Tiểu luận Sở hữa trí tuệ và Tổ Chức Thương Mại Thế Giới WTO

Sở hữu trí tuệ ra đời từ nhu cầu của những nước giàu, những tập đoàn kinh tế lớn, những công ty đa quốc gia có khối lượng tài sản khổng lồ và có tầm ảnh hưởng đến hầu hết những chủ thể kinh tế quốc tế. Tại sao họ lại ủng hộ sở hữu trí tuệ? Bởi lẽ, quyền sở hữu trí tuệ, xét đến cùng là sản phẩm của chủ nghĩa bảo hộ. Tới khi nào còn chủ nghĩa bảo hộ thì quyền sở hữu trí tuệ vẫn còn lí do để tồn tại. Về lâu dài, một hệ thống hữu hiệu đối với các quyền sở hữu trí tuệ có thể có tác động tích cực về mặt kinh tế đối với các quốc gia đang phát triển. Quyền sở hữu trí tuệ thúc đẩy phát tri ển công nghệ mới và nỗ lực sáng tạo, có lợi cho các nước đang phát tri ển, đặc biệt về chuyển giao công nghệ. Thêm vào đó, TRIPS là một hiệp định mở. Theo đó, các quốc gia khi gia nhập WTO có thể sử dụng như một nhượng bộ khi đàm phán song phương với Mỹ và EU để đổi lấy các ưu đãi khác.

pdf13 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3489 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Sở hữa trí tuệ và Tổ Chức Thương Mại Thế Giới WTO, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận Sở hữa trí tuệ và Tổ Chức Thương Mại Thế Giới WTO Đặt vấn đề: Sở hữu trí tuệ" (intellectual property) là thuật ngữ có tính pháp lý có nội dung đề cập tới việc xác lập và bảo vệ quyền của tổ chức hoặc cá nhân đối với tài sản trí tuệ của mình. Tài sản trí tuệ là những sản phẩm sáng tạo bởi bộ óc con người, bao gồm: phát minh sáng chế trong lĩnh vực chế tạo, nhãn hiệu thương mại, bản quyền tác giả, bí mật thương mại. Cũng giống như tài sản khác, tài sản trí tuệ luôn có nguy cơ bị xâm hại bởi một chủ thể khác. Vì vậy, cần có các khung pháp lý để xác lập và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. TRIPs (Trade-related aspects of intellectual property rights) là Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền SHTT của Tổ Chức Thương Mại Thế Giới WTO, được hình thành từ kết quả của vòng đàm phán Uruguay 1986-1994. Cần chú ý rằng đã có tổ chức chuyên trách về quyền sở hữu trí tuệ là Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO). Như vậy, quyền sở hữu trí tuệ là một khái niệm rộng hơn, còn Hiệp định TRIPs chỉ điều chỉnh các quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến lĩnh vực thương mại. Và đây là đối tượng nghiên cứu của chúng tôi trong bài thuyết trình này. I. Khái quát chung về TRIPs 1. Khái niệm TRIPs hay Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền SHTT của WTO (được kí năm 1994 và có hiệu lực tháng 1/1995) là hệ thống quy định điều chỉnh những vấn đề liên quan đến thương mại của quyền SHTT, trên cơ sở nêu ra các nguyên tắc và ấn định mức độ bảo hộ tối thiểu mà mỗi quốc gia phải đảm bảo cho quyền SHTT của các quốc gia thành viên khác. 2. Hoàn cảnh ra đời của TRIPs Hệ thống pháp luật về quyền Sở hữu trí tuệ (SHTT) được hình thành từ cuối thế kỉ 19 với sự ra đời của 2 điều ước nên tảng là Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp (1883) và Công ước Bern về bảo hộ tác phẩm văn học nghệ thuật (1886). Sau đó là một loạt Công ước quốc tế và các vấn đề khác liên quan đến SHTT được kí kết. Tuy nhiên, việc thực thi các Công ước này còn nhiều hạn chế do tính cưỡng chế yếu và sự xác lập quyền cũng như bảo vệ nó chưa được rõ ràng chặt chẽ. Chính những hạn chế này đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả thực thi quyền