Rủi ro tín dụng ngân hàng

LỜI NÓI ĐẦU Việt Nam đang trong quá trình đổi mới nền kinh tế, để từng bước phát triển, hội nhập với nền kinh tế của các nước trong khu vực và trên thế giới. Trải qua nhiều khó khăn, thử thách nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Để đạt được điều đó có sự đóng góp không nhỏ của ngành Ngân hàng với vai trò là " đòn bẩy kinh tế " thông qua hoạt động tín dụng. Tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ vốn cho nền kinh tế, góp phần thúc đẩy sự phát triển cân đối của các ngành, các lĩnh vực khác theo định hướng của Nhà nước. Tín dụng ngân hàng đem lại nguồn thu nhập chủ yếu cho Ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, hoạt động tín dụng ngân hàng lại là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro. Rủi ro trong hoạt động tín dụng không chỉ tác động tới bản thân ngân hàng thương mại mà còn tác động tiêu cực tới nền kinh tế. Chính vì vậy, công tác hạn chế rủi ro tín dụng luôn được các Ngân hàng thương mại quan tâm. 1.1. Ngân hàng và tín dụng Ngân hàng: 1.1.1. Khái quát về ngân hàng thương mại: 1.1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của các Ngân hàng thương mại: Trên thế giới, nghề ngân hàng được hình thành từ rất sớm. Hình thức sơ khai của NHTM xuất hiện khá sớm từ thời kỳ tiền tư bản, cùng với thời gian các hình thức này ngày càng được hoàn chỉnh hơn đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của khách hàng. Sự hình thành và phát triển của Ngân hàng gắn liền với sự phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Khi sản xuất còn không đủ cung cấp cho nhu cầu tiêu dùng của xã hội thì ngân hàng chưa xuất hiện. Sản xuất phát triển, hàng hoá được tạo ra nhiều làm nảy sinh quan hệ trao đổi hàng hoá. Khó khăn nảy sinh khi quan hệ trao đổi hàng hoá vượt ra khỏi ranh giới giữa các vùng sử dụng các loại đồng tiền khác nhau. Khi đó, những thương gia thông minh nhất đã phát hiện ra điều này và chuyển sang làm nghề buôn tiền ( những nhà Ngân hàng đầu tiên trên thế giới ). Họ thực hiện các nghiệp vụ đổi tiền, nhận tiền gửi và bảo quản tiền (cho khách hàng) và có thu phí của người gửi. Cùng với việc nhận tiền gửi , các nhà Ngân hàng dần dần thực hiện cả nghiệp vụ thanh toán hộ cho người gửi tiền. Nghiệp vụ cho vay nảy sinh khi xuất hiện những người có nhu cầu vay tiền để mở rộng và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của họ trong khi các nhà Ngân hàng lại có sẵn trong két của mình những khoản tiền không sinh lợi . Khi cho vay, các nhà Ngân hàng được nhận các khoản trả tiền lãi từ người vay vốn . Chính lợi nhuận từ việc cho vay đã khuyến khích các ngân hàng muốn nhận được thêm nhiều tiền gửi để cho vay và họ chuyển từ việc thu phí người gửi tiền sang việc miễn phí tiền gửi, thậm chí còn thưởng cho họ một khoản tiền gọi là lãi tiền gửi. Khi tồn tại các nghiệp vụ nhận tiền gửi cho vay và thanh toán hộ có thể nói Ngân hàng đã hình thành. 1.1.1 2. Khái miệm Ngân hàng thương mại: Khi nghiên cứu về Ngân hàng thương mại , các nhà kinh tế học đưa ra rất nhiều những quan niệm khác nhau về NHTM. Người thì cho rằng" NHTM là tổ chức tài chính nhận tiền gửi và cho vay tiền ". Kẻ khác lại nhận định: " NHTM là trung gian tài chính có giấy phép kinh doanh của Chính phủ để cho vay tiền và mở tài khoản tiền gửi, kể cả các khoản tiền gửi có thể dùng séc .". Sở dĩ có tình trạng này là do hoạt động NHTM rất đa dạng , các thao tác trong từng nghiệp vụ Ngân hàng lại phức tạp và vấn đề này luôn biến động theo sự thay đổi chung của nền kinh tế . Mặt khác , do tập quán , luật pháp của mỗi quốc gia , mỗi vùng khác nhau đã dẫn đến những quan niệm về NHTM không đồng nhất giữa các nước trên thế giới . Theo pháp lệnh:" Ngân hàng , hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính" ban hành ngày 24/5/1990:" NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán". Như vậy , NHTM là một doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ thông qua các nghiệp vụ huy động các nguồn vốn để cho vay, đầu tư và thực hiện các nghiệp vụ tài chính khác. 1.1.1.3. Các nghiệp vụ chủ yếu của Ngân hàng thương mại: - Nghiệp vụ huy động vốn : Đây là nghiệp vụ cơ bản đầu tiên của NHTM. Nó quyết định quy mô cũng như hiệu quả các hoạt động khác của NHTM. NHTM có thể huy động vốn nhàn rỗi trong xã hội bằng cách nhận tiền gửi của các cá nhân , các tổ chức kinh tế qua các hình thức tiền gửi không kì hạn, tiền gửi có kì hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. Ngoài ra, khi cần thêm vốn, NHTM có thể huy động vốn qua các biện pháp chủ động như phát hành kì phiếu ngân hàng, phát hành các chứng chỉ tiền gửi hay vay vốn của NHNN hoặc các tổ chức tín dụng khác. Tuy nhiên, NHTM phải huy động vốn trên cơ sở vốn tự có như một ràng buộc về trách nhiệm nhằm hạn chế rủi ro trong các hoạt động của Ngân hàng. Theo quy định của Việt Nam, các NHTM không được phép huy động quá 20 lần số vốn tự có. - Nghiệp vụ cấp tín dụng và đầu tư : Đây là hoạt động kinh doanh mang lại lợi nhuận chủ yếu cho NHTM. Thực hiện nghiệp vụ này, NHTM sử dụng phần lớn số vốn đã huy động để cung cấp cho các nhu cầu của nền kinh tế qua các hình thức như cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh, đầu tư chứng khoán, góp vốn tham gia hay tự đầu tư vào các dự án mang lại lợi nhuận. Qua các nghiệp vụ này NHTM đã thực hiện chức năng tạo tiền, trở thành nguồn tích luỹ vốn cho nền kinh tế tạo điều kiện làm tăng tổng sản phẩm xã hội, mở rộng vốn đầu tư góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Có thể thấy hoạt động tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của NHTM, nó liên quan đến tất cả các ngành các lĩnh vực của nền kinh tế. Tuy nhiên, hoạt động lại chứa đựng rủi ro tiềm ẩn từ tất cả các ngành các lĩnh vực đó. Chính vì vậy việc nghiên cứu rủi ro tín dụng là vấn đề cấp bách luôn được các NHTM quan tâm. - Các hoạt động dịch vụ: Ngoài các nghiệp vụ cơ bản trên, NHTM còn tiến hành các hoạt động dịch vụ để đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng nhằm thu hút khách hàng đồng thời đem lại nguồn thu nhập đáng kể cho ngân hàng. Các hoạt động dịch vụ của NHTM gồm có: + Dịch vụ thanh toán và chuyển tiền + Dịch vụ mua bán và môi giới chứng khoán. + Dịch vụ tư vấn đầu tư + Dịch vụ quản lý tài sản và các chứng từ có giá. Thông qua các hoạt động này, NHTM nhận được các khoản thu nhập dưới hình thức lệ phí hoặc hoa hồng.Có thể nói, các nghiệp vụ của NHTM đều rất quan trọng và liên quan chặt chẽ với nhau. Nghiệp vụ huy động vốn là tiền đề tạo nguồn vốn tích luỹ cho các hoạt động nghiệp vụ. Hoạt động tín dụng và đầu tư đem lại nguồn thu nhập cho NHTM. Còn các hoạt động dịch vụ thu hút thêm khách hàng, tạo điều kiện cho việc mở rộng hoạt động huy động tiền gửi và kinh doanh của NHTM. Tuy nhiên, nghiệp vụ tín dụng vẫn là nghiệp vụ quan trọng nhất quyết định kết quả kinh doanh của NHTM.

