Tiểu luận Pháp luật với đạo đức

Bạo lực học đường đã xảy ra ở khắp nơi, ở mọi cấp học và hậu quả của nó để lại là khôn lường. Chúng ta chưa quên những vụ ẩu đả giữa học sinh với nhau đã gây xôn xao dư luận vào năm 2007, đó là vụ bạo lực xảy ra ở một trường cấp 3 quận Tân Bình, hai nhóm học sinh xô xát nhau dẫn đến hậu quả thật đáng thương tâm, làm cho một học sinh bị đâm chết và 8 học sinh khác bị thương. Nguyên do cũng chỉ vì sự hiềm khích giữa học sinh cũ và học sinh mới. Đau lòng hơn, một học sinh đã dùng dao đâm vào bụng người bạn cùng lớp vì quá tức giận người bạn này nhiều lần bắt nạt mình. Hay vào năm 2009, tại trường THPT Ngô Gia Tự (EaKar, ĐăkLăk) đã phải đình chỉ thi tốt nghiệp với 4 bạn học sinh nữ lớp 12 vì đã tham gia đánh hội đồng 2 bạn nữ khác của trường THPT Bán Công EaKar trong khi chỉ còn 1 tháng nữa là kì thi tốt nghiệp diễn ra. Không những thế, các bạn còn bị truy tố trách nhiệm trước tòa vì tội gây thương tích, nguyên nhân chỉ vì yêu. Cách đây mấy tuần ở Đà Nẵng, một học sinh lớp 11 bị đâm chết ngay tại chỗ khi ra khỏi cổng trường. Trước đó, cũng vì mâu thuẫn với nhau, nên hai học sinh cấp 3 ở Hà Nội đã dẫn đến ẩu đả, hậu quả cả hai đều bị thương nặng.

doc25 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4998 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Pháp luật với đạo đức, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận PHÁP LUẬT VỚI ĐẠO ĐỨC LỜI MỞ ĐẦU Kính chào cô và các bạn! Chúng ta biết rằng xã hội loài người cùng với sự phát triển của nó đã trải qua 5 hình thái kinh tế - xã hội chính: công xã nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội đều có những đặc thù riêng, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của xã hội loài người. Song,dù là hình thái kinh tế - xã hội nào đi chăng nữa thì vai trò của pháp luật vẫn luôn được đề cao. Bởi pháp luật chính là công cụ để quản lí xã hội của giai cấp cầm quyền. Pháp luật còn là phương tiện không thể thiếu đảm bảo cho sự tồn tại,vận hành bình thường của xã hội nói chung cũng như từng lĩnh vực (kinh tế,chính trị,văn hóa,giáo dục,đạo đức…) nói riêng. Trong đó, pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc hình thành và phát triển của ý thức đạo đức. Pháp luật và đạo đức đều là những bộ phận của hình thái ý thức xã hội. Giữa chúng có mối liên hệ mật thiết với nhau, thường xuyên tác động, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau mặc dù bản thân chúng có những đặc thù riêng biệt. Để làm rõ hơn về khía cạnh này,chúng ta phải đi vào phân tích mối liên hệ mật thiết giữa pháp luật và đạo đức trong sự hình thành và phát triển xã hội nay, đặc biệt là trong giai đoạn đổi mới của đất nước ta. Đó cũng chính là lý do nhóm chúng tôi thực hiện bài tiểu luận này, trong quá trình làm còn nhiều thiếu sót, rất mong nhận được sự ủng hộ và góp ý của thầy cô và các bạn! Qua đây, chúng em chân thành cảm ơn cô Bùi Kim Dung, giảng viên hướng dẫn đã giúp chúng em hoàn thành bài tiểu luận này! Chân thành cảm ơn! Nhóm sinh viên thực hiện. MỤC LỤC Trang I. KHÁI NIỆM VỀ PHÁP LUẬT, ĐẠO ĐỨC VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CHÚNG ………………………………………………………3 1. Khái niệm……………………………………………………………3 1.1. Pháp luật là gì? ……………………………………………...3 1.2. Đạo đức là gì? ………………………………………………..4 2. Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức ………………………...4 II. ĐẶC ĐIỂM VÀ TÍNH CHẤT CỦA PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC…………………………………………………………………………6 Sự giống nhau của pháp luật và đạo đức……………………. ..6 Sự khác biệt giữa pháp luật và đạo đức....................................7 2.1. Về bản chất...............................................................................7 2.2. Về phương thức điều chỉnh con người.............................8 2.3. Về kết quả đạt được...............................................................8 2.4. Về tính bền vững.....................................................................9 III. PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC TRONG CÁC LĨNH VỰC....10 Pháp luật và đạo đức trong kinh doanh..................................10 1.1. Tình hình kinh tế, đời sống doanh nghiệp......................10 1.2. Vai trò của đạo đức và pháp luật trong kinh doanh...10 1.3. Kết luận ……………………………………………………….15 2. Pháp luật và đạo đức trong ngành y ........................................16 3. Pháp luật và đạo đức trong văn hóa........................................19 4. Pháp luật và đạo đức trong nhà trường....................................21 4.1. Thực trạng hiện nay...............................................................21 4.2. Nguyên nhân và sự cần thiết của việc giáo dục pháp luật và đạo đức trong nhà trường..............................................21 LỜI KẾT.......................................................................................................23 I. KHÁI QUÁT VỀ PHÁP LUẬT, ĐẠO ĐỨC VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CHÚNG. 1. Khái niệm. 1.1. Pháp luật là gì? Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự, là công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội do Nhà nước ban hành và bảo vệ, thể hiện ý chí của giai cấp cầm quyền và được thực hiện bằng các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội đều có một kiểu Nhà nước và một kiểu pháp luật tương ứng. Lịch sử xã hội loài người đã trải qua 5 hình thái xã hội khác nhau,và có các kiểu pháp luật chủ nô, pháp luật phong kiến, pháp luật tư sản và pháp luật xã hội chủ nghĩa. Tuy xã hội cộng sản nguyên thủy chưa có nhà nước cũng chưa hề biết đến pháp luật là gì, nhưng cũng đã có một trật tự nhất định cho cuộc sống cộng đồng; trật tự xã hội đó hình thành trên các cơ sở chuẩn mực xã hội như tập quán, tín điều tôn giáo, đạo đức… cũng mang tính quyền lực, nhưng theo Mác thì đó chỉ là quyền lực xã hội chứ không phải là pháp luật vì nó nhằm phục vụ cho cả cộng đồng. Pháp luật hoàn toàn không phải là sản phẩm thuần túy của lý tính hay bản tính tự nhiên phi giai cấp của con người như học thuyết pháp luật tự nhiên quan niệm. Theo Mác – Ph.