Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết trong tố tụng dân sự Việt Nam

PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Khi một người biệt tích quá lâu khỏi nơi cư trú đã làm gián đoạn các quan hệ xã hội mà họ đã tham gia, làm ảnh hưởng tới quyền, lợi ích hợp pháp của những người có liên quan đến họ trong các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh doanh, thương mại Vì vậy, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người có liên quan đến người biệt tích trong các quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình, lao động, kinh doanh, thương mại pháp luật quy định các chủ thể này có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết. Vấn đề giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết lần đầu tiên được đề cập đến trong Thông tư số 03-NCLP ngày 03/3/1966 của TANDTC về trình tự giải quyết việc ly hôn. Sau đó, yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết được quy định tại Điều 10 PLTTGQCVADS và Nghị quyết số 03/HĐTP ngày 19 tháng 10 năm 1990 của Hội đồng thẩm phán TANDTC về hướng dẫn thi hành PLTTGQCVADS. Về cơ bản, việc xác định công dân mất tích hoặc là đã chết theo các quy định của pháp luật TTDS trước thời điểm BLTTDS được banh hành đều được thực hiện theo một thủ tục chung không tách thành thủ tục việc dân sự và thủ tục án dân sự. BLTTDS được Quốc hội khóa XI nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 15/6/2004 lần đầu tiên đã đưa quy định thủ tục giải quyết việc dân sự pháp điển hóa chính thức trong luật. Yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết là một loại việc dân sự được giải quyết theo một thủ tục độc lập quy định tại Phần thứ năm: "Thủ tục giải quyết việc dân sự" của BLTTDS. Có thể nói, đây là một bước đột phá về thủ tục tố tụng, tạo ra một hành lang pháp lý trong việc giải quyết nhanh, giản lược các việc mang tính chất đặc trưng là không có tranh chấp nhưng cá nhân, cơ quan, tổ chức có yêu cầu Tòa án công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý là căn cứ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự . 2 Bên cạnh những ưu điểm đạt được của việc áp dụng thủ tục giải quyết việc dân sự trong việc giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết, thực tiễn thụ lý và giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết đã và đang đặt ra khá nhiều những vướng mắc cần tháo gỡ cũng như cần có sự hướng dẫn thống nhất. Mặc dù thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết lần lượt được quy định tại Chương XXIII và Chương XXIV của BLTTDS, tuy nhiên phần nhiều các quy định của luật còn mang tính cô đọng, khái quát khá chung chung, thiếu vắng tính cụ thể và chi tiết, cũng như chưa có sự thống nhất quan điểm dẫn tới các cách hiểu khác nhau. Điều này không thể tránh khỏi sự "tùy tiện chủ quan" trong việc áp dụng luật. Chính từ thực trạng này đòi hỏi phải nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc và đầy đủ về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật TTDS Việt Nam. Với những lý do đó, việc nghiên cứu ″Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết trong tố tụng dân sự Việt Nam″ có ý nghĩa khoa học và có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong khoa học pháp lý từ trước đến nay, ở nước ta chưa có một công trình nào nghiên cứu chuyên sâu và có hệ thống về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết. Do trước đây, thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết thường được giải quyết trong cùng một vụ án ly hôn hoặc một vụ án dân sự khác, cho đến thời điểm BLTTDS có hiệu lực, thủ tục này mới trở thành một thủ tục độc lập. Ở những khía cạnh khác nhau, cho đến nay đã có một số công trình nghiên cứu liên quan đến thủ tục này đã được một số tác giả đề cập đến như: Công trình nghiên cứu khoa học cấp Bộ: ″Cơ sở lý luận và thực tiễn thi hành quy định tại phần thứ năm: Thủ tục giải quyết việc dân sự của Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam″ của Viện khoa học xét xử - TANDTC; Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường: "Việc dân sự và thủ tục giải quyết việc dân sự tại Tòa án nhân dân" của Trường đại học Luật Hà Nội, năm 2008; Luận văn thạc sỹ Luật học: ″Trình tự, thủ tục giải quyết các việc dân sự theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự″, Lê Thanh Huyền, Trường đại học Luật Hà Nội, năm 2006. Một số các bài viết trên các tạp chí khoa học pháp lý như: "Xác định thời điểm chết trong trường hợp tuyên bố một người đã chết theo quy định của pháp luật dân sự", Lê Hồng Hải, Tạp chí Dân chủ & Pháp luật số 9/2004; ″Một số quy định chung về thủ tục giải quyết việc dân sự″, Tưởng Duy Lượng, Tạp chí Toà án nhân dân, số 6/2005; ″Những vấn đề cơ bản về thủ tục giải quyết một số việc dân sự cụ thể″, Tưởng Duy Lượng, Tạp chí TAND, số 11/2005; "Thủ tục giải quyết việc dân sự theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự", Lê Thu Hà, Tạp chí TAND, số 12/2006; "Tuyên bố một người là đã chết theo Điều 81 Bộ luật dân sự năm 2005", Nguyễn Minh Hằng, Tạp chí TAND số 11/2009 . Tuy vậy, các công trình trên mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu một cách khái quát về thủ tục giải quyết việc dân sự, tiếp cận dưới một vài góc độ của thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết. Với tình hình trên, đề tài "Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết trong tố tụng dân sự Việt Nam", lần đầu tiên được nghiên cứu ở cấp độ luận văn thạc sỹ một cách chuyên sâu, toàn diện, đầy đủ và đảm bảo được tính logíc, hệ thống, không có sự trùng lặp với các công trình nghiên cứu khoa học đã được công bố. 3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài * Mục đích của việc nghiên cứu đề tài Việc nghiên cứu đề tài nhằm thực hiện mục đích: Một là, làm sáng tỏ cơ sở lý luận về thủ tục giải quyết việc dân sự nói chung và thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết trong TTDS nói riêng, tìm hiểu thực tế áp dụng luật thực định để giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết trong hoạt động xét xử của Tòa án; Hai là, chỉ ra những điểm còn thiếu hoặc chưa hợp lý trong các quy định về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết của pháp luật TTDS Việt Nam hiện hành, từ đó đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật TTDS về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết. * Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài Luận văn đặt ra các nhiệm vụ sau để thực hiện được mục tiêu đề tài: - Nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ bản về thủ tục giải quyết việc dân sự nói chung và thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết nói riêng; - Tìm hiểu một cách đầy đủ và có hệ thống quy định của pháp luật TTDS về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết trong TTDS Việt Nam; - Nghiên cứu và đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết, chỉ ra những nội dung, những vấn đề còn thiếu sót, chưa phù hợp. Từ đó, luận giải về yêu cầu hoàn thiện quy định của pháp luật TTDS về thủ tục giải quyết việc dân sự nói chung và thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết nói riêng, trên cơ sở đó đề ra các giải pháp để hoàn thiện các quy định này. * Đối tượng nghiên cứu của đề tài Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận của thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết; các quy định của pháp luật TTDS Việt Nam hiện hành về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết. Tìm hiểu thực tiễn áp dụng pháp luật về vấn đề này qua hoạt động xét xử của TAND trong những năm gần đây. * Phạm vi nghiên cứu của đề tài Trong khuôn khổ của một Luận văn Thạc sĩ Luật học, tác giả chỉ tập chung nghiên cứu các quy định về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết trong pháp luật TTDS Việt Nam hiện hành. Khi nghiên cứu các quy định cụ thể về thủ tục này, luận văn có đề cập nghiên cứu về thủ tục giải quyết các yêu cầu về dân sự nói chung cũng như nghiên cứu khái quát các quy định của BLDS về tuyên bố một người mất tích và tuyên bố một người là đã chết. Tuy nhiên, cách tiếp cận những vấn đề này chỉ là cơ sở để nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện và hệ thống về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết theo quy định của BLTTDS Việt Nam. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Để thực hiện được mục tiêu nghiên cứu nói trên, việc nghiên cứu được tiến hành dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về quản lý Nhà nước, quản lý xã hội cũng như chủ trương, quan điểm về việc xây dựng BLTTDS. Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như: Phân tích, tổng hợp, lôgíc, lịch sử, qui nạp, đối chiếu, so sánh, khảo sát thăm dò lấy ý kiến trong phạm vi những người làm công tác thực tiễn, sử dụng kết quả thống kê . nhằm làm sáng tỏ các vấn đề trong nội dung luận văn. 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn Luận văn là công trình nghiên cứu có hệ thống về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết trong TTDS Việt Nam - một vấn đề mới, đã và đang gặp nhiều vướng mắc từ thực tiễn xét xử. Luận văn có ý nghĩa khoa học và thực tiễn sau đây: Thứ nhất: Lần đầu tiên thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết được nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện cả về vấn đề lý luận cũng như thực tiễn. Thứ hai: Quá trình nghiên cứu đề tài tìm ra được những tồn tại trong công tác xây dựng và thi hành pháp luật về thủ tục giải quyết việc dân sự nói chung và thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết nói riêng. Từ đó đưa ra những đề xuất, kiến nghị để góp phần vào việc hoàn thiện các quy định của pháp luật TTDS Việt Nam trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu giảng dạy ở bậc Đại học, Trường Đào tạo nghề trong lĩnh vực tư pháp và là tư liệu tốt để các nhà khoa học tham khảo trong nghiên cứu khoa học TTDS. Luận văn là một công trình nghiên cứu khoa học nghiêm túc, trong một chừng mực nhất định cũng có thể giúp ích phần nào cho các cán bộ làm công tác thực tiễn (Thẩm phán, Luật sư, Kiểm sát viên .) trong việc hiểu biết một cách sâu sắc, đầy đủ và vận dụng đúng đắn các quy định của pháp luật khi áp dụng chế định thủ tục giải quyết việc dân sự nói chung và thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết trong TTDS Việt Nam nói riêng. 6. Kết cấu của Luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết Chương 2: Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam Chương 3: Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết và một số kiến nghị

pdf80 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5447 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết trong tố tụng dân sự Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết nói riêng. Tuy nhiên, theo nguyên tắc áp dụng pháp luật để giải quyết việc dân sự quy định tại Điều 311 BLTTDS cho phép Tòa án áp dụng những quy định tại Chương XX BLTTDS quy định chung về thủ tục giải quyết việc dân sự và đồng thời áp dụng những quy định khác của BLTTDS không trái với những quy định tại chương này để giải quyết những việc dân sự. Như vậy, quyết định giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết; quyết định giải quyết yêu cầu hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết cũng có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm nếu phát hiện sai lầm, vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết, yêu cầu hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết. Chính những quy định không rõ ràng này đã gây không ít khó khăn, lúng túng cho những người áp dụng pháp luật trong thực tiễn giải quyết việc dân sự nói chung và giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết nói riêng. Vì vậy, cần có những quy định bổ sung trong BLTTDS để có cơ sở pháp lý rõ ràng cho việc giải quyết theo thủ tục đặc biệt (theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm) đối với định quyết định giải quyết việc dân sự đã có hiệu lực pháp luật. 3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện chế định thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết 3.2.1. Nguyên tắc và yêu cầu hoàn thiện chế định thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết trong pháp luật TTDS Việt Nam Với tư cách là một chế định của pháp luật TTDS, việc hoàn thiện chế định thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết là một tất yếu của quá trình hoàn thiện pháp luật TTDS. Việc hoàn thiện này cần dựa trên những chủ trương lớn của Đảng về cải cách tư pháp được thể hiện trong các văn 59 kiện, nghị quyết của Đảng mà đặc biệt là Nghị quyết lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 ... Bên cạnh nguyên tắc hoàn thiện chế định thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết phải nhất quán theo các tư tưởng chỉ đạo được Bộ Chính trị đề ra trong các Nghị quyết Trung ương thì việc hoàn thiện cũng cần dựa trên thực trạng pháp luật về chế định thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết ở nước ta hiện nay, dựa trên kinh nghiệm của các nước cũng như của Việt Nam trong quá trình hoàn thiện pháp luật. Các quy định của pháp luật về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết cần được hoàn thiện dựa trên những yêu cầu cơ bản sau: - Khắc phục được những điểm bất cập của pháp luật hiện hành về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết. Cụ thể, hiện nay ngoài các quy định của BLTTDS, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chưa ban hành văn bản hướng dẫn nên nhiều vấn đề hoặc là còn chưa cụ thể hoặc là còn bỏ ngỏ chưa có quy định gây không ít khó khăn cho quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết như: đương sự trong việc dân sự nói chung và yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết nói riêng, thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm việc dân sự, hòa giải trong việc dân sự, xác định ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết ... - Khắc phục được những hạn chế cơ bản của thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hiện hành về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết. - Kịp thời thể chế hóa nghị quyết của Đảng về Chiến lược cải cách tư pháp đó là xây dựng một cơ chế xét xử linh hoạt, đơn giản, gọn nhẹ, giải quyết các yêu cầu của đương sự một cách nhanh chóng và bảo vệ lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức và lợi ích chung của xã hội. 60 - Đáp ứng sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế là thủ tục cần phải đảm bảo tính khách quan, công khai, minh bạch, nhanh gọn và chặt chẽ. 3.2.2. Hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết 3.2.2.1. Về quy định chung về việc dân sự và thủ tục giải quyết việc dân sự a. Bổ sung khái niệm đương sự trong việc dân sự Đương sự là chủ thể không thể thiếu được trong vụ việc dân sự, việc xác định đúng và đầy đủ thành phần đương sự, tư cách đương sự là một bảo đảm để tất cả các đương sự có điều kiện tham gia tố tụng và thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ tố tụng từ đó họ có thể bảo vệ được các quyền và lợi ích hợp pháp của mình