doc26 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5857 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Rủi ro tín dụng ngân hàng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục Lời nói đầu Rủi ro trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại 1.1. Ngân hàng và tín dụng ngân hàng . 1.1.1. Khái quát về ngân hàng thương mại . 1.1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của các NHTM. 1.1.1.2. Khái niệm NHTM. 1.1.1.3. Các nghiệp vụ chủ yếu của NHTM. 1.1.2. Tín dụng ngân hàng. 1.1.2.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng. 1.1.2.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với nền kinh tế quốc dân. 1.2. Rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của NHTM. 1.2.1. Khái niệm rủi ro. 1.2.2. Các loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại. Rủi ro tín dụng. Rủi ro lãi suất. Rủi ro nguồn vốn. Rủi ro hối đoái. Rủi ro trong thanh toán. Rủi ro thuần tuý. Rủi ro mất khả năng thanh toán. 1.2.3. Rủi ro tín dụng. 1.2.3.1. Các hình thức của rủi ro tín dụng. Không thu được lãi đúng hạn. Không thu được vốn đúng hạn. Không thu đủ lãi. Không thu đủ vốn. 1.2.3.2. Các nguyên nhân dẫn đến rủi ro. 1.2.3.2.1. Nguyên nhân từ môi trường kinh doanh. 1.2.3.2.2. Nguyên nhân từ phía khách hàng. 1.2.3.2.3. Nguyên nhân từ phía ngân hàng. 1.2.3.3. Các dấu hiệu của rủi ro tín dụng. 1.2.3.4. Tác động của rủi ro tín dụng. 1.2.3.5. Các chỉ tiêu đo lường rủi ro tín dụng. 1.2.4. Thực trạng rủi ro tín dụng của các NHTM Việt Nam hiện nay. Kết luận. Tài liệu tham khảo Trang 1 4 6 6 6 6 7 7 9 9 9 11 11 12 12 12 13 14 14 15 15 16 16 16 16 16 16 17 17 18 20 20 21 22 23 26 LỜI NÓI ĐẦU Việt Nam đang trong quá trình đổi mới nền kinh tế, để từng bước phát triển, hội nhập với nền kinh tế của các nước trong khu vực và trên thế giới. Trải qua nhiều khó khăn, thử thách nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Để đạt được điều đó có sự đóng góp không nhỏ của ngành Ngân hàng với vai trò là " đòn bẩy kinh tế " thông qua hoạt động tín dụng. Tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ vốn cho nền kinh tế, góp phần thúc đẩy sự phát triển cân đối của các ngành, các lĩnh vực khác theo định hướng của Nhà nước. Tín dụng ngân hàng đem lại nguồn thu nhập chủ yếu cho Ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, hoạt động tín dụng ngân hàng lại là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro. Rủi ro trong hoạt động tín dụng không chỉ tác động tới bản thân ngân hàng thương mại mà còn tác động tiêu cực tới nền kinh tế. Chính vì vậy, công tác hạn chế rủi ro tín dụng luôn được các Ngân hàng thương mại quan tâm. Hoàn thành tiểu luận này, tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn của Thạc sĩ Nguyễn Thị Lan. 1.1. Ngân hàng và tín dụng Ngân hàng: 1.1.1. Khái quát về ngân hàng thương mại: 1.1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của các Ngân hàng thương mại: Trên thế giới, nghề ngân hàng được hình thành từ rất sớm. Hình thức sơ khai của NHTM xuất hiện khá sớm từ thời kỳ tiền tư bản, cùng với thời gian các hình thức này ngày càng được hoàn chỉnh hơn đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của khách hàng. Sự hình thành và phát triển của Ngân hàng gắn liền với sự phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Khi sản xuất còn không đủ cung cấp cho nhu cầu tiêu dùng của xã hội thì ngân hàng chưa xuất hiện. Sản xuất phát triển, hàng hoá được tạo ra nhiều làm nảy sinh quan hệ trao đổi hàng hoá. Khó khăn nảy sinh khi quan hệ trao đổi hàng hoá vượt ra khỏi ranh giới giữa các vùng sử dụng các loại đồng tiền khác nhau. Khi đó, những thương gia thông minh nhất đã phát hiện ra điều này và chuyển sang làm nghề buôn tiền ( những nhà Ngân hàng đầu tiên trên thế giới ). Họ thực hiện các nghiệp vụ đổi tiền, nhận tiền gửi và bảo quản tiền (cho khách hàng) và có thu phí của người gửi. Cùng với việc nhận tiền gửi , các nhà Ngân hàng dần dần thực hiện cả nghiệp vụ thanh toán hộ cho người gửi tiền. Nghiệp vụ cho vay nảy sinh khi xuất hiện những người có nhu cầu vay tiền để mở rộng và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của họ trong khi các nhà Ngân hàng lại có sẵn trong két của mình những khoản tiền không sinh lợi . Khi cho vay, các nhà Ngân hàng được nhận các khoản trả tiền lãi từ người vay vốn . Chính lợi nhuận từ việc cho vay đã khuyến khích các ngân hàng muốn nhận được thêm nhiều tiền gửi để cho vay và họ chuyển từ việc thu phí người gửi tiền sang việc miễn phí tiền gửi, thậm chí còn thưởng cho họ một khoản tiền gọi là lãi tiền gửi. Khi tồn tại các nghiệp vụ nhận tiền gửi cho vay và thanh toán hộ có thể nói Ngân hàng đã hình thành. 1.1.1..2. Khái miệm Ngân hàng thương mại: Khi nghiên cứu về Ngân hàng thương mại , các nhà kinh tế học đưa ra rất nhiều những quan niệm khác nhau về NHTM. Người thì cho rằng" NHTM là tổ chức tài chính nhận tiền gửi và cho vay tiền ". Kẻ khác lại nhận định: " NHTM là trung gian tài chính có giấy phép kinh doanh của Chính phủ để cho vay tiền và mở tài khoản tiền gửi, kể cả các khoản tiền gửi có thể dùng séc...". Sở dĩ có tình trạng này là do hoạt động NHTM rất đa dạng , các thao tác trong từng nghiệp vụ Ngân hàng lại phức tạp và vấn đề này luôn biến động theo sự thay đổi chung của nền kinh tế . Mặt khác , do tập quán , luật pháp của mỗi quốc gia , mỗi vùng khác nhau đã dẫn đến những quan niệm về NHTM không đồng nhất giữa các nước trên thế giới . Theo pháp lệnh:" Ngân hàng , hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính" ban hành ngày 24/5/1990:" NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán". Như vậy , NHTM là một doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ thông qua các nghiệp vụ huy động các nguồn vốn để cho vay, đầu tư và thực hiện các nghiệp vụ tài chính khác. 1.1.1.3. Các nghiệp vụ chủ yếu của Ngân hàng thương mại: - Nghiệp vụ huy động vốn : Đây là nghiệp vụ cơ bản đầu