Đ.Đ iđrô cho rằng con người được c ấu thành từ thể xác và linh hồn. 
Thể xác và linh hồn thống nhất hữu cơ với nhau. Linh hồn không có 
nguồn gốc từ chúa mà là một tổng thể các hiện tượng tâ m lý. Bản thân nó 
cũng là đặc tính của vật chất. Ông viết : "Không có cơ thể con người thì 
nó (tức linh hồn ) không là cá i gì cả. Tô i khẳng định rằng, không có cơ thể 
con người thì không thể g iải thích được cá i gì cả". Ông nhấn mạnh, cơ thể 
con người là khí quan vật chất củ a tư duy, ý thức cũng như mọi quá t rình 
tâm lý của anh ta. Ông đã nhận thấy, nhân cách con người là sản phẩ m 
của hoàn cảnh môi t rường xung quanh nhưng chưa hiểu được rằng , bản 
thân môi t rường và hoàn cảnh đó cũng là sản phẩm của hoạt động con 
người, và vì vậy , cả con người lẫn hoàn cảnh sống của nó đều mang t ính 
lịch sử. Đây cũng là hạn chế chung của cá c triết học trước Mác
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 12 trang
12 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 5269 | Lượt tải: 4 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Quan điểm về con người trong triết học Tây Âu thời kỳ phục hưng và cận đại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 
Tiểu luận 
QUAN ĐIỂM VỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT 
HỌC TÂY ÂU THỜI KỲ PHỤC HƯNG VÀ CẬN ĐẠI 
2 
A. LỜI MỞ ĐẦU 
 Cùng với sự t ìm h iểu tự nhiên và cuộc sống xã hội, kể từ khi loài 
người ra đời, một vấn đề luôn được đặt ra là tìm hiểu chính bản thân 
mình. 
Ngay từ thời kỳ t iền t riết học, vấn đề này đã được đề cập qua các 
tôn giáo nguyên thủy, các truyền thuyết, thần thoại, sử thi, anh hùng ca và 
việc thờ cúng tổ tiên . Đó là những quan niệm còn mang nặng tính thần bí, 
siêu hình. Triết học Hy Lạp cổ đại xuất hiện vào thế kỷ VI Trước Công 
Nguyên đã đánh dấu bước phát t riển mới của tư tưởng con người, từ cảm 
nhận vũ t rụ t rực quan đến thế giới quan mang t ính khá i quát , t rừu tượng 
của tư duy. Các trường phá i triết học Hy Lạp giai đoạn này có nh iều quan 
điểm khác nhau, song đều rất quan tâm đến bản chất, nguồn gốc của thế 
giới, vạn vật và con ng ười. Bước vào thời kỳ chiếm hữu nô lệ, các nhà 
triết học quan tâm nhiều hơn đến vấn đề s inh vật, con người và linh hồn 
con người. Vào thế kỷ VII và VI TCN, phái duy vật sơ khai cho rằng con 
người là một bộ phận của tự nhiên, hòa đồng với tự nhiên và vũ trụ. Bên 
cạnh đó, trường phái Pytago mở đầu cho khuynh hướng triết học duy tâm 
Hy Lạp cổ đại, quan n iệm rằng linh hồn con người là bất tử, ch ỉ tạm trú 
trong cơ thể các sinh vật và con người. Còn các nhà nguyên tử luận thì lại 
cho rằng sự sống không phải do thần thánh tạo ra mà cấu tạo từ nguyên tử 
và linh hồn cũng mang tính vật chất. Điểm qua các quan điểm của Xôcrát , 
Platôn, tác g iả khẳng định triết học Hy Lạp đạt tới đỉnh cao nhất ở thời 
Arixtốt. Ông khẳng định “linh hồn là bản nguyên của cơ thể sống..., của 
vận động”. 