Ăngghen phân tích thì pháp luật chỉ phát sinh, tồn tại và phát triển trong xã hội có giai cấp, có Nhà nước; bản chất của pháp luật thể hiện ở tính giai cấp của Nhà nước. Tuy nhiên, pháp luật cũng mang tính xã hội, bởi vì ở mức độ nhất định, nó phải thể hiện và bảo đảm những yêu cầu chung của xã hội về văn hóa, phúc lợi, môi trường sống… Về mặt này thì pháp luật xã hội chủ nghĩa có sự thống nhất giữa tính giai cấp và tính xã hội. Pháp luật còn là một bộ phận quan trọng của cấu trúc thượng tầng xã hội. Nó do cơ sở hạ tầng quyết định, nhưng có tác động trở lại đối với cơ sở hạ tầng. Nếu như pháp luật phản ánh đúng đắn các quy luật vận động và phát triển của xã hội, nhất là các quy luật kinh tế thì pháp luật sẽ có tác động tích cực đối với phát triển kinh tế - xã hội. Ngược lại, pháp luật sẽ kìm hãm sự phát triển đó. Pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị, được thể hiện thành luật lệ. Như vậy, có nghĩa pháp luật "là biện pháp chính trị". Điều này được C. Mác và Ph. Ăng-ghen khái quát khi nói về pháp luật tư sản rằng, pháp quyền của các ông chỉ là lý trí của giai cấp tư sản đề lên thành luật pháp, cái ý chí mà nội dung trong đó là do những điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp quyết định. Pháp luật đã trở thành hình thức thể hiện tập trung, trực tiếp chính trị của giai cấp cầm quyền, là một công cụ sắc bén thể hiện quyền lực của Nhà nước thực hiện những yêu cầu, mục đích, nội dung chính trị của nó. Do đó, Nhà nước nào, pháp luật ấy. Những thuộc tính cơ bản của pháp luật là tính quy phạm, tính cưỡng chế, tính khách quan, tính Nhà nước, tính hệ thống và tương đối ổn định. 1.2. Đạo đức là gì? Đây là một trong những câu hỏi đã làm bận lòng biết bao nhà ngiên cứu trên thế giới ở mọi thời đại. Hàng ngàn, hàng ngàn ý kiến, định nghĩa đã được nếu ra xoay quanh chủ đề này. Và rồi hàng ngàn, hàng ngàn ý kiến, định nghĩa tiếp theo về chủ đề này cũng đã và đang được nêu ra trong những năm tiếp theo. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã không đưa ra định nghĩa trực tiếp về đạo đức mà sử dụng cách đối lập giữa các sự việc, hiện tượng để nêu khái niệm đạo đức: “Đạo đức, ngày trước thì chỉ trung với vua, hiếu với cha mẹ. Ngày nay, thời đại mới, đạo đức cũng phải mới. Phải trung với nước. Phải hiếu với toàn dân, với đồng bào”(1)... Người cũng lấy sự thống nhất giữa quyền lợi và nghĩa vụ của công dân để định nghĩa đạo đức công dân: “Tuân theo pháp luật nhà nước, tuân theo kỷ luật lao động, giữ gìn trật tự chung, đóng góp (nộp thuế) đúng kỳ, đúng số..., hăng hái tham gia công việc chung, bảo vệ tài sản công cộng, bảo vệ Tổ quốc”(2). Ở đây chúng ta có thể hiểu một cách chung nhất rằng: Đạo đức là hệ thống những chuẩn mực xã hội, những tiêu chuẩn, nguyên tắc nhằm điều chỉnh hành vi đối xử giữa con người với con người, giữa cá nhân với gia đình, tập thể, với xã hội… Chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội. Đạo đức không chỉ là các giá trị trong quan hệ giữa người và người, giữa con người với xã hội, mà còn là tính tự trọng, sự tự ý thức về danh dự, nhân phẩm mỗi con người. Như vậy, đạo đức là cái tốt ở bên trong nhưng được đánh giá bằng biểu hiện ở bên ngoài. Chúng ta khẳng định được là đạo đức không phải là hành vi hay lời nói bên ngoài. Đạo đức chỉ chi phối hành vi và lời nói bên ngoài ấy. Điều đó chứng tỏ rằng đạo đức chính là cái gốc của những hành vi, lời nói tốt đẹp bên ngoài. Ngoài ra đạo đức còn mang tính giai cấp. Đạo đức chiếm vị trí chi phối, giữ địa vị thống trị đạo đức xã hội là đạo đức của giai cấp cầm quyền. 2. Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức. Theo quan điểm của C. Mác và Ph.Ăng-ghen, việc nghiên cứu đạo đức nếu chỉ đơn thuần xuất phát từ các mối quan hệ kinh tế thì sẽ không thể làm sáng tỏ bản chất và đặc trưng của đạo đức, mà còn cần phải nghiên cứu nó trong sự tác động qua lại với các hình thái ý thức xã hội khác, như chính trị, pháp luật, kinh tế, khoa học, văn hoá nghệ thuật... Với tư cách một hình thái ý thức xã hội, đạo đức không phải là kết quả do tác động của một yếu tố riêng biệt, duy nhất nào. Tính phức tạp, thống nhất và biện chứng trong sự phát triển của nó luôn gắn liền với nhiều tác động lớn, trong đó quan hệ giữa đạo đức và pháp luật là đáng chú ý hơn cả. Bất kỳ một giai cấp nào, một nhà nước của giai cấp cầm quyền nào cũng đều có ý thức trong việc sử dụng hai hình thái ý thức này phục vụ cho lợi ích của mình. Thông thường, pháp luật, đạo đức là của một giai cấp cụ thể nào đó trong một hình thái xã hội cụ thể nào đó. Chúng là các hệ thống những nguyên tắc, quy tắc, quy phạm chung tham gia quy định, điều chỉnh các hành vi và hoạt động xã hội của con người, nhằm bảo vệ lợi ích kinh tế, lợi ích chính trị của giai cấp thống trị. Pháp luật có vai trò bảo vệ, duy trì và củng cố một kiểu đạo đạo nhất định; ngược lại, đạo đức cũng có tác dụng củng cố, bảo vệ hệ thống pháp luật nhất định. Đấy chính là nghệ thuật của quyền lực chính trị. Pháp luật phải dựa trên đạo đức, là chuẩn của đạo đức, pháp luật và đạo đức gắn bó chặt chẽ, bổ sung cho nhau. Đạo đức là để hành động, hành động thì phải có chuẩn đích rõ ràng, phải có kỷ luật thúc đẩy. Cho nên, nếu đạo đức là gốc của pháp lý, thì pháp lý là chuẩn của đạo đức. Pháp luật và đạo đức đều là những chuẩn mực giá trị định hướng cho hành động của con người. Đạo đức là cái nền thì pháp luật đảm bảo cho chuẩn mực đạo đức được thực hiện và bảo vệ nếu bị vi phạm. Chuẩn mực cao nhất của đạo đức phong kiến là tôn quân (vua) tuyệt đối thì vua có quyền tuyệt đối, kể cả quyền đứng trên pháp luật và giết vua là tội nặng nhất trong pháp luật phong kiến. Còn trong xã hội ngày nay nếu vi phạm pháp luật, sẽ bị chính tòa án lương tâm và tòa án pháp quyền xử lý. Bản chất của sự kết hợp pháp luật và đạo đức trong quản lý xã hội của nhà nước chính là phát huy thế mạnh và khắc phục hạn chế của hai công cụ pháp luật và đạo đức. Ở phương Tây có câu thành ngữ: “Cuộc đi săn không đáng sợ bằng lúc chia phần”, cho thấy phương Tây đề cao pháp luật hơn đạo đức, kết quả là xã hội nhiều luật nhưng đạo đức thì ít đến tối thiểu, ngay cả hôn nhân cũng là kết quả của những tính toán về lợi ích. Điều đó được thể hiện qua các vụ ly lị, chia tay, họ thường