tiên của NHTM. Nó quyết định quy mô cũng như hiệu quả các hoạt động khác của NHTM. NHTM có thể huy động vốn nhàn rỗi trong xã hội bằng cách nhận tiền gửi của các cá nhân , các tổ chức kinh tế qua các hình thức tiền gửi không kì hạn, tiền gửi có kì hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. Ngoài ra, khi cần thêm vốn, NHTM có thể huy động vốn qua các biện pháp chủ động như phát hành kì phiếu ngân hàng, phát hành các chứng chỉ tiền gửi hay vay vốn của NHNN hoặc các tổ chức tín dụng khác. Tuy nhiên, NHTM phải huy động vốn trên cơ sở vốn tự có như một ràng buộc về trách nhiệm nhằm hạn chế rủi ro trong các hoạt động của Ngân hàng. Theo quy định của Việt Nam, các NHTM không được phép huy động quá 20 lần số vốn tự có. - Nghiệp vụ cấp tín dụng và đầu tư : Đây là hoạt động kinh doanh mang lại lợi nhuận chủ yếu cho NHTM. Thực hiện nghiệp vụ này, NHTM sử dụng phần lớn số vốn đã huy động để cung cấp cho các nhu cầu của nền kinh tế qua các hình thức như cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh, đầu tư chứng khoán, góp vốn tham gia hay tự đầu tư vào các dự án mang lại lợi nhuận. Qua các nghiệp vụ này NHTM đã thực hiện chức năng tạo tiền, trở thành nguồn tích luỹ vốn cho nền kinh tế tạo điều kiện làm tăng tổng sản phẩm xã hội, mở rộng vốn đầu tư góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Có thể thấy hoạt động tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của NHTM, nó liên quan đến tất cả các ngành các lĩnh vực của nền kinh tế. Tuy nhiên, hoạt động lại chứa đựng rủi ro tiềm ẩn từ tất cả các ngành các lĩnh vực đó. Chính vì vậy việc nghiên cứu rủi ro tín dụng là vấn đề cấp bách luôn được các NHTM quan tâm. - Các hoạt động dịch vụ: Ngoài các nghiệp vụ cơ bản trên, NHTM còn tiến hành các hoạt động dịch vụ để đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng nhằm thu hút khách hàng đồng thời đem lại nguồn thu nhập đáng kể cho ngân hàng. Các hoạt động dịch vụ của NHTM gồm có: + Dịch vụ thanh toán và chuyển tiền + Dịch vụ mua bán và môi giới chứng khoán. + Dịch vụ tư vấn đầu tư + Dịch vụ quản lý tài sản và các chứng từ có giá. Thông qua các hoạt động này, NHTM nhận được các khoản thu nhập dưới hình thức lệ phí hoặc hoa hồng. Có thể nói, các nghiệp vụ của NHTM đều rất quan trọng và liên quan chặt chẽ với nhau. Nghiệp vụ huy động vốn là tiền đề tạo nguồn vốn tích luỹ cho các hoạt động nghiệp vụ. Hoạt động tín dụng và đầu tư đem lại nguồn thu nhập cho NHTM. Còn các hoạt động dịch vụ thu hút thêm khách hàng, tạo điều kiện cho việc mở rộng hoạt động huy động tiền gửi và kinh doanh của NHTM. Tuy nhiên, nghiệp vụ tín dụng vẫn là nghiệp vụ quan trọng nhất quyết định kết quả kinh doanh của NHTM. 1.1. 2. Tín dụng Ngân hàng: 1.1..2.1. Khái niệm tín dụng Ngân hàng: Tín dụng là một quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể trong đó một bên chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia sử dụng trong một thời gian nhất định, đồng thời bên nhận tiền cam kết hoàn trả theo điều kiện đã thoả thuận. Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng với các tổ chức kinh tế và cá nhân thể hiện dưới hình thức nhận tiền gửi của khách hàng, cho khách hàng vay, tài trợ thuê mua, bảo hành hay chiết khấu.... Tuy nhiên, trong hoạt động tín dụng của NHTM thì hoạt động cho vay là hoạt động phức tạp nhất. Trong bài viết này tôi chỉ xin được đề cập đến khía cạnh cho vay của hoạt động tín dụng Ngân hàng. 1.1..2..2. Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với nền kinh tế quốc dân: Thứ nhất, tín dụng Ngân hàng thúc đẩy sự ra đời và phát triển của các doanh nghiệp, không chỉ đối với các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế Nhà nước mà còn tác động đến cả các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Tín dụng thúc đẩy sự ra đời của các thành phần kinh tế theo mục tiêu phát triển của đất nước. Tín dụng Ngân hàng tham gia vào toàn bộ quá trình sản xuất, lưu thông hàng hoá, ngay cả những hoạt động dịch vụ cũng không thể tách ly sự hỗ trợ của tín dụng ngân hàng. Với các nghành sản xuất, chế biến, khai thác... để đảm bảo sản xuất ổn định cần thiết phải có vốn để dự trữ nguyên nhiên vật liệu, thành phẩm bù đắp các chi phí sản xuất... Đồng thời để không ngừng nâng cao năng xuất lao động, chất lượng sản phẩm, tìm kiếm lợi thế trong cạnh tranh, các doanh nghiệp buộc phải thường xuyên cải tiến máy móc, thiết bị , đổi mới công nghệ đặc biệt trong thời đại khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão hiện nay. Tất cả những công việc đó sẽ không thể thực hiện được nếu thiếu sự hỗ trợ của ngân hàng thông qua hoạt động tín dụng. Trong lĩnh vực lưu thông, để đảm bảo đưa được hàng hoá từ người sản xuất đến người tiêu dùng, các doanh nghiệp cần có vốn để dự trữ khối lượng hàng hoá cần thiết trang trải các chi phí lưu thông, thuế... Hơn nữa, để mở rộng sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải dự trữ khối lượng hàng hoá lớn với chủng loại phong phú, nhưng thông thường các doanh nghiệp này không có nhiều vốn lưu động. Vì vậy, để tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp này cần đến sự hỗ trợ của tín dụng ngân hàng. Với các doanh nghiệp dịch vụ như vận tải, khách sạn, du lịch... sẽ hoạt động ra sao khi không có vốn của ngân hàng tham gia vào đầu tư xây dựng trang thiết bị vật chất, phương tiện vận tải... Khi bước vào kinh doanh trong lĩnh vực này đòi hỏi vốn đầu tư rất lớn nên hầu hết các doanh nghiệp đều cần đến tín dụng ngân hàng và xem nó như là một trong những nguồn vốn có thể huy động cho mục đích kinh doanh của doanh nghiệp. Nói chung, một trong những nguồn vốn quan trọng để bổ sung vốn lưu động và vốn cố định cho các chủ doanh nghiệp là vốn tín dụng ngân hàng vì nếu chỉ dựa vào vốn tự có thì quá ít ỏi, không đủ sức cạnh tranh và phát triển trong nến kinh tế thị trường. Tín dụng ngân hàng sẽ là nguồn vốn tài trợ quan trọng cho các dự án kinh doanh của doanh nghiệp mới. Thứ hai, tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kinh tế để thực hiện tái sản xuất mở rộng, ứng dụng công nghệ, kỹ thuật tiên tiến hiện đại nâng cao năng suất và hiệu quả kinh tế, tạo nhiều sản phẩm hàng hóa tiêu dùng nội địa và xuất khẩu. Ngân hàng với chức năng huy động vốn, tập trung mọi nguồn vốn trong và ngoài nước đã phần nào đáp ứng nhu cầu về vốn của nền kinh tế. Tín dụng ngân hàng trở thành đòn bẩy kinh tế quan trọng