Nam hiện nay theo quan điểm Triết học Mác - Lênin”. Những thiếu sót trong thời gian viết đề tài chắc chắn sẽ có. Rất mong nhận được nhận xét và những đóng góp của thầy nhằm hoàn thiện hơn cho suy nghĩ của mình.

doc17 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 23038 | Lượt tải: 7download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quan điểm triết học Mác – Lênin về con người, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU “Con người cùng với thế giới người mà nó tạo ra là cả một thiên hà các vấn đề. Vấn đề con người từ đâu tới, các quan hệ của nó, sự tồn tại thế giới bên trong, thế giới bên ngoài trong thực tiễn lịch sử - xã hội của con người; con người đi đâu và về đâu; các tổ chức xã hội của con người, các kiểu con người trong tiến trình lịch sử v.v. và v.v.. đã từng là cội nguồn tạo ra những khoa học nghiên cứu con người và thế giới con người.”(Trích bài viết của Đỗ Huy – Tạp chí Triết học) Con người, từ muôn đời là đề tài nghiên cứu của cả những nhà khoa học, triết học. Trước Marx, đã có rất nhiều nhà Triết học cả Phương Đông và Phương Tây nghiên cứu, đề cập về con người. Tuy nhiên, con người chỉ được định nghĩa đơn giản theo những quan điểm duy tâm – Với Thần thánh, Chúa trời… Đến thời Mác - Lênin, con người đã được nhận định một cách đúng đắn và khách quan hơn, con người được coi là thực thể sinh vật – xã hội, là chủ thể của lịch sử, và bản chất của con người là tổng hòa các quan hệ xã hội. Với tư tưởng Hồ Chí Minh, con người càng được đề cao với những quyền lợi bất khả xâm phạm. Trong thời đại hiện nay, việc xây dựng con người nói chung, người Việt Nam nói riêng trở thành một vấn đề rất quan trọng. Chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài về “Xây dựng con người Việt Nam hiện nay theo quan điểm Triết học Mác - Lênin”. Những thiếu sót trong thời gian viết đề tài chắc chắn sẽ có. Rất mong nhận được nhận xét và những đóng góp của thầy nhằm hoàn thiện hơn cho suy nghĩ của mình. NỘI DUNG QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ CON NGƯỜI. Con người là thực thể tự nhiên và cũng là thực thể xã hội. Con người cũng chịu sự chi phối của tiến trình phát triển tự nhiện “sinh – lão – bệnh – tử”, sự chi phối của các quan hệ xã hội. Tuy nhiên, con người cũng có thể chi phối được xã hội, chinh phục tự nhiên để phục vụ cho lợi ích của mình. Vì vậy, con người được coi là một phạm trù tự nhiên vả xã hội, nó cũng có bản chất và quy luật riêng của nó. Do đó, phạm trù con người đã được nghiên cứu rất nhiều trong mỗi giai đoạn lịch sữ phát triển của con người kể từ khi nền triết học ra đời. Nhìn chung từ nền triết học Phương Đông (Ấn Độ, Trung Quốc) đến nền triết học Phương Tây (Hy Lạp, triết học Phương Tây thời phục hưng, triết học cổ điển Đức…,) đầu có những nghiên cứu và định nghĩa riêng về con người và bản chất con người. Chung quy lại, tất cả đều đi tìm câu trả lời cho những vấn đề sau: Bản chất con người là gì? Bản chất con người là bản chất tự nhiên hay xã hội. Con người từ đâu mà có? Vị trí, vai trò của con người trong dòng chảy lịch sử tự nhiên, xã hội là gì? Tác động của con người đối với tự nhiên và xã hội? Giữa con người và tự nhiên xã hội phải có mối quan hệ như thế nào để cùng tồn tại và phát triển? Mỗi thời kỳ lịch sử, mỗi vùng lãnh thổ mà các nhà triết học có các quan niệm khác nhau về con người, về bản chất con người và vấn đề giải phóng con người. Quan niệm con người trong triết học Phương Đông thường đi sâu vào các vấn đề nguồn gốc bản chất con người. Các nhà triết học, các học thuyết trong nền triết học này đa phần cho rằng bản chất con người là tâm linh mang nặng tính duy tâm (con người bao gồm linh hồn và thể xác trong đó linh hồn có trước thể xác và linh hồn quan trọng nhất), con người là do thượng đế tạo ra. Tiêu biểu là các học thuyết của triết học Ấn Độ như kinh Vêđa, kinh Upanihad, triết học phật giáo…,) triết học Trung Quốc thì đi tìm bản chất con người từ đó xây dựng và giải phóng con người trong xã hội và trong tự nhiên tiêu biểu là các nền tư tưởng của Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử, Dương Chu… Quan niệm con người trong triết học Phương Tây thường tập trung mọi cố gắng nghiên cứu con người một cách khá toàn diện và đặc biệt đề cao con người coi “con người là trung tâm của vũ trụ” thước đo của vạn vật. Quan niệm của nền triết học này thường mang tính duy vật chủ quan hoặc vừa duy tâm, vừa duy vật. Chính quan điểm triết học về con người trong nền triết học Phương Tây đã giải phóng con người và đưa con người lên tầm cao mới, con người là trung tâm của xã hội, con người có thể chinh phục được tự nhiên. Từ đó đưa nên khoa học tri thức ngày càng phát triển và cũng chính nền tri thức khoa học tự nhiên xã hội lại chỉ rõ ra những vấn đề quan trọng trong việc giải phóng con người làm con người ngày càng phát triển cả về thể chất tự nhiên lẫn tinh thần. Tuy nhiên, cả hai nền triết học trên vẫn còn nhiều mặt mâu thuẩn, chủ yếu là mâu thuẩn giữa hai hệ tư tưởng tư duy là duy vật và duy tâm, vẫn còn lẫn quẫn khi cho rằng linh hồn con người là do đấng siêu nhiên tạo thành. Những quan niệm cơ bản của triết học Mác-Lênin