Trong thực tế giải quyết các tranh chấp, trong đó tranh chấp về đất đai, 
nhà ở là một lĩnh vực vô cùng nhạy cảm. Các quyết định của cơ quan nhà nước 
có thẩm quyền ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của các bên, ảnh hưởng 
đến đời sống vật chất và tinh thần của những người liên quan và trật tự xã hội mà 
pháp luật bảo vệ. Do vậy, việc cân nhắc thận trọng từng vụ việc, đưa chúng vào 
mối quan hệ tác động qua lại để xem xét thấu đáo vừa là đạo đức công vụ, vừa là 
trách nhiệm của các công chức thừa hành. Quyền lợi của các bên tranh chấp luôn 
đối nghịch nhau, quyền của bên này là nghĩa vụ của bên kia và ngược lại. Làm 
thế nào để giải quyết thấu tình đạt lý là mục đích của pháp luật, là chính sách 
đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Trong quá trình điều hành quản lý xã hội
những năm mới giải phóng, do đặc thù của một nước vừa thoát khỏi chiến tranh, 
nền kinh tế nghèo nàn và lạc hậu, Nhà nước ta ở từng thời kỳ nhất định đã ban 
hành những chính sách để điều chỉnh các quan hệ xã hội mới phát sinh.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 20 trang
20 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 11187 | Lượt tải: 3 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Một tình huống thực tế về giải quyết tranh chấp nhà, đất trên địa bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 
TRƯỜNG …………………… 
TIỂU LUẬN 
Một tình huống thực tế về giải quyết tranh chấp nhà, đất 
trên địa bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu 
 2
A. ĐẶT VẤN ĐỀ 
 Theo quan điểm của Nhà nước ta thì đất đai là tài nguyên vô cùng quí 
giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi 
trường sống, là địa bàn phân bố dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế văn hóa xã 
hội và an ninh quốc phòng. 
 Đất đai gắn liền với chủ quyền, lãnh thổ của mỗi quốc gia, của mỗi địa 
phương; gắn liền với cuộc sống của mỗi gia đình, mỗi con người... 
 Trải qua bao thế hệ, nhân dân ta đã tốn bao công sức, xương máu mới 
tạo lập, bảo vệ được vốn đất đai như ngày nay. Pháp luật nước ta luôn đặt việc 
điều chỉnh các vấn đề đất đai lên hàng đầu. Nhà nước không ngừng hoàn thiện 
pháp luật về đất đai để phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội, với mục tiêu xây 
dựng đất nước. 
 Trên cơ sở Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992, Nhà nước ta 
đã ban hành Luật Đất đai năm 1987, Luật Đất đai năm 1993, Luật sửa đổi bổ 
sung một số điều của Luật Đất đai năm 1998, năm 2001 và ban hành Luật Đất 
đai năm 2003 cùng nhiều văn bản pháp qui dưới luật như: Nghị quyết, Nghị 
định, Quyết định, Chỉ thị, Thông tư hướng dẫn... qui định về quản lý đất đai, 
quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất. Quán triệt tinh thần đó, Luật Đất đai 
năm 2003 đã kế thừa, phát triển các quy định của Luật Đất đai năm 1993, đánh 
dấu một bước tiến quan trọng trọng việc xây dựng, hoàn thiện thể chế pháp luật 
 3
về đất đai, thông qua việc quy định cụ thể, rõ ràng quyền hạn và trách nhiệm của 
Nhà nước- đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai và thống nhất quản lý về đất 
đai, chế độ quản lý và sử dụng đất đai, quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất. 
 Công tác trong lĩnh vực quản lý nhà, đất nên tôi đã trực tiếp tham gia 
vào việc giải quyết các khiếu nại, tranh chấp về nhà, đất trên địa bàn tỉnh. Nhằm 
góp phần phổ biến chính sách, pháp luật về đất đai; để việc tổ chức thực hiện 
pháp luật trong cuộc sống được thống nhất, có hệ thống, đảm bảo tính khoa học, 
trong phạm vi đề tài này, xin được đặt ra một tình huống cụ thể về tranh chấp 
nhà, đất trong nội bộ nhân dân để cùng nghiên cứu và tham khảo. 
 Với thời lượng và kiến thức có hạn, rất mong nhận được sự đóng góp 
của quí thầy cô để đề tài được hoàn chỉnh, góp phần vào việc nghiên cứu và điều 
chỉnh chính sách đất đai của nhà nước ta. 
B. PHẦN NỘI DUNG 
I. Tình huống thực tế: 
Khu đất có diện tích 1.200m2 tọa lạc tại đường Chi Lăng, phường Phước 
Hiệp, thị xã Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu có nguồn gốc của gia tộc ông 
Nguyễn Văn Hai. Năm 1974, cha của ông Hai đã cho bà Nguyễn Thị Tám, ông 
Văn Năm và bà Nguyễn Thị Thu thuê mướn và xây cất nhà ở. Hiện bà Nguyễn 
Thị Tám đang quản lý và sử dụng với diện tích 120m2, trong đó bà đã cho con 
trai là Lê Văn Một 52m2; ông Văn Năm đang quản lý và sử dụng diện tích 
200m2, trên phần đất này có một ngôi nhà tạm do cha của ông Hai xây cất; bà 
Nguyễn Thị Thu đang quản lý diện tích 480m2 nhưng chỉ sử dụng có 320m2, còn 
160m2 vẫn để trống. 
 Trước giải phóng, bà Nguyễn Thị Tám, ông Văn Năm và bà Nguyễn 
Thị Thu hằng năm có trả tiền thuê đất cho cha ông Nguyễn Văn Hai. Nhưng từ 
năm 1975 đến năm 1992, cả 03 người không trả tiền thuê đất nữa mà chỉ đưa tiền 
cúng kiến ông bà. Từ khi giá đất tại thị xã Bà Rịa tăng cao, ông Nguyễn Văn Hai 
đã đại diện gia tộc khiếu nại đòi bà Nguyễn Thị Tám, ông Văn Năm và bà 
Nguyễn Thị Thu bồi hoàn giá trị quyền sử dụng đất cho gia tộc ông tại UBND thị 
xã Bà Rịa. Do mảnh đất trên chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên 
thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND thị xã Bà Rịa. 
 4
 Để giải quyết vấn đề này, ngày 26/02/1996, UBND thị xã Bà Rịa ban 
hành quyết định giải quyết số 11/QĐ-UBTX với nội dung: Bảo đảm quyền lưu 
cư cho các hộ bà Nguyễn Thị Tám, ông Văn Năm và bà Nguyễn Thị Thu và 
buộc các hộ này phải đền bù cho gia tộc ông Nguyễn Văn Hai theo đơn giá tại 
quyết định số 31/QĐ-UBT ngày 17/01/1995 của UBND tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu. 