về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động trong các quan hệ tương ứng mà họ tham gia. Tuy nhiên, hiện nay BLTTDS chưa có quy định về khái niệm đương sự trong vụ việc dân sự. Do đó, trong thực tiễn áp dụng pháp luật TTDS để giải quyết việc dân sự không ít trường hợp Tòa án đã xác định sai đương sự dẫn đến triệu tập thiếu hoặc triệu tập cả những người không phải là đương sự tham gia vào quá trình giải quyết việc dân sự. Mặt khác, BLTTDS cũng không có quy định nào trực tiếp quy định về thành phần đương sự trong việc dân sự mà chỉ quy định gián tiếp về thành phần đương sự thông qua khoản 3 và khoản 4 Điều 313 BLTTDS. Vì vậy, cần bổ sung vào Mục 1 Chương VI BLTTDS một điều quy định về đương sự trong việc dân sự theo hướng sau: ″Đương sự trong việc dân sự là các cá nhân, cơ quan, tổ chức tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, bảo vệ lợi ích lợi ích chung của xã hội hay quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. Đương sự trong việc dân sự bao gồm người yêu cầu và người có liên quan đến yêu cầu. Người yêu cầu trong việc dân sự là người đưa ra yêu cầu Tòa án công nhận hay không công nhận một sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi hay chấm 61 dứt quyền, nghĩa vụ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; công nhận hoặc không công nhận quyền về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động. Người có liên quan trong việc dân sự là người tham gia tố tụng theo yêu cầu của người có yêu cầu hoặc tham gia vào quá trình giải quyết việc dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, để trả lời về những vấn đề có liên quan đến quyền, nghĩa vụ của họ.″ Trong quá trình giải quyết việc dân sự nói chung và yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết nói riêng để đảm bảo cho các đương sự có điều kiện thuận lợi để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án, đồng thời bảo đảm việc giải quyết việc dân sự được nhanh chóng, kịp thời, đúng đắn thì việc pháp luật quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong việc dân sự là cần thiết. Vì vậy, chúng tôi đề nghị bên cạnh quy định chung tại Điều 58 BLTDS về ″quyền và nghĩa vụ của đương sự ″, cần bổ sung vào Mục 1 Chương VI BLTTDS các điều quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong việc dân sự. b. Sửa đổi bổ sung quy định về hòa giải trong thủ tục giải quyết việc dân sự Yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết được Tòa án giải quyết theo thủ tục giải quyết việc dân sự, mà bản chất của việc dân sự là sự xác nhận một sự kiện pháp lý nên về nguyên tắc không có thủ tục hòa giải và không có thủ tục phản tố. Hiện tại, nguyên tắc chung về thủ tục hòa giải được quy định cụ thể tại Điều 10 BLTTDS, theo đó, ″Toà án có trách nhiệm tiến hành hoà giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này″. Vậy Tòa án sẽ tiến hành hòa giải đối với những việc dân sự nào và không hòa giải đối với những việc dân sự nào? Theo quy định của BLTTDS, việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được chia làm bốn loại: những yêu cầu về dân sự; những yêu cầu về hôn nhân và gia đình; những yêu cầu về kinh doanh, thương mại; nhưng yêu cầu về lao động. Những yêu cầu này lại là đối tượng điều chỉnh của pháp luật nội dung tương ứng là pháp luật dân sự, pháp luật hôn nhân và gia đình, pháp luật kinh doanh, thương mại và pháp luật lao động, do đó, mỗi loại việc dân sự sẽ có những tính chất đặc thù riêng. Nghiên cứu 62 những tính chất đặc thù của mỗi loại việc dân sự cũng như những quy định của pháp luật nội dung điều chỉnh loại việc dân sự đó. Chúng tôi cho rằng, với mục đích để vợ chồng rút đơn yêu cầu ly hôn và đoàn tụ với nhau, Pháp luật hôn nhân và gia đình vẫn quy định Tòa án phải tiến hành hòa giải khi giải quyết yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn. Cụ thể, Điều 90 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 quy định: ″Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn mà hoà giải tại Toà án không thành, nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thoả thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con thì Toà án công nhận thuận tình ly hôn và sự thoả thuận về tài sản và con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con ...″ Như vậy, về mặt lý luận và thực tiễn ở một số Tòa án khi giải quyết việc dân sự, Tòa án sẽ không tiến hành hòa giải trừ yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn. Do đó, để có áp dụng pháp luật thống nhất cần bổ sung một điều tại Chương XX BLTTDS về nguyên tắc hòa giải khi giải quyết việc dân sự theo hướng: ″Tòa án không tiến hành hòa giải đối với các việc dân sự trừ yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn″. c. Sửa đổi quy định tại khoản 3 Điều 313 BLTTDS Người có đơn yêu cầu là thành phần quan trọng của việc dân sự, là người làm phát sinh việc dân sự tại Tòa án do đó họ phải có mặt tại phiên họp khi Tòa án giải quyết việc dân sự. Do tính chất quan trọng về địa vị tố tụng của người có đơn yêu cầu mà pháp luật TTDS quy định thẩm phán (hoặc tập thể thẩm phán) được phân công giải quyết việc dân sự phải hoãn phiên họp giải quyết việc dân sự trong trường hợp người có đơn yêu cầu vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng. Cụ thể khoản 3 Điều 313 BLTTDS quy định: "Người có đơn yêu cầu hoặc người đại diện hợp pháp của họ phải tham gia phiên họp theo giấy triệu tập của Toà án. Người có đơn yêu cầu vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng thì Toà án hoãn phiên họp". Vấn đề đặt ra là trường hợp người có đơn yêu cầu vắng mặt lần thứ nhất sau khi được triệu tập hợp lệ mà không có lý do chính đáng thì giải quyết như thế nào? Áp dụng khoản 3 Điều 313 BLTTDS thực tiễn tồn tại hai quan điểm khác nhau: Ý kiến thứ nhất cho rằng, trong trường hợp người có đơn yêu cầu vắng mặt 63 lần thứ nhất sau khi đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên họp giải quyết việc dân sự mà không có lý do chính đáng thì bị coi là từ bỏ yêu cầu. Vì vậy, Tòa án sẽ ra quyết định đình chỉ giải quyết đơn yêu cầu [21, tr 455]. Ý kiến thứ hai cho rằng, trường hợp người có đơn yêu cầu vắng mặt lần thứ nhất dù có lý do chính đáng hay không có lý do chính đáng thì Tòa án đều phải hoãn phiên họp giải quyết việc dân sự [80, tr 354] Người có đơn yêu cầu có mặt tại phiên họp vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của họ, do đó khoản 3 Điều 313 BLTTDS quy định: "Người có đơn yêu cầu hoặc người đại diện hợp pháp của họ phải tham gia phiên họp theo giấy triệu tập của Toà án. Người có đơn yêu cầu vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng thì Toà án hoãn phiên họp". Nếu khoản 3 Điều 313 BLTTDS chỉ dừng ở đây thì việc hiểu như ý kiến thứ nhất là hoàn toàn hợp lý, khi đó, Toà án chỉ phải hoãn phiên họp giải quyết việc dân sự khi người có đơn yêu cầu vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng, trường hợp người có đơn yêu cầu vắng mặt lần thứ nhất không có lý do chính đáng thì được xem là từ bỏ yêu cầu và do đó, Tòa án sẽ ra quyết định đình chỉ giải quyết việc dân sự. Tuy nhiên, khoản 3 Điều 313 BLTTDS không dừng lại như đã trích dẫn ở trên mà còn tiếp tục quy định: "... nếu người có đơn yêu cầu đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì bị coi là từ bỏ yêu cầu và Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết việc dân sự ...". Theo quy định này thì Tòa án chỉ ra quyết định đình chỉ giải quyết việc dân sự khi người yêu cầu đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt. Chúng ta thấy ngay sự mâu thuẫn của câu trước