đấu tranh, kiện tụng, nhờ luật sư can thiệp để có được phần tài sản “bồi thường” sao cho lớn nhất. Còn ở phương Đông, đạo đức lại là yếu tố được đề cao hơn, điển hình là trong trường phái Nho gia (Khổng – Mạnh) hay trong các bài giảng đạo của Phật giáo. Vai trò của pháp luật đối với đạo đức, trước hết là đảm bảo thực hiện đạo đức:“Để thực hiện chữ Liêm, trước hết phải có tuyên truyền và kiểm soát, giáo dục và pháp luật từ trên xuống, từ dưới lên trên”. Nếu đạo đức bị xâm hại thì pháp luật cũng bị vi phạm: “Do bất liêm mà đi đến tội ác, trộm cắp”, khi đó pháp luật thể hiện vai trò không thể thay thế trong việc đưa xã hội trở lại ổn định, đồng thời khôi phục, bảo vệ đạo đức: “Pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm”(3). II. ĐẶC ĐIỂM VÀ TÍNH CHẤT CỦA ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP LUẬT: 1. Sự giống nhau của pháp luật và đạo đức. Như đã trình bày ở trên, pháp luật và đạo có sự thống nhất với nhau ở mục tiêu của nó là điều chỉnh hành vi của con người để bảo đảm hoạt động của xã hội. Một người vi phạm đạo đức thường là vi phạm pháp luật và ngược lại vi phạm pháp luật cũng chính là vi phạm đạo đức. Đạo đức và pháp luật không phải tự nhiên mà có, bỗng dưng mà xuất hiện. Để con người có được ý thức đạo đức và ý thức pháp luật đều là kết quả giáo dục và tiếp thu lâu dài. Giáo dục cho con người có đạo đức cũng là giáo dục cho con người biết tôn trọng pháp luật, kỷ cương phép nước. Giáo dục pháp luật cho con người cũng là để bảo vệ giá trị đạo đức, nhân văn, truyền thống và nâng cao nhận thức con người. Tuy nhiên đạo đức và pháp luật có những đặc điểm và tính chất khác nhau trong quá trình điều chỉnh hành vi con người. Điều đó sẽ được nêu ở phần dưới đây. 2. Sự khác biệt giữa đạo đức và pháp luật. Pháp luật là cả một hệ thống quy tắc, nguyên tắc được thể hiện bằng các văn bản, đạo luật, sắc lệnh, nghị định..., được xây dựng trên cơ sở đời sống xã hội nhằm định hướng và điều chỉnh hành vi của mọi thành viên trong xã hội. Đằng sau hệ thống pháp luật là cả bộ máy Nhà nước đồ sộ cùng với những cơ quan đặc biệt khác để bảo đảm thực thi pháp luật.. Trong khi đó, đạo đức là những gì thuộc về bên trong con người, trong ý thức và tiềm thức, nó không được quy định trên văn bản hay đạo luật…mà đạo đức của xã hội lại được bắt đầu ngay từ khi loài người bước vào lịch sử của mình và ban đầu, nó được biểu hiện thông qua phong tục, tập quán nguyên thủy. Như vậy, pháp luật và đạo đức có những điểm biểu hiện sự khác biệt, có sự vận động tương đối độc lập, mặc dù đều mang tính giai cấp trong xã hội có giai cấp. 2.1. Về bản chất Đạo đức mang tính chung, bao quát nhằm định hướng cho con người. Vì vậy đòi hỏi con người tự tìm tòi, tự khám phá và qua dư luận mà tự điều chỉnh hành vi của mình.Trái lại pháp luật thông qua những pháp quy, quy chế, điều chỉnh hành vi con người rất rõ và cụ thể. Đạo đức có lời khuyên: “Lá lành đùm lá rách” hay “Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ”, tức là muốn khuyên con người nên giúp đỡ nhau những lúc hoạn nạn, khó khăn. Thế khi nào biết họ khó khăn và cần sự giúp đỡ? Để biết được điều đó, con người phải tự tìm hiểu chuẩn mực chung về đạo đức của xã hội đương thời để tự điều chỉnh hành vi của mình sao cho đúng, sao cho phù hợp. Nhưng pháp luật thì quy định một cách rõ ràng rằng: chứa chấp bao che tội phạm là vi phạm pháp luật, hoặc thấy người bị nạn mà không cứu giúp nếu xảy ra hậu quả nghiêm trọng sẽ bị truy tố theo quy định của pháp luật… Như vậy pháp luật ở đây không phải định hướng như đạo đức mà nó quy định hành vi con người một cách rõ ràng và cụ thể. Tuy nhiên pháp luật cũng chịu ảnh hưởng của các đạo đức khác trong xã hội. Cái cốt lõi, chung nhất của giá trị đạo đức và pháp luật là lẽ công bằng. 2.2. Về phương thức điều chỉnh hành vi con người. Đạo đức và pháp luật khác nhau ở chỗ đạo đức thì tình cảm và mềm dẻo, pháp luật thì bắt buộc và cứng rắn. Bởi khi nhắc đến đạo đức là ta nghĩ ngay đến với sự khen chê về một vấn đề nào đó. Ví dụ như thầy cô giáo khen một học sinh giỏi, chăm ngoan và luôn giúp đỡ bạn bè trong học tập: “Em này có đạo đức tốt”, hay mọi người hay mắng những đứa trẻ ngỗ nghịch, quậy phá: “Tụi nó đạo đức không tốt”. Bằng tập thể, xã hội, mọi người xung quanh để điều chỉnh hành vi của con người. Nếu hành vi đó là tốt con người tiếp tục duy trì và phát huy, còn nếu là xấu, là không tốt con người nên thay đổi hành vi đó. Nhưng con người có thay đổi hay không là tuỳ suy nghĩ và nhân cách mỗi người. Nhưng pháp luật lại khác. Nhắc đến pháp luật là nhắc đến sự việc có tính bắt buộc, muốn hay không con người cũng phải thay đổi hành vi của mình cho phù hợp với pháp luật, xã hội. Cá nhân không có quyền lựa chọn. Bởi khi không thực hiện đúng pháp luật thì đó là vi phạm pháp luật, mà đã vi phạm pháp luật thì sẽ bị xử lý theo luật pháp. Ví dụ: Việc hút thuốc lá nơi công cộng hay bất cứ nơi đâu, không những có hại cho sức khỏe của bản thân mà còn có gây ảnh hưởng xấu cho sức khỏe của những người xung quanh. Nếu vẫn cứ hút thuốc nơi đông người như thế thì đó là coi thường sức khỏe, tính mạng người khác, việc làm đó là thiếu đạo đức, thiếu ý thức, không nên. Cái “không nên” ở đây có nghĩa rằng điều đó vẫn có thể xảy ra. Nhưng về mặt pháp luật thì bắt buộc và quy định rằng: “Không được hút thuốc nơi công cộng”. Nếu như anh cố tình hay chỉ vô tình vi phạm thì sẽ bị xử lý theo luật pháp đã định. Tóm lại, đạo đức thì tình cảm và mềm dẻo, linh động trong từng trường hợp, còn pháp luật thì lạnh lùng và cứng rắn. 2.3. Về kết quả đạt được. Để có được hành vi đạo đức đúng đắn, chuẩn mực, cần trải qua cả một quá trình giáo dục lâu dài và lặp lại nhiều lần của gia đình, của xã hội cho đến lúc con người tự ý thức được hành động của mình và tự điều chỉnh hành vi của mình sao cho đúng mực. Ngược lại, pháp luật lại đạt được kết quả nhanh chóng khi thực hiện. Ví dụ: Để những bạn học sinh biết về việc không nên lái xe khi chưa đủ tuổi là một kết quả của sự giáo dục lâu dài của gia đình, của nhà trường, của xã hội, giúp cho những bạn trẻ ý thức được và thực hiện đúng. Trái lại thì pháp luật lại đòi hỏi kết quả ngay lập tức. Hành vi