Đồng thời buộc bà Nguyễn Thị Thu phải giao trả lại phần đất trống 160m2 chưa 
sử dụng cho gia tộc ông Nguyễn Văn Hai; ông Nguyễn Văn Năm có trách nhiệm 
bồi hoàn giá trị căn nhà đã có sẵn khi được thuê đất. Tuy nhiên, quyết định trên 
chưa được thi hành do hai bên tiếp tục khiếu nại. 
 Ngày 23/4/1997, UBND thị xã Bà Rịa lại tiếp tục ban hành quyết định 
số 40/ QĐ-UBTX để cưỡng chế việc thi hành quyết định số 11/ QĐ- UBTX ngày 
26/ 02/ 1996. Do có đơn khiếu nại, ngày 28/ 6/ 1997, UBND thị xã Bà Rịa có 
công văn số 140/ CV-UBTX về việc tạm ngưng thi hành quyết định cưỡng chế 
để thẩm tra, xem xét lại vụ việc. 
 Ngày 30/ 12/ 1997, UBND thị xã Bà Rịa ban hành quyết định giải 
quyết số 95/ QĐ-UBTX điều chỉnh một phần nội dung quyết định số 11/ QĐ-
UBTX giảm giá đền bù 30% cho các hộ bà Nguyễn Thị Tám, ông Văn Năm và 
bà Nguyễn Thị Thu nhưng cả 03 hộ đều không đồng ý với cách giải quyết của 
UBND thị xã Bà Rịa. 
 Ngày 18/ 02/ 1998, bà Nguyễn Thị Tám, ông Văn Năm và bà Nguyễn 
Thị Thu cùng đứng đơn khởi kiện hành chính tại Tòa án nhân dân thị xã Bà Rịa 
đối với 02 quyết định số 11/ QĐ-UBTX và quyết định số 95/ QĐ-UBTX của Uỷ 
ban nhân dân thị xã Bà Rịa. 
 Đại diện những người khởi kiện cho rằng không nhận được quyết định 
số 11/ QĐ-UBTX của Uỷ ban nhân dân thị xã Bà Rịa. Họ yêu cầu được lưu cư 
và không phải đền bù cho gia tộc ông Nguyễn Văn Hai vì hàng năm họ đã nộp 
thuế sử dụng đất cho Nhà nước. Mặt khác, họ đã quản lý và sử dụng diện tích đất 
nêu trên ổn định, lâu dài. 
 Đại diện gia tộc, ông Nguyễn Văn Hai khẳng định việc giải quyết của 
UBND thị xã Bà Rịa là đúng đắn và yêu cầu giữ nguyên quyết định. Đề nghị 03 
hộ phải bồi hoàn giá trị căn nhà và giá trị quyền sử dụng đất, thực hiện quyết 
định của UBND thị xã Bà Rịa. 
 Ông Lê Văn Một là con của bà Nguyễn Thị Tám yêu cầu được tiếp tục 
quản lý và sử dụng 52m2 đất và đồng ý đền bù cho gia tộc ông Nguyễn Văn Hai. 
 5
 Tại quyết định hành chính sơ thẩm số 05/ QĐ-TAND về lô đất tọa lạc 
tại đường Chi Lăng, phường Phước Hiệp, thị xã Bà Rịa nêu cụ thể: 
 - Bà Nguyễn Thị Tám quản lý sử dụng 120m2 và phải bồi thường giá 
trị quyền sử dụng đất cho gia tộc ông Nguyễn Văn Hai 20.000.000đ. 
 - Ông Văn Năm quản lý sử dụng 200m2 và phải bồi thường giá trị 
quyền sử dụng đất cho gia tộc ông Nguyễn Văn Hai 35.000.000đ, giá trị căn nhà 
là 5.000.000đ. Tổng cộng là 40.000.000đồng. 
 - Bà Nguyễn Thị Thu quản lý và sử dụng 480m2 và phải bồi thường 
giá trị quyền sử dụng đất cho gia tộc ông Nguyễn Văn Hai 55.000.000đ. 
Bà Nguyễn Thị Tám, ông Văn Năm và bà Nguyễn Thị Thu phải nộp 
50.000đ án phí hành chính sơ thẩm. 
Bên khởi kiện đã không đồng ý với quyết định của Tòa án. Ngày 25/ 8/ 
1998, bà Nguyễn Thị Tám, ông Văn Năm và bà Nguyễn Thị Thu nộp đơn kháng 
cáo xin xét xử theo thủ tục phúc thẩm. 
II. Nguyên nhân và hậu quả của vụ việc: 
1. Nguyên nhân: 
Kể từ sau khi Luật Đất đai năm 1993 có hiệu lực, thì quyền sử dụng đất 
của công dân được pháp luật bảo hộ. Do đó đất đai trở thành tài sản có giá trị 
thiết thực đối với đời sống người dân. Cùng với tác động của thị trường về nhà 
cửa, đất đai thì đất đai càng chứng tỏ giá trị của nó trên thị trường bất động sản. 
Cũng từ đây, việc khiếu nại tranh chấp đất đai ngày càng gia tăng, kéo dài và trở 
thành cơn sốt như: đòi lại nhà, đất cũ, nhà đất do Nhà nước quản lý, đất gia tộc, 
đất dòng họ, đất thừa kế... đã trở thành một vấn đề tranh chấp, khiếu nại về đất 
đai hết sức đa dạng và phức tạp, rất khó khăn cho cán bộ thụ lý. Các tranh chấp 
này thường không đủ chứng cứ khẳng định tính pháp lý của đất tranh chấp hoặc 
có nhiều chứng cứ pháp lý về đất tranh chấp mà pháp luật tại thời điểm giải 
quyết tranh chấp không quy định cụ thể, dẫn đến việc vận dụng giải quyết không 
thống nhất, không đúng tinh thần ổn định tình hình quản lý và sử dụng đất đai 
của Đảng và Nhà nước(Theo qui định tại điều 83, Luật Ban hành văn bản quy 
phạm pháp luật năm 2008). Trong trường hợp trên, 03 hộ tranh chấp không hề có 
giấy tờ gì chứng minh nguồn gốc đất một cách hợp pháp, họ chỉ có giấy của cha 
ông Nguyễn Văn Hai thỏa thuận đồng ý cho 03 hộ bà Nguyễn Thị Tám, ông Văn 
Năm và bà Nguyễn Thị Thu thuê mướn diện tích đất nêu trên để xây nhà ở trước 
giải phóng. 