nhất giúp các nhà sản xuất kinh doanh thực hiện quá trình tái sản xuất mở rộng và ứng dụng công nghệ để cạnh tranh thắng lợi trên thị trường. Thứ ba, tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ cho các dự án tạo việc làm, tăng thu nhập, thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo, và các chương trình, dự án mang tính xã hội khác. Muốn nâng dần thu nhập bình quân đầu người, giải quyết việc làm không thể chỉ dựa vào quỹ ngân sách nhà nước hoặc trông chờ vào các khoản vay nước ngoài. Tín dụng ngân hàng thực sự giữ vai trò quan trọng trong việc đầu tư cho các dự án có ý nghĩa kinh tế và xã hội để giải quyết những việc như vậy. Thứ tư, tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình tích tụ tập trung vốn sản xuất mở rộng quá trình phân công lao động xã hội và hợp tác kinh tế trong nước và quốc tế. Các doanh nghiệp, các công ty làm ăn có hiệu quả và uy tín được ngân hàng tập trung đầu tư vốn tạo đà mở rộng quy mô sản xuất và thị trường tiêu thụ. Tín dụng ngân hàng sẽ thúc đẩy nhanh chóng quá trình tập trung và tích luỹ vốn, tạo cho các doanh nghiệp đủ điều kiện hợp tác liên doanh với các tập đoàn kinh tế nước ngoài đưa nền kinh tế nước ta hoà nhập vào nền kinh tế thế giới. Thứ năm, thông qua hoạt động tín dụng ngân hàng, Nhà nước có thể kiểm soát các hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế để đề ra các biện pháp chính sách quản lý kinh tế và pháp lý phù hợp. Nhà nước có thể điều chỉnh cơ cấu kinh tế và hoạt động của các thành phần kinh tế thông qua các chính sách về tín dụng như là các chính sách ưu đãi về lãi suất và các điều kiện cho vay khác cho các doanh nghiệp đầu tư sản xuất theo mục tiêu định hướng phát triển kinh tế của Nhà nước. Phát huy vai trò của tín dụng ngân hàng để đạt mục tiêu phát triển là một nhiệm vụ đầy khó khăn thử thách. 1.2. Rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại : 1.2.1. Khái niệm rủi ro: Rất có nhiều cách quan niệm khác nhau về rủi ro tuỳ thuộc vào chủ thể và hoạt động của chủ thể đó trong mối quan hệ với các yếu tố khác của môi trường. Tuy nhiên , các quan niệm đó đều thống nhất một nội dung coi rủi ro là sự bất trắc không mong đợi , gây ra thiệt hại và có thể đo lường được . Như vậy , trong hoạt động kinh tế nói chung và trong hoạt động Ngân hàng nói riêng thì vấn đề rủi ro là không thể tránh khỏi. Vì thế , các nhà quản trị không thể loại bỏ được rủi ro mà chỉ có thể phát hiện kịp thời để có những biện pháp chủ động xử lý. Trong sự cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường hiện nay, các nhà quản trị phải biết nhận biết và dự đoán trước các rủi ro để sớm đưa ra các giải pháp phòng ngừa chống đỡ tác hại của nó. 1.2.2. Các loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại: Rủi ro tồn tại trong hoạt động kinh doanh dưới các hình thức khác nhau. Do đặc điểm đặc thù của hoạt động Ngân hàng làm cho hoạt động này có độ rủi ro rất lớn. Có các loại rủi ro chủ yếu sau trong hoạt động của NHTM. 1.2..2.1. Rủi ro tín dụng: Tín dụng là hoạt động chủ yếu của NHTM. Nguồn thu từ hoạt động tín dụng luôn chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng thu nghiệp vụ ngân hàng và đem lại phần lớn lợi nhuận cho Ngân hàng. Tuy nhiên, hoạt động tín dụng lại là hoạt động có nhiều rủi ro nhất và phức tạp nhất. Hoạt động tín dụng liên quan chặt chẽ đến mọi lĩnh vực của nền kinh tế . Mỗi rủi ro trong các lĩnh vực này đều tiềm ẩn rủi ro trong hoạt động tín dụng của NHTM. Trong hoạt động tín dụng, NHTM luôn đặt ra mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận , đồng thời tối thiểu hoá rủi ro. Để đạt được mục tiêu đó đòi hỏi NHTM phải có những giải pháp thích hợp để quản lý và phòng ngừa rủi ro tín dụng. 1.2.2.2. Rủi ro lãi suất: Đây là loại rủi ro mang tính xã hội, nó ảnh hưởng đến hầu hết các tổ chức kinh tế , các cá nhân trong nền kinh tế quốc dân. Người ta quan niệm lãi suất là chi phí để vay hoặc giá phải trả để thuê vốn trong một thời gian nào đó . Trong cơ chế thị trường, lãi suất luôn biến động và điều này có thể gây ra rủi ro cho hoạt động của NHTM. Chẳng hạn, ngân hàng đã ký hợp đồng cho vay một kỳ hạn với lãi suất cố định, sự thiệt hại của ngân hàng sẽ diễn ra khi lãi suất trên thị trường tăng lên. Ngược lại, khi nhận vốn với một thời hạn và lãi suất ấn định, ngân hàng sẽ bị thiệt hại khi lãi suất thị trường giảm xuống. Rủi ro lãi suất là loại rủi ro do sự biến động của yếu tố tiền tệ. Rủi ro lãi suất nảy sinh trong những trường hợp sau: + Lạm phát tăng, lãi suất buộc phải điều chỉnh theo xu hướng tăng làm chi phí của ngân hàng phải bỏ ra cũng tăng lên, do đó làm giảm thu nhập của ngân hàng. Khi lạm phát cao thì thường có lợi cho người vay vốn và bất lợi cho người cho vay. + Do cơ cấu tài sản nợ và tài sản có của ngân hàng không hợp lý. Ngân hàng dùng tài sản nợ ngắn hạn để đầu tư vào tài sản có dài hạn. Nếu lãi suất ngắn hạn tăng, chi phí ngân hàng phải bỏ ra cũng sẽ tăng lên, trong khi thu nhập ở tài sản có dài hạn vẫn giữ nguyên, như vậy thu nhập của ngân hàng không đủ bù đắp chi phí kinh doanh, dẫn đến ăn mòn vào vốn. + Ngoài ra, rủi ro lãi suất cũng có thể xảy ra do trình độ thấp kém bị thua thiệt trong việc cạnh tranh lãi suất trên thị trường. Hoặc do yếu tố của nền kinh tế tác động đến lãi suất như cung, cầu, yếu tố thị trường... Khi Nhà nước có quyết định điều chỉnh lãi suất theo hướng giảm xuống, trong khi tiền gửi có kỳ hạn chưa đến hạn trả. Như vậy, lãi suất cho vay bị giảm thấp, nhưng phần trả lãi cho những khoản tiền gửi có kỳ hạn lại không giảm tương ứng dẫn đến rủi ro lãi suất. 1.2.2.3. Rủi ro nguồn vốn: 1.2.2.3.1. Rủi ro do thừa vốn: Như ta biết, nguồn vốn hoạt động chủ yếu của NHTM là nguồn vốn huy động. Để huy động được vốn Ngân hàng phải trả lãi cho người gửi tiền. Nếu số vốn này bị ứ đọng, không thể cho vay hoặc đầu tư vào các loại tài sản có thể sinh lời trong khi ngân hàng vẫn phải trả lãi cho số vốn đã huy động thì có nghĩa là các thiệt hại của ngân hàng đang diễn ra. Nếu quá trình này kéo dài ở mức độ lớn có thể dẫn đến thua lỗ trong kinh doanh. Giải quyết vấn đề này, NHTM cần phải tăng cường công tác kế hoạch hoá, đảm bảo cân đối giữa vốn huy động và vốn cho vay. 1.2.2.3.2. Rủi ro do thiếu vốn: Loại rủi ro này xảy ra khi Ngân hàng không đáp ứng được các nhu cầu cho vay và đầu tư, thậm chí không đủ vốn để thanh toán cho người gửi tiền khi đến hạn. Rủi ro này xuất