và câu sau của cùng một điều luật. Câu sau của khoản 3 Điều 313 BLTTDS phủ định hiệu lực của câu trước của chính khoản 3 Điều 313 BLTTDS. Tức là, tại phiên họp giải quyết việc dân sự, tất cả các trường hợp người yêu cầu vắng mặt lần thứ nhất dù có lý do chính đáng hay không có lý do chính đáng thì Thẩm phán (hoặc tập thể Thẩm phán) được phân công giải quyết việc dân sự cũng đều phải hoãn phiên họp mà không được ra quyết định đình chỉ giải quyết việc dân sự. Vấn đề tương tự trong vụ án dân sự đã được TANDTC hướng dẫn cụ thể tại Tiểu mục 1.1, Mục 1 Phần III Nghị quyết số 02/2006/NQ - HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng thẩm phán 64 TANDTC hướng dẫn thi hành các quy định trong phần thứ hai "Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm" của BLTTDS (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 02/2006/NQ - HĐTP). Theo đó, Tòa án phải hoãn phiên tòa giải quyết vụ án dân sự khi đương sự vắng mặt tại phiên tòa lần thứ nhất dù có lý do chính đáng hay không có lý do chính đáng. Từ những phân tích trên, chúng tôi kiến nghị sửa đổi khoản 3 Điều 313 BLTTDS theo hướng sau: "Người có đơn yêu cầu hoặc người đại diện hợp pháp của họ phải tham gia phiên họp theo giấy triệu tập của Toà án. Người có đơn yêu cầu vắng mặt lần thứ nhất thì Toà án hoãn phiên họp. Nếu người có đơn yêu cầu đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì bị coi là từ bỏ yêu cầu và Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết việc dân sự; trong trường hợp này, quyền yêu cầu Toà án giải quyết việc dân sự đó theo thủ tục do Bộ luật này quy định vẫn được bảo đảm. Trường hợp người có đơn yêu cầu đề nghị giải quyết việc dân sự không có sự tham gia của họ thì Toà án giải quyết việc dân sự vắng mặt họ". d. Sửa đổi quy định về sự tham gia phiên họp giải quyết việc dân sự của người có liên quan Theo nguyên tắc "Các đương sự đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong TTDS" quy định tại Điều 8 BLTTDS, tương tự như người có đơn yêu cầu, sẽ hợp lý hơn nếu quy định nếu người có liên quan vắng mặt tại phiên họp giải quyết việc dân sự lần thứ nhất thì tòa án phải hoãn phiên họp. Trường hợp họ đã được Tòa án triệu tập tham gia phiên họp giải quyết việc dân sự hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì Tòa án vẫn tiến hành phiên họp giải quyết việc dân sự . Chúng tôi kiến nghị sửa đổi khoản 4 Điều 313 BLTTDS như sau: - Tách đoạn ″Trong trường hợp cần thiết, Toà án có thể triệu tập người làm chứng, người giám định, người phiên dịch tham gia phiên họp; nếu có người vắng mặt thì Toà án quyết định hoãn phiên họp hoặc vẫn tiến hành phiên họp″ thành một khoản khác tại điều này. - Thêm đoạn: ″Nếu người có liên quan trong việc dân sự vắng mặt lần thứ 65 nhất thì Tòa án phải hoãn phiên họp. Trường hợp họ đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì Tòa án vẫn tiến hành phiên họp giải quyết việc dân sự vắng mặt họ″ vào sau câu: "Người có liên quan hoặc người đại diện hợp pháp của họ được Toà án triệu tập tham gia phiên họp". Khi đó khoản 4 Điều 313 BLTTDS như sau: ″Người có liên quan hoặc người đại diện hợp pháp của họ được Toà án triệu tập tham gia phiên họp. Nếu người có liên quan trong việc dân sự vắng mặt lần thứ nhất thì tòa án phải hoãn phiên họp. Trường hợp họ đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì tòa án vẫn tiến hành phiên họp giải quyết việc dân sự vắng mặt họ.″ đ. Giải quyết thế nào khi đương sự đã được triệu tập hợp lệ tham gia phiên họp giải quyết việc dân sự đến lần thứ hai nhưng do trở ngại khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng mà không thể có mặt tại phiên họp Ở phần trên chúng tôi đã đề cập tới việc Tòa án phải hoãn phiên họp giải quyết việc dân sự khi đương sự vắng mặt tại phiên họp giải quyết việc dân sự lần thứ nhất bất kể có lý do chính đáng hay không chính đáng. Trường hợp đương sự đã được triệu tập hợp lệ tham gia phiên họp giải quyết việc dân sự đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì Tòa án sẽ ra quyết định đình chỉ giải quyết việc dân sự nếu đương sự vắng mặt đó là người yêu cầu mà không quan tâm đến việc vắng mặt của người có đơn yêu cầu là có lý do chính đáng hay không chính đáng hoặc vẫn tiến hành phiên họp nếu đương sự vắng mặt đó là người có liên quan. Thực tiễn giải quyết việc dân sự đã gặp không ít trường hợp, đương sự đã được triệu tập hợp lệ tham gia phiên họp đến lần thứ hai, khi đương sự đang trên đường đến tham dự phiên họp giải quyết việc dân sự thì gặp tai nạn. Trong trường hợp này, thẩm phán (hoặc tập thể thẩm phán) được phân công giải quyết việc dân sự ra quyết định hoãn phiên họp giải quyết việc dân sự thì không có căn cứ pháp lý, ngược lại ra quyết định đình chỉ giải quyết việc dân sự hoặc vẫn tiến hành phiên họp giải quyết việc dân sự thì lại không thấu tình. Trong khi đó, vấn đề tương tự trong vụ án dân sự đã được TANDTC hướng dẫn. Cụ thể, Tiểu mục 1.2, Mục 1 Phần III Nghị quyết số 02/2006/NQ - HĐTP quy định: 66 Đối với những trường hợp đương sự đã nhận được quyết định đưa vụ án ra xét xử theo quy định tại khoản 2 Điều 195 của BLTTDS, đã được Toà án tống đạt hợp lệ giấy triệu tập phiên toà theo quy định tại các điều từ Điều 150 đến Điều 156 của BLTTDS và đương sự đã chuẩn bị tham dự phiên toà xét xử vụ án, nhưng do sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan xảy ra đối với họ ngay vào thời điểm trước ngày Toà án mở phiên toà hoặc ngay trong thời điểm họ đang trên đường đến Toà án để tham dự phiên toà (do thiên tai, địch hoạ, bị tai nạn, ốm nặng phải đi bệnh viện cấp cứu, người thân bị chết…) nên họ không thể có mặt tại phiên toà theo giấy triệu tập của Toà án, thì Toà án cũng hoãn phiên toà. Mặc dù Nghị quyết số 02/2006/NQ - HĐTP không hướng dẫn rõ hướng dẫn trên áp dụng đối với trường hợp đương sự được triệu tập hợp lệ đến lần thứ mấy. Rõ ràng đối với trường hợp đương sự được triệu tập hợp lệ lần thứ nhất dù có lý do chính đáng hay không có lý do chính đáng thì Tòa án đều phải hoãn phiên tòa theo hướng dẫn tại Tiểu mục 1.1, Mục 1 Phần III Nghị quyết số 02/2006/NQ - HĐTP. Do đó, cần phải hiểu hướng dẫn tại Tiểu mục 1.2, Mục 1 Phần III Nghị quyết số 02/2006/NQ - HĐTP là trường hợp đương sự được triệu tập hợp lệ từ lần thứ hai trở đi mà vẫn vắng mặt tại phiên tòa khi có lý do chính đáng. Chúng tôi cho rằng, Tòa án có thể áp dụng tương tự hướng dẫn trên để hoãn phiên họp giải quyết việc dân sự khi đương được triệu tập hợp lệ từ lần thứ hai trở đi mà vẫn vắng mặt tại phiên họp giải quyết việc dân sự khi có lý do chính đáng. Bởi lẽ, theo nguyên tắc áp dụng pháp luật quy định tại Điều 311 BLTTDS thì ngoài những quy định tại Chương XX BLTTDS, Tòa án có thể áp dụng các quy định khác của BLTTDS để giải quyết việc dân sự nếu những quy định đó không trái với quy định tại Chương XX BLTTDS. Do đó, Tòa án có thể áp dụng những quy định về hoãn phiên tòa của BLTTDS cho hoãn phiên họp giải quyết việc dân sự nếu những quy định đó không trái với quy định tại Chương XX BLTTDS về hoãn phiên họp giải quyết việc dân sự. Mà hướng dẫn tại tiểu mục 1.2, Mục 1 Phần III Nghị quyết số 02/2006/NQ - HĐTP là nhằm làm rõ hơn quy định về hoãn phiên tòa dân sự sơ thẩm của BLTTDS. 