 6
Một nguyên nhân nữa dẫn đến tranh chấp kéo dài là do sự không thống 
nhất trong hệ thống văn bản pháp luật về đất đai và các tài sản khác gắn liền với 
đất như nhà ở, công trình kiến trúc, cây lâu năm... Do sự hiểu biết pháp luật của 
cán bộ thụ lý còn hạn chế, tinh thần trách nhiệm đối với công việc chưa cao vì lý 
do kinh tế. Mặt khác, chính quyền các cấp chưa quan tâm đúng mức đến công tác 
giải quyết tranh chấp đất đai, chưa thường xuyên tổ chức việc tập huấn nghiệp 
vụ, cập nhật văn bản mới của Chính phủ về giải quyết tranh chấp đất đai. 
2. Hậu quả: 
Việc giải quyết không thỏa đáng, khi ban hành quyết định số 11/ QĐ- 
UBTX, UBND thị xã Bà Rịa đã không gửi đến các bên có tranh chấp trong vụ 
kiện nên bà Nguyễn Thị Tám, ông Văn Năm và bà Nguyễn Thị Thu không biết 
kết quả giải quyết để thi hành đã phần nào làm mất uy tín của cán bộ công chức 
và UBND thị xã Bà Rịa, làm giảm niềm tin và gây bất bình trong nhân dân. Bên 
cạnh đó, nguyên nhân làm phát sinh khiếu nại là do phương án giải quyết không 
nhất quán, chưa đúng pháp luật nên vụ việc phải kéo dài, giải quyết đi giải quyết 
lại nhiều lần gây tốn kém tiền của công sức của người dân cũng như của Nhà 
nước, làm cho hiệu lực quản lý của Nhà nước không phát huy được tác dụng tích 
cực, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự xã hội. 
Mặt khác, việc thụ lý của Tòa án cũng không đúng thẩm quyền vì đây là 
quyết định giải quyết tranh chấp đất đai, không phải là quyết định hành chính 
nên việc Tòa án nhân dân thị xã Bà Rịa thụ lý giải quyết theo thủ tục giải quyết 
các vụ án hành chính là chưa đúng qui định của pháp luật. Cần lưu ý rằng, trong 
mọi trường hợp giải quyết tranh chấp đất đai không dẫn đến một khiếu nại hành 
chính. Chỉ có những khiếu nại được qui định tại điều 138, Luật Đất đai năm 2003 
và điều 162, Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ mới 
dẫn đến việc công dân, tổ chức khởi kiện quyết định hành chính. Đây là một thực 
trạng mà thời gian trước đây, nhiều vụ việc Toà án điạ phương đã thụ lý, xét xử 
sai thẩm quyền mà các cơ quan kiểm sát và Chánh án Tòa án cấp trên cũng 
không phát hiện ra để thực hiện quyền kháng nghị. Một số vụ việc khi chuyển 
đến Toà cấp xét xử phúc thẩm hoặc Toà án nhân dân tối cao thì mới được phát 
hiện có vi phạm trong thủ tục tố tụng. Do đó, hậu quả là nhiều vụ án bị hủy và 
đình chỉ giải quyết do vi phạm trình tự, thủ tục tố tụng. Vụ việc lại được trả về 
địa phương để giải quyết lại. Tình trạng này gây mất lòng tin và mất nhiều thời 
gian, công sức của người dân. 
Tuy nhiên, ở giác độ bài viết này, tôi không phân tích việc thụ lý giải 
quyết của cơ quan tài phán mà chỉ đi sâu phân tích ở giác độ giải quyết của các 
cơ quan hành chính Nhà nước. 
 7
III. Xây dựng các phương án và lựa chọn phương án giải quyết vụ 
việc: 
1. Các tiêu chuẩn để xây dựng phương án: 
Vụ việc phải được giải quyết theo đúng qui định của pháp luật. Đảm bảo 
pháp chế XHCN, sự nghiêm minh và công bằng của pháp luật. 
Vụ việc phải được giải quyết dứt điểm. 
Giữ được đạo lý và mối quan hệ đoàn kết trong cộng đồng dân cư làng xã 
của người Việt Nam. 
2. Các phương án giải quyết: 
Từ vụ tranh chấp nêu trên, xin đề ra một số phương án giải quyết như sau: 
2.1. Phương án 1: 
Giữ lưu cư và công nhận nhà đất đó thuộc quyền quản lý sử dụng của các 
hộ bà Nguyễn Thị Tám, ông Văn Năm và bà Nguyễn Thị Thu và không phải bồi 
hoàn giá trị quyền sử dụng đất cho gia tộc ông Nguyễn Văn Hai. Bác đơn xin 
tranh chấp của ông Nguyễn Văn Hai vì căn cứ vào Quyết định số 111/ CP ngày 
14/ 4/ 1997 của Hội đồng Chính phủ và căn cứ vào Khoản 2, Điều 2, Luật Đất 
đai năm 1993 qui định: 
“Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại đất đã giao cho người khác sử 
dụng trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân 
chủ cộng hòa, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và 
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Công văn số 647/ CV. TCĐC 
của Tổng cục địa chính hướng dẫn: “Nếu nhà xây dựng trước năm 1980 thì công 
dân được công nhận quyền sử dụng đất, sở hữu nhà hợp pháp”. Trong trường 
hợp tranh chấp nhà đất nêu trên, 03 hộ bà Nguyễn Thị Tám, ông Văn Năm và bà 
Nguyễn Thị Thu xây dựng từ trước năm 1975 và sử dụng ổn định cho đến nay. 
Theo các quy định trên thì 03 hộ bà Nguyễn Thị Tám, ông Văn Năm và bà 
Nguyễn Thị Thu sẽ được công nhận quyền sử dụng nhà, đất hợp pháp. UBND thị 
xã Bà Rịa đã thừa nhận chưa giao quyết định số 11/ QĐ. UBTX ngày 26/ 12/ 
1996 cho 03 hộ. Do vậy, cần hủy quyết định số 95/ QĐ. UBTX và sửa quyết 
định số 11/ QĐ. UBTX của UBND thị xã Bà Rịa theo hướng 03 hộ được quản lý 
sử dụng toàn bộ khu đất đã thuê trước đây và tiến hành đăng ký kê khai theo qui 
định. Đồng thời không phải đền bù giá trị quyền sử dụng đất cho gia tộc ông 
Nguyễn Văn Hai nhưng phải đền bù giá trị căn nhà. Còn ông Lê Văn Một đang 
 8
sử dụng diện tích 52m2 thì phải bồi hoàn giá trị quyền sử dụng đất cho gia tộc 
ông Nguyễn Văn Hai. 
Tuy nhiên, gia tộc ông Nguyễn Văn Hai sẽ tiếp khiếu vì không đồng ý với 
cách giải quyết nêu trên. 