 Bước sang thời kỳ thứ hai, đặc điểm nổi bật cần phải chú ý đó 
là sự hình thành của một tôn giáo mới: Cơ đốc giáo và trở thành quốc 
giáo ngay trong thời kỳ đế quốc La mã. Về cơ bản, hệ thống quan điểm 
triết học của Cơ đốc giáo về con người tập trung nói về sự sáng tạo ra thế 
3 
giới của đức Chúa Trời, về tội tổ tông của con người, sự chuộc tội, sự 
chăn dắt của Chúa đối với con người, sự phục sinh sau khi chết ở thế giới 
bên kia. 
 Cần phải nhắc đến ha i tên tuổi mở đầu cho thời kỳ từ Phục 
hưng đến thời kỳ cận đại là Ni-cô-lai Kuzan và Ni-cô-lai Cô-péc-ních. 
Kuzan là người đầu tiên kịch liệt phê phán giáo lý thời Trung cổ, mở đầu 
cho thời kỳ Phục hưng . Con người - theo ông - là sản phẩm tố i cao và 
tinh túy nhất t rong sự sáng tạo của Thượng đế - Con người (Deus - 
Human). Nối tiếp Kuzan, Cô-péc-ních đã làm đảo lộn hoàn toàn nhận 
thức đương thời bằng thuyết nhật tâm. Vào thế kỷ XIV - XV, các nhà 
nhân văn chủ nghĩa Ý đã làm đảo lộn vũ t rụ quan và nhân s inh quan của 
Ki tô g iáo: con người không lấy Thượng đế mà là chính mình làm trung 
tâm và thước đo của tất cả mọi vật. Bước vào thế kỷ XVI, những nhà tư 
tưởng tiến bộ mong muốn xây dựng một xã hội mới phồn vinh, th ịnh 
vượng, đem lại hạnh phúc cho tất cả mọi người. Tuy vẫn chỉ là những 
quan niệm mang tính chất không tưởng nhưng những tư tưởng này đã 
mang đậm tính chất nhân văn sâu sắc. 
4 
B. NỘ I D UNG 
I. ĐIỀU KIỆN KINH TẾ - XÃ HỘ I VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC 
TÂY ÂU THỜ I KÌ PHỤC HƯNG VÀ CẬN ĐẠI 
I.1. Điều kiện kinh tế - xã hội 
Thời kì Phục hưng của các nước Tây Âu là giai đoạn lịch sử quá độ 
từ xã hội phong kiến sang xã hội tư bản (thế kỷ XV - VI), bắt đầu hình 
thành phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Tính chất quá độ đó biểu 
hiện trên tất cả các mặt của đời sống kinh tế, chính trị - xã hội, văn hoá tư 
tưởng thời kì này. 
Về kinh tế : Bắt đầu từ thế kỉ XV, ở Tây Âu, chế độ phong kiến với 
nền sản xuất nhỏ và các đạo luật hà khắc Trung cổ đã bước vào th ời kì tan 
rã. Nhiều công t rường thủ công xuất hiện, ban đầu ở Ita lia, sau đó lan 
sang Anh, Pháp và các nước khác, thay thế cho nền kinh tế tự nhiên kém 
phát triển. 
 Sự phát triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa thúc đẩy sự phát triển 
của khoa học, kĩ thuật. Nhiều công cụ lao động được cải t iến và hoàn 
thiện. Với việc sáng chế ra máy kéo sợi và máy in đã làm cho công 
nghiệp dệt, công ngh ệ ấn loát đặc b iệt phát triển, nhất là ở Anh. Sự khám 
phá và chế tạo hàng loạt đồng hồ cơ học đã g iúp cho con người có thể sản 
xuất có kế hoạch, t iết kiệm thời gian và tăng năng suất lao động. 