phát từ chức năng chuyển hoán các kỳ hạn sử dụng vốn và nguồn vốn của ngân hàng, thông thường các kỳ hạn sử dụng vốn dài hơn kỳ hạn các nguồn vốn, hoặc do mất lòng tin mà các hàng loạt khách hàng đến rút tiền, khiến cho ngân hàng không có đủ tiền để chi trả cùng một lúc. Trong bối cảnh đó, ngân hàng khó lòng huy động được nguồn vốn dồi dào, từ đó kinh doanh có thể bị thu hẹp và vỡ nợ rất có thể xảy ra. Rủi ro này còn có thể do ngân hàng chưa thực hiện tốt công tác huy động vốn thể hiện ở việc không thu hút đủ vốn để cho vay hoặc do sự mất cân đối trong cơ cấu vốn huy động , thiếu các nguồn vốn trung dài hạn trong khi nhu cầu vay vốn trung dài hạn lại ở mức cao. Điều này đã làm cho Ngân hàng mất cơ hội đầu tư vào những dự án an toàn và có thể đem lại lợi nhuận cao. 1.2.2.4. Rủi ro hối đoái: Rủi ro hối đoái là loại rủi ro do sự biến động của tỷ giá hối đoái. Nếu tỷ giá hối đoái bán ra lớn hơn tỷ giá mua vào thì nhà kinh doanh có lãi, ngược lại thì bị lỗ. Sự thay đổi tỷ giá dẫn đến sự thay đổi về giá trị ngoại hối, cụ thể: + Nếu ngân hàng có dư dật về ngoại tệ (vị thế trường - net long position): Nếu ngoại tệ đó lên giá thì ngân hàng sẽ có lãi khi đánh giá lại và ngược lại ngân hàng sẽ lỗ khi ngoại tệ đó xuống giá. + Nếu ngân hàng ở vị thế đoản (net short position) về loại ngoại tệ nào đó, khi ngoại tệ đó lên giá, ngân hàng sẽ lỗ và ngược lại ngân hàng sẽ có lãi khi ngoại tệ đó xuống giá. Một trạng thái ngoại hối dù ở thế trường hay thế đoản đều có nguy cơ gây ra tổn thất cho ngân hàng. Dư dật về ngoại tệ (vị thế trrường) càng lớn thì rủi ro càng cao khi tỷ giá giảm, ngược lại, đoản về ngoại tệ nào đó càng mạnh thì rủi ro cũng không ít khi tỷ giá tăng. Khi phân biệt tình hình lãi lỗ ngoại hối theo vị thế ngoại hối, người ta so sánh lỗ, lãi thực tế xảy ra so với mức lãi, lỗ dự kiến, qua đó đánh giá chất lượng quản lý rủi ro tỷ giá hối đoái của một ngân hàng. 1.2.2.5. Rủi ro trong thanh toán: Một ngân hàng hoạt động bình thường phải đảm bảo được khả năng thanh toán. Khả năng thanh toán tức là đáp ứng được các nhu cầu thanh toán hiện tại, đột xuất khi có vấn đề nảy sinh và đáp ứng được khả năng thanh toán trong tương lai. Khi ngân hàng thiếu khả năng thanh toán, nếu không được giải quyết một cách kịp thời có thể dẫn đến mất khả năng thanh toán. Khi ngân hàng thừa khả năng thanh toán sẽ dẫn đến ứ đọng vốn, làm giảm khả năng sinh lời, thu nhập của ngân hàng giảm. Rủi ro thanh toán nảy sinh do những nguyên nhân sau: + Do mất cân bằng giữa nguồn vốn và sử dụng vốn, nguồn vốn dư thừa quá lớn, trong khi đó thị trường đầu ra hạn hẹp nên một số ngân hàng đã dùng vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung dài hạn quá mức, dẫn đến thiếu hụt khả năng thanh toán cuối cùng. + Đến hạn các khoản cho vay khó thu hồi được, uy tín của ngân hàng giảm sút, người gửi tiền và người đi vay thường phản ứng trước những khó khăn của ngân hàng bằng cách rút hết hạn mức tín dụng để đảm bảo có tiền cho những như cầu về sau hoặc rút hết số dư tiền gửi vì sợ có thể không rút được. Tất cả những khía cạnh trên đều dẫn đến những rủi ro trong thanh toán của ngân hàng. + Loại rủi ro này còn có thể phát sinh trong quá trình thanh toán của ngân hàng, có thể do ngân hàng bị lợi dụng trong thanh toán điện tử, thanh toán séc chấp nhận thanh toán các chứng từ giả mạo hoặc do nhầm lẫn, sai sót trong hoạt động nghiệp vụ... dẫn đến sự thiệt hại của ngân hàng. 1.2.2.6. Rủi ro thuần tuý: Đây là loại rủi ro khách quan do thiên tai gây ra như: lụt lội, động đất, hoả hoạn hoặc do bị mất trộm, bị lừa đảo, tham nhũng... làm thiệt hại hay phá huỷ các tài sản của ngân hàng. Các rủi ro này xảy ra cũng gây mất mát, thiệt hại không nhỏ cho ngân hàng. 1.2.2.7. Rủi ro mất khả năng thanh toán; Đây là loại rủi ro đặc trưng của NHTM liên quan đến sự sống còn của ngân hàng, nó là hậu quả của một hoặc nhiều loại rủi ro kể trên dẫn đến việc NHTM bị thua lỗ, không có khả năng trả nợ cho người gửi tiền khi đến hạn hoặc không có đủ tiền nhất thời để chi trả cho nhu cầu rút tiền ồ ạt của khách hàng tại một thời điểm. Đây là loại rủi ro nghiêm trọng nhất, nó không những làm sụp đổ chính NHTM đó mà còn là nguy cơ dẫn đến sự phá sản của hàng loạt các ngân hàng, các tổ chức tín dụng khác có liên quan. Bài học thực tiễn của loại rủi ro này có thể kể đến như sự sụp đổ của hàng trăm tổ chức tín dụng ỏ Mỹ từ năm 1985 đến năm 1992 hay sự đổ vỡ hàng loạt quỹ tín dụng nhân dân ở nước ta trong những năm cuối của thập kỷ 80. 1.2.3. Rủi ro tín dụng: 1.2.3.1. Các hình thức của rủi ro tín dụng Rủi ro tín dụng xảy ra khi người vay không trả được nợ lãi và nợ gốc đúng hạn, đầy đủ. Theo phương thức quản lý rủi ro tín dụng hiện nay, người ta chia rủi ro tín dụng thành bốn cấp độ theo mức độ rủi ro. 1.2.3.1.1. Không thu được lãi đúng hạn: Cấp độ thấp nhất là khi người vay không trả được lãi đúng hạn, khi đó Ngân hàng sẽ chuyển số lãi đó vào khoản mục lãi treo phát sinh. Hình thức rủi ro này được xếp vào mức rủi ro thấp vì ngoại trừ trường hợp khách hàng muốn quỵt nợ , chiếm dụng vốn thì phần lớn đều xuất phát từ việc thiếu cân đối trong kỳ hạn thu nợ và trả nợ cuả khách hàng. 1.2.3.1.2. Không thu được vốn đúng hạn: Khi không thu được vốn đúng hạn tình hình dường như nghiêm trọng hơn, một phần do một lượng vốn cho vay lớn bị mất . Khi đó, Ngân hàng sẽ chuyển số nợ vốn đó sang mục nợ quá hạn phát sinh. Khoản mục này phát sinh vào thời gian đáo hạn của hợp đồng tín dụng . Tuy nhiên, đấy chưa phải là khoản mất mát hiện thực của Ngân hàng vì có thể tiến độ hoạt động kinh doanh cuả khách hàng bị chậm so với kế hoạch đã đề ra trình Ngân hàng. 1.2.3.1.3. Không thu được đủ lãi: Khi Ngân hàng không thu được đủ lãi thì tình hình đã trở nên nghiêm trọng hơn. Tình hình kinh doanh của khách hàng có thể đã kém hiệu quả đến mức không thể trả đủ lãi cho Ngân hàng. Khi đó, Ngân hàng phải chuyển khoản lãi này vào khoản mục lãi treo đóng băng và thậm chí có thể phải thực hiện miễn giảm lãi cho khách hàng. 1.2.3.1.4. Không thu đủ vốn cho vay: Tình huống xấu nhất xảy ra khi ngân hàng không thu đủ vốn cho vay và lúc này Ngân hàng đã bị mất vốn. Tại thời điểm này , Ngân hàng sẽ chuyển khoản nợ vào mục nợ không có khả năng thu hồi hoặc phải xoá nợ, coi như khép lại một hợo đồng tín dụng không có hiệu quả. Trên đây chủ là bốn hình thức giúp cho NHTM nhận biết rủi ro tín dụng và có biện pháp xử lý . Tuy nhiên, không phải lúc nào gặp rủi ro tín dụng thì Ngân hàng đều phải trải qua bốn trường hợp trên. Có trường hợp khách hàng trả lãi rất đầy đủ và đúng hạn nhưng cuối cùng lại không thể trả được nợ gốc cho Ngân hàng. Vì vậy, khi nghiên cứu về rủi ro tín dụng, người ta thường chú trọng vào các trường hợp có nguy cơ xảy ra rủi ro tín dụng , người ta thường chú trọng vào các trường hợp có nguy cơ xảy ra rủi ro tín dụng như là lãi treo phát sinh và đặc biệt là nợ quá hạn phát sinh. Còn ở các trường hợp khác có lãi treo đóng băng hay nợ không có khả năng thu hồi được coi là rủi ro thực sự nên thường được xem xét để giải quyết hậu quả và rút ra những bài học kinh nghiệm. 