2.2 Phương án 2: 
Giữ lưu cư và công nhận nhà, đất đó thuộc quyền quản lý sử dụng của các 
hộ bà Nguyễn Thị Tám, ông Văn Năm và bà Nguyễn Thị Thu và buộc các hộ 
này phải bồi hoàn giá trị nhà và giá trị quyền sử dụng đất cho gia tộc ông 
Nguyễn Văn Hai theo thỏa thuận giữa các đương sự. Nếu không tự thỏa thuận 
được, áp dụng đơn giá của Quyết định số 31/ QĐ. UBT ngày 17/ 01/ 1995 của 
UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Đồng thời buộc bà Nguyễn Thị Thu phải giao 
trả lại cho gia tộc ông Nguyễn Văn Hai 160m2 đất trống chưa sử dụng vì UBND 
tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã có Quyết định số 333/ QĐ. UBT ngày 04/ 4/ 1991 
ban hành bảng qui định việc giải quyết một số vấn đề tranh chấp về quyền sử 
dụng đất trong đó có nêu: “trường hợp người sử dụng đất hợp pháp cho người 
khác sử dụng phần đất này từ trước ngày giải phóng Miền nam; người sử dụng 
mới có công cải tạo, chăm sóc và làm đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước, khi có 
tranh chấp mà hai bên không tự thương lượng được thì người sử dụng mới phải 
bồi hoàn thành quả lao động và kết quả đầu tư cho chủ cũ theo qui định của 
UBND tỉnh”. 
Hơn nữa tại thời điểm xảy ra tranh chấp, Luật Đất đai đã công nhận 
quyền sử dụng đất là tài sản thừa kế, mặc dù ông Nguyễn Văn Hai không có giấy 
tờ hợp pháp về nguồn gốc khu đất tranh chấp nhưng theo những nhân chứng 
sống lâu năm tại khu vực này cho biết là do cha ông là Nguyễn Văn Phái khai 
khẩn trước năm 1960 và có cho các hộ bà Nguyễn Thị Tám, ông Văn Năm và bà 
Nguyễn Thị Thu thuê mượn để ở trước 1975 (có giấy thỏa thuận thuê mướn đất 
giữa các bên). Đồng thời, tại cuộc hoà giải bà Nguyễn Thị Tám, ông Văn Năm 
và bà Nguyễn Thị Thu cũng thừa nhận có thuê đất của gia tộc ông Nguyễn Văn 
Hai. Như vậy, ông Nguyễn Văn Hai được quyền thừa kế theo qui định của pháp 
luật. Từ năm 1975 đến khi xảy ra tranh chấp, Nhà nước không có quyết định 
quản lý phần nhà, đất cho thuê của gia tộc ông Nguyễn Văn Hai và cũng không 
có quyết định nào giao cho 03 hộ trên quản lý sử dụng. Do đó, việc giải quyết 
theo hướng buộc 03 hộ bồi hoàn thành quả lao động và kết quả đầu tư cho chủ cũ 
là hợp lý. 
Theo phương án này, các hộ bà Nguyễn Thị Tám, ông Văn Năm và bà 
Nguyễn Thị Thu sẽ không hoàn toàn nhất trí, nhưng các hộ này đều công nhận có 
 9
thuê đất đang tranh chấp của gia tộc ông Nguyễn Văn Hai. Do đó, nếu xét thời 
điểm trước năm 1980( Hiến pháp được ban hành), các hộ nêu trên chỉ có quyền 
chiếm hữu, sử dụng, không có quyền định đoạt. Việc đóng thuế cho Nhà nước là 
nghĩa vụ của tất cả những người sử dụng đất. Điều này không có nghĩa là công 
nhận quyền sử dụng hợp pháp diện tích nhà, đất đang thực tế sử dụng. Tại khoản 
1, mục III, Thông tư số 83/ TT-TCT ngày 7/ 10/ 1994 của Bộ Tài chính hướng 
dẫn thi hành chi tiết pháp lệnh về thuế nhà, đất quy định: “...người đang trực tiếp 
sử dụng đất phải kê khai nộp thuế đất. Việc kê khai nộp thuế đất này không có 
nghĩa là thừa nhận tính hợp pháp về quyền sử dụng đất”. Các hộ không thể căn 
cứ nghĩa vụ nộp thuế hàng năm để chứng minh cho mình có quyền sở hữu nhà và 
quyền sử dụng đất nêu trên. 
Đây thực sự là vấn đề khó khăn cho các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền 
trong việc giải quyết vụ việc. Như đã phân tích ở trên, nguyên nhân là do sự 
chồng chéo trong các qui định của pháp luật, sự vận dụng giải quyết đối với từng 
trường hợp cụ thể còn phụ thuộc vào ý chí của các cơ quan công quyền và sự 
công tâm của cán bộ Nhà nước. Vấn đề ở đây là lựa chọn các phương án giải 
quyết như thế nào cho đúng pháp luật. 
3. Chọn phương án giải quyết: 
Theo tôi, các phần đất hiện 03 hộ đang sử dụng nêu trên là của gia tộc 
ông Nguyễn Văn Hai nhưng đã cho thuê từ trước giải phóng. Sau năm 1975, 
những hộ thuê đất này và ông Nguyễn Văn Hai cũng không đăng ký, đóng thuế 
cho Nhà nước. Mặc nhiên, ông Nguyễn Văn Hai đã từ bỏ quyền quản lý, sử dụng 
diện tích đất nêu trên. Theo quy định, đây là đất cho thuê từ trước năm 1975 nên 
căn cứ khoản 2, mục I, Quyết định 111/ CP ngày 14/ 4/ 1977 của Hội đồng 
Chính phủ ban hành chính sách cải tạo và quản lý xã hội chủ nghĩa đối với nhà 
đất cho thuê ở các đô thị các tỉnh phía Nam qui định: 
“Nhà nước quản lý toàn bộ nhà cho thuê của các chủ là cá nhân, công ty, 
đoàn hội, tôn giáo... trừ trường hợp nhân dân lao động có ít diện tích cho nhau 
thuê để ở hoặc cho ở nhờ. 
Riêng đối với những chủ nhà là cá nhân có ít nhà cho thuê để ở, diện tích 
cho thuê dưới 150m2 ở các tỉnh, dưới 200m2 ở thành phố Hồ Chí Minh, hoặc thu 
tiền cho thuê nhà hằng năm dưới 600đ ở các Tỉnh và dưới 800đ ở thành phố Hồ 
Chí Minh thì trước mắt chủ nhà vẫn được tạm thời cho thuê nhưng phải chấp 
hành đầy đủ những qui định thống nhất về đăng ký, hợp đồng giá cho thuê, điều 
lệ bảo quản sửa chữa, quyền lưu trú của người thuê”. Đồng thời, căn cứ vào 
khoản 2, điều 2, Luật Đất đai năm 1993 qui định: “Nhà nước không thừa nhận 
 10
việc đòi lại đất đã giao cho người khác sử dụng trong quá trình thực hiện chính 
sách đất đai của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chính phủ cách mạng 
lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa 
Việt Nam”. 