Những phát kiến về đường biển, tìm ra những miền đất mới, phát 
hiện ra châu Mỹ... càng tạo điều kiện phát triển cho nền sản xuất theo 
hướng tư bản chủ nghĩa. Thương mại, th ị trường trao đổi hàng hoá giữa 
các nước được mở rộng; giao lưu quốc tế được tăng cường, nh ờ đó mà 
các nước phát triển sớm như Anh, Pháp, Tây Ban Nha... thi nhau xâm 
chiếm thuộc địa để mở rộng việc khai thác thiên nhiên và thị trường tiêu thụ 
hàng hoá. 
 Về xã hội: Đồng thời với sự phát triển của sản xuất và thương 
nghiệp, trong xã hội Tây Âu thời kì này, sự phân hoá g iai cấp ngày càng 
5 
rõ rệt. Tầng lớp tư sản xuất hiện gồm các chủ xưởng công trường thủ 
công, xưởng thợ, thuyền buôn... Vai trò và v ị trí của họ t rong kinh tế và 
xã hội ngày càng lớn. Hàng loạt nông dân từ nông thôn di cư ra thành thị, 
trở thành người làm thuê cho các công t rường, xưởng thợ. Họ tham gia 
vào lực lượng lao động xã hội mới, làm hình thành giai cấp công nhân. 
Các tầng lớp xã hội t rên đại diện cho một nền sản xuất mới, cùng với 
nông dân đấu tranh chống chế độ phong kiến đang suy tàn . 
Về văn hoá, tư tưởng: Cùng với sự phát t riển về kinh tế và xã hội, 
khoa học kĩ thuật và tư tưởng thời kì Phục hưng cũng đạt được sự phát 
triển mạnh mẽ. Các nhà tư tưởng thời Phục hưng đã phê phán mạnh mẽ 
các giáo lý Trung cổ. Mở đầu là nhà triết học người phía Nam nước Đức, 
Nicô lai Kuzan (1401-1464). Tiếp đó là các nhà kho a học - triết học như 
Nicô lai Côpecnich (1475-1543) người Ba Lan; Lêôna đơ Vanhxi (1452-
1519) - nhà danh hoạ, nhà toán học, cơ học , kĩ sư người Italia; Gioocđanô 
Brunô (1548-1600) người Italia; Galilêô Galilê (1564-1642) người Ita lia. 
Trong số những thành tựu khoa học tự nhiên có ảnh hưởng to lớn đến 
nhận thức duy vật về thế g iới, nổi t rội hơn cả là thuyết nhật tâm của 
Nicô lai Côpecnich (1475-1543), nhà bác học vĩ đạ i người Ba Lan. 
Nicô lai Côpecnich đã đứng trên lập trường của triết học duy vật để bác bỏ 
thuyết địa tâm do Ptôlêmê (người Hy Lạp) đề xuất từ thế kỷ thứ II, một 
giả thuyết sai lầm coi quả đất là trung tâm của hệ mặt trời và vũ trụ. 
Thuyết nhật tâm của Nicôlai Côpecn ich đã giáng một đòn nặng nề vào thế 
giới quan tôn giáo, thần học. Giả thuyết của ông là một cuộc cách mạng trên 
trời, báo trước một cuộc cách mạng trong lĩnh vực các quan hệ xã hội sắp 
xảy ra. 
Trong thời đại Phục hưng , các nhà tư tưởng tư sản đã bênh vực 
triết học duy vật, vận dụng nó để chống lại chủ nghĩa kinh viện và thần 
học Trung cổ. Cuộc đấu tranh của chủ nghĩa duy vật chống chủ nghĩa duy 
tâm thường được biểu hiện dưới hình thức đặc thù là khoa học chống tôn 
6 
giáo , tri thức thực nghiệm đối lập với những lập luận kinh viện . Cuối 
cùng, sự chuyên chính của giáo hội và s ự thống trị của chủ nghĩa kinh 
viện Trung cổ đã không ngăn được sự phát t riển bước đầu của khoa học 
thực nghiệm và triết học duy vật - tiền đề cho những thành tựu mới và 
những đặc điểm mới của triết học trong các thế kỷ tiếp theo. 