67 e. Bổ sung quy định về thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm quyết định giải quyết việc dân sự Hiện nay, tại Phần thứ năm của BLTTDS về Thủ tục giải quyết việc dân sự chỉ quy định về thủ tục giải quyết việc dân sự theo trình tự sơ thẩm và phúc thẩm quyết định giải quyết việc dân sự nói chung và quyết định giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết nói riêng mà không có các quy định về thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm quyết định giải quyết việc dân sự nói chung và quyết định giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết nói riêng. Do đó, có quan điểm cho rằng, quyết định giải quyết việc dân sự nói chung và quyết định giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết nói riêng không bị kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm. Chúng tôi đồng tình với quan điểm cho rằng quyết định giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết không bị kháng nghị tái thẩm. Bởi lẽ, theo quy định tại Điều 304 BLTTDS: "Tái thẩm là xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà Toà án, các đương sự không biết được khi Toà án ra bản án, quyết định đó", mà sự kiện người bị Tòa án tuyên bố là mất tích hoặc đã chết trở về hoặc khi biết được tin tức về người đó chính là "tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà Toà án, các đương sự không biết được khi Toà án ra bản án, quyết định đó" lại là căn cứ làm phát sinh quyền yêu cầu của những người có quyền yêu cầu Tòa án hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết - một loại việc dân sự mới. Trong khi đó, theo quy định tại Điều 282 BLTTDS: "Giám đốc thẩm là xét lại bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án". Trong quá trình giải quyết việc dân sự nói chung và quyết định tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết nói riêng không phải lúc nào Tòa án cũng chính xác, do đó, nếu quyết định giải quyết việc dân sự nói chung và quyết định tuyên bố một người mất tích hoặc là 68 đã chết nói riêng không bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm thì khi quyết định giải quyết việc dân sự nói chung và quyết định tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết nói riêng có hiệu lực pháp luật mới phát hiện ra "có vi phạm pháp luật nghiêm trọng" thì giải quyết như thế nào? Mặt khác, theo nguyên tắc áp dụng pháp luật trong giải quyết việc dân sự quy định tại Điều 311 BLTTDS, ngoài các quy định tại Chương XX BLTTDS, Tòa án có quyền áp dụng quy định tại các chương khác của BLTTDS để giải quyết việc dân sự quy định tại các khoản 1, 2, 3,4 và 6 Điều 26, các khoản 1, 2, 3, 4, 5 và 7 Điều 28, khoản 1 và khoản 4 Điều 30, khoản 3 Điều 32 BLTTDS nếu những quy định đó không trái với các quy định tại Chương XX BLTTDS. Theo quy định này, rõ ràng quyết định giải quyết việc dân sự nói chung và quyết định giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết nói riêng cũng có thể bị kháng nghị giám đốc thẩm nếu phát hiện có sai lầm, vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong quá trình giải quyết việc dân sự. Vì vậy, chúng tôi cho rằng, khi quyết định giải quyết việc dân sự nói chung quyết định giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết nói riêng đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện có sai lầm, vi phạm pháp luật nghiêm trọng đương sự hoặc cá nhân, cơ quan tổ chức khác cần áp dụng Điều 311 và Điều 284 BLTTDS thông báo bằng văn bản cho người có thẩm quyền theo quy định tại Điều 285 BLTTDS. Những người có thẩm quyền quy định tại Điều 285 BLTTDS cần áp dụng quy định tại Điều 311, Điều 285 BLTTDS để ra quyết định kháng nghị quyết định giải quyết việc dân sự theo trình tự giám đốc thẩm nếu xét thấy có căn cứ và còn thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm. Tòa án có thẩm quyền cần áp dụng Điều 311 và các quy định tại Chương XVIII BLTTDS để tiến hành xét lại quyết định giải quyết việc dân sự nói chung và quyết định giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết đã có hiệu lực pháp luật theo trình tự giám đốc thẩm. 3.2.2.2. Sửa đổi một số quy định khác về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết a. Về thời hiệu yêu cầu giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết Theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 159 BLTTDS thì trong trường hợp 69 pháp luật không có quy định khác về thời hiệu yêu cầu thì thời hiệu yêu cầu để Toà án giải quyết việc dân sự là một năm, kể từ ngày phát sinh quyền yêu cầu. Vậy đối với yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết có áp dụng quy định về thời hiệu hay không? Ngày phát sinh quyền yêu cầu là ngày nào? Vấn đề này hiện nay vẫn có nhiều cách hiểu khác nhau. Ví dụ: Anh X biệt tích khỏi nơi cư trú từ ngày 10/01/2004 và cho đến nay không có tin tức gì. Ngày 10/6/2010 chị L là vợ anh X yêu cầu Tòa án tuyên bố anh X mất tích. Quan điểm thứ nhất cho rằng, trong trường hợp này sẽ áp dụng quy định về thời hiệu yêu cầu theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 159 BLTTDS và ngày phát sinh quyền yêu cầu là ngày anh X biệt tích khỏi nơi cư trú. Như vậy, thời hiệu yêu cầu đã hết, chị L mất quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố anh X mất tích. [21, tr 476] Quan điểm thứ hai cho rằng, trong trường hơp này sẽ không áp dụng quy định về thời hiệu yêu cầu theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 159 BLTTDS và chị L có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố anh X mất tích kể từ ngày anh X biệt tích. [21, tr 476] Quan điểm thứ ba cho rằng, trong trường hợp này sẽ áp dụng quy định về thời hiệu yêu cầu theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 159 BLTTDS và ngày cuối cùng kết thúc thời hạn biệt tích hai năm được xác định là ngày phát sinh quyền yêu cầu. Như vậy, tới nay thời hiệu yêu cầu đã hết, chị L mất quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố anh X mất tích. [21, tr 269 – 270] Quan điểm thứ tư cho rằng, trong trường hợp này sẽ không áp dụng quy định về thời hiệu yêu cầu theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 159 BLTTDS và chị L có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố anh X mất tích sau hai năm kể từ ngày anh X biệt tích khỏi nơi cư trú. [21, tr 476] Chúng tôi đồng tình với quan điểm thứ tư, bởi việc yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết sẽ dẫn đến tạm dừng hoặc chấm dứt năng lực chủ thể của một cá nhân, đó là những vấn đề liên quan đến quyền nhân thân của một con người. Vì vậy, cần phải áp dụng quy định tại Điều 160 BLTTDS, khoản 2 Điều 160 70 BLDS năm 2005 để không áp dụng thời hiệu yêu cầu, tất nhiên người có quyền yêu cầu chỉ có quyền yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết khi hết thời hạn quy định tại Điều 78 hoặc Điều 81 BLDS năm 2005. Để tránh có những cách hiểu khác nhau trong thực tiễn giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết, chúng tôi kiến nghị sửa đổi điểm b khoản 3 Điều 159 BLTTDS theo hướng quy định rõ: không áp dụng thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự đối với yêu cầu tuyên bố một người mất tích; yêu cầu tuyên bố một người là đã chết và một số việc dân sự khác như yêu cầu tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự, yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú, yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật ... b. Sửa đổi, bổ sung quy định về thẩm quyền giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết Theo quy định của BLTTDS thì Tòa án có thẩm quyền giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết là Tòa án nơi người bị yêu yêu cầu tuyên bố mất tích hoặc là đã chết có nơi cư trú cuối cùng. Tuy nhiên, hiểu thế nào là Tòa án nơi người bị yêu cầu tuyên bố mất tích hoặc là đã chết có nơi cư trú cuối cùng còn có nhiều ý kiến khác nhau. Ví dụ: Vợ chồng ông Nguyễn Văn A và bà Lê Thị B sinh sống và đăng ký thường trú tại xã