Căn cứ vào qui định trên thì diện tích cho thuê của gia tộc ông Nguyễn 
Văn Hai vượt quá qui định cho phép. Tổng diện tích cho thuê là 800m2, như vậy 
diện tích đất trên sẽ do nhà nước quản lý. Gia tộc ông Nguyễn Văn Hai đã bị 
Quyết định 111/ CP ngày 14/ 4/ 1977 của Hội đồng Chính phủ tác động điều 
chỉnh làm mất quyền sử dụng diện tích 800m2 đất. Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là 
vào thời điểm sau năm 1977, Nhà nước đã không quản lý bằng một quyết định 
hành chính nào. Mặc khác, đến năm 1992, nhà nước ta mới có chính sách kê khai 
đất đai, lập sổ bộ địa chính và đóng thuế sử dụng đất. Đồng thời, gia tộc ông 
Nguyễn Văn Hai có tranh chấp đất với các hộ nêu trên. Trong đơn xin giải quyết 
tranh chấp, ông Nguyễn Văn Hai chỉ yêu cầu các hộ bà Nguyễn Thị Tám, ông 
Văn Năm và bà Nguyễn Thị Thu bồi hoàn thành quả lao động và kết quả đầu tư 
cho chủ cũ chứ không đòi lại đất của 03 hộ nêu trên. 
Chính vì vậy, Uỷ ban nhân dân thị xã Bà Rịa quyết định giữ quyền lưu 
cư cho bà Nguyễn Thị Tám quản lý sử dụng diện tích 120m2, ông Văn Năm quản 
lý và sử dụng diện tích 200m2; bà Nguyễn Thị Thu quản lý sử dụng diện tích 
480m2 nhưng buộc bà Nguyễn Thị Thu trả lại phần đất 160m2 cho gia tộc ông 
Nguyễn Văn Hai và buộc các hộ bồi hoàn giá trị nhà và giá trị quyền sử dụng đất 
cho chủ cũ theo giá qui định tại Quyết định số 31/ QĐ. UBT ngày 17/ 01/ 1995 
của UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu có giảm giá 30% là chưa đúng pháp luật. 
Bởi vì, UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu ban hành Quyết định số 333/ QĐ. UBT 
ngày 04/ 4/ 1991 ban hành bảng qui định việc giải quyết một số vấn đề tranh 
chấp về quyền sử dụng đất trong đó có đề cập: “trong trường hợp chủ sử dụng 
mới đã sử dụng đất 25 năm trở lên, đã đóng góp tiền hoặc hoa lợi cho chủ cũ khi 
sử dụng phần đất này trước khi làm nghĩa vụ với Nhà nước thì có thể xem xét 
công nhận quyền sử dụng đất hợp pháp cho chủ sử dụng mới”. Trong mối quan 
hệ trên, các hộ bà Nguyễn Thị Tám, ông Văn Năm và bà Nguyễn Thị Thu trên 
danh nghĩa là thuê đất của gia tộc ông Nguyễn Văn Hai nhưng lại không thực 
hiện nghĩa vụ trả tiền thuê đất mà chỉ đưa tiền tượng trưng để cúng ông, bà nên 
không thể xem là đã đóng góp tiền hoặc hoa lợi cho chủ cũ khi sử dụng phần đất 
này trước khi làm nghĩa vụ với Nhà nước. 
Qua phân tích các tình huống nêu trên, tôi chọn cách giải quyết được đề 
cập tại phương án 2: Công nhận quyền sử dụng hợp pháp cho các hộ bà Nguyễn 
Thị Tám, ông Văn Năm và bà Nguyễn Thị Thu (Trong đó, có cả phần diện tích 
 11
đất mà bà Tám đã cho con là Lê Văn Một) nhưng phải bồi hoàn giá trị căn nhà và 
quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Văn Hai theo giá qui định tại Quyết định số 
31/ QĐ. UBT ngày 17/ 1/ 1995 của UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Trước khi 
ban hành quyết định giải quyết tranh chấp theo luật định, cần thiết phải mời các 
bên có quyền và nghĩa vụ liên quan đến để tổ chức hoà giải và công khai hướng 
giải quyết vụ việc, giải thích cho họ hiểu rõ quyền và nghĩa vụ, các qui định của 
pháp luật về nội dung tranh chấp để xem xét lại lần cuối các chứng cứ pháp lý 
mà các bên cung cấp, đối chiếu những tài liệu có trong hồ sơ, ghi nhận ý kiến 
phản hồi của các bên; đồng thời giải thích rõ các qui định của pháp luật để tạo 
được sự thống nhất cao khi quyết định được ban hành. 
Cách làm như vậy, vừa đáp ứng được yêu cầu của ông Nguyễn Văn Hai 
và đây cũng là quyền lợi chính đáng mà ông được hưởng, vừa bảo đảm quyền 
lưu cư của 03 hộ gia đình đã sống ổn định nhiều năm. Cách giải quyết này, có 
thể sẽ không nhận được sự đồng tình cao của 03 hộ gia đình nêu trên nhưng xét 
về mặt bản chất, nó vừa phù hợp các qui định của pháp luật, vừa phù hợp với đạo 
lý của dân tộc. Xét về mặt xã hội, cách giải quyết này sẽ ổn định tình hình tranh 
chấp đất đai, nhà ở trên địa bàn, giảm thiểu các tác động xấu về mặt xã hội do 
tranh chấp trong nội bộ nhân dân gây ra. 
4. Tổ chức thực hiện: 
Sau khi Uỷ ban nhân dân thị xã Bà Rịa ban hành quyết định giải quyết 
tranh chấp, việc tống đạt các quyết định đến từng đương sự phải được ký nhận 
hoặc phải bảo đảm rằng họ đã nhận được quyết định. 
Giao cho Uỷ ban nhân dân phường Phước Hiệp, Phòng Tài nguyên - Môi 
trường thị xã Bà Rịa trong thời hạn 30 ngày có trách nhiệm mời các cơ quan liên 
quan, các bên đương sự đến trụ sở để công bố nội dung quyết định, giải thích 
những vấn đề đương sự thắc mắc, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên. Tất cả các 
trình tự nêu trên phải được lập biên bản theo đúng qui định của pháp luật. Hướng 
dẫn các bên lập thủ tục kê khai đất đai, làm nghĩa vụ tài chính với Nhà nước để 
được xem xét cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, báo cáo kết quả thực hiện 
về Uỷ ban nhân dân thị xã Bà Rịa để theo dõi. Đồng thời, nội dung quyết định 
giải quyết tranh chấp phải dành cho các bên liên quan quyền giải quyết tranh 
chấp lần cuối cùng là của Uỷ ban nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu để các đương 
sự được biết. 