về con người. Kế thừa có phê phán và phát triển trên những quan niệm trên cũng như tránh các sai lầm về quan niệm của hai nền triết học trên, triết học Mác – Lênin có những nghiên cứu và lý luận về con người một cách riêng và cụ thể hơn. Điểm xuất phát để nghiên cứu về con người của triết học Mác đó là con người trong hoạt động thực tiễn, trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể của nó. Triết học Mác đã đưa ra các quan niệm khoa học về con người như sau: I.1 Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội Triết học Mác đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết học, đồng thời khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội. Tiền đề vật chất đầu tiên quy sự tồn tại của con người là giới tự nhiên. Cũng do đó, bản tính tự nhiên của con người bao hàm trong nó tất cả bản tính sinh học, tính loài của nó. Yếu tố sinh học trong con người là điều kiện đầu tiên quy định sự tồn tại của con người. Vì vậy, có thể nói: Giới tự nhiên là "thân thể vô cơ của con người"; con người là một bộ phận của tự nhiên; là kết quả của quá trình phát triển và tiến hoá lâu dài của môi trường tự nhiên. Tuy nhiên, điều cần khẳng định rằng, mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy nhất quy định bản chất con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con người với thế giới loài vật là phương diện xã hội của nó. Trong lịch sử đã có những quan niệm khác nhau phân biệt con người với loài vật, như con người là động vật sử dụng công cụ lao động, là "một động vật có tính xã hội", hoặc con người động vật có tư duy... Những quan niệm trên đều phiến diện chỉ vì nhấn mạnh một khía cạnh nào đó trong bản chất xã hội của con người mà chưa nêu lên được nguồn gốc của bản chất xã hội ấy. Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhận thức vấn đề con người một cách toàn diện, cụ thể, trong toàn bộ tính hiện thực xã hội của nó, mà trước hết là lao động sản xuất ra của cải vật chất. "Có thể phân biệt con người với súc vật, bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu bằng sự tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình - đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy định. Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình". Thông qua hoạt động sản xuất vật chất; con người đã làm thay đổi, cải biến giới tự nhiên: "Con vật chỉ sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên". Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất; hoạt động sản xuất vật chất biểu hiện một cách căn bản tính xã hội của con người. Thông qua hoạt động lao động sản xuất, con người sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần, phục vụ đời sống của mình; hình thành và phát triển ngôn ngữ và tư duy; xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định hình thành bản chất xã hội của con người, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội. Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển của con người luôn luôn bị quyết định bởi ba hệ thống quy luật khác nhau, nhưng thống nhất với nhau. Hệ thống các quy luật tự nhiên như quy luật về sự phù hợp cơ thể với môi trường, quy luật về sự trao đổi chất, về di truyền, biến dị, tiến hóa... quy định phương diện sinh học của con người. Hệ thống các quy luật tâm lý ý thức hình thành và vận động trên nền tảng sinh học của con người như hình thành tình cảm, khát vọng, niềm tin, ý chí. Hệ thống các quy luật xã hội quy định quan hệ xã hội giữa người với người. Ba hệ thống quy luật trên cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội. Mối quan hệ sinh học và xã hội là cơ sở để hình thành hệ thống các nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội trong đời sống con người như nhu cầu ăn, mặc, ở; nhu cầu tái sản xuất xã hội; nhu cầu tình cảm; nhu cầu thẩm mỹ và hưởng thụ các giá trị tinh thần. Với phương pháp luận duy vật biện chứng, chúng ta thấy rằng quan hệ giữa mặt sinh học và mặt xã hội, cũng như nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội trong mỗi con người là thống nhất. Mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của con người, còn mặt xã hội là đặc trưng bản chất để phân biệt con người với loài vật. Nhu cầu sinh học phải được "nhân hóa" để mang giá trị văn minh con người, và đến lượt nó, nhu cầu xã hội không thể thoát ly khỏi tiền đề của nhu cầu sinh học. Hai mặt trên thống nhất với nhau, hoà quyện vào nhau để tạo thành con người viết hoa, con người tự nhiên - xã hội. I.2 Bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội Từ những quan niệm đã trình bày ở trên, chúng ta thấy rằng, con người vượt lên thế giới loài vật trên cả ba phương diện khác nhau: quan hệ với tự nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với chính bản thân con người. Cả ba mối quan hệ đó, suy đến cùng, đều mang tính xã hội, trong đó quan hệ xã hội giữa người với người là quan hệ bản chất, bao trùm tất cả các mối quan hệ khác và mọi hoạt động trong chừng mực liên quan đến con người. Bởi vậy, để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, C.Mác đã nêu lên luận đề nổi tiếng trong tác phẩm Luận cương về Phoiơbắc: "Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội". Trên cơ sở vận dụng phép biện chứng duy vật Mác đã khảo sát bản chất con người bắt đầu từ hoạt động thực tiễn, từ trong hoàn cảnh xã hội lịch sử - cụ thể. Khi vạch ra bản chất con người Mác đặc biệt nhấn mạnh “trong tính hiện thực”, bởi vì luận điểm xuất phát của Mác là luận điểm cho rằng xét về thực chất, quá trình hình thành và phát triển đời sống con người là hoạt động sản xuất, hoạt động thực tiễn của con người. Còn các quá trình tư tưởng- tinh thần là sự thể hiện của đời sống thực tiễn mang tính khách quan của con người. Luận điểm này chỉ rõ bản chất con người là bản chất được xem xét “trong tính hiện thực” cụ thể, không phải là bản chất loài trừu tượng thoát ly tính lịch sử, tính xã hội. Để nhận thức đúng đắn về con người, về bản chất con người, mối quan hệ: Tự nhiên – Con người – Xã hội (lịch sử) thì phải xem xét con người với tư cách là con người hiện thực, con người với cuộc sống tộc loại, với đời sống xã hội hiện thực của nó, với sự phát triển lịch sử của nó, thông qua những hành động lịch sử và các mối quan hệ của nó. Do vậy, cá nhân được xem xét trong định nghĩa này là những cá nhân trong hiện thực, là những cá nhân đang hoạt động trong giới hạn, tiền đề và những điều kiện vật chất nhất định, tức là cá nhận trong hoạt động thực tiễn. Thực tiễn là đặc điểm cơ bản của con người hiện thực. Chỉ có nắm vững điều này mới giải thích đúng bản chất con người. Con người nói chung chung không tồn tại trong cuộc sống hiện thực. “Bản chất con người là tổng hòa nhựng quan hệ xã hội” – Luận điểm này cho thấy con người là một thực thể có tính loài. Đặc tính “loài” của con người hiện thực tức là tính người. Tính người bao gồm toàn bộ các thuộc tính vốn có của con người, trong đó có ba thuộc tính cơ bản nhất đó là thuộc tính tự nhiên, thuộc tính xã hội và thuộc tính tư dưy, trong ba thuộc tính ấy thì thuộc tính nào là thuộc tính bản chất con người? Như chúng ta đã biết bản chất của mọi sự vật là sự tổng hợp những mặt, những yếu tố, những thuộc tính tất nhiên vốn có bên trong sự vật, quy định sự vận động phát triển của sự vật đó. Tổng họp không phải là tổng cộng giản đơn các thuộc tính của sự vật mà tổng hợp chính là thuộc tính đặc trưng giữ vai trò chi phối các thuộc tính cơ bản của sự vật đó. Trong ba thuộc tính cơ bản của con người thì thuộc tính tự nhiên của con người là cái đặc trưng và bản năng vốn có của sinh vật tự nhiên, là điều kiện sinh lý để loài người sinh tồn và phát triển, nó đóng vai trò là cơ sở vật chất của thuộc tính xã hội và thuộc tính tư duy, nhưng thuộc tính tự nhiên chỉ biểu thị mặt nguồn gốc và lien hệ giữa con người với các sinh vật khác, nó chưa nói lên được sự khác nhau căn bản giữa con người và con vật vì thế nó không phải là thuộc tính bản chất của con người. Còn thuộc tính tư vì thế nó không phải là thuộc tính bản chất của con người. Còn thuộc tính tư duy của con người (ngôn ngữ, tư duy, lý tính…,) là hiện tượng riêng có ở loài người, song nó cũng không phải là thựoc tính bản chất vì nó kông có ý nghĩa chi phối đối với các thuộc tính khác. Chỉ có thuộc tính xã hội là thuộc tính chế ước và quy định thuộc tư duy và thuộc tính tự nhiên của con người, khiến cho dấu ấn xã hội được in đậm, thấm sâu vào nội dung của các thuộc tính đó. Bởi so tác động của thuộc tính xã hội mà các nhu cầu tự nhiên ở con người đã bị xã hội hóa và ý thức, ngôn ngữ.v.v.. của con người là sản phẩm của xã hội, mang tính xã hội. Theo quan điểm của triết học Mác, tồn tại con người là tồn tại mang tính tự nhiên, con ngưồi là bộ phận của tự nhiên, là sản phẩm cao nhất trong quá trình phát triển của tự nhiên. Cùng với đó, con người còn là một thực thể xã hội. Con người vừa là sản phẩm của tự nhiên, vừa là sản phẩm của xã hội và do vậy yếu tố sinh học trong mỗi con người không phải tồn tại bên cạnh yếu tố xã hội mà chúng hòa quyện vào nhau tồn tại trong yếu tố xã hội. Do đó, bản tính tự nhiên của con người được chuyển vào bản tính xã hội và được cải biến trong đó. Con người là một thực thể hiện thực, thực thể sinh học – xã hội và trong tính hiện thực ấy, “bản chất con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội”. Quan hệ xã hội đây được hiểu là tổng thể những quan hệ mà con người đã có, đang có và trong chừng mực nào đó nó còn bao hàm cả những quan hệ trong tương lai. Các quan hệ xã hội của loài người bao gồm hai loại quan hệ: Quan hệ vật chất (quan hệ sản xuất) và quan hệ tư tưởng (quan hệ chính trị, pháp luật, đạo đưc…) trong đó quan hệ vật chất quy định quan hệ tư tưởng. Chỉ có đặt con người trong tổng hòa các quan hệ xã hội đó để tiến hành khảo sát, tổng hợp thì mới có thể năm bắt được toàn diện bản chất con người. Bản chất con người không phải là cái gì nhất thành bất biến mà luôn vận động, phát triển cùng với sự vận động phát triển, biến đổi của hoàn cảnh sống, với những biến đổi của thời đại, gắn liền với phương thức sản xuất ra của cải vật chất. Chính vì vậy mà thời đại nào thì sản sinh ra con người của thời đại ấy. Bản chất con người vừa phản ánh cái chung của sự phát triển xã hội loài người, vừa phản ánh cái riêng của mỗi thời đại lịch sử, và vì