đó phải được điều chỉnh ngay nếu không thì chính các bạn trẻ, bố mẹ hay người giám sát phải chịu trách nhiệm vì đã để các bạn vi phạm luật giao thông đường bộ. 2.4. Về tính bền vững. Như đã nói ở trên, đạo đức là kết quả của sự giáo dục lâu dài, khi con người ý thức được hành vi họ sẽ tự nguyện, tự giác điều chỉnh hành vi đó. Điều chỉnh đây là tự thân vận động, là nội lực của người biểu hiện hành vi, không ai có thể tác động trực tiếp vào hành động. Do đó một hành vi đạo đức có được, sẽ có tính bền vững ít thay đổi; vì vậy mới có “đạo đức truyền thống”. Ngược lại, pháp luật là sự cưỡng bức, ép buộc, sự tác động từ bên ngoài, dù muốn hay không thì người đó cũng phải thay đổi hành vi của mình để đúng với pháp luật. Sự thay đổi này có thể là không bền vững vì nó có thể lập lại ở nơi này hay nơi khác nếu vắng bóng pháp luật. Ví dụ: Đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông. Để mọi người hiểu biết và hành động cho đúng thì đó là kết quả giáo dục và tuyên truyền. Nhưng khi con người đã hiểu và tự điều chỉnh hành vi của mình thì họ sẽ không bao giờ mắc sai lầm về chuyện không đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông. Hành vi đó trở thành bền vững. Với góc độ pháp luật thì hành động không đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông là vi phạm luật giao thông đường bộ, lập tức pháp luật có biện pháp xử lý, người vi phạm phải điều chỉnh ngay hành vi của mình, phải nộp tiền phạt… Nhưng nếu ở đâu vắng bóng cảnh sát giao thông thì hành động không đội mũ bảo hiểm có thể lại xảy ra. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã đưa ra dự báo rằng, pháp luật sẽ mất đi cùng với sự xóa bỏ xã hội có giai cấp. Đến lúc đó, đạo đức sẽ "ngự trị" hoàn toàn, nó thay thế luật pháp để điều hòa các hành vi, hoạt động của con người. Tất nhiên, từ giờ cho tới lúc đó còn là một quá trình phát triển rất lâu dài. Nhưng, có thể đưa ra một nhận xét rằng, phạm vi điều chỉnh của đạo đức rộng hơn so với pháp luật. Trách nhiệm đạo đức được biểu hiện thông qua dư luận xã hội. Dư luận xã hội không chỉ lên án những hành vi phản đạo đức, mà còn cổ vũ, khuyến khích những hành vi tích cực biểu hiện nếp sống văn hóa, văn minh của xã hội hiện đại. Dựa vào đặc tính này có thể đưa ra một kết luận rằng: xét dưới góc độ chuẩn mực xã hội, pháp luật là đạo đức tối thiểu, còn đạo đức là pháp luật tối đa. III. PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC TRONG CÁC LĨNH VỰC CỦA ĐỜI SỐNG XÃ HỘI. Pháp luật và đạo đức trong kinh doanh. Tình hình kinh tế, đời sống doanh nghiệp. Nền kinh tế thế giới hiện nay nói chung và Việt Nam nói riêng đã và đang nhường chỗ cho nền kinh tế thị trường đầy sôi động và hấp dẫn với mọi người. Nhiều sản phẩm hàng hóa thủ công nghiệp ra đời với sự phong phú và đa dạng nhằm phục vụ cho cuộc sống của con người cùng với đó là những dịch vụ vui chơi, giải trí. Cuộc sống của con người ngày càng được hoàn thiện và đầy đủ hơn.Song cũng vì thế mà xã hội ngày càng nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực.Nổi cộm lên là vấn đề vi phạm pháp luật và suy thoái đạo đức trong xã hội nói chung và từng lĩnh vực của đời sống nói riêng. Trong suốt quá trình hình thành và phát triển lâu dài của Nhà nước,pháp luật đã phát huy được sức mạnh của mình trong việc giữ gìn sự ổn định xã hội trong từng giai đoạn phát triển của nó. Pháp luật đã trở thành một bộ phận không thể thiếu của Nhà nước trong quá trình quản lí xã hội,nó có vai trò đặc biệt quan trọng trong các lĩnh vực kinh tế,đời sống-xã hội.Trong đó không thể không nhắc đến vai trò của pháp luật trong kinh doanh-một hoạt động kinh tế sôi nổi của nước ta trong thời đại công nghiệp hóa,hiện đại hóa hiện nay. Vai trò của đạo đức và pháp luật trong kinh doanh. Pháp luật đóng vai trò vô cùng quan trọng trong hoạt động kinh doanh. Thứ nhất, pháp luật có vai trò đặc biệt đối với tự do kinh doanh vì nó biến nhu cầu kinh doanh thành một quyền pháp định và thậm chí cao hơn, là quyền Hiến định. Nhu cầu kinh doanh là một nhu cầu mang tính xã hội. Vì vậy, biến nhu cầu xã hội này thành quyền Hiến định hay pháp định là tiền đề thực hiện tự do kinh doanh. Như chúng ta đã thấy, ngay cả trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung trước đây, sự tồn tại nhu cầu tự do kinh doanh là điều không thể phủ nhận, mặc dù sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất lúc đó rất bị hạn chế và phân biệt đối xử. Tuy nhiên, do những lý do khác nhau, tự do kinh doanh không được pháp luật công nhận và thực tế nó không tồn tại. Trong các văn bản pháp luật cũng như các văn kiện chính thức của Đảng và Nhà nước ta lúc đó khó có thể tìm thấy khái niệm tự do kinh doanh, tự do sở hữu tư liệu sản xuất. Khó có thể có sự tồn tại kinh doanh đối với cá nhân khi sở hữu về tư liệu sản xuất chỉ được áp dụng đối với một số hộ kinh doanh cá thể, quy mô không lớn. Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong kinh doanh Thứ hai, pháp luật thể chế hóa các đòi hỏi của tự do kinh doanh. Như chúng ta biết, tự do kinh doanh có những đòi hỏi riêng của nó. Kinh doanh là hành vi mang tính xã hội hóa cao của chủ thể. Muốn thực hiện hành vi này, chủ thể cần phải có những điều kiện khách quan và chủ quan nhất định. Khác với nhiều hành vi đơn giản khác, kinh doanh hàm chứa những đòi hỏi phong phú, đa dạng và dưới nhiều phương diện khác nhau. Thứ ba, khi tiến hành kinh doanh, chủ thể phải thực hiện một hành vi mang tính chất tiền đề khá quan trọng. Đó là hành vi đăng ký kinh doanh. Về bản chất, đăng ký kinh doanh được xem xét dưới hai góc độ: thứ nhất, hành vi của chủ thể nhằm thực hiện nhu cầu kinh doanh của mình; và thứ hai, đó là hành vi quản lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Với tư cách hành vi của chủ thể thì đây được coi là việc chủ thể muốn xác lập quyền tự do kinh doanh của mình. Thực tế ở nước ta cho thấy, quyền tự do kinh doanh cho dù được khẳng định trong luật hay Hiến pháp thì việc thực hiện nó phụ thuộc rất nhiều vào cơ chế đăng ký kinh doanh.. Cơ chế đăng ký kinh doanh được xác lập trong Luật Công ty (1990) là ví dụ cho cách tiếp cận này. Ngược lại, việc đăng ký kinh doanh sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các cá nhân, tổ chức thực hiện quyền tự do kinh doanh nếu nó được xây dựng trên quan điểm vì sự tăng trưởng của nền kinh tế. Do Nhà nước không thể không thực hiện hoạt động quản lý đối với doanh nghiệp, nên hành vi đăng ký kinh doanh là tất yếu. Hệ thống pháp luật nước ta đang tìm mọi cách tiến gần đến một cơ chế như vậy. Bên cạnh tầm quan trọng của pháp luật trong kinh doanh, đạo đức kinh doanh cũng là điều kiện tiên quyết để duy trì doanh nghiệp và hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế hiện đại. Đạo đức kinh doanh là tất cả những quy tắc, tiêu chuẩn, chuẩn mực đạo đức hoặc luật lệ để cung cấp chỉ dẫn về hành vi ứng xử chuẩn mực và sự trung thực (của một tổ chức) trong những trường hợp nhất định. Đạo đức kinh doanh là một vấn đề mới ở Việt Nam. Các vấn đề như đạo đức kinh doanh, văn hóa kinh doanh, văn hóa doanh nghiệp… mới chỉ nổi lên kể từ khi Việt Nam thực hiện chính sách Đổi mới và tham gia vào quá trình quốc tế hóa và tòan cầu hóa vào năm 1991. Trước đó, trong thời kinh tế kế hoạch tập trung, những vấn đề này chưa bao giờ được nhắc tới. Trong thời kỳ bao cấp, mọi hoạt động kinh doanh đều do Nhà nước chỉ đạo,vì thế những hành vi có đạo đức được coi là những hành vi tuân thủ lệnh cấp trên. Do khan hiếm hầu hết hàng hóa tiêu dùng, để mua được đã là rất khó, nên không ai có thể phàn nàn về chất lượng hàng hóa. Vì cầu vượt quá cung, chất lượng phục vụ trong mạng lưới cung cấp vô cùng thấp nhưng ít người dám than phiền. Vào thời gian đó, các ngành công nghiệp của Việt Nam chưa phát triển, có rất ít nhà sản xuất và hầu hết đều thuộc sở hữu nhà nước,nên không cần quan tâm đến vấn đề thương hiệu hay sở hữu trí tuệ. Hầu hết lao động đều làm việc cho nhà nước, nơi mà kỷ luật và chế độ lương thưởng đều thống nhất và đơn giản.Tìm được việc làm trong cơ quan Nhà nước là rất khó khăn nên không có chuyện đình công hay mâu thuẫn lao động. Mọi hoạt động trong xã hội đều phải tuân thủ quy định của Nhà nước nên những phạm trù trên là không cần thiết. Tuy nhiên, kể từ khi Việt Nam tham gia quốc tế hóa, có nhiều phạm trù mới được xuất hiện như: quyền sở hữu trí tuệ, an toàn thực phẩm, đình công, thị trường chứng khoán… và vì thế khái niệm đạo đức kinh doanh trở nên phổ biến hơn trong xã hội. Đạo đức kinh doanh tạo môi trường thuận lợi để doanh nghiệp tồn tại và phát triển bền vững. Công trình của các nhà nghiên cứu cho thấy, trong vòng 11 năm, những công ty "đạo đức cao" đã nâng được thu nhập của mình lên tới 682% (trong khi những công ty đối thủ thường thường bậc trung về chuẩn mực đạo đức chỉ đạt được 36%). Giá trị cổ phiếu của những công ty "đạo đức cao" trên thị trường chứng khoán tăng tới 901% (còn ở các đối thủ "kém tắm" hơn, chỉ số này chỉ là 74%). Lãi ròng của các công ty "đạo đức cao" ở Mỹ trong 11 năm đã tăng tới 756% (1%). Đạo đức trong kinh doanh góp phần vào sự thành công của doanh nghiệp Như vậy, đầu tư vào cơ sở hạ tầng đạo đức trong tổ chức sẽ mang lại cơ sở cho tất cả các hoạt động kinh doanh quan trọng của tổ chức cần thiết để thành công. Có nhiều minh chứng cho thấy việc phát triển các chương trình đạo đức có hiệu quả trong kinh doanh không chỉ giúp ngăn chặn các hành vi sai trái mà còn mang lại những lợi thế kinh tế. Mặc dù các hành vi đạo đức trong một tổ chức là rất quan trọng xét theo quan điểm xã hội và quan điểm cá nhân, những khía cạnh kinh tế cũng là một nhân tố cũng quan trọng không kém. Một trong những khó khăn trong việc dành được sự ủng hộ cho các ý tưởng đạo đức trong tổ chức là chi phí cho các chương trình đạo đức không chỉ tốn kém mà còn chẳng mang lại lợi lộc gì cho tổ chức. Chỉ riêng đạo đức không thôi, sẽ không thể mang lại những thành công về tài chính, nhưng đạo đức sẽ giúp hình thành và phát triển bền vững văn hóa tổ chức, phục vụ cho tất cả các cổ đông. Đạo đức kinh doanh còn góp phần vào sự vững mạnh của nền KTQD. Các nhà kinh tế học thường đặt câu hỏi tại sao một số nền kinh tế thị trường mang lại năng suất cao, công dân có mức sống cao, trong khi đó các nền kinh tế khác lại không như thế. Các thể chế xã hội, đặc biệt là các thể chế thúc đẩy tính trung thực, là yếu tố vô cùng quan trọng để phát triển sự phồn vinh về kinh tế của một xã hội. Các nước phát triển ngày càng trở nên giàu có hơn vì có một hệ thống các thể chế, bao gồm đạo đức kinh doanh, để khuyến khích năng suất. Trong khi đó, tại các nước đang phát triển, cơ hội phát triển kinh tế và xã hội bị hạn chế bởi độc quyền, tham nhũng, hạn chế tiến bộ cá nhân cũng như phúc lợi xã hội. Chúng ta tiến hành so sánh tỷ lệ tham nhũng trong các thể chế xã hội khác nhau, Nigêria và Nga có tỷ lệ tham nhũng cao trong khi đó Canada và Đức có tỷ lệ tham nhũng thấp, ta có thể thấy được điểm khác biệt chính giữa các cấp độ về sự vững mạnh và ổn định kinh tế của các nước này chính là vấn đề đạo đức. Điểm khác biệt giữa sự vững mạnh và ổn định về kinh tế của các nước này cho ta một minh chứng là đạo đức đóng một vai trò chủ chốt trong công cuộc phát triển kinh tế. Tiến hành kinh doanh theo một cách có đạo đức và có trách nhiệm tạo ra niềm tin và dẫn tới các mối quan hệ giúp tăng cường năng suất và đổi mới. Tóm lại, chúng ta có thể thấy vai trò quan trọng của đạo đức kinh doanh đối với các cá nhân, đối với doanh nghiệp và đối với xã hội và sự vững mạnh của nền kinh tế quốc gia nói chung. Các cổ đông muốn đầu tư vào các doanh nghiệp có chương trình đạo đức hiệu quả, quan tâm đến xã hội và có danh tiếng tốt. Các nhân viên thích làm việc trong một công ty để họ có thể tin tưởng được và khách hàng đánh giá cao về tính liêm chính trong các mối quan hệ kinh doanh. Môi trường đạo đức của tổ chức vững mạnh sẽ đem lại niềm tin cho khách hàng và nhân viên, sự tận tâm của nhân viên và sự hài lòng của khách hàng, mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Tư cách công dân của doanh nghiệp cũng có mối quan hệ tích cực với lợi nhuận mang lại của các khoản đầu tư, tài sản và tăng doanh thu của doanh nghiệp. Đạo đức còn đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển và thịnh vượng của một quốc gia. Đạo đức kinh doanh nên được tập thể quan tâm trong khi lập kế hoạch chiến lược như các lĩnh vực kinh doanh khác, như sản xuất, tài chính, đào tạo nhân viên, và các mối quan hệ với khách hàng. Pháp luật ngày càng đóng vai trò quan trọng trong đời sống của con người. mọi khía cạnh trong văn hoá xã hội đều được quản lí chặt chẽ bằng một công cụ hữu hiệu đó là pháp luật. Bên cạnh đó vẫn còn những việc gay nhức nhối trong dư luận trong thời gian gân đây. Vấn đề tham nhũng hối lộ vẫn là đề tài muôn thuở được đưa lên các trang báo. Câu chuyện xoay quanh Nguyễn Bá Thanh, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Thành ủy kiêm Chủ tịch Hội đồng nhân dân thành phố Đà Nẵng (ĐN). Nguyễn Bá Thanh được xem là nhân vật có công lớn trong việc phát triển thành phố ĐN, lập lại kỷ cương thành phố, biến ĐN thành địa phương cho các tỉnh thành khác noi theo và được Thủ tướng Phan Văn Khải “biểu dương”. Câu chuyện bắt đầu vào đầu năm 2000, dư luận ở Việt Nam đề cập đến hàng loạt sai phạm xảy ra ở Công ty hợp doanh Xây lắp và kinh doanh của Quảng Nam Đà Nẵng (QNĐN). Một thời gian ngắn sau đó thì ông Phạm Minh Thông, giám đốc công ty bị khởi tố. Sau một thời gian điều tra Nguyễn Bá Thanh cũng phải ra đứng trước vành móng ngựa Tình trạng các doanh nghiệp, công ty làm ăn gian dối, lấy lòng tin của người tiêu dùng ra làm trò đùa, sản xuất những mặt hàng kém chất lượng như: trộn bột đá vào bánh kẹo để được nhiều kẹo hơn mà không tốn nhiều chi phí, sản xuất bánh Trung Thu bằng nguyên vật liệu không đảm bảo chất lượng. rẻ tiền nhưng chiếc bánh thì thôi rồi! Hay việc làm chà bông từ bã sắn dây bỏ đi… cũng đang làm rúng động dư luận. Ôi, những việc làm như vậy đang rất nhiều trong xã hội và mới chỉ một phần nhỏ bị báo chí, dư luận phát hiện ra. Thật buồn cho những người tiêu dùng khi tin quá vào các sản phảm tưởng chừng như rất an toàn. Kết luận. Trên đây chỉ là một trong số rất ít những vụ tham nhũng được đưa ra ánh sang.Khi đạo đức kinh doanh mất đi thì vấn đề suy thoái chỉ còn là sớm muộn.Khi đó pháp luật quả la công cụ sắc bén buộc những công ty phi pháp phải chịu hình phạt thích đáng Như vậy,cả pháp luật và đạo đức đều có vai trò hết sức quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển bền vững của các doanh nghiệp VN trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Pháp luật và đạo đức trong ngành y. Trong cuộc sống của chúng ta, tất cả mỗi lĩnh vực đều phải tuân theo pháp luật và y khoa cũng không là một ngoại lệ. Đối với y khoa thì việc tuân theo pháp luật lại càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết vì đây là lĩnh vực liên quan dến sức khỏe, tính mạng…những vấn đề nghiêm trọng đối với con người!!!Thế nhưng hiện nay, bên cạnh màng lưới y tế nhà nước, các cơ sở y tế tư nhân cũng đang phát triển ồ ạt, thiếu qui hoạch và quản lý. Nhiều biểu hiện tiêu cực trong hành nghề cả công lẫn tư và đạo lý, y đức đang có chiều hướng sa sút nghiêm trọng. Chính vì vậy, việc hoàn chỉnh những văn bản mang tính pháp lý trong hành nghề y (đối với tất cả loại hình cả công và tư, hợp tác và có vốn nước ngoài...) và soạn thảo “Luật của người hành nghề y” trở nên cấp thiết. Đó chính là các qui định về nghĩa vụ và quyền lợi chính đáng, tôn chỉ và đạo đức hành nghề dựa theo y đức truyền thống của cả Đông và Tây, và những phương châm nguyên tắc của Đảng và Nhà nước đối với ngành y tế. Đồng thời phải vận dụng các qui luật kinh tế - xã hội hiện có khi chấp nhận kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Người hành nghề y sẽ có điều kiện giúp đỡ nhau học tập, cập nhật được các tiến bộ của y học để đảm bảo các chăm sóc tốt nhất cho người bệnh, cùng tự nguyện hành nghề đầy đủ y đức, cùng nhau tự giám sát và xử lý những đúng sai trong nghề nghiệp, trên cơ sở pháp luật chung. “Luật của người hành nghề y” do người hành nghề y tự soạn thảo cho chính mình. Nếu chỉ một số làm sai, nội bộ phải cùng nhau chỉ rõ và giúp nhau tìm cách sửa chữa, đó là tự quản lý và tự có trách nhiệm. Mọi vi phạm sẽ do hội đồng khoa học kỹ thuật và hội đồng khen thưởng kỷ luật của hội ở tỉnh thành xử lý, cao hơn có hội đồng quốc gia xem xét. Nhưng vượt phạm vi của hội phải xử lý theo qui định của pháp luật. “Lương y như từ mẫu”_ một câu nói tưởng chừng như ngắn gọn nhưng lại mang những ý nghĩ sâu xa và hết sức to lớn, câu nói mà dường như dối với mọi y bác sĩ dều xem đó chính là phương châm nghề nghiệp, là thước đo tình người trong sự nghiệp của mình. Đã có không biết bao nhiêu những vị lương y đã không quản nhọc nhằn, gian khổ hàng giờ đồng hồ để giành lấy sự sống cho người bệnh từ lưỡi đao tử thần. Cũng có những người đã dành trọn cuộc đởi của mình trong phòng thí nghiệm, lấy những chiếc kính hiển vi, ống nghiệm.. làm người bạn tri kỉ với mình cốt chỉ để thực hiện một ước mơ đầy tính nhân văn: giúp đời, giúp người. Bằng tình thương và trách nhiệm thiêng liêng-cao cả là cứu người và chăm sóc sức khỏe nhân dân, các thầy thuốc đã phải làm việc hết mình vì bệnh nhân, hoàn thành tốt trọng trách được giao mà thầy thuốc ưu tú - bác sĩ Nguyễn Hiếu Nhân (sinh năm 1955), Giám đốc Bệnh viện đa khoa huyện Tam Nông (Đồng Tháp) là một điển hình! Bác sĩ Hiếu Nhân là một người luôn cởi mở, vui tươi với mọi người; nhiệt tình - linh hoạt trong công việc đã trở thành quen thuộc với nhiều cán bộ công nhân viên chức và nhân dân huyện Tam Nông! Cơ sở vật chất, trang thiết bị thiếu thốn nên các bác sĩ về nhận nhiệm sở không quá 2 tháng là rút lui. Mỗi năm, bác sĩ Hiếu Nhân phải khám bệnh cho hàng chục ngàn lượt người dưới ánh đèn dầu tù mù vào ban đêm và ngoài khoảng 50 ca mổ dưới ánh đèn chạy máy nổ, có từ 10 đến 20 ca mổ dưới ngọn đèn "soi ếch" tranh tối - tranh sáng, giành giật lại mạng sống từ tay thần chết, rất ít trường hợp tử vong! Bằng những hình thức thiết thực, bác sĩ Hiếu Nhân còn vận động đội ngũ thầy thuốc Bệnh viện Đa khoa huyện luôn rèn luyện phẩm chất đạo đức theo 12 điều y đức và 10 điều dược đức; nỗ lực, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ chăm sóc sức khỏe nhân dân gắn với việc triển khai thực hiện tốt phong trào thi đua yêu nước, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, đẩy mạnh công tác thực hành tiết kiệm, chống tham ô lãng phí quan liêu trong