IV. Một số nhận xét và kiến nghị cụ thể: 
1. Nhận xét chung: 
 12
Đất đai thuộc sở hữu toàn dân có nghĩa là đất đai không thuộc quyền sở 
hữu của một tổ chức hay một cá nhân công dân nào. Các tổ chức, cộng đồng dân 
cư, hộ gia đình, cá nhân chỉ là chủ thể của quyền sử dụng đất. Đất đai là thuộc về 
toàn dân do Nhà nước đại diện làm chủ sở hữu. Quyền sở hữu toàn dân đối với 
đất đai ở đây là quyền sở hữu duy nhất và tuyệt đối. Tính chất tuyệt đối và duy 
nhất thể hiện ở chỗ quyền sở hữu toàn dân bao trùm tất cả đất đai, bất kỳ là đất 
đó hiện đang do ai sử dụng và không cho phép bất cứ hình thức sở hữu nào khác 
tồn tại. Việc sử dụng đất của các tổ chức, cộng đồng dân cư, hộ gia đình và cá 
nhân phải đảm bảo đúng quy hoạch, kế hoạch, mục đích sử dụng đất, tiết kiệm, 
có hiệu quả và bảo vệ môi trường. Đó chính là nguyên tắc pháp lý xuyên suốt 
trong quá trình quản lý, sử dụng đất, phản ánh đặc trưng của quyền sở hữu toàn 
dân đối với đất đai của Nhà nước 
Tính chất, đặc điểm của quan hệ sở hữu làm nền tảng cho chế độ sở hữu 
về đất đai khi xác định đất đai là sở hữu toàn dân, được xác lập dựa trên hai 
phương diện chủ yếu của quan hệ đất đai. Đó là : 
- Đất đai là lãnh thổ của quốc gia, là tài nguyên vô giá không thể thay thế 
được của quốc gia. Đó là kết quả của quá trình chinh phục, chế ngự tự nhiên, 
chống giặc ngoại xâm của cả dân tộc Việt Nam từ thế hệ này sang thế hệ khác. 
Do đó, Nhà nước và mọi tổ chức, công dân phải có trách nhiệm bảo vệ, giữ gìn 
nguồn tài nguyên quốc gia quý báu này. 
- Đất đai là tư lịêu sản xuất đặc biệt, là kết quả của đầu tư lao động, vốn, 
công sức cải tạo của người lao động cụ thể. Vì vậy, người sử dụng đất không thể 
là một khái niệm chung chung mà phải hết sức cụ thể và được hưởng các lợi ích 
thiết thực. Quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất hiện nay được quy định cụ 
thể tại điều 105, 106 và 107, Luật Đất đai năm 2003. 
Qua nhiều lần bổ sung và sửa đổi, đến nay, Luật Đất đai năm 2003 có 
hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2004 về cơ bản đã và đang được xã hội đồng tình 
hưởng ứng. Ngoài việc kế thừa các văn bản Luật trước đó, Luật Đất đai 2003 và 
các văn bản hướng dẫn dưới luật như Nghị định 181/2004/NĐ-CP, Nghị định 
197/2004/NĐ-CP, Nghị định 84/2007/NĐ-CP và gần đây nhất là Nghị định 
69/2009/NĐ-CP…đã phát triển nhiều nội dung phù hợp với quá trình phát triển 
kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, qua triển khai thực hiện Luật Đất đai năm 2003 và từ 
việc giải quyết tranh chấp, khiếu nại của công dân liên quan đến đất đai ở địa 
phương vẫn còn nhiều bất cập so với thực tế, gây khó khăn trong quá trình giải 
quyết tranh chấp, khiếu nại, dẫn đến tình trạng tồn đọng đơn còn nhiều, khó giải 
quyết cần được điều chỉnh cho phù hợp. Mặc dù các cơ quan chức năng của tỉnh 
và một số huyện có cố gắng nhưng nhìn chung chưa có chuyển biến tích cực. 
 13
Các quyết định hành chính vẫn tiếp tục bị khiếu nại hoặc khởi kiện theo thủ tục 
giải quyết các vụ án hành chính tại Tòa án các cấp. Các quyết định giải quyết 
tranh chấp đất đai lần cuối đôi lúc không thể thực hiện. Điều này có thể có những 
nguyên nhân khách quan như sự bất cập và không hệ thống của các văn bản qui 
phạm pháp luật nhưng mặt khác nó cũng xuất phát từ những yếu kém chủ quan 
của đội ngũ cán bộ công chức trong các cơ quan hành pháp. Trong thời gian tới, 
cần xem đây là vấn đề mấu chốt để giải quyết tốt hơn các tranh chấp, khiếu nại, 
khắc phục ngay những tồn tại nhằm tăng cường kỷ luật hành chính trong các cơ 
quan công quyền. 
Đối với vụ việc trên, tuy chưa phải là một vụ tranh chấp phức tạp, khó 
giải quyết nhưng do đặc thù kéo dài nhiều năm và xử lý không dứt điểm làm cho 
các bên tham gia quan hệ phải chờ đợi, theo đuổi việc giải quyết tranh chấp, làm 
mất nhiều công sức, tiền của của xã hội (Vụ việc này đến năm 2003 mới được 
giải quyết dứt điểm). Trên quan điểm đúng đắn, khoa học, Nhà nước ta coi đất 
đai là tài nguyên vô cùng quí giá thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất 
quản lý. Nhà nước tôn trọng quyền sử dụng đất ổn định, hợp pháp của người sử 
dụng đất. Căn cứ các tình tiết và quá trình giải quyết của các cơ quan chức năng, 
đối chiếu với các qui định pháp luật về đất đai thì lựa chọn phương án bảo đảm 
quyền lưu cư của các hộ gia đình đã liên tục sử dụng đất ổn định có bồi hoàn cho 
chủ sử dụng đất cũ là phương án có thể chấp nhận được. Mặc dù vậy, vấn đề băn 
khoăn là việc Nhà nước chấp nhận một số trường hợp đòi lại đất cũ đã liên tục sử 
dụng ổn định làm xáo trộn cuộc sống một bộ phận không nhỏ dân cư, gây tâm lý 
bất an đối với những người chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở 
và quyền sử dụng đất ở. Tuy nhiên, thực tiễn cũng cần xem xét thận trọng, có 
bước đi đúng đắn khi ban hành các chính sách nhằm khắc phục những sai lầm 
trước đây, do trình độ quản lý còn hạn chế, Nhà nước ta đã ban hành những qui 
định chưa phù hợp để giải quyết những vấn đề do lịch sử để lại như Nghị quyết 
23/2003/QH11 ngày 26/11/2003 của Quốc hội; Nghị quyết 755/2005/NQ-
UBTVQH11 ngày 02/4/2005 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Nghị định 
197/2005/NĐ-CP ngày 10/10/2005 của Chính phủ quy định việc giải quyết đối 
với một số trường hợp cụ thể về nhà đất trong quá trình thực hiện các chính sách 
quản lý nhà đất và chính sách cải tạo XHCN trước ngày 01/7/1991. 