Cẩm Vũ, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương từ năm 1986. Tháng 6/2002, vợ chồng ông bà A, B chuyển đến tạm trú tại phường Ngọc Châu, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương. Tháng 8/2003, bà B bỏ nhà đi, ông A và gia đình đã tìm kiếm nhiều nơi nhưng vẫn không có tin tức gì. Tháng 12/2008, ông A yêu cầu tòa án tuyên bố bà Lê Thị B là đã chết. Vậy Tòa án nào có thẩm quyền giải quyết? - Ý kiến thứ nhất cho rằng, Tòa án có thẩm quyền giải quyết là TAND thành phố Hải Dương vì nơi cư trú cuối cùng của bà B trước khi bỏ đi chính là phường Ngọc Châu, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương. - Ý kiến thứ hai cho rằng, Tòa án có thẩm quyền giải quyết là TAND huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương vì theo quy định tại khoản 2 Điều 52 BLDS năm 2005 thì nơi cư trú của một người là nơi người đó ″thường xuyên sinh sống″ trong trường 71 hợp trên bà B không còn đang sinh sống tại phường Ngọc Châu, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương nữa do bà đã bỏ đi. Vì vậy, nơi cư trú của bà B phải là xã Cẩm Vũ, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Theo chúng tôi, xác định thẩm quyền của Tòa án trong ví dụ trên như ý kiến thứ nhất là chính xác. Bởi lẽ, Điều 52 BLDS năm 2005 quy định nơi cư trú của cá nhân là nơi người đó thường xuyên sinh sống. Trường hợp không xác định được nơi người đó thường xuyên sinh sống thì nơi cư trú là nơi người đó đang sinh sống. Mặt khác, theo quy định tại Điều 12 Luật Cư trú năm 2006 thì ″Nơi cư trú của công dân là nơi thường trú hoặc nơi tạm trú....Nơi thường trú là nơi công dân sinh sống thường xuyên, ổn định, không có thời hạn tại một chỗ ở nhất định và đã đăng ký thường trú. Nơi tạm trú là nơi công dân sinh sống ngoài nơi đăng ký thường trú và đã đăng ký tạm trú″. Như vậy, tại thời điểm Tòa án thụ lý yêu cầu thì bà B không còn cư trú tại phường Ngọc Châu, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương và cũng không xác định được bà đang ở đâu, nhưng chúng ta có thể xác định được nơi cư trú cuối cùng của bà B trước khi biệt tích là phường Ngọc Châu, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương. Do đó, Tòa án có thẩm quyền giải quyết yêu cầu tuyên bố bà Lê Thị B là đã chết là TAND thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương. Vì vậy, để tránh những sai lầm không đáng có trong việc xác định thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết như ý kiến thứ hai trong ví dụ trên, chúng tôi kiến nghị sửa đổi điểm b khoản 2 Điều 35 BLTTDS như sau: ″Tòa án nơi cư trú cuối cùng của người bị yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú, bị yêu cầu tuyên bố mất tích hoặc là đã chết trước khi người đó biệt tích hoặc trước khi không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống có thẩm quyền giải quyết yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú và quản lý tài sản của người đó, yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết″ c. Sửa đổi quy định về những tài liệu chứng cứ phải nộp kèm theo đơn yêu cầu tuyên bố một người mất tích Khoản 3 Điều 330 BLTTDS quy định khi nộp đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố một người mất tích, người yêu cầu phải gửi kèm theo đơn yêu cầu chứng cứ để 72 chứng minh người bị yêu cầu tuyên bố mất tích đã biệt tích hai năm liền trở lên mà không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hoặc đã chết và chứng minh cho việc người yêu cầu đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo tìm kiếm. Chúng tôi cho rằng, việc BLTTDS quy định kèm theo đơn yêu cầu tuyên bố một người mất tích, người yêu cầu phải gửi kèm chứng cứ để chứng minh cho việc người yêu cầu đã áp dụng đầy đủ biện pháp thông báo tìm kiếm là không cần thiết. Bởi lẽ, theo quy định tại khoản 1 Điều 331 BLTTDS, trong thời hạn hai mươi ngày, kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố một người mất tích, Tòa án ra quyết định thông báo tìm kiếm người bị yêu cầu tuyên bố mất tích, việc thông báo tìm kiếm này là bắt buộc với mục đích là nhằm xác định tin tức về người bị yêu cầu tuyên bố mất tích, từ đó chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu tuyên bố một người mất tích của người yêu cầu. Mặt khác, từ thực tiễn xét xử khi áp dụng quy định tại khoản 3 Điều 330 BLTTDS còn có quan điểm không thống nhất. Có Tòa án cho rằng phải trải qua thủ tục thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú mới có cơ sở để chứng minh người yêu cầu tuyên bố một người mất tích đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo tìm kiếm trước khi thực hiện quyền yêu cầu tuyên bố một người mất tích. Vì vậy, chúng tôi cho rằng, nên bỏ cụm từ ″và chứng minh cho việc người yêu cầu đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo tìm kiếm″ tại khoản 3 Điều 330 BLTTDS. d. Sửa đổi quy định về thông báo tìm kiếm người mất tích quy định tại khoản 1 Điều 331 BLTTDS. Như đã trình bày ở phần trước, việc ra quyết định thông báo tìm kiếm người bị yêu cầu tuyên bố mất tích trong giai đoạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu Tòa án có phải mở phiên họp để ra quyết định đó hay không vẫn đang có nhiều ý kiến khác nhau. Theo chúng tôi, Tòa án không phải mở phiên họp để ra quyết định thông báo tìm kiếm người bị yêu cầu tuyên bố mất tích bởi lẽ, kết quả cuối cùng của yêu cầu tuyên bố một người mất tích là tuyên bố người đó mất tích hoặc không tuyên bố người đó mất tích, còn thông báo tìm kiếm người bị yêu cầu tuyên bố mất tích chỉ là biện pháp để đạt được kết quả đó. Mặt khác, mục đích của việc xây dựng thủ tục giải quyết việc dân sự là nhằm đơn giản hóa thủ tục tố tụng, thúc đẩy nhanh tiến 73 trình giải quyết các việc dân sự, do đó, nếu như tòa án phải tiến hành mở phiên họp để ra quyết định thông báo tìm kiếm người bị yêu cầu tuyên bố mất tích, sau đó sẽ mở phiên họp giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích thì sẽ kéo dài thời gian giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích. Vì vậy, chúng tôi kiến nghị sửa đổi khoản 1 Điều 331 BLTTDS như sau: ″Trong thời hạn hai mươi ngày, kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố một người mất tích, Toà án ra quyết định thông báo tìm kiếm người bị yêu cầu tuyên bố mất tích. Tòa án không phải mở phiên họp để ra quyết định đó.″ đ. Bổ sung quy định về thông báo tìm kiếm người bị yêu cầu tuyên bố là đã chết. Việc Tòa án ra quyết định tuyên bố là đã chết đối với một người sẽ làm ảnh hưởng rất lớn đến quyền và lợi ích hợp pháp của người đó cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của những người có liên quan đến người bị yêu cầu tuyên bố là đã chết trong các quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình, lao động, kinh doanh, thương mại. Vì vậy, trước khi ra quyết định tuyên bố một người là đã chết, một mặt Tòa án phải nghiên cứu, đánh giá rất kỹ những tài liệu, chứng cứ do người yêu cầu và những người khác cung cấp, một mặt Tòa án phải tiến hành các biện pháp để tìm kiếm thông tin về người đó và thông báo tìm kiếm người bị yêu cầu tuyên là đã chết trên các phương tiện thông tin đại chúng là một biện pháp hữu hiệu để xác định thông tin về người đó. Tuy nhiên, pháp luật TTDS hiện hành lại không quy định về việc Tòa án phải ra quyết định thông báo tìm kiếm người bị yêu cầu tuyên bố là đã chết trong giai đoạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu. Chúng tôi cho rằng để đảm bảo tính xác thực của quyết định tuyên bố một người là đã chết thì việc thông báo tìm kiếm người bị yêu cầu tuyên bố là đã chết cũng