Thời kì cận đại là thời kì phát triển rực rỡ của Tây Âu trên tất cả 
các mặt của đời sống xã hội. Đó là sự phát t riển tiếp tục của chủ nghĩa tư 
bản, của khoa học và tư tưởng, t rong đó có chủ nghĩa duy vật triết học, 
nhưng với những đặc điểm mới. 
Khác với thời kì Phục hưng, thời cận đại (thế kỷ XVII-XVIII) ở 
các nước Tây Âu là thời kì giai cấp tư sản đã giành được thắng lợi về 
chính t rị t rước giai cấp phong kiến. Ba cuộc cách mạng tư sản lớn đã nổ 
ra và thành công: Cách mạng tư sản Hà Lan cuối thế kỷ XVI ; Cách mạng 
tư sản Anh (1642-1648); Cách mạng tư sản Pháp (1789-1794). Đây cũng 
là thời kì phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được xác lập và trở 
thành phương thức sản xuất thống trị Tây Âu. Nó tạo đã tạo ra những vận 
hội mới cho khoa học, kĩ thuật phát triển mà trước hết là khoa học tự 
nhiên, trong đó cơ học đã đạt tới trình độ là cơ sở cổ đ iển. Đặc điểm của 
khoa học tự nhiên thời kì này là khoa học tự nhiên - thực nghiệm. Đặc 
trưng ấy tất yếu dẫn đến thói quen nhìn nhận đối tượng nhận thức trong 
sự trừu tượng tách rời, cô lập, không vận động, không phát t riển, nếu có 
nói đến vận động thì chủ yếu là vận động cơ giới, máy móc. Đó là nguyên 
nhân chủ yếu làm cho triết học duy vật thời kỳ này mang nặng t ính máy 
móc siêu hình. 
I.2. Đặc điểm của triế t học Tây Âu thời Phục hưng và Cận đại 
Chính những điều kiện kinh tế - chính t rị và khoa học tự nhiên thời 
cận đại đã quy định những đặc t rưng về mặt triết học thời kì này: 
Thứ nhất, đây là thời kì thắng lợi của chủ nghĩa duy vật đối với chủ 
nghĩa duy tâm, của những tư tưởng vô thần đối với hữu thần luận. 
7 
Thứ hai, chủ nghĩa duy vật thời kì này mang hình thức của chủ 
nghĩa duy vật siêu h ình , máy móc. Phương pháp siêu hình thống trị, phổ 
biến trong lĩnh vực tư duy triết học và khoa học. 
Thứ ba, đây là th ời kì xuất h iện những quan điểm triết học t iến bộ 
về lĩnh vực xã hội, nhưng nhìn chung vẫn chưa thoát khỏi quan điểm duy 
tâm trong việc g iải thích xã hội và lịch sử. 
Những đặc điểm ấy thể hiện rõ nét trong quan niệm của một số triết 
gia, đ iển hình như B.Xpinôda, Ph.Bêcơn. T.Hôpxơ, R.Đêcactơ, 
G.Lamettri, Đ.Điđơrô, P.Hônbách, G.G.Rutxô. 
Thứ tư, trước sự phát t riển mạnh mẽ của t ư tưởng duy vật vô thần 
của thời cận đ ại, chủ nghĩa duy tâm và thần học buộc phả i có những cải 
cách nhất định. Nhu cầu ấy được phản ánh đặc biệt t rong triết học duy 
tâm chủ quan của nhà triết học thần học người Anh G.Beccơli. 
II. QUAN NIỆM VỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌ C THỜI KÌ 
PHỤC HƯNG VÀ CẬN ĐẠI QUA MỘ T SỐ TRIẾT GIA TIÊU BIỂU 
II.1. Phranxis Bêcơn (1561-1621) 
Phranxis Bêcơn (Francis Bacon) là nhà triết học vĩ đại thời cận đại. 