2. Một số kiến nghị trong việc giải quyết các tranh chấp, khiếu nại 
hành chính về lĩnh vực quản lý đất đai.: 
Trong quá trình quản lý nhà nước về đất đai trên phạm vi toàn quốc nói 
chung, ở tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu nói riêng, thì việc giải quyết các tranh chấp, 
khiếu nại về nhà, đất đang là vấn đề cấp thiết. Các tranh chấp, khiếu nại liên 
 14
quan đến đất đai, nhà ở chiếm hơn 90% tổng số vụ khiếu nại, tố cáo. Trên địa 
bàn tỉnh, tranh chấp đất đai hiện nay đang là vấn đề hết sức bức xúc, phức tạp. 
Các khiếu kiện hết sức đa dạng cả nội dung lẫn hình thức, gây không ít khó khăn 
cho cán bộ thụ lý giải quyết. Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật của nước ta chưa 
hoàn chỉnh, còn nhiều bất cập so với thực tế quản lý của Nhà nước ta hiện nay. 
Do đó, thực trạng tranh chấp đất đai và việc giải quyết tranh chấp đất đai kéo dài 
không dứt điểm. 
Xin đề ra một số kiến nghị sau: 
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp, 
khiếu nại, tố cáo và xét xử các khiếu nại quyết định hành chính về lĩnh vực quản 
lý đất đai. Cụ thể đối với quy định về quyền khiếu nại (lần 2) tại Điều 46 Luật 
Khiếu nại, tố cáo ( luật sửa đổi, bổ sung Luật Khiếu nại, tố cáo ngày 29/11/2005) 
có nêu: “Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày hết thời hạn giải quyết quy định tại 
Điều 43 của Luật Khiếu nại, tố cáo mà khiếu nại không được giải quyết hoặc kể 
từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại mà người khiếu nại không 
đồng ý thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án…”. Tuy nhiên, theo 
Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (năm 2006) thì tại Khoản 2 
quy định: “ Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện để Toà án giải quyết 
vụ án hành chính về khiếu kiện quy định tại khoản 17 Điều 11 của Pháp lệnh này 
trong các trường hợp sau đây: 
a) Đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai 
do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giải 
quyết khiếu nại lần đầu, nhưng người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải 
quyết đó và không tiếp tục khiếu nại đến Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành 
phố trực thuộc trung ương ”… 
Như vậy, về thủ tục quy định quyền khiếu nại, khiếu kiện đã có sự mâu 
thuẫn giữa Luật Khiếu nại, tố cáo và Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành 
chính. Đây là một thực tế có xung đột pháp luật đã và đang diễn ra làm hạn chế 
quyền khiếu kiện của công dân, tổ chức. 
- Bộ Tài nguyên-Môi trường và Tổng Thanh tra cần có bảng tổng kết 
hàng năm một số vụ giải quyết tranh chấp, khiếu nại điểm, nêu các cách làm hay 
của một số tỉnh thành điển hình để UBND các tỉnh rút kinh nghiệm. Đặc biệt cập 
nhật ngay các văn bản pháp luật còn hiệu lực thi hành, không còn hiệu lực thi 
hành để làm căn cứ cho UBND các tỉnh giải quyết tranh chấp, khiếu nại. 
- Phối hợp ngành Tòa án tổ chức hội thảo về các vi phạm trong các quyết 
định hành chính về hình thức lẫn nội dung để rút kinh nghiệm cho công tác giải 
 15
quyết tranh chấp, khiếu nại, ban hành các quyết định giải quyết khiếu nại đúng 
pháp luật. (Mẫu hóa hình thức các quyết định giải quyết khiếu nại để không bị cơ 
quan xét xử tuyên hủy do vi phạm về hình thức trong các vụ kiện hành chính tại 
Tòa án). 
- Giải quyết các vụ tranh chấp đất đai phải khách quan, dân chủ, đúng 
pháp luật. Muốn vậy, cần nâng cao phẩm chất đạo đức, bồi dưỡng trình độ, năng 
lực chuyên môn, nghiệp vụ nhất là kiến thức pháp luật về đất đai…cho cán bộ 
làm công tác thanh tra, giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo để thực hiện tốt 
công tác tham mưu, đề xuất giải quyết vụ việc. 
- Tăng cường trách nhiệm và vai trò của chính quyền cơ sở trong việc 
thực hiện Pháp lệnh Hòa giải ở cơ sở. Cần chú ý đề cao biện pháp hướng dẫn, 
thuyết phục cũng như các cách thức, phương pháp khác của hoạt động hoà giải 
cơ sở. Thường xuyên kiểm tra để kịp thời ngăn chặn và giải quyết dứt điểm các 
vụ tranh chấp, khiếu nại, tố cáo, tranh chấp đất đai ngay từ cơ sở và khi mới phát 
sinh. Cần lưu ý rằng, trong mọi trường hợp việc giải quyết tranh chấp đất đai 
không dẫn đến một khiếu nại hành chính. 
- Kiểm tra việc khắc phục những thiếu sót, khuyết điểm các nội dung kết 
luận của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong việc lãnh đạo, chỉ đạo việc 
giải quyết khiếu nại tố cáo của công dân. Kết quả giải quyết các vụ khiếu kiện 
đông người, phức tạp đơn thư tồn đọng mới phát sinh. 
- Thường xuyên tổ chức các cuộc thanh tra về trách nhiệm Thủ trưởng 
trong cơ quan hành chính, nhằm kịp thời phát hiện và chấn chỉnh các sai phạm 
trong việc thực hiện công vụ của cán bộ, công chức có trách nhiệm. Kiểm tra 
việc chấn chỉnh về tổ chức và tăng cường cơ sở vật chất cho công tác tiếp công 
dân, tổ hòa giải ở cơ sở, Ban Thanh tra nhân dân... công tác đôn đốc giải quyết 
tranh chấp, khiếu nại, tố cáo của thủ trưởng các cấp các ngành; công tác tuyên 
truyền việc phổ biến giáo dục pháp luật có liên quan đến giải quyết tranh chấp, 
khiếu nại, tố cáo của công dân nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc, 
nhất là việc thực hiện qui chế dân chủ ở cơ sở theo Nghị định 79. 
 - Rà soát toàn bộ các công văn chỉ đạo của UBND tỉnh chưa được thực 
hiện, chậm thực hiện. Tình trạng kỉ luật hành chính bị buông lỏng, bệnh nể nang 
còn nặng nề, thái độ điều hành không rõ ràng của các vị công chức lãnh đạo cũng 
gây mất lòng tin trong quần chúng nhân dân. Đây là một trong những nguyên 
nhân dẫn đến kỷ luật hành chính bị buông lỏng. Đề nghị cần chấn chỉnh từ phía 
bên trong, từ trên xuống dưới, từ những người có trách nhiệm để tiến tới kỷ luật 
hành chính được tăng cường. Từ đó, kiểm điểm trách nhiệm và hậu quả pháp lý 
 16
đối với từng cá nhân cán bộ công chức nếu cố ý làm sai, gây thất thóat ngân sách 
Nhà nước do phải bồi thường lỗi chậm giải quyết khiếu nại. 