phải là một thủ tục bắt buộc trong giai đoạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu tuyên bố một người là đã chết. Do đó, chúng tôi đề nghị sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 336 BLTTDS như sau: "Trong thời hạn hai mươi ngày, kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố một người là đã chết, Toà án ra quyết định thông báo tìm kiếm người bị yêu cầu tuyên bố là đã chết. Tòa án không phải mở phiên họp để ra quyết định đó. 74 Nội dung thông báo và công bố thông báo được thực hiện theo quy định tại Điều 327 và Điều 328 của Bộ luật này. Thời hạn thông báo là bốn tháng, kể từ ngày đăng, phát thông báo lần đầu tiên; hết thời hạn đó, Toà án phải ra quyết định mở phiên họp để xét đơn yêu cầu." e. Sửa đổi, bổ sung quy định về người có quyền yêu cầu tòa án hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết Theo quy định tại khoản 1 Điều 338 BLTTDS khi người bị tuyên bố là đã chết trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống thì người đó hoặc người có quyền, lợi ích liên quan có quyền yêu cầu Toà án ra quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết. Theo chúng tôi, việc BLTTDS quy định người bị tuyên bố là đã chết có quyền yêu cầu hủy bỏ quyết định tuyên bố họ là đã chết là không hợp lý bởi lẽ khi một người bị tuyên bố là đã chết, thì kể từ thời điểm quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật thì năng lực chủ thể của người bị yêu cầu tuyên bố là đã chết đã chấm dứt. Nếu họ trở về hoặc có tin tức xác thực họ còn sống thì vẫn cần phải xác định lại. Vì vậy, chúng tôi kiến nghị sửa đổi khoản 1 Điều 338 BLTTDS theo hướng: "Khi một người bị tuyên bố là đã chết trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống thì người có quyền, lợi ích liên quan có quyền, nghĩa vụ yêu cầu Toà án ra quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết" Mặt khác, trong thực tiễn xét giải quyết việc dân sự hiện nay có quan điểm cho rằng, cơ quan, tổ chức hữu quan không có quyền yêu cầu hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết khi người này trở về hoặc khi có tin tức xác thực là người đó còn sống. Chúng tôi cho rằng, theo nguyên tắc áp dụng pháp luật để giải quyết việc dân sự quy định tại Điều 311 BLTTDS thì ngoài các quy định tại Chương XX BLTTDS, Tòa án có quyền áp dụng quy định tại các chương khác của BLTTDS để giải quyết việc dân sự quy định tại các khoản 1, 2, 3,4 và 6 Điều 26, các khoản 1, 2, 3, 4, 5 và 7 Điều 28, khoản 1 và khoản 4 Điều 30, khoản 3 Điều 32 BLTTDS nếu những quy định đó không trái với các quy định tại Chương XX BLTTDS. Vì vậy, khi người bị tuyên bố mất tích hoặc là đã chết trở về hoặc khi có tin tức xác thực là người đó còn sống, để bảo vệ lợi ích chung của xã hội, các cơ 75 quan, tổ chức hữu quan như: Ủy ban nhân dân nơi người người bị tuyên bố mất tích hoặc đã chết cư trú, cơ quan tiến hành tố tụng … cần áp dụng Điều 311 và Điều 162 BLTTDS yêu cầu TAND có thẩm quyền hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết. 3.2.3. Hoàn thiện quy định của pháp luật dân sự về tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết 3.2.3.1. Sửa đổi quy định tại Điều 78 BLDS năm 2005 Theo quy định tại khoản 1 Điều 78 BLDS năm 2005, trước khi nộp đơn yêu cầu tuyên bố một người mất tích, người yêu cầu phải ″áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật TTDS nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết″. Quy định như vậy khiến cho nhiều người cho rằng, "biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật TTDS" ở đây chính là thủ tục thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú quy định tại Chương XXII BLTTDS. Điều đó có nghĩa là phải trải qua thủ tục thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú đối với người biệt tích trước khi nộp đơn yêu cầu tuyên bố người đó mất tích. Trong khi đó, theo quy định của BLTTDS thì không nhất thiết phải trải qua thủ tục thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú rồi mới đến thủ tục tuyên bố một người mất tích. Vì vậy, để tránh những sai sót không đáng có, chúng tôi đề nghị bỏ cụm từ "mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật TTDS nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết" tại Điều 78 BLDS năm 2005 3.2.3.2. Sửa đổi quy định tại khoản 2 Điều 81 BLDS năm 2005 Hiện nay, liên quan đến vấn đề xác định thời điểm chết của người bị tuyên bố là đã chết có rất nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng, trong trường hợp được quy định tại điểm a và điểm d khoản 1 Điều 81 BLDS (người biệt tích đã qua hoặc không qua thủ tục tuyên bố mất tích) thì ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết được xác định vào ngày có tin tức cuối cùng của người đó; nếu không xác định được ngày có tin tức cuối cùng thì ngày chết được xác định là ngày đầu tiên của tháng tiếp theo tháng có 76 tin tức cuối cùng; nếu không xác định được ngày, tháng có tin tức cuối cùng thì ngày chết được xác định là ngày đầu tiên của năm tiếp theo năm có tin tức cuối cùng. Đối với trường hợp mà Tòa án tuyên bố một người là đã chết được xác định theo một sự kiện (tai nạn, thảm họa hay chiến tranh) thì ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết được xác định là ngày xảy ra tai nạn, ngày xảy ra thảm họa hoặc ngày kết thúc chiến tranh [82, tr 188-189]. Theo chúng tôi, đối với trường hợp quy định tại điểm a và điểm d khoản 1 Điều 81 BLDS thì ngày nhận được tin tức cuối cùng của người bị yêu cầu tuyên bố là đã chết chỉ là cơ sở để xác định ngày có quyền yêu cầu của người có quyền. Tương tự, đối với trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều 81 BLDS thì ngày kết thúc chiến tranh cũng chỉ là ngày để xác định ngày phát sinh quyền yêu cầu của người có quyền. Quan điểm thứ hai cho rằng, ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết được xác định là ngày người đó rời khỏi nơi cư trú. Chúng tôi cũng không đồng tình với quan điểm này. Ví dụ: Nguyễn Văn A rời khỏi nơi cư trú đi làm ăn xa từ ngày 01/01/2003 và thỉnh thoảng ông vẫn điện về cho gia đình và ngày 09/5/2004 là lần cuối cùng gia đình nhận được tin tức của ông. Nay vợ ông yêu cầu Tòa án tuyên bố ông đã chết. Như vậy, nếu theo quan điểm trên thì ngày chết của ông Nguyễn Văn A là ngày 01/01/2003, tuy nhiên, rõ ràng gia đình ông vẫn nhận được tin tức của ông cho đến ngày 09/05/2004. Quan điểm thứ ba cho rằng, ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết được xác định như sau: Đối với trường hợp đã có quyết định tuyên bố mất tích của Tòa án thì ngày chết phải được xác định là ngày kế tiếp sau ba năm kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích của tòa án có hiệu lực pháp luật; Đối với trường hợp biệt tích trong chiến tranh thì thời điểm chết phải được xác định là ngày kế tiếp sau năm năm kể từ ngày chiến tranh kết thúc; Đối với trường hợp bị tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai thì thời điểm chết được xác định là ngày kế tiếp sau một năm kể từ ngày tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai chấm dứt; Đối với trường hợp biệt tích năm năm liền trở lên và không có tin tức xác thực là còn sống thì thời điểm chết phải được xác định là ngày kế tiếp sau năm năm kể từ ngày được xác định là biệt tích [88]. 