1.2.3.2. Các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng : 1.2.3.2.1. Nguyên nhân từ môi trường kinh doanh: 1.2.3.2.1.1. Môi trường kinh tế, chính trị, xã hội và môi trường pháp lý trong nước: - Môi trường kinh tế: Môi trường kinh tế tác động mạnh mẽ đến lĩnh vực kinh doanh của ngân hàng cũng như các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Khi nền kinh tế đang tăng trưởng ổn định thì các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả và có nhiều khả năng trả nợ cho Ngân hàng . Ngược lại , khi nền kinh tế rơi vào tình trạng bị suy thoái, mất ổn định đã làm cho các doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn trong hoạt động kinh doanh, sản xuất bị đình trệ, sức mua bị giảm sút, hàng hoá bị ứ đọng. Điều này đã làm cho các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả và đã ảnh hưởng đến khả năng trả nợ cho ngân hàng. Ngoài ra, các chính sách quản lý kinh tế vĩ mô của chính phủ cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của Ngân hàng. Chính phủ có thể gây khó khăn cho một số khách hàng của Ngân hàng khi theo đuổi mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao đã làm tăng tỷ lệ lạm phát dẫn đến giá cả các loại nguyên vật liệu đầu vào tăng, giá thành sản phẩm tăng, hàng hoá khó tiêu thụ được . Hơn nữa, việc chính phủ cho phép nhập khẩu tràn lan những mặt hàng mà ở trong nước có thể sản xuất được, từ đó làm cho hàng hoá trong nước bị cạnh tranh, chậm tiêu thụ, sản xuất bị đình trệ... - Môi trường chính trị , xã hội: Môi trường chính trị , xã hội ổn định sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển . Ngược lại, nếu doanh nghiệp luôn phải đặt ra trong tình trạng chiến tranh cấm vận kinh tế, chính trị bất ổn , tệ nạn xã hội tràn lan... đều là những nguyên nhân dẫn đến việc kìm hãm sản xuất, từ đó gây ra rủi ro đối với các doanh nghiệp nói chung và đối với rủi ro tín dụng của ngân hàng nói riêng. -Môi trường pháp lý: Nếu nhà nước xây dựng được một hành lang pháp lý chặt chẽ và có hiệu lực sẽ làm lành mạnh hoá các quan hệ kinh tế giữa các tổ chức kinh tế với nhau cũng như giữa các tổ chức kinh tế đó với Ngân hàng. Ngược lại , hệ thống pháp lý lỏng lẻo sẽ tạo ra nhiều kẽ hở, gây nên tình trạng mánh khoé, lừa đảo và gây thiệt hại lẫn nhau; từ đó ảnh hưởng đến khả năng thanh toán đối với Ngân hàng, thậm chí trực tiếp lừa đảo chiếm dụng vốn của Ngân hàng, điển hình như vụ án Tamexco, Epco -Minh Phụng... đã gây xôn xao dư luận. 1.2.3.2.1.2. Môi trường quốc tế: Xu hướng hội nhập nền kinh tế khu vực và quốc tế hiện nay ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh tế. Một mặt nó tạo điều kiện giao lưu kinh tế, tăng hiệu quả kinh tế xã hội đất nước, nhưng mặt khác nó lại tạo ra sức cạnh tranh quyết liệt. Nếu doanh nghiệp nào làm ăn kém hiệu quả thì lập tức sẽ bị phá sản gây ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng Ngân hàng. Quan hệ kinh tế mở rộng ra các nước đã tạo sự ràng buộc về kinh tế, tiềm ẩn những rủi ro mang tính hệ thống. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực vừa qua là một bằng chứng điển hình. Nó đã dẫn đến sự phá sản của hàng trăm ngân hàng của các nước mà hậu quả của nó vẫn còn dư âm đến tận hôm nay. 1.2.3.2.2. Nguyên nhân từ phía khách hàng : Trong trường hợp này, rủi ro tín dụng xảy ra do các doanh nghiệp thực sự làm ăn thua lỗ không có khả năng trả được nợ cho ngân hàng. Đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến rủi ro tín dụng của NHTM. Ta có thể chia nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng từ phía khách hàng làm hai trường hợp. Đó là trường hợp khách hàng gian lận và trường hợp khách hàng không gian lận. 1.2.3.2.2.1. Khách hàng gian lận: Trong hoạt động tín dụng, Ngân hàng không thể tránh khỏi trường hợp khách hàng cố tình lừa gạt ngân hàng. Điều này được thể hiện qua một số hình thức sau: Nhiều doanh nghiệp do thiếu năng lực về khả năng quản lý tài chính lại không có tài sản thế chấp hợp lệ do đó không đủ điều kiện để đảm bảo an toàn cho việc vay vốn ngân hàng. Họ đã lập các số liệu, giấy tờ giả mạo hòng qua mắt ngân hàng và được ngân hàng cho vay vốn. Nếu ngân hàng không phát hiện ra thì khả năng rủi ro của khoản tín dụng này là rất lớn. Có trường hợp người vay lợi dụng ngân hàng không thể kiểm soát hết được hoạt động kinh doanh của mình nên các doanh nghiệp đã sử dụng vốn vay của ngân hàng vào mục đích khác với hợp đồng đã cam kết. Như vậy, coi như toàn bộ giá trị thẩm định trước khi tiến hành cho vay của ngân hàng đã trở thành vô nghĩa và rủi ro tín dụng được đặt ở mức độ báo động. Ngoài ra , nhiều doanh nghiệp do kinh doanh kém hiệu quả hoặc do đạo đức kém đã cố tình chây ỳ, không trả nợ cho ngân hàng, thậm chí còn bỏ trốn để quỵt nợ. Trong trường hợp này ngân hàng hoàn toàn bị thua thiệt và chỉ còn trông chờ vào việc xử lý tài sản thế chấp. 1.2.3.2.2.2. Khách hàng không gian lận: Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải chịu sự cạnh tranh gay gắt và để tồn tại thì các doanh nghiệp phải nỗ lực hết mình trong những quan hệ phức tạp của xã hội. Tuy nhiên, rủi ro vẫn là điều không thể tránh khỏi. Như ở phần trước đã nói, nguồn thu chủ yếu của ngân hàng là từ các doanh nghiệp thông qua các hoạt động tín dụng. Chính vì vậy, hoạt động của doanh nghiệp có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của ngân hàng và rủi ro trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến rủi ro tín dụng của ngân hàng. Rủi ro của doanh nghiệp xuất phát từ một số trường hợp sau: + Doanh nghiệp bị rủi ro khách quan như: Thiên tai, hoả hoạn, động đất , mất trộm...