 - Kiểm tra tình hình, kết quả thực hiện các quyết định đã có hiệu lực 
pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp, giải quyết khiếu nại, tố cáo; việc chỉ 
đạo giải quyết các vụ khiếu kiện phức tạp, kéo dài, có dấu hiệu oan sai hoặc vi 
phạm pháp luật được dư luận quan tâm; các quyết định, bản án đã có hiệu lực 
pháp luật cần tổ chức thực hiện nghiêm túc, vừa tăng cường hiệu lực quản lý của 
Nhà nước, vừa thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật; việc xem xét xử lý 
những tổ chức và cán bộ mà qua kiểm tra phát hiện thấy thiếu trách nhiệm, tiêu 
cực trong giải quyết làm chậm trễ hoặc né tránh việc thi hành các thông báo, kết 
luận của cấp có thẩm quyền. Cần tăng cường trong việc xem xét xử lý đối với 
người có hành vi móc nối, kích động khiếu kiện, gây mất trật tự an ninh, vi phạm 
pháp luật. 
 - Ban hành qui trình tiếp nhận, xử lý và giải quyết đơn thư khiếu nại, 
tố cáo trên địa bàn tỉnh đảm bảo đúng luật, quy định rõ trách nhiệm của UBND 
các cấp, thủ trưởng các cơ quan chuyên môn trong việc giải quyết và tham mưu 
giải quyết khiếu nại, tố cáo. Chú trọng trong việc đối thoại với nhân dân trong 
xem xét giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo để có kết luận chính xác, tránh 
oan sai. 
- UBND các cấp cần rà soát lại các vụ giải quyết tranh chấp, giải quyết 
khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của mình, những quyết định đã có hiệu lực 
pháp luật để có kế hoạch xem xét giải quyết và tổ chức thực hiện dứt điểm nhằm 
hạn chế đơn thư tồn đọng, quyết định có hiệu lực pháp luật không tổ chức thực 
hiện được. 
 17
C. KẾT LUẬN 
Trong thực tế giải quyết các tranh chấp, trong đó tranh chấp về đất đai, 
nhà ở là một lĩnh vực vô cùng nhạy cảm. Các quyết định của cơ quan nhà nước 
có thẩm quyền ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của các bên, ảnh hưởng 
đến đời sống vật chất và tinh thần của những người liên quan và trật tự xã hội mà 
pháp luật bảo vệ. Do vậy, việc cân nhắc thận trọng từng vụ việc, đưa chúng vào 
mối quan hệ tác động qua lại để xem xét thấu đáo vừa là đạo đức công vụ, vừa là 
trách nhiệm của các công chức thừa hành. Quyền lợi của các bên tranh chấp luôn 
đối nghịch nhau, quyền của bên này là nghĩa vụ của bên kia và ngược lại. Làm 
thế nào để giải quyết thấu tình đạt lý là mục đích của pháp luật, là chính sách 
đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Trong quá trình điều hành quản lý xã hội 
những năm mới giải phóng, do đặc thù của một nước vừa thoát khỏi chiến tranh, 
nền kinh tế nghèo nàn và lạc hậu, Nhà nước ta ở từng thời kỳ nhất định đã ban 
hành những chính sách để điều chỉnh các quan hệ xã hội mới phát sinh. Những 
qui phạm đó có những qui định phù hợp, có những qui định mà nay xem xét lại 
chưa phù hợp với quá trình phát triển đời sống xã hội. Điều này cũng xuất phát 
từ đặc thù khách quan của Nhà nước ta. Vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào từng 
bước ổn định, xem xét thận trọng từng trường hợp Nhà nước quản lý chưa đúng, 
có bước đi phù hợp để hạn chế những hậu quả trước đây, do điều kiện kinh tế – 
xã hội đã tác động không nhỏ đến việc giải quyết các vấn đề xã hội, trong đó có 
tranh chấp đất đai. 
Với thời lượng và khả năng có hạn, thông qua tiểu luận tôi đã trình bày 
một tình huống thực tế về giải quyết tranh chấp nhà, đất trên địa bàn tỉnh Bà Rịa 
– Vũng Tàu. Kính mong được các quý thầy cô đóng góp ý kiến để nâng cao trình 
độ nghiệp vụ ngày càng tốt hơn. 
 NGƯỜI THỰC HIỆN: LÊ TÀI 
 18
 Vũng Tàu, ngày 30/01/2005 
 MỤC LỤC 
 Trang 
A. Đặt vấn đề 1 
B. Phần nội dung 2 
I. Tình huống thực tế 2 
II. Nguyên nhân và hậu quả vụ việc 3 
1. Nguyên nhân 4 
2. Hậu quả 4 
 19
III. Xây dựng các phương án 5 
1. Tiêu chuẩn xây dựng phương án 5 
2. Các phương án giải quyết 5 
2.1. Phương án 1 5 
2.2 Phương án 2 6 
3. Chọn phương án giải quyết 7 
4. Tổ chức thực hiện 9 
IV. Một số nhận xét và kiến nghị 10 
1. Nhận xét chung 10 
2. Kiến nghị 12 
C. Kết luận 14 
 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Hiến pháp năm 1980, 1992; 
2. Luật Đất đai năm 1987, 1993, 2003; 
3. Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998, 2004, 2005; Nghị định 
136/2006/NĐ-CP ngày 14/11/2006 của Chính phủ 
 4. Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1998, 2006; 
 20
5. Quyết định số 111/CP ngày 14/4/1997 của Hội đồng Chính phủ ban 
hành chính sách cải tạo và quản lý XHCN đối với nhà đất cho thuê ở 
các tỉnh phía nam; 
6. Nghị quyết 23/2003/QH11 ngày 26/11/2003 của Quốc hội; Nghị quyết 
755/2005/NQ-UBTVQH11 ngày 02/4/2005 của Ủy ban Thường vụ 
Quốc hội và Nghị định 197/2005/NĐ-CP ngày 10/10/2005 của Chính 
phủ quy định việc giải quyết đối với một số trường hợp cụ thể về nhà 
đất trong quá trình thực hiện các chính sách quản lý nhà đất và chính 
sách cải tạo XHCN trước ngày 01/7/1991 
7. Thông tư số 83/TC-TCT ngày 07/10/1994 của Bộ Tài chính hướng 
dẫn thi hành chi tiết Pháp lệnh về thuế nhà, đất. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 tieuluan_3pdf_6726.pdf tieuluan_3pdf_6726.pdf