C.Mác coi Ph.Bêcơn là ông tổ của chủ nghĩa duy vật Anh và khoa học 
thực nghiệm. Bắt đầu từ Ph.Bêcơn, lịch sử t riết học Tây Âu bước sang 
một giai đoạn phát t riển mới với những màu sắc riêng. 
Ph.Bêcơn coi con người là sản phẩm cuả tạo hoá , do vậy khoa học 
về con người cũng là khoa học về tự nhiên. Tiếp thu quan niệm của 
Arixtốt về con người, Ph.Bêcơn chia linh hồn thành các dạng " linh hồn 
thực vật", "linh hồn động vật", " linh hồn lý t ính". Hai phần đầu thuộc về 
linh hồn cảm tính, có cả ở th ực vật và động vật. Trong con người, linh 
hồn cảm t ính là một dạng chất lỏng , pha loãng trong cơ thể. Chúng vận 
động theo các dây thần kinh, t ựa như các đường ống, tác động lên các 
giác quan, điều khiển chức năng sống của cơ thể. Bộ phận linh hồn này 
có thể bị huỷ hoạ i cùng cơ thể khi con người chết đi. Linh hồn lý t ính có 
8 
nguồn gốc từ Thượng đế. Đó là một khả năng kì diệu mà chúa đã ban cho 
con người, mang t ính thần thánh. Vì con người có cả hai dạng linh hồn 
nên con người vừa rất gần với động vật lại vừa có cái gì đó siêu phàm, và 
do đó, bản chất con người không cho phép con người theo lập t rường 
hoàn toàn vô thần. Con người cần có tôn giáo để vượt qua những lúc con 
người mềm yếu, bất lực. Tôn giáo mang lại cho con người niềm t in nhưng 
nhà thờ không được phép dùng các biện pháp chống lại các nhà vô thần, 
không được cản t rở các hoạt động khoa học, nghệ thuật của con người. 
Nhìn chung, quan niệm trên của Ph.Bêcơn thể hiện sự thoả hiệp 
giai cấp tư sản Anh thời đó với các vấn đề tôn giáo. 
II.2. Tômát Hôpxơ (1588-1679) 
Tômát Hôpxơ (Thomas Hobbs) là nhà triết học nổi tiếng, đại biểu 
của chủ nghĩa duy vật Anh thế kỷ XVII, người có công cụ thể hoá và phát 
triển nh iều quan niệm duy vật của Ph.Bêcơn. 
Theo T.Hôpxơ, vấn đề trung tâm của triết học là vấn đề con người. 
Các tác phẩm Về con người (1658), Về người công dân (1642)...của ông 
đều bàn về vấn đề này. Từ việc coi con người vừa là một thực thể tự 
nhiên, vừa là một thực thể đạo đức và tinh thần, ông chia triết học thành 
triết học tự nh iên và triết học đạo đức, hay còn gọi là triết học xã hội. 
Con người, theo T.Hôp xơ là một th ực thể thống nhất giữa tính tự 
nhiên và t ính xã hội. Về bản t ính tự nhiên, mọi người khi s inh ra đều như 
nhau, sự khác nhau nhất định giữa họ không lớn. Nhưng con người ai 
cũng có khát vọng và nhu cầu riêng của mình. Đây là tiền đề để con 
người làm điều ác. Mỗi người đều ích kỉ, vì lợi ích riêng của mình mà có 
thể chà đạp tất cả. "Con người là một động vật độc ác và ranh ma hơn cả 
chó sói, gấu và rắn". Mỗi người hành động trước tiên là "vì t ính ích kỉ 
yêu bản thân mình chứ không phải vì xã hội, không phải v ì lợi ích của 
người khác". Vì thế mà đẩy loài người đến chiến tranh liên miên, gây ra 
bao nhiêu đau khổ và chết chóc. Công lý và khoa học về pháp quyền, bởi 
9 
vậy, luôn luôn bị bác bỏ bởi những ngòi bút và thanh kiếm. Theo 
T.Hôpxơ, bản tính tự nhiên của con người đó là tính ích kỉ; t rạng thái xã 
hội mà con người sống là "một cuộc chiến tranh của tất cả chống lại tất 
cả". 