vậy, con người có bản chất chung xuyên suốt mọi thời đại. Đặc tính chung này do bản năng sinh vật, những nhu cầu, lợi ích của con người quy định. Nhưng cái chung lại được thể hiện thông qua cái riêng. Do vậy trong xã hội có giai cấp, bản chất của con người mang tính giai cấp, thể hiện trong xã hội có giai cấp con người ta có quyền sở hữu khác nhau đối với tư liệu sản xuất và do đó có sự khác nhau về lợi ích vật chất, tư tưởng, đạo đức, tác phong … của giai cấp. Vì bản chất con người mang tính chất giai cấp nhất định cho nên cái gọi là con người trừu tượng, siêu giai cấp không tồn tại. Bản chất chung được hiểu là tính người, tính nhân loại – là cái chung nằm trong tính giai cấp – tức cái riêng. Bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội nhưng con người bao giờ cũng là con người riêng biệt, con người cụ thể ứng với những thời đại, những giai đoạn lịch sử nhất định, với từng tập đoàn người. Đồng thời nó cũng mang bản chất chung của nhân loại, phát triển trong toàn bộ lịch sử loài người. Mỗi cá nhân từ khi sinh ra buộc phải tiếp nhận những quan hệ xã hội đã có và đang có, quá trình con người lớn lên, trưởng thành, nắm bắt văn hóa xã hội hòa nhập vào xã hội, hòa nhập vào các quan hệ xã hội, quá trình xã hội hóa ấy chính là quá trình hình thành bản chất con người. Tổng hòa các quan hệ xã hội tạo thành bản chất con người, không những là cơ sở để phân biệt sự khác nhau giữa con người và con vật mà còn là cơ sở để phân biệt giữa cá nhân với cá nhân trong cộng đồng, bởi vì mỗi cá nhân do hoạt động thực tiễn của họ khác nhau cho nên quan hệ xã hội của họ khác nhau. Tổng hòa các quan hệ xã hội không những cho phép giải thích bản chất cộng đồng của loài người mà còn giải thích được bản chất đặc thù của cá nhân trong cộng đồng đó. Luận đề trên khẳng định rằng, không có con người trừu tượng, thoát ly mọi điều kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác định, sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất định. Trong điều kiện lịch sử đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ. Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội đó (như quan hệ giai cấp, dân tộc, thời đại; quan hệ chính trị, kinh tế; quan hệ cá nhân, gia đình, xã hội...) con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của mình. Điều cần lưu ý là luận đề trên khẳng định bản chất xã hội không có nghĩa là phủ nhận mặt tự nhiên trong đời sống con người. Song, ở con người, mặt tự nhiên tồn tại trong sự thống nhất với mặt xã hội; ngay cả việc thực hiện những nhu cầu sinh vật ở con người cũng đã mang tính xã hội. Quan niệm bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội mới giúp cho chúng ta nhận thức đúng đắn, tránh khỏi cách hiểu thô thiển về mặt tự nhiên, cái sinh vật ở con người. I.3 Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con người. Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hóa lâu dài của giới hữu sinh. Song, điều quan trọng hơn cả là, con người luôn luôn là chủ thể của lịch sử - xã hội. C.Mác đã khẳng định: "Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng con người là sản phẩm của những hoàn cảnh và của giáo dục... cái học thuyết ấy quên rằng chính những con người làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục". Trong tác phẩm Biện chứng của tự nhiên, Ph.Ăngghen cũng cho rằng: "Thú vật cũng có một lịch sử, chính là lịch sử nguồn gốc của chúng và lịch sử phát triển dần dần của chúng cho tới trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải do chúng làm ra và trong chừng mực mà chúng tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy thì điều đó diễn ra mà chúng không hề biết và không phải do ý muốn của chúng. Ngược lại, con người càng cách xa con vật, hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu thì con người lại càng tự mình làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức bấy nhiêu". Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát triển của lịch sử xã hội. Thế giới loài vật dựa vào những điều kiện có sẵn của tự nhiên. Con người thì trái lại, thông qua hoạt động thực tiễn của mình để làm phong phú thêm thế giới tự nhiên, tái tạo lại một tự nhiên thứ hai theo mục đích của mình. Trong quá trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình. Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính bản thân con người. Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn tại của con người, vừa là phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội. Trên cơ sở nắm bắt quy luật của lịch sử xã hội, con người thông qua hoạt động vật chất và tinh thần, thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu và nhu cầu do con người đặt ra. Không có hoạt động của con người thì cũng không tồn tại quy luật xã hội, và do đó, không có sự tồn tại của toàn bộ lịch sử xã hội loài người. Không có con người trừu tượng, chỉ có con người cụ thể trong mỗi giai đoạn phát triển nhất định của xã hội. Do vậy, bản chất con người, trong mối quan hệ với điều kiện lịch sử xã hội luôn luôn vận động biến đổi, cũng phải thay đổi cho phù hợp. Bản chất con người không phải là một hệ thống đóng kín, mà là hệ thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của con người. Mặc dù là "tổng hoà các quan hệ xã hội", con người có vai trò tích cực trong tiến trình lịch sử với tư cách là chủ thể sáng tạo. Thông qua đó, bản chất con người cũng vận động biến đổi cho phù hợp. Có thể nói rằng, mỗi sự vận động và tiến lên của lịch sử sẽ quy định tương ứng (mặc dù không trùng khớp) với sự vận động và biến đổi của bản chất con người. Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải làm cho hoàn cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn. Hoàn cảnh đó chính là toàn bộ môi trường tự nhiên và xã hội tác động đến con người theo khuynh hướng phát triển nhằm đạt tới các giá trị có tính mục đích, tự giác, có ý nghĩa định hướng giáo dục. Thông qua đó, con người tiếp nhận hoàn cảnh một cách tích cực và tác động trở lại hoàn cảnh trên nhiều phương diện khác nhau: hoạt động thực tiễn, quan hệ ứng xử, hành vi con người, sự phát triển của phẩm chất trí tuệ và năng lực tư duy, các quy luật nhận thức hướng con người tới hoạt động vật chất. Đó là biện chứng của mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử xã hội loài người. I.4 Quan niệm về sự giải phóng con người. Xuất phát từ quan điểm duy vật về con người, coi bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội, triết học Mác đã lấy tư tưởng “vì con người và giải phóng nhân loại” và “xã hội không thể nào giải phóng cho mình được, nếu không giải phóng cho mỗi cá nhân riêng biệt” làm tư tưởng nền tảng để xây dụng học thuyết của chủ nghĩa Mác – Lênin về xã hội nói chung, về xã hội cộng sản chủ nghĩa nói riêng. Một trong những đặc trưng cơ bản nhất của chế độ xã hội mới mà giai cấp vô sản có sứ mệnh xây dựng thành công là giải phóng con người, giải phóng nhân loại. Trong quan niệm của triết học Mác mục tiêu cao nhất của chế độ xã hội mới là phát triển con người toàn diện, “tạo nên những con người mới”-những con người “có khả năng sử dụng một cách toàn diện năng lực phát triển toàn diện của mình”. Nói đến vấn đề giải phóng con người, giải phóng nhân loại, trong triết học Mác đã phân biệt rõ sự khác nhau giữa “giải phóng chính trị” và “giải phóng con người”. Giải phóng chính trị là sự giải phóng con người thoát khỏi sự khép kín về đảng cấp, về địa vị, về vị trí của con người trong xã hội, là sự thừa nhận bản chất phổ biến của con người, thừa nhận bản tính của con người trái với tất cả sự khác biệt hiện thực, xuyên suốt sự tồn tại hiện thực của con người. Từ quan niệm ấy về giải phóng chính trị các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã đi đến kết luận rắng một thời đại mới về nguyên tắc trong sự phát triển của con người chỉ có thể bắt đầu nhờ giải phóng con người. Chỉ bằng cách giải phóng con người, chúng ta mới khắc phục được tính phân đôi, tính độc lập giữa nhà nước chính trị và xã hội công nhân, giữa công nhân trừu tượng của nhà nước với thành viên hiện thực của xã hội công dân, giữa con người với tư cách thực thể loài với con người với tư cách là cá nhân ích kỷ. Sự giải phóng con người là con đuờng, là phương thức thực hiện đúng đắn bản chất loài của con người. Nhờ giải phóng ấy, con người sẽ nhận thức được và tổ chức hoạt động của mình với tư cách hoạt động xã hội, và sẽ không còn tách hoạt động ấy ra khỏi đời sống hiện thực của mình dưới dạng một hoạt động độc lập. Giải phóng con người là xóa bỏ sự đối lập giữa con người cá nhân với người công dân trừu tượng, việc xóa bỏ ấy chỉ có thể thực hiện được bằng hoạt động tích cực của con người. Đó là cuộc đấu tranh nhằm mục đích xóa bỏ sự tha hóa của con người. Cơ sở cho sự tha hóa của con người chính là chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất gắn liền trực tiếp với chế độ tư bản chủ nghĩa. Bởi thế, việc xóa bỏ chế độ tư hữu ấy là tiền đề cơ bản cho việc xóa bỏ mọi tha hóa của con người, cho sự nghiệp giải phóng con người, giải phóng xã hội. Lực lượng thực hiện này là giai cấp vô sản. VẤN ĐỀ XÂY DỰNG CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY. Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ năm (khoá VIII), Đảng ta đã có sự đánh giá đúng đắn, khách quan về những thành tựu, những yếu kém của con người Việt Nam trên nhiều phương diện, nhiều lĩnh vực hoạt động, phản ánh ngày càng đầy đủ, toàn diện và kịp thời cả những mặt mạnh, ưu điểm lẫn những hạn chế, khiếm khuyết của con người Việt Nam hiện nay. II.1 Điểm mạnh của con người Việt Nam hiện nay: Thứ nhất, trong công cuộc đổi mới đất nước, trong điều kiện mới của khu vực và thế giới, con người Việt Nam vẫn luôn gắn bó mật thiết với những giá trị văn hoá truyền thông, với những phẩm giá của dân tộc mà điểm nổi bật là tinh thần yêu nước, ý thức độc lập dân tộc, tự lực, tự cường, đoàn kết vì đại nghĩa dân tộc. Biểu hiện của điểm mạnh này là thái độ tích cực của mỗi công dân trước vận mệnh của Tổ quốc, trước các chuyển đổi về kinh tế, xã hội hiện nay. Thứ hai, con người Việt Nam vẫn luôn thể hiện đức tính cần cù, sáng tạo trong mọi hoạt động. Đức tính này là một giá trị đặc trưng, chiếm vị trí xứng đáng trong bảng giá trị về nhân cách của con người Việt Nam. Thái độ tích cực của con người Việt Nam trong định