toàn Bệnh viện Đa khoa huyện Tam Nông. Bác sĩ Hiếu Nhân trao đổi với phóng viên. Trải qua quá trình công tác, gắn bó với ngành y tế huyện Tam Nông, bác sĩ Nguyễn Hiếu Nhân đã đóng góp nhiều công sức, tài trí của mình cho thành tích chung của sự nghiệp phát triển ngành y tế địa phương. Bác sĩ Nguyễn Hiếu Nhân đã vinh dự được Chủ tịch Nước tặng thưởng danh hiệu "Thầy thuốc ưu tú"; Bộ y tế tặng danh hiệu Chiến sĩ thi đua của ngành; UBND tỉnh Đồng Tháp, Sở Y tế tỉnh tặng danh hiệu Chiến sĩ thi đua cùng nhiều Bằng khen hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân và đang được đề nghị tặng Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ! Bác sĩ Nguyễn Hiếu Nhân còn được cử tri tín nhiệm bầu là đại biểu HĐND huyện (4 nhiệm kỳ) và là đại biểu HĐND tỉnh Đồng Tháp nhiệm kỳ 2004 - 2012. Bác sĩ Hiếu Nhân thật xứng đáng là một "Thầy thuốc như mẹ hiền"! Chúng ta cũng sẽ thật sơ sót nếu không kể đến Lương y Phan Thị Ngọc Chiêu! Đến với Khoa nhi Bệnh viên Nguyễn Đình Chiểu, được tiếp xúc với cán bộ công nhân viên chức ở Bệnh viện và những người bệnh về điều trị ở đây, không ai không nhắc đến Bác sĩ - Thầy thuốc ưu tú, Phan Thị Ngọc Chiêu. Tính đến thời điểm này chị đã có 24 năm gắn bó với ngành y tế với các cương vị khác nhau: 14 năm làm công tác cấp cứu nhi và nội khoa, 8 năm hồi sức cấp cứu nhi và nội khoa, 2 năm cấp cứu nhi và nội nhi. Không chỉ là người tận tình cống hiến cho sự nghiệp chăm sóc sức khỏe của nhân dân, chị còn tích cực tham gia vào phong trào sáng kiến, cải tiến kỹ thuật trong lĩnh vực y tế từng bước góp phần nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh, tạo điều kiện cho người dân được hưởng nhiều lợi ích trong khám, chẩn đoán, điều trị. Năm 2008, bác sĩ Phan Thị Ngọc Chiêu đã vinh dự được nhà nước phong tặng danh hiệu Thầy thuốc ưu tú. Đây là danh hiệu cao quý được nhân dân công nhận, được Nhà nước vinh danh và phong tặng cho những cá nhân tiêu biểu của ngành y tế có y đức, lương tâm trong sáng, tận tụy với nghề, vượt qua khó khăn, thử thách để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Thế nhưng, còn tồn tại giữa xã hội những vị “lương y như từ mẫu” khiến người dân phải khổ sở và đau đầu như việc để quên bông gạc, dao mổ trong bụng bệnh nhân, hay việc nhận tiền “lót tay” của người nhà... Khi sự việc đã xảy ra, bị phát giác, họ lại chối bỏ trách nhiệm, đùn đẩy cho nhau. Những lương y ấy cần phải xem lại cái đức, cái tâm hành nghề của chính mình. Họ đã làm trái với đạo đức lại còn vi phạm luật hành nghề y! Pháp luật và đạo đức trong văn hóa Việt Nam Khi giá trị vật chất của con người ngày càng hoàn thiện,người ta luôn hướng đến những nhu cầu tốt hơn để hoàn thiện cuộc sống.trong một lối hiện đại, chạy theo giá trị của đồng tiền người ta dánh mất gí trị con người. Vài năm trở lại đây phương tiện thông tin đại chúng liên tục đưa những vụ bạo lực gia đình, bạo hành trẻ em gây bức xúc rất lớn trong xã hội. Trong quá trình làm Luật phòng chống bạo lực gia đình, mặc dầu chúng tôi chưa bao giờ có con số thống kê chính xác, nhưng những số liệu đưa ra đã cho thấy nạn bạo lực gia đình, trong đó có bạo lực trẻ em rất đáng báo động. Tình trạng trên cho thấy đạo đức xã hội đang có vấn đề. Và nó cũng cho thấy tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo trong xã hội còn nhiều. Vì nghèo, người ta tập trung lo toan cho cuộc sống là chính, việc lo cho con em khó được tới nơi tới chốn. Vụ án Hào Anh gây xôn xao dư luận thời gian qua. Ảnh: Tiến Thùy. Trong lĩnh vực bảo vệ trẻ em, Quốc hội hay Chính phủ luôn dành sự ưu tiên, quan tâm nhiều nhất. Nhưng cái sự kết nối tôi thấy chưa mạnh mẽ, vì vậy nơi này nơi kia vẫn diễn ra những vụ việc như ta thấy. Khi đạo đức đang có vấn đề, khi luật pháp chưa đủ để răn đe, và còn nhiều gia đình khó khăn như thế này thì cần sự kết nối tốt hơn giữa nhà nước với gia đình, nhà trường và xã hội. Nếu mạnh ai lấy làm thì các em sẽ không được bảo vệ một cách toàn diện. Hay vụ người chồng tạt axit vào vợ mình trên đường Đặng Nguyên Cẩn (P13, Q.6, TP.HCM) cũng đang gây xôn xao dư luận bởi sự ghen tuông quá đáng và tính dã man của vụ việc. Cũng trong năm 2010 này, dư luận cũng bị xáo trộn bởi vụ án “xác chết nữ không đầu” được phát hiện vào ngày 17/5/2010 tại sân thượng chung cư G4 phố Trung Yên 1, phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy, Hà Nội. Sát thủ chính là người tình cũ của nạn nhân, Nguyễn Đức Nghĩa, là sinh viên trường Đại học Ngoại Thương. Không ai có thể ngờ rằng, một thanh niên với gương mặt thư sinh, được học hành đầy đủ và còn là sinh viên của trường đại học danh tiếng trên cả nước lại chính là kẻ đã ra tay thủ ác, không còn nhân tính. Vụ việc đã để lại trong lòng người dân những vết thương và mối e ngại về xã hội hiện nay. Hung thủ Nguyễn Đức Nghĩa Trên đây chỉ là một vài lĩnh vực đáng chú ý nhất trong đời sống xã hội ở Việt Nam mà pháp luật và đạo đức đóng vai trò chi phối. Qua đó, chúng ta cũng thấy được rằng, để nâng cao hiệu quả quản lí xã hội, xây dựng Việt Nam thành một quốc gia phát triển, tiến bộ thì đòi hỏi các cơ quan chức năng phải nâng cao hơn nữa ý thức chấp hành luật pháp của người dân và ý thức phát huy các giá trị đạo đức đáng quý. 2. Pháp luật và đạo đức với học sinh – sinh viên. 2.1. Thực trạng hiện nay. Có không ít tấm gương học sinh, sinh viên vượt lên hoàn cảnh nghèo khó để học tập. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, hành vi lệch chuẩn của thanh thiếu niên hiện nay đang có xu hướng ngày càng gia tăng. Học sinh, sinh viên vi phạm luật giao thông, đua xe trái phép, bạo lực nhà trường, mua điểm, cờ bạc, nghiện rượu... khá phổ biến. Một số hành vi lệch chuẩn khác về mặt đạo đức như: sống hưởng thụ, chạy theo đồng tiền, xa hoa, lãng phí, lười lao động và học tập, thiếu ý thức rèn luyện, không dám đấu tranh với cái sai, thờ ơ vô cảm, vị kỷ …cũng ngày càng nhiều hơn ở đối tượng còn ngồi trên ghế nhà trường. 