Tuy nhiên, theo T.Hôp xơ, "trạng thái tự nhiên" t rên đây của con 
người ngày nay không còn nữa; nó tồn tại một cách t rọn vẹn ở th ời 
nguyên thuỷ xa xưa. Tư tưởng của T.Hôp xơ được Đácuyn áp dụng vào 
thế giới động vật và phát hiện ra quy luật đấu tranh sinh tồn và chọn lọc 
tự nhiên của các loài sinh vật . Sau đó những người theo chủ nghĩa 
Đácuyn xã hội t ruyền bá, áp dụng trở lại xã hội. 
Quam niệm của T.Hôp xơ mặc dù chưa đánh giá đúng mức đặc 
trưng riêng của loài người so với loài vật, chưa thấy được bản tính xã hội, 
tính nhân loại của con người, nhưng nó mang những yếu tố hợp lý nhất 
định : Một mặt , nó cho thấy sự tương đồng nào đó giữa loài người và loài 
vật, mặt khác, nó chỉ ra rằng, ch ính lợi ích của các cá nhân là một trong 
những động lực trực t iếp của hoạt động của con người và phát triển của 
xã hội. 
II.3. Rơnê Đêcáctơ (1596-1654) 
Rơnê Đêcáctơ (Rene Descartes) là nhà t riết học, nhà bách khoa 
toàn thư vĩ đạ i người Pháp . Có thể nói, cùng với Ph.Bêcơn, "Đêcáctơ đã 
tạo ra một cuộc cách mạng trong lịch sử tư tưởng triết học" Tây Âu cận 
đại. 
Ông khẳng định, con người được cấu thành từ linh hồn và thể xác. 
Theo quan điểm nhị nguyên luận , ông hoàn toàn tách b iệt thể xác và linh 
hồn, coi chúng có nguồn gốc từ hai th ực thể tư duy và quảng t ính hoàn 
toàn tách biệt . Ông coi linh hồn con người là một thực thể mà bản chất 
của nó là tư duy, tồn tại không cần đến và không phụ thuộc vào bất kì 
một sự vật vật chất nào. Linh hồn là bất diệt , nó không bị phân huỷ khi 
con người chết. Con người có được là do Thượng đế ghép linh hồn vào 
10 
thể xác. Cơ thể con người là chỗ trú chân tạm thời của linh hồn khi anh ta 
sống. 
II.4 . Giooc Beccơli (1685-1753) 
Giooc Beccơli (George berkeley) là nhà t riết học nổi tiếng người 
Anh, đại biểu điển hình của chủ nghĩa duy tâm chủ quan. 
Cũng như các nhà duy tâm khác, G.Beccơli quan niệm con người 
bao gồm linh hồn và thể xác; linh hồn là cái quyết đ ịnh. Thể xác thuộc về 
các vật thể tự nhiên, tức các cảm giác. Do vậy, thể xác tồn tại được là nhờ 
linh hồn cảm nhận nó. Thể xác phải tuân theo cái gậy chỉ huy của linh 
hồn. 
Đối với linh hồn con người, G.Beccơli cho rằng , "tồn tại nghĩa là 
cảm nhận". Có nghĩa là linh hồn chỉ tồn tại khi nó cảm nhận các sự vật 
khác mà trước hết là cảm nhận thể xác của con người. 