hướng và lựa chọn giá trị này là điều kiện hết sức thuận lợi cho công tác giáo dục, từ giáo dục truyền thống, lối sống đến giáo dục đạo đức, nhân cách con người hiện đại... nhằm phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Thứ ba, nét đặc trưng của đời sống tinh thần, của phẩm giá của con người Việt Nam là truyền thông cộng đồng, lòng nhân ái, nhũng tình cảm vị tha và khoan dung... vẫn được giữ vừng, phát huy trong điều kiện mới của đất nước. Những giá trị mang tính nền tảng cốt lõi ấy là cơ sở để phát triển tính nhân văn và xây dựng văn hoá Việt Nam hiện đại, tiên tiến, mang bản sắc dân tộc. Có thể khẳng định rằng, đây là một thuận lợi căn bản để chúng ta thực hiện chương trình văn hoá trong toàn xã hội đối với các thế hệ con người Việt Nam hiện nay và mai sau. Thứ tư, con người Việt Nam vẫn giữ được truyền thông hiếu học, tôn sư trọng đạo và sự hình thành, phát triển các giá trị mới của văn hoá và con người đã chứng minh sự kết hợp giữa truyền thống với hiện đại trong thời kỳ đổi mới và đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Thứ năm, trong công cuộc đổi mới, mô hình gia đình truyền thống đang có những biến đổi lớn, phức tạp do sự tác động của kinh tế hàng hoá, cơ chế thị trường, do những biến đổi của xã hội đang quá độ lên CHXH... Tuy vậy, những giá trị tinh thần, đạo lý của gia đình truyền thông vẫn được giữ vững, có ảnh hưởng tích cực trong đời sống gia đình Việt Nam, vẫn là nhân tố quan trọng đảm bảo sự ổn định và phát triển bền vững của xã hội. II.2 Một số yêu kém trong con người Việt Nam hiện nay. Đất nước chúng ta chịu ảnh hưởng nặng nề tính phong kiến của Trung Quốc do qua gần một thế kỷ chịu ách đô hộ của Trung Quốc đã hình thành con người Việt Nam mang tính gia trưởng nặng nề, chính điều này làm cho sự phát triển về giới chưa được toàn diện, vẫn còn tư tưởng trọng nam khinh nữ trong gia đình và xã hội. Điều này đã bóp chết sự giải phóng phụ nữ khỏi những công việc nội trợ gia đình, thoát khỏi tư tưởng nề hà phong kiến để đóng góp vào sự phát triển kinh tế và xã hội ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Phong cách sản xuất nhỏ biểu hiện trong thói quen, tập quán, lối sống và cách ứng xử, nếp suy nghĩ, lề thói làm ăn... của người Việt Nam vẫn đang là những cản trở không nhỏ đối với sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Những mặt trái của kinh tế thị trường đang tác động tiêu cực tới sự phát triển con người Việt Nam. Một trong những biểu hiện rõ nét của xu hướng này là sự suy giảm về mặt đạo đức của không ít người, nhất là lớp trẻ, thậm chí của cả một số cán bộ, đảng viên thoái hoá, biến chất. Cùng với đó là sự xuất hiện các yêu tố tiêu cực khác, như chủ nghĩa cục bộ, địa phương, lối sống thực dụng chạy theo đồng tiền, đề cao quá mức tiện nghi vật chất, xa hoa, lãng phí, sự phát triển chủ nghĩa cá nhân vị kỷ biểu hiện trong lối sống, trong cách ứng xử giữa người với người. Những tiêu cực này đang ảnh hưởng đến ý thức tư tưởng, đạo đức, lối sống của nhân dân ta. Vấn đề đặt ra ở đây chính là vấn đề quan hệ con người trong nền kinh tế thị trường, là ý thức về trách nhiệm, bổn phận, nghĩa vụ của cá nhân đối với những người thân trong gia đình, đối với cộng đồng và toàn xã hội. Nếu không đặt vấn đề giáo dục truyền thống, nếu không chú trọng giáo dục đạo đức, lối sống... một cách đúng mức cả trong gia đình, nhà trường lẫn xã hội thì tình trạng suy thoái đạo đức chẳng những không sớm được ngăn chặn, mà còn đứng trước nguy cơ tiếp tục gia tăng. Ý thức pháp luật còn kém, hiện tượng biết sai vẫn còn, lách luật, chống luật, phá luật, mù luật. Con người Việt Nam làm việc theo cảm tính không theo một quy cũ nào, không nhất quán trong công việc, tính độc lập tác chiến cao tuy nhiên tính làm việc nhóm tổ không tốt. Dẫn đến công việc cứ bị ù nề không nhanh và giải quyết công việc, vấn đề không tốt. Phương pháp tư duy yếu, điều này bắt nguồn từ nền kinh tế nông nghiệp lúa nước do công việc phó mặc vào điều kiện tự nhiên, thời tiết tốt thì được mùa, thời tiết xấu thì mất mùa. Ngoài ra chính nền nông nghiệp lúa nước đã ảnh hưởng đến con người Việt Nam có năng lực tổ chức thực tiễn kém. Con người Việt Nam cần cù lao động tuy nhiên tư tưởng dễ thỏa mãn đã hạn chế khả năng phát huy năng lực của người Việt Nam. Người Việt Nam thông minh sáng tạo tuy nhiên chỉ giỏi đối phó tình cảnh thiếu tầm nhìn dài hạn không chủ động. Trong công việc thì khéo léo tuy nhiên không chịu làm tới cùng chỉ làm cho xong việc không quan tâm kết quả như thế nào. Điều này cũng ảnh hưởng đến việc học tập nghiên cứu, ít khi học tới nơi tới chốn mặc dù người Việt Nam rất ham học hỏi và có khả năng tiếp thu nhanh. Dẫn đến kiến thức không có hệ thống, mất căn bản. Có tinh thần tương thân tương ái song trong trường hợp khó khăn thì bần hàn. Người Việt Nam có tính hiếu khách tuy nhiên nhiều khi dẫn đến việc hoang phí. Yêu hòa bình nhẫn nhịn song nhiều khi hiếu chiến hiếu thắng vì những lí do tự ái lặt vặt dễ đánh mất đại cuộc. II.3 Mô hình xây dựng con người Việt Nam hiện nay. Trong thời kỳ hiện nay, vận mệnh đất nước đã đổi mới thời kỳ đất nước hội nhập vào nền kinh tế thế giới, thời