Đây là trường hợp ít khi xảy ra và khó có thể dự đoán trước. + Bản thân doanh nghiệp bị lừa đảo hoặc bạn hàng của doanh nghiệp gặp rủi ro. Trong nền kinh tế doanh nghiệp có rất nhiều mối quan hệ với các tổ chức kinh tế khác và cũng giống như ngân hàng doanh nghiệp cũng có thể bị rủi ro từ phía các đối tác của mình làm cho doanh nghiệp bị thua lỗ, không có khả năng trả nợ cho ngân hàng. Trường hợp khác là rủi ro xuất phát từ chính sự yếu kém của bản thân doanh nghiệp. Sự cạnh tranh khắc nghiệt của thị trường luôn đặt doanh nghiệp trong tình trạng phải có sự nỗ lực cao độ vì bất kì một sự sai sót nào trong phương thức quản lý kinh tế cũng như quản lý tài chính đều dẫn đến thua lỗ, phá sản doanh nghiệp ảnh hưởng đến khả năng trả nợ ngân hàng. 1.2.3.2.3. Nguyên nhân từ phía Ngân hàng: Ngoài những nguyên nhân trên, rủi ro tín dụng còn xuất phát từ chính bản thân Ngân hàng. Đó là do Ngân hàng yếu kém về trình độ chuyên môn, trình độ nắm bắt các thông tin trên thị trường, trình độ dự đoán và hiểu biết các lĩnh vực sản xuất kinh doanh hay vấn đề đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp của cán bộ tín dụng đã dẫn đến rủi ro tín dụng Ngân hàng. 1.2.3.3. Dấu hiệu của rủi ro tín dụng: Rủi ro tín dụng ẩn chứa trong những khoản vay có vấn đề và biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Xuất phát từ thực tiễn hoạt động tín dụng, các nhà ngân hàng đã rút ra một số dấu hiệu cơ bản để giúp cho các cán bộ tín dụng nhận biết, phán đoán và sớm có những biện pháp kịp thời để ngăn chặn những rủi ro thực sự có thể xảy ra. Có các dấu hiệu cơ bản sau: + Số dư tiền gửi bị giảm sút, xuất hiện tình trạng phát hành séc quá số dư. + Trì hoãn nộp các báo cáo tài chính. + Chậm trễ, thiếu nhiệt tình trong việc dàn xếp các cuộc viếng thăm của cán bộ tín dụng. + Gia tăng bất thường hàng tồn kho, các khoản bán chịu và các khoản nợ. + Giảm bất thường giá bán hàng hoá. + Xuất hiện tình trạng vay vốn ở nhiều ngân hàng. + Sự mất ổn định về tổ chức nội bộ. + Khách hàng gặp rủi ro khách quan. + Bạn hàng của khách hàng gặp rủi ro hoặc bị phá sản, bị truy tố... + Không trả được nợ, lãi đầy đủ và đúng hạn. 1.2.3.4. Tác động của rủi ro tín dụng: 1.2.3.4.1. Rủi ro tín dụng làm giảm lợi nhuận Ngân hàng: Những khoản tín dụng gặp rủi ro gây cho ngân hàng những thiệt hại về mặt tài chính khi không thu được vốn và lãi trực tiếp làm giảm lợi nhuận Ngân hàng. Trong trường hợp Ngân hàng thu được lãi treo hay nợ quá hạn thì cũng làm Ngân hàng mất cơ hội đầu tư vào những dự án khả thi, có khả năng mang lại lợi nhuận 1.2.3.4.2. Rủi ro tín dụng làm giảm khả năng thanh toán của Ngân hàng: Rủi ro tín dụng đã khiến cho việc hoàn trả tiền gửi của Ngân hàng gặp nhiều khó khăn. Các khoản đầu tư, cho vay bị thất thoát hoặc chậm thu hồi trong khi Ngân hàng vẫn phải đều đặn trả lãi vốn huy động theo đúng kỳ hạn. Chính điều này đã làm hạn chế khả năng thanh toán của Ngân hàng. 1.2.3.4.3. Rủi ro tín dụng làm giảm uy tín của Ngân hàng: Rủi ro tín dụng đã làm giảm uy tín của Ngân hàng và ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. NHTM gặp nhiều rủi ro là Ngân hàng hoạt động kém hiệu quả. Điều này đã làm cho uy ítn của ngân hàng bị giảm sút. Đây là một vấn đề rất tệ hại, khách hàng mất lòng tin ở Ngân hàng, họ sẽ không gửi tiền vào Ngân hàng, thậm chí họ có thể còn rút lại những khoản tiền đã gửi. Điều đó đã gây khó khăn cho việc huy động vốn của Ngân hàng làm giảm quy mô hoạt động của Ngân hàng. NHTM gặp rủi ro cũng sẽ làm mất lòng tin đối với các Ngân hàng bạn, Ngân hàng nước ngoài nên rất khó có thể nhận được những khoản tín dụng từ phía họ khi cần thiết. Ngoài ra, Ngân hàng khó có thể có các quan hệ đại lý làm cầu nối trong thanh toán quốc tế , phát triển các dịch vụ của Ngân hàng. 1.2.3.4.4. Rủi ro tín dụng là nguy cơ dẫn đến phá sản Ngân hàng: Ngân hàng gặp rủi ro tín dụng đã làm giảm sút lòng tin đặc biệt là đối với dân chúng. Họ lo sợ bị mất những khoản tiền đã gửi và sẽ đến rút tiền để tìm cơ hội đầu tư có lợi hơn ở một Ngân hàng khác. Trường hợp nghiêm trọng xảy ra khi có quá nhiếu người đến rút tiền tại cùng một thời điểm và Ngân hàng sẽ không đủ tiền mặt để thanh toán, làm cho khách hàng tin rằng Ngân hàng có nguy cơ phá sản và sẽ đổ xô đến rút tiền về dẫn đến sự phá sản thực sự của Ngân hàng. Hậu quả của sự phá sản Ngân hàng không chỉ bản thân Ngân hàng phải gánh chịu mà nó còn liên quan đến các Ngân hàng bạn có quan hệ với Ngân hàng. Điều này sẽ tạo ra một phản ứng dây chuyền gây ra sự phả sản hàng loạt của các ngân hàng khác ảnh hưởng tiêu cực đến toàn bộ nền kinh tế. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực vừa qua bắt nguồn từ sự đổ vỡ của hệ thống các NHTM đã làm cho nền kinh tế của các nước trong khu vực bị điêu đứng. Chính điều này đã gây ra những rối loạn về an ninh, chính trị, xã hội... kéo theo hàng loạt những hậu quả khác như: Thất nghiệp, lạm phát, tệ nạn xã hội nảy sinh. Đây là những bài học thấm thía có nguồn gốc từ những rủi ro tín dụng của NHTM. Các chỉ tiêu đo lường rủi ro của ngân hàng thương mại: Rủi ro gây ra làm thiệt hại rất lớn cho bất cứ ai phải đương đầu với nó. Muốn tồn tại và phát triển trong cạnh tranh, các doanh nghiệp nói chung và NHTM nói riêng cần phải để đoán được rủi ro để có những giải pháp quản lý và phòng chống rủi ro và chấp nhận rủi ro ở mức độ hợp lý. Không có công việc kinh doanh nào lại không có rủi ro, nhưng rủi ro quá giới hạn cho phép thì kinh doanh sẽ lỗ, thậm chí phá sản. Cán bộ ngân hàng cần ý thức được rằng: các chiến lược kinh doanh vạch ra cho dù cẩn thận, tỷ mỷ đến đâu vẫn có thể gặp thất bại. Chiến lược kinh doanh càng táo bạo, cạnh tranh càng khốc liệt thì các nhà kinh doanh càng dễ thu lợi nhuận lớn song cũng dễ vướng phải tổn thất nặng nề. Rủi ro trong kinh doanh là một tất yếu, nó có thể xuất hiện ở khâu này hay khâu khác dưới nhiều dạng thức khác nhau. Chỉ cần một sơ suất nhỏ hoặc một quyết định thiếu kịp thời: nên đầu tư hay rút vốn ra... cũng có thể đưa đến cho ngân hàng những bất trắc khó lường. Vì vậy trong kinh doanh ngân hàng cần thiết phải đo lường rủi ro. Việc đo lường rủi ro được thực hiện trên hai phương diện sau: Một là: Xác định số thiệt hại do rủi ro gây ra: Tổng giá trị tài = Tổng giá trị tài sản bị thiệt hại sản bị rủi ro do từng lần rủi ro trong kỳ Hai là: Đo lường khả năng rủi ro: Tổng giá trị tài sản bị rủi ro trong kỳ báo cáo Hệ số rủi ro = _____________________________________ Tổng giá trị các món cho vay trong kỳ báo cáo 1.2.4. Thực