2.2. Nguyên nhân và sự cần thiết của việc giáo dục pháp luật và đạo đức trong nhà trường. Những hành vi xấu ấy là kết tinh, kết quả sự giáo dục không đồng bộ giữa gia đình, nhà trường và xã hội. Sự thiếu quan tâm của gia đình, xã hội là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự lệch lạc trong một bộ phận giới trẻ hiện nay. Trong đó, tình trạng tổ ấm gia đình bị tan nát, cách nuôi dạy con phản khoa học và sự thiếu gương mẫu của các bậc cha mẹ là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng thanh thiếu niên phạm tội. Bên cạnh đó, hình ảnh người thầy ít nhiều bị lu mờ trong nền kinh tế thị trường đầy biến động hết sức phức tạp cũng là một nguyên nhân khiến học sinh – sinh viên không biết lấy đâu làm “điểm tựa” để phấn đấu, một khi vai trò của người thầy không còn được đề cao như trước thì việc giáo dục đạo đức, pháp luật trong bộ phận học sinh – sinh viên hiện nay cũng là vấn đề rất đáng được quan tâm. Việc giáo dục đạo đức trong nhà trường thường chú trọng tới nền nếp kỷ cương với nội quy, những bài học giáo huấn, mà chưa chú ý đến hành vi ứng xử thực tế. Chương trình sách giáo khoa quá ôm đồm, nặng về lý thuyết, thiếu kỹ năng sống, không tạo được dấu ấn để hình thành nhân cách cho học sinh. Thực trạng lệch chuẩn về đạo đức, lối sống đang là vấn đề cần quan tâm. Đã đến lúc cần xem lại phương pháp và cách thức giáo dục đạo đức và pháp luật trong các nhà trường hiện nay... Điều đó là rất cần thiết để hoàn thành nhân cách cho lứa tuổi học sinh, sinh viên khi đang còn ngồi trên ghế nhà trường. Giáo dục vẫn là mảng đề tài muôn thuở. Vấn đề giáo dục đạo đức trong nhà trường luôn được quan tâm. Các lớp học ngoại khoá, các lớp ngoài giờ về đạo đức con người vẫn diễn ra đều đặn Phần lớn sinh viên, thanh thiếu niên hiên nay vẫn giữ được lối sống tình nghĩa, trong sạch, lành mạnh, khiêm tốn, cần cù và sáng tạo, có bản lĩnh, có chí lập nghiệp, năng động , nhạy bén, dám chịu trách nhiệm, gắn bó với nhân dân. Do tác động của nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, một bộ phận sinh viên phai nhạt niềm tin, lí tưởng, mất phương hướng phấn đấu, không có chí lập than, chạy theo lối sống thực dụng, sống dựa dẫm, thờ ơ với gia đình và xã hội, sa vào các tệ nạn xã hội… Đây là những biểu hiện không thể coi thường. Bạo lực học đường hiện nay ngày càng diễn ra thường xuyên gay nhức nhối trong dư luận. Dư luận xã hội đã bất bình và lên án về tình trạng bạo lực xảy ra trong học đường, nhưng thời gian gần đây, hiện tượng này không thuyên giảm mà thậm chí còn gia tăng với những hành vi và mức độ bạo lực nguy hiểm hơn trước. Đó không chỉ là những biểu hiện lệch lạc trong hành vi, nhân cách đạo đức như thiếu lễ độ với người lớn, tụ tập gây gổ đánh nhau, thói lười học, ham chơi, sống đua đòi và phạm pháp hình sự từ phía học sinh mà bên cạnh đó còn có cả sự ngược đãi học sinh và tha hóa từ một số thầy cô giáo. Về phía học sinh, đáng ngại hơn khi những biểu hiện đạo đức xuống cấp lại tăng theo lứa tuổi và bậc học. Hiện tượng đó đã làm cho các bậc phụ huynh không khỏi lo sợ, lo lắng cho con em của chính mình. Bạo lực học đường đã xảy ra ở khắp nơi, ở mọi cấp học và hậu quả của nó để lại là khôn lường. Chúng ta chưa quên những vụ ẩu đả giữa học sinh với nhau đã gây xôn xao dư luận vào năm 2007, đó là vụ bạo lực xảy ra ở một trường cấp 3 quận Tân Bình, hai nhóm học sinh xô xát nhau dẫn đến hậu quả thật đáng thương tâm, làm cho một học sinh bị đâm chết và 8 học sinh khác bị thương. Nguyên do cũng chỉ vì sự hiềm khích giữa học sinh cũ và học sinh mới. Đau lòng hơn, một học sinh đã dùng dao đâm vào bụng người bạn cùng lớp vì quá tức giận người bạn này nhiều lần bắt nạt mình. Hay vào năm 2009, tại trường THPT Ngô Gia Tự (EaKar, ĐăkLăk) đã phải đình chỉ thi tốt nghiệp với 4 bạn học sinh nữ lớp 12 vì đã tham gia đánh hội đồng 2 bạn nữ khác của trường THPT Bán Công EaKar trong khi chỉ còn 1 tháng nữa là kì thi tốt nghiệp diễn ra. Không những thế, các bạn còn bị truy tố trách nhiệm trước tòa vì tội gây thương tích, nguyên nhân chỉ vì yêu. Cách đây mấy tuần ở Đà Nẵng, một học sinh lớp 11 bị đâm chết ngay tại chỗ khi ra khỏi cổng trường. Trước đó, cũng vì mâu thuẫn với nhau, nên hai học sinh cấp 3 ở Hà Nội đã dẫn đến ẩu đả, hậu quả cả hai đều bị thương nặng. Những tưởng bạo lực học đường chỉ xảy ra với các nam sinh, nhưng trên thực tế hiện nay nữ sinh cũng không hề tỏ ra thua kém bạn trai. Nhiều nữ sinh chia phe, chia nhóm, đánh nhau theo kiểu xã hội đen ngay trong sân trường. Dư luận xã hội từng xôn xao về vụ việc hai nữ sinh ở một trường THCS huyện Hóc Môn đã dùng dao lam rạch nhiều đường trên mặt bạn chỉ vì mâu thuẫn nhỏ. Do chưa được nhà trường, gia đình quan tâm, giáo dục, quản lý đứng mức, mặt khác học sinh ngày nay lại được tiếp xúc với nhiều luồng thông tin qua mạng, nhất là những game online mang tính bạo lực, điều này làm ảnh hưởng không ít đến hành vi của các em. Chỉ vì những mâu thuẫn nhỏ cũng có thể đánh nhau, xô xát, thậm chí là giết người. Đó quả là những biểu hiện thật đáng buồn.Đạo đức suy tàn,xuống cấp.Liệu đâu là cách giải quyết tốt nhất? Đó vẫn là dấu hỏi lớn đối với xã hội. LỜI KẾT Tóm lại, để phát huy tối đa vai trò của pháp luật đồng thời phát huy tốt các giá trị đạo đức trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chúng ta cần phải có một hệ thống pháp luật hoàn chình và phù hợp với đặc điểm phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó cần nâng cao ý thức đạo đức người dân: sống và làm việc theo pháp luật để phát huy hơn nữa những giá trị đạo đức cao đẹp vốn có. Đó chính là điều kiện tiên quyết để xây dựng một đất nước phồn thịnh, kỉ cương. Nghị quyết Trung ương Đảng đã khẳng định: “Tăng cường giáo dục pháp luật nâng cao hiểu biết và ý thức tôn trọng pháp luật, sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được thi hành một cách nghiêm minh, thống nhất và công bằng”(4). TÀI LIỆU THAM KHẢO: (1) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.199 (2 )Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000, tr.285. (3) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000, tr.641. (4) Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII 20-25/1/1994. Bài làm có sử dụng tài liệu sau: Giáo trình Pháp Luật Đại Cương – trường ĐH Kinh tế TP.HCM Báo tuoitre.vn Báo Dantri.com.vn Diễn đàn phapluat.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctieu_luan_9448.doc
Luận văn liên quan