 II.5. Điđơrô và các nhà triết học Khai sáng Pháp thế kỉ XVIII 
Triết học Khai sáng Pháp thế kỷ XVIII là một g iai đoạn phát t riển 
quan trọng trong tiến t rình phát triển tư tưởng triết học Tây Âu và thế 
giới. Triết học Khai sáng Pháp thế kỷ XVIII là sự kế tục và phát triển mới 
về chất các khuynh hướng tư tưởng bài t rừ siêu hình học thế kỉ XVII, 
cũng như đánh giá lại các giá trị tuyền thống. Nó bắt đầu từ việc phê phán 
không thương tiếc các quan niệm cũ về thế giới và con người. Chính vì 
vậy mà triết học Khai sáng Pháp có nộ i dung cơ bản là duy vật, tiến bộ, 
nó đề cập nhiều đến tiến bộ xã hội, tự do của con người... 
Cùng với sự hưng th ịnh của văn hoá Pháp thời kì này, trên lĩnh vực 
tư tưởng có nhiều nhà khai sáng, họ vừa là các nhà triết học, vừa là những 
người uyên bác về nhiều lĩnh vực văn hoá, nghệ thuật, khoa học. Tiêu 
biểu là Sáclơ Đờ Môngtexkiơ (1689-1775), Phrăngxoa Mari Vônte 
(1694-1778), Giăng Giắc Rutxô (1712-1778), Đeni Điđrô (1713-1784), 
Giulen Ôphrơ Lamettri (1709-1751), Hônbách (1729-1789), Henvêtiúyt 
11 
(1715-1771)... Ở đây chỉ đề cập đến tư tưởng t riết học của các nhà duy 
vật vô thần Pháp mà người giữ vai trò lãnh đạo là Đ.Điđrô. 
Đ.Điđrô cho rằng con người được cấu thành từ thể xác và linh hồn. 
Thể xác và linh hồn thống nhất hữu cơ với nhau. Linh hồn không có 
nguồn gốc từ chúa mà là một tổng thể các hiện tượng tâm lý. Bản thân nó 
cũng là đặc tính của vật chất. Ông viết : "Không có cơ thể con người thì 
nó (tức linh hồn) không là cái gì cả. Tôi khẳng định rằng, không có cơ thể 
con người thì không thể giải thích được cái gì cả". Ông nhấn mạnh, cơ thể 
con người là khí quan vật chất của tư duy, ý thức cũng như mọi quá t rình 
tâm lý của anh ta. Ông đã nh ận thấy, nhân cách con người là sản phẩm 
của hoàn cảnh môi t rường xung quanh nhưng chưa hiểu được rằng , bản 
thân môi t rường và hoàn cảnh đó cũng là sản phẩm của hoạt động con 
người, và vì vậy, cả con người lẫn hoàn cảnh sống của nó đều mang t ính 
lịch sử. Đây cũng là hạn chế chung của các triết học trước Mác.
12 
C. KẾT LUẬN 
Nhìn chung quan điểm về con người trong triết học Tây Âu thời 
phục hưng và cận đại còn có một số hạn chế cơ bản là phiến 
diện trong phương pháp tiếp cận lý giải các vấn đề triết học về 
con người, cũng do vậy trong thực tế lịch sử đã tồn tại lâu dài 
quan niệm trừu tượng về bản chất con người và những quan 
niệm phi thực t iễn trong lý giải nhân sinh, xã hội cũng như 
phương pháp hiện thực nhằm giải phóng con người. Và những 
hạn chế đó đã được khắc phục và vượt qua bởi quan niệm duy 
vật biện chứng của triết học Mác – Lênin về con người. 
\ 
Danh sách nhóm 3: 
NGUYỄN THỊ THU HƯƠNG 
PHẠM HỒNG HẠNH 
TRƯƠNG ANH TUẤN 
DƯƠNG THỊ THU HƯƠNG 
TẠ THỊ HƯƠNG 
BOU SITHA 
PHẠM HỒNG TIẾN 
VÂN 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 trhgh_tc_0003.pdf trhgh_tc_0003.pdf