77 Theo chúng tôi, quan điểm trên đã đồng nhất ngày phát sinh quyền yêu cầu khi thuộc các căn cứ tại khoản 1 Điều 81 BLDS và việc xác định ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết tại khoản 2 Điều 81 BLDS là một. Cần xác định ngày chết phân biệt theo hai trường hợp: - Trường hợp ngày chết không xác định được chính xác: Việc tuyên bố chết trong trường hợp này không xác định được cụ thể thời điểm chết mà dựa trên cơ sở điều kiện cần và đủ theo quy định của pháp luật để tuyên bố một người là đã chết. Vì vậy, khi rơi một trong các căn cứ quy định tại điểm a, b hoặc điểm d khoản 1 Điều 81 BLDS thì ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết phải được xác định là ngày quyết định tuyên bố chết có hiệu lực pháp luật. - Trường hợp ngày chết được xác định tương đối chính xác: đó là trường hợp một người có mặt trong một vụ tai nạn như máy bay bị rơi, tàu bị chìm hoặc trong vùng bị thiên tai như động đất, lũ lụt ... mà sau các nỗ lực tìm kiếm vẫn không có tin tức người đó là còn sống hay đã chết thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan Tòa án ra quyết định tuyên bố người đó là đã chết. Trong trường hợp này, ngày chết được xác định là ngày xảy ra tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai đó. Từ những phân tích trên đây, chúng tôi đề nghị sửa đổi khoản 2 Điều 81 BLDS năm 2005 theo hướng sau: ″Toà án xác định ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết căn cứ vào các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, cụ thể: - Đối với trường hợp quy định tại điểm a, b hoặc điểm d khoản 1 điều này thì ngày chết được xác định là ngày quyết định tuyên bố chết của Tòa án có hiệu lực pháp luật; - Đối với trường hợp quy định tại điểm c khoản 1 điều này thì ngày chết được xác định là ngày xảy ra tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai đó.″ 3.2.4. Đổi mới hoàn thiện công tác tổ chức cán bộ, nâng cao trình độ nghiệp vụ và năng lực xét xử cho Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân; đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ Kiểm sát viên, Luật sư Hồ Chủ tịch đã từng dạy: ″Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán 78 bộ tốt hay kém. Đó là một chân lý″ [23, tr 240]. Sẽ là một sự không đồng bộ nếu trong kiến nghị hoàn thiện thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết không đề cập tới việc nâng cao trình độ chuyên môn, ý thức trách nhiệm của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, cán bộ tòa án. Đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ Kiểm sát viên, Luật sư, phổ biến tuyên truyền nâng cao ý thức pháp luật cho người dân, bởi trong bất cứ lĩnh vực nào con người luôn luôn là yếu tố cực kỳ quan trọng. Trên đây là một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định các quy định pháp luật về chế định thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết trong TTDS nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết việc dân sự. TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 Qua hơn sáu năm triển khai thực hiện BLTTDS, các quy định về thủ tục giải quyết việc dân sự nói chung và thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết nói riêng đã bộc lộ những tồn tại, hạn chế. Cùng với đó, là những yêu cầu mới của đời sống xã hội và yêu cầu của quá trình hội nhập, của công cuộc cải cách tư pháp, việc hoàn thiện chế định thủ tục tục giải quyết việc dân sự nói chung và thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết nói riêng là hết sức cấp thiết, vừa mang tính lý luận, vừa mang tính thực tiễn. Để hoàn thiện chế định thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết, tác giả đã đề xuất những giải pháp: hoàn thiện các quy định của pháp luật TTDS, hoàn thiện các quy định của pháp luật dân sự liên quan đến chế định thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết và một số giải pháp khác mang tính đồng bộ, nhằm hiện thực hóa những quy định của pháp luật thành chất lượng giải quyết việc dân sự trên thực tế cùng với việc quan tâm đến yếu tố con người trong hoạt động xét xử. 79 KẾT LUẬN Việc xác định công dân mất tích hoặc là đã chết không phải là việc mới trong TTDS Việt Nam. Tuy nhiên, với sự ra đời của BLTTDS, loại việc này được tiến hành theo một thủ tục đặc biệt - thủ tục giải quyết việc dân sự tồn tại song hành và độc lập với thủ tục giải quyết các vụ án dân sự lần đầu tiên được pháp điển hóa chính thức trong BLTTDS. Qua nghiên cứu "Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết trong TTDS Việt Nam″, luận văn đã đạt được những kết quả sau: - Luận văn đã luận giải sâu sắc những vấn đề lý luận cơ bản về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết: khái niệm việc dân sự và thủ tục giải quyết việc dân sự, đặc trưng của thủ tục giải quyết việc dân sự, khái niệm thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết... cũng như nghiên cứu về sự hình thành và phát triển của các quy định về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người là mất tích hoặc là đã chết dưới góc độ lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật TTDS Việt Nam. Kết quả nghiên cứu, chỉ ra được sự kế thừa và phát triển trong các quy định về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết của BLTTDS so với pháp luật TTDS trong các giai đoạn trước đó. - Luận văn đã đưa ra được cơ sở lý luận của việc hình thành thủ tục giải quyết việc dân sự nói chung và thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết nói riêng trong TTDS Việt Nam xuất phát từ yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, từ quan điểm của Đảng ta nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và từ thực tiễn giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết cũng như các yêu cầu dân sự khác. - Luận văn đã đi vào nghiên cứu các quy định về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết trong BLTTDS theo trình tự, thủ tục giải quyết việc dân sự nói chung và yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết nói riêng, từ thủ tục thụ lý đơn yêu cầu, thủ tục chuẩn bị xét đơn yêu cầu, phiên họp 80 sơ thẩm xét đơn yêu cầu, thủ tục phúc thẩm quyết định giải quyết việc dân sự khi có kháng cáo, kháng nghị. - Luận văn đưa ra một số kiến nghị đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định của BLTTDS. Những kiến nghị đề xuất này được xây dựng trên cơ sở tổng kết vướng mắc trong thực tiễn thực hiện các quy định của thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết, kết hợp với việc tuân thủ các nguyên tắc và yêu cầu hoàn thiện chế định thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết trong pháp luật TTDS Việt Nam. Có thể nói, "Bộ luật tố tụng như một động cơ của cỗ máy pháp luật và các cơ quan tư pháp. Để xây dựng Nhà nước pháp quyền, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tạo dựng một hình ảnh đáng tin cậy dưới con mắt của các nhà đầu tư nước ngoài và những người nước ngoài làm việc tại Việt Nam, hệ thống pháp luật và tư pháp của Việt Nam không thể vận hành mà không có động cơ. Các Bộ luật tố tụng phải được đặt lên trên pháp luật về nội dung. Các quy định rất hoàn hảo về sở hữu trí tuệ, cạnh tranh ... cũng chẳng có ý nghĩa gì nếu không có một bộ phận pháp luật phù hợp ..." [44, tr 27]. Như vậy, song song với việc hoàn thiện các quy định khác của pháp luật TTDS, việc hoàn thiện chế định về thủ tục giải quyết việc dân sự nói chung và thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết nói riêng nhằm giải quyết nhanh chóng những việc có bản chất là xác định một sự kiện pháp lý, tiết kiệm cả về thời gian và vật chất cho Nhà nước và người dân phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp mà Đảng và Nhà nước ta đã và đang đề ra.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfThủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết trong tố tụng dân sự Việt Nam.pdf
Luận văn liên quan