kỳ khoa học thế giới phát triển mạnh mẽ với những thành tựu lớn trong khoa học. Thì con người Việt Nam cũng phải có những phẩm chất nhất định để bắt kịp thời cuộc, theo kịp sự phát triển của thế giới và khu vực. Điều này, làm cho con người Việt Nam phải thay đổi để có thể đáp ứng được các yêu cầu hội nhập thế giới và thời đại. Để đảm bảo cho sự phát triển này cần phải có mô hình xây dựng con người Việt Nam phù hợp với thời đại đáp ứng được nhu cầu của nên văn hóa mới, khoa học mới trên cơ sở xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Theo thực tiển phát triển hiện tại của xã hội và khoa học nước ta nói riêng và thế giới nói chung đòi hỏi con người Việt Nam những phẩm chất sau: Định hướng xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện. Xây dựng con người "có ý thức làm chủ, ý thức trách nhiệm công dân; có tri thức, sức khỏe và lao động giỏi; sống có văn hóa và tình nghĩa, giàu lòng yêu nước và tinh thần quốc tế chân chính", "xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hóa, quan hệ hài hòa trong gia đình, cộng đồng và xã hội. Văn hóa trở thành nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân cách, kế thừa truyền thống cách mạng của dân tộc, phát huy tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc". Để thực hiện và xây dựng mô hình con người Việt Nam hiện nay xã hội và đất nước cần có những chính sách và biện pháp sau: Một là, xây dựng và hoàn thiện hệ thống các giá trị mới cua con người việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Có thể nói, đây là một đòi hỏi rất cao và mới đối với văn hoá. Bởi vì, trong những năm qua, cuộc vận động xây dựng con người mới tuy có bề rộng, nhưng chưa sâu, chưa bền vững ít hiệu quả và chưa hình thành được dư luận xã hội định hướng các chuẩn mực giá trị mới. Đây là một yêu cầu có tính bao quát, tổng thể, đồng thời là cơ sở và định hướng giải quyết các nhiệm vụ trước mắt. Từ những điểm mạnh của con người Việt Nam đã được Đảng xác định, cần cụ thể hoá thành những tiêu chí, chuẩn mực phù hợp với từng giới, từng ngành, từng địa phương đơn vị. Đó là các phẩm chất: có tinh thần yêu nước, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội có tinh thần đoàn kết, có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, tôn trọng kỷ cương phép nước, cần cù lao động và có ý thức học hỏi vươn lên... Hai là, kiên quyết phê phán, đấu tranh chống lại những biểu hiện tiêu cực trong tư tưởng, đạo đức lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân, chống lại bệnh quan liêu tham nhũng, lãng phí và các tệ nạn xã hội... nhằm làm lành mạnh hoá xã hội. Đây là đòi hỏi bức xúc của toàn xã hội trong sự nghiệp xây đựng con người theo hệ giá trị chân - thiện - mỹ. Ba là, bồi dưỡng các giá trị văn hoá trong thanh niên, học sinh sinh viên là một yêu cầu, nội dung được đặc biệt nhấn mạnh. Yêu cầu văn hoá trong việc xây dựng thế hệ trẻ Việt Nam về nhân cách là một việc cực kỳ cần thiết, vừa có tính cơ bản, chiến lược, vừa rất cấp bách. Chúng ta đều biết rõ rằng sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đặc biệt quan tâm đến vấn đề bồi dưỡng thế hệ trẻ. Bởi. với Người, thế hệ trẻ chính là tương lai của đất nước. Tại Đại hội X, Đảng ta đã nhấn mạnh các giá trị lớn mà văn hoá phải chăm lo nuôi dưỡng cho thanh niên, sinh viên, học sinh là lý tưởng sống, lối sống năng lực trí tuệ vẻ đẹp đạo đức và bản lĩnh văn hoá. Các giá trị đó mang ý nghĩa rất quan trọng đối với thế hệ trẻ Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện dại hoá và hội nhập giao lưu quốc tế. Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 9 (khoá IX) đã khẳng định quyết tâm triển khai trong thực tiễn giải pháp phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ, coi đó là quốc sách hàng đầu, đòi hỏi các cấp, các ngành và toàn xã hội phải quán triệt sâu sắc hơn nữa ý nghĩa, vai trò động lực của các yếu tố văn hoá, xã hội và con người đối với sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước. Một trong những vấn đề cấp thiết hiện nay là nâng cao chất lượng giáo dục toàn điện và chú trọng hiệu quả kinh tế - xã hội của giáo dục - đào tạo. Nhiệm vụ của giáo dục và đào tạo trong những năm tới là nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới cơ cấu tổ chức, nội dung phương pháp dạy và học, thực hiện "chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá", chấn hưng nền giáo dục Việt Nam. Muốn vậy, phải chuyển đổi mô hình giáo dục, đổi mới mạnh mẽ giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông, phải phát triển hệ thống giáo dục hướng nghiệp và dạy nghề, đổi mới hệ thống giáo dục Đại học và sau Đại học, phải đảm bảo đủ số lượng, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở tất cả các cấp học, bậc học. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục, phát huy tính tích cực, sáng tạo của người học, thực hiện xã hội hóa giáo dục, đổi mới cơ chế quản lý giáo đục, tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo. Bên cạnh đó, cần chú trọng nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của khoa học và công nghệ, "phấn đấu đến năm 2010, năng lực và khoa học công nghệ nước ta đạt trình độ của các nước tiên tiến trong khu vực trên một số lĩnh vực quan trọng. Nhiệm vụ của khoa học xã hội là tiếp tục góp phần làm sáng tỏ các vấn đề nhận thức về CHXH và con đường đi lên CHXH về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bước đi của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, vấn đề phát huy dân chủ XHCN, đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, phát triển con người... Nhiệm vụ của khoa học tự nhiên là tập trung nghiên cứu cơ bản, định hướng ứng dụng, đặc biệt là các lĩnh vực mà Việt Nam có nhu cầu và thế mạnh. Đẩy mạnh có chọn lọc việc nhập công nghệ, mua sáng chế kết hợp với công nghệ nội sinh để nhanh chóng đổi mới và người cao trình độ công nghệ của các ngành có lợi thế cạnh tranh, có tỷ trọng lớn trong GDP, phát triển công nghệ cao, nhất là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và công nghệ vật liệu mới. KẾT LUẬN Dù ở đâu, và ở bất cứ thời điểm nào, quan điểm của Mác và Lênin cũng như tư tưởng Hồ Chí Minh đều là kim chỉ nam cho hành động của nước ta. Con người, hơn hết, chính là chủ thể của lịch sử, là yếu tố tạo ra lịch sử. Con người luôn là yếu tố quan trọng nhất để xây dựng một xã hội, một nhà nước. Con người – nhân dân được ví như một dòng nước. “Nước có thể nâng thuyền, nước cũng có thể lật thuyền”. Chính vì vậy, việc xây dựng con người dù ở bất cứ hoàn cảnh nào cũng là điều quan trọng nhất cần phải quan tâm và thực hiện. “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” là câu khẩu hiệu của Đảng ta trong việc xây dựng một Nhà nước Việt Nam trên con đường tiến lên Chủ nghĩa Xã hội. Để việc xây dựng con người được thành công, công tác đầu tiên cần phải chú trọng là công tác giáo dục và đào tạo. Giáo dục và đào tạo từ những công dân nhỏ tuổi của đất nước, của những thế hệ sẽ làm chủ đất nước trong tương lai. “Ươm mầm từ hôm nay, để gặt quả mai này”. Thế hệ trẻ cần nắm vững những quan điểm, quan niệm về con người, về vai trò, trách nhiệm của mỗi cá nhân trong tập thể, trong cộng đồng, trong xã hội, trong tổng thể loài người; Thế hệ trẻ cần phải hiểu rõ tầm quan trọng của việc giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, giữ vững truyền thống, giữ vững quan điểm và lập trường trong mọi tình huống, không để bị lôi kéo, rủ rê bởi các đối tượng xấu; Xây dựng những con người Việt Nam mới, biết tôn trọng pháp luật, hiến pháp, biết đấu tranh chống lại những bất công, nhũng nhiễu, chống lại những tệ nạn, những sai trái trong cuộc sống, trong cộng đồng; Xây dựng những con người Việt Nam vẫn mang những đức tính sẵn có của dân tộc ta, nhưng lại khắc phục được những mặt yếu kém mà ta đã tự nhìn nhận, và cả những yếu kém mà bạn bè thế giới đã nhận xét. Bên cạnh đó, trong giai đoạn phát triển mới cần xây dựng 5 đức tính của con người Việt Nam. Xây dựng những con người Việt Nam mới “Có tinh thần yêu nước tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”. Những con người Việt Nam ấy “Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung”, đòi hỏi mỗi người phải đấu tranh với chính mình, vượt qua chính mình, ra sức tu dưỡng rèn luyện đạo đức, sống có nhân cách, trách nhiệm, xử lý hài hòa giữa lợi ích chung và lợi ích riêng. Theo đó, mỗi người đều “Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái”. Mỗi người tự tu dưỡng rèn luyện, tự điều chỉnh hành vi của mình, đồng thời biết lắng nghe ý kiến góp ý của người khác để sửa chữa và hoàn thiện mình, đó là nét đẹp của con người văn hóa. “ Lao động chăm chỉ vì lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo”, đòi hỏi mỗi người chúng ta phải gắn lương tâm, trách nhiệm của mình với công việc, với nhiệm vụ, với sản phẩm của mình làm ra. “ Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mỹ và thể lực”, thường xuyên nâng cao năng lực tổ chức thực hiện các nhiệm vụ được giao, nắm bắt kịp thời thành tựu văn hóa, thông tin hiện đại, biết huy động tài năng và các nguồn lực để hoàn thành tốt kế hoạch đã đề ra; nâng con người lên một vẻ đẹp mới về trí tuệ, tâm hồn, biết thưởng thức cái đẹp phù hợp với truyền thống dân tộc Việt Nam và những giá trị mới tiến bộ của thời đại. Việc xây dựng con người Việt Nam hiện nay đòi hỏi sự quan tâm lãnh đạo của Nhà nước, Chính phủ, Chính quyền. Việc xây dựng con người Việt Nam hiện nay cũng đồng thời đòi hỏi sự tự ý thức của mỗi cá nhân, và cả việc chung tay giúp sức của cả cộng đồng, vì một đất nước Việt Nam giàu đẹp, “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh” trên con đường tiến lên Chủ nghĩa xã hội. Tài liệu tham khảo : Quan điểm của C,Mác, PH.Ăngghen (về con người và sự nghiệp giải phóng con người) của TS Bùi Bá Linh. Bài giảng Triết học của TS Bùi Bá Linh; Triết học với cuộc sống , tập 1– TS Nguyễn Ngọc Thu, TS Bùi Bá Linh, TS Lê Thanh Sinh Giáo trình triết học Mác Lênin Web Báo điện tử Đảng Cộng sản www.cpv.org.vn Web www.chungta.com Web www.marxists.org/vietnamese Web của Viện Triết học Việt Nam www.vientriethoc.com.vn Tạp chí Triết học Và các tài liệu trên trang web www.caohockinhte.info

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQuan điểm triết học mác – lênin về con người.doc
Luận văn liên quan