trạng rủi ro tín dụng của các Ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay: Thực hiện đường lối phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần để huy động và sử dụng có hiệu qủa các nguồn vốn của mọi thành phần kinh tế, bảo vệ lợi ích hợp pháp của dân cư, tổ chức kinh tế tham gia vào các hoạt động tín dụng, tăng cường hiệu quả quản lý Nhà nước đối với các hoạt động kinh doanh tiền tệ, ngày 25/5/2005, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước (nay là Chủ tịch nước ) đã ký lệnh số 37 về Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước và lệnh số 38 về Pháp lệnh Ngân hàng, Hợp tác xã tín dụng, công ty tài chính. Sau gần 10 năm đổi mới tổ chức và hoạt động, hệ thống Ngân hàng Việt Nam đã không ngừng được đổi mới và phát triển góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Tính đến cuối năm 2005, ngành Ngân hàng đã có một bước tiến dài trên con đường phát triển, từ chỗ với một hệ thống ngân hàng một cấp hoạt động theo cơ chế tập trung bao cấp, mạng lưới các chi nhánh không hợp lý; đến nay, ngành Ngân hàng đã trở thành một hệ thống với nhiều loại hình tổ chức tín dụng, đa dạng về hình thức sở hữu với mạng lưới trải khắp các tỉnh, thành phố từ thành thị đến nông thôn : Bao gồm 6 NHTM quốc doanh thuộc sở hữu Nhà nước, 48 NHTM cổ phần ( 28 NHTM cổ phần đô thị và 20 NHTM cổ phần nông thôn), 25 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 4 Ngân hàng liên doanh giữa Việt Nam và nước ngoài, hơn 1.000 quỹ tín dụng nhân dân, 5 công ty tài chính ( 2 công ty tài chính cổ phần và 3 công ty tài chính của Tổng công ty Nhà nước ), 7 công ty cho thuê tài chính ( 2 công ty liên doanh, 1 công ty nước ngoài và 3 công ty của Ngân hàng quốc doanh ) và gần 60 Văn phòng đại diện của các Ngân hàng nước ngoài. Bên cạnh các mặt đã đạt được, hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam còn nhiều bất cập làm cho hoạt động của các NHTM gặp nhiều khó khăn, thách thức. Điều đặc biệt nổi lên trong hoạt động của toàn hệ thống NHTM Việt Nam hiện nay là mức dư nợ quá hạn rất lớn, có thể nói là lên đến con số đáng báo động. Bảng 1 : Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ của các Ngân hàng thương mại Việt Nam Năm 00 01 02 03 04 05 06 Tỷ lệ % 9,6 4,6 3,5 4,2 4,5 5,8 5,4 Nguồn : Tạp chí Ngân hàng Số 89+90 / 2006 trang 55 Trong kinh doanh ngân hàng nợ quá hạn là điều khó tránh khỏi. Sẽ không có gì phải bàn cãi nếu như con số nợ quá hạn chỉ đơn thuần theo đúng nghĩa của nó. Điều đáng lo ngại không phải là sự chậm chễ, sai hẹn trong việc trả nợ của khách hàng, mặc dù sự chậm chễ đó có ảnh hưởng đến kế hoạch sử dụng vốn của ngân hàng, mà cái chính là khả năng không thu hồi được của số nợ đó. Thực tế trong số nợ quá hạn của các NHTM Việt Nam hiện nay, một phần lớn là các khoản nợ khó đòi. Đây là vấn đề bức xúc cần được nhanh chóng giải quyết để làm lành mạnh hoá hoạt động tín dụng cuả các Ngân hàng. Hiện nay, hầu hết các NHTM Việt Nam đều có nợ quá hạn, tỷ lệ nợ quá hạn bình quân ở mức trên 5% (cá biệt có một số Ngân hàng ở mức trên 10%), trong khi đó thông lệ quốc tế chỉ cho phép ở mức 1-2%. Như vậy, vấn đề nợ quá hạn ở các NHTM Việt Nam là rất đáng lo ngại. Bên cạnh nợ quá hạn còn có rủi ro tiềm ẩn trong số dư nợ không có vấn đề. Nếu tách hết số dư nợ quá hạn ra khỏi tổng dư nợ còn lại dư nợ bình thường hay dư nợ không có vấn đề, nhưng ở một số ngân hàng số dư nợ này vẫn buộc phải được quan tâm chặt chẽ. Trong số dư nợ bình thường đó vẫn ẩn chứa nhiều vấn đề không bình thường dễ gây rủi ro tín dụng ví dụ như số dư nợ đã được gia hạn nhiều lần hay đảo nợ. Mức dư nợ tín dụng thấp, chất lượng tín dụng kém của các NHTM có nhiều nguyên nhân khác nhau, song nguyên nhân cơ bản là các vấn đề bất cập trong các vấn đề về tài sản cầm cố, thế chấp. Sự phối hợp giữa các nghành về các thủ tục công chứng, đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, sử dụng, xác nhận của các cơ quan quản lý tài sản còn thiếu. Điều này đã gây nhiều khó khăn cho các NHTM trong hoạt động tín dụng. Giấy tờ nhà đất có thể không đầy đủ hợp lệ, nếu không cho vay thì ứ đọng vốn còn nếu cho vay thì rủi ro cao, tài sản bảo đảm khó thu hồi. Hơn nữa, vấn đề xử lý tài sản thế chấp còn nhiều phức tạp, bất cập trải qua các thủ tục hành chính rườm rà dưới sự quản lý của nhiều cơ quan khác nhau gây khó khăn cho việc thu hồi nợ của ngân hàng. Ngoài những vấn đề bất cập về tài sản thế chấp còn một số nguyên nhân gây ra tình trạng nợ quá hạn như: Về phía Ngân hàng: Việc xác định kỳ hạn cho vay, kỳ hạn trả nợ chưa phù hợp với phương án vay vốn của khách hàng. Việc kiểm tra kiểm soát các khoản vay chưa chặt chẽ hoặc chỉ coi trọng tài sản thế chấp mà không quan tâm đúng mức đến phương án vay vốn của khách hàng. Về phía khách hàng: Nguồn trả nợ ngân hàng từ phương án vay vốn không theo đúng tiến độ đã đề ra do : Sử dụng vốn vay sai mục đích để đầu cơ hay dự đoán sai về thị trường dẫn đến sản xuất ra nhưng không tiêu thụ được, hàng hoá tồn đọng do đó không thu hồi được vốn trả nợ ngân hàng... KẾT LUẬN Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động của ngân hàng cũng giống như một doanh nghiệp luôn gắn liền với rủi ro. Để có thể cạnh tranh, tồn tại và phát triển, Ngân hàng thương mại phải có những giải pháp hạn chế rủi ro. Luận văn đã nêu được các vấn đề cơ bản về tín dụng, rủi ro trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại. Trong đó đi sâu nghiên cứu về rủi ro tín dụng, những dấu hiệu của rủi ro tín dụng và ảnh hưởng của nó đối với bản thân ngân hàng và đối với nền kinh tế. Tuy đã có nhiều cố gắng nhưng bài tiểu luận vẫn không tránh khỏi một số thiếu sót. Tôi hy vọng sẽ nhận được những ý kiến đóng góp từ những người thực sự quan tâm tới vấn đề này. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Các tạp chí, thời báo Ngân hàng, Tài chính 2. Nghiệp vụ ngân hàng thương mại - Nhà xuất bản TP Hồ Chí Minh - 2001 3. Hoạt động ngân hàng và thị trường tài chính - Tác giả Lê Vinh Danh - NXB Chính trị - Năm 2001. 4. Frederic S. Mis khin - Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính - NXB Khoa học kỹ thuật Hà Nội - Năm 2001. 5. Luật Ngân hàng Nhà nước, luật các tổ chức tín dụng - NXB pháp lý - Năm 2005. 6. Các Nghị định, thông tư, hướng dẫn của Chính phủ, NHNN, NHCT Việt Nam.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docRủi ro tín dụng ngân hàng.doc
Luận văn liên quan