SHTT và là một yếu tố tiền đề dẫn tới sự hình thành Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền SHTT (TRIPs) trong khuôn khổ WTO. Từ những năm 1980, quyền SHTT bắt đầu trở thành mỗi quan tâm thường xuyên và có ảnh hưởng trực tiếp tới các thể chế thương mại quốc tế. Hệ thống bảo hộ quyền SHTT của các quốc gia khác nhau đã được đánh giá lại và đòi hỏi tuân thủ các tiêu chuẩn thống nhất có tính chất quóc tế. Sự đóng góp ngày càng tăng của tài sản trí tuệ vào tăng trưởng kinh tế và tạo ra tri thức một cách nhanh chóng, bao gồm sự xuất hiện của những công nghệ mới, đã dẫn đến sự thay đổi chính sách về quyền SHTT và sự lựa chọn cách thức quản lý mới đối với tài sản trí tuệ. Bên cạnh đó, khuynh hướng sử dụng trái phép các tài sản trí tuệ đã và đang diễn ra ngày một phổ biến và trầm trọng với vấn nạn hàng giả, hàng nhái bùng nổ trên toàn cầu. Do đó, một số nước phát triển đã bắt đầu sử dụng những biện pháp thương mại nhắm kiềm chế nạn đánh cắp tài sản trí tuệ ở nước ngoài. Tuy nhiên, trong thực tiễn hoạt động thương mại quốc tế, mức độ bảo hộ quyền SHTT ở các quốc gia là khác nhau, nên thường dẫn tới tình trạng các tranh chấp thương mại không được giải quyết theo tiêu chí thống nhất. Trong bối cảnh đó, việc tạo lập một hệ thống bảo hộ quyền SHTT có tính bắt buộc trên phạm vi quốc tế nhằm ngăn chặn việc sử dụng trái phép tài sản trí tuệ và khuyến khích, thúc đẩy hoạt động sáng tạo đang ngày càng trở nên bức thiết. Phần lớn các quốc gia dều nhất trí rằng cần nghiên cứu, thảo luận nhằm hình thành một điều ước mới điều tiết các vấn đề về quyền SHTT. Hiệp định TRIPs của WTO đã ra đời nhằm giải quyết một cách toàn diện vấn đề bảo hô quyền SHTT. 3. Mục tiêu chính của TRIPS Các mục tiêu của TRIPS bao gồm việc giảm thiểu sự bóp méo và gây cản trở đối với thương mại quốc tế, xúc tiến quyền sở hữu trí tuệ hiệu quả và đầy đủ, và bảo đảm rằng các biện pháp và thủ tục thực thi quyền sở hữu trí tuệ không trở thành rào cản đối với thương mại hợp pháp. Hiệp định ra đời với kì vọng sẽ góp phần thúc đẩy việc cải tiến, chuyển giao và phổ biến công nghệ, mang lại lợi ích cho cả người sang tạo và người sử dụng công nghệ cũng như lợi ích kinh tế-xã hội cũng như đảm bảo sự cân bằng giữa quyền lợi và nghĩa vụ. Những mục tiêu này có thể tìm thấy ở Điều 7 và cụ thể hóa ở ba mục tiêu chính: Tiêu chuẩn (standards), thực thi (enforcement) và giải quyết tranh chấp (dispute settlement) a) Tiêu chuẩn Hiệp định đặt ra các tiêu chuẩn bằng cách yêu cầu việc tuân thủ các nghĩa vụ thực chất được nêu trong các công ước chính của WIPO, Công ước Paris, Công ước Berne cũng như bổ sung thêm các nghĩa vụ khác về các vấn đề mà các công ước từ trước chưa đề cập đến hoặc chưa đầy đủ. b) Thực thi Đặt ra các gói quy định về những thủ tục trong nước và các biện pháp để thực thi quyền sở hữu trí tuệ. Trong đó, đưa ra một số nguyên tắc chung áp dụng cho tất cả các thủ tục thực thi quyền SHTT. Ngoài ra, còn quy định về thủ tục hành chính, dân sự và các biện pháp khắc phục, biện pháp tạm thời, các yêu cầu đặc biệt liên quan đến các biện pháp biên giới và thủ tục hình sự, trong đó xác định, trong một lượng nhất định các chi tiết, các thủ tục và biện pháp khắc phục mà phải có sẵn để các chủ thể quyền có thể thực thi quyền của họ một cách hiệu quả. c) Giải quyết tranh chấp Hiệp định góp phần giải quyết tranh chấp giữa các thành viên WTO trong vấn đề tôn trọng nghĩa vụ thực hiện các điều khoản của TRIPS trên cơ sở các biện pháp giải quyết tranh chấp của WTO. 4. Quá trình phát triển: Dấu hiệu xuất hiện và các vòng đàm phán Trước khi TRIPS ra đời, vấn đề SHTT đã được dấy lên từ rất lâu và từ cuối thế kỉ 19 đã hình thành nhiều văn bản pháp lí mang tính quốc tế về quyền SHTT như Công ước Paris về Bảo hộ sở hữu công nghiệp (1883), Công ước Berne về Bảo hộ tác phẩm văn học và nghệ thuật (1886), thỏa ước Madrid về đăng kí quốc tế đối với nhãn hiệu (1891), Công ước Rome về bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất ghi âm và các tổ chức phát sóng (1961), WIPO (1967) Hiệp định hợp tác về bằng phát minh sang chế (1970), Công ước Brussels về phân phối tín hiệu mang chương trình truyền qua vệ tinh (1974), v.v… Trong khuôn khổ WTO, dưới sự điều chỉnh của hệ thống pháp luật quốc tế, vấn đề SHTT đã được đưa ra bàn luận chính thức trong hai vòng đàm phán chính là Uruguay và Doha. Tuy nhiên, kết quả của vòng đàm phán Doha cho thấy tương lai sẽ còn nhiều vòng đàm phán khác nhằm giải quyết những vấn đề còn tồn đọng và cả những phát sinh trong cục diện mới của tình hình thương mại thế giới. d) Các vòng đàm phán Vòng đàm phán Uruguay (1986-1994): Vài trò của SHTT đối với hoạt động thương mại quốc gia và quốc tế đã được thực tế khẳng định. Tuy nhiên, đặc thù của các công ước là tính cưỡng chế yếu nên trong thực tế, các công ước đã được phê chuẩn vẫn không được thực hiện hiệu quả và đó là một lí do để Hiệp định về Bảo hộ Quyền sở hữu Trí tuệ liên quan đến Thương mại trong khuôn khổ Tổ chức Thương mại Thế giới (TRIPS) ra đời. Từ những năm 1980, quyền SHTT đã nhận được sự quan tâm thường xuyên và có ảnh hưởng trực tiếp đến các thể chế thương mại quốc tế. Sự phát triển của nền kinh tế tri thức đã khẳng định tầm quan trọng của các tài sản trí tuệ và sự bức xúc đối với vấn nạn hàng giả trên toàn cầu. Hơn nữa, hệ thống bảo hộ quyền SHTT khác nhau giữa các quốc gia cũng dẫn đến nhiều tranh chấp thương mại không được giải quyết theo tiêu chí thống nhất, đòi hỏi sự đánh giá lại và việc hình thành một hệ thống các tiêu chuẩn thống nhất có tính quốc tế. Phần lớn các quốc gia nhất trí rằng cần nghiên cứu, thảo luận nhằm hình thành một công ước mới điều tiết các vấn đề về quyền SHTT. Đây là nội dung chính của vòng đàm phán Uruguay. Hai năm đầu của vòng đàm phán hầu như không đạt được kết quả gì do sự bất đồng của các nước phát triển và các nước đang phát triển, cho đến giữa 1990 mới bắt đầu thảo ra bản dự thảo TRIPS và năm 1994, TRIPS được kí kết và chính thức có hiệu lực vào 1/1995. Vòng đàm phán Doha: Hội đồng TRIPS đã và đang thảo luận, tham vấn và đàm phán về một số vấn đề cụ thể còn chưa kết thúc của Hiệp định TRIPS và theo nhiệm vụ của Vòng đàm phán Doha, bao gồm: - Sáng chế dược phẩm: Làm rõ các linh hoạt của TRIPS. Các linh hoạt này đã được làm rõ trong Tuyên bố Doha và Tuyên bố riêng về TRIPS và sức khỏe cộng đồng của Hội nghị; - Chỉ dẫn địa lý: Nhằm xây dựng hệ thống đa phương về thông báo và đăng ký chỉ dẫn địa lý của rượu vang và rượu mạnh và mở rộng bảo hộ mạnh đang dành cho rượu vang và rượu mạnh cho các sản phẩm khác; - Mối quan hệ giữa Hiệp định TRIPS và Công ước về Đa dạng sinh học: Tại Hội nghị Bộ trưởng Doha, nội dung thảo luận theo Điều này đã được mở rộng qua tuyên bố “hoạt động tại Hội đồng TRIPS về các nội dung rà soát lại (theo Điều 27.3(b) hay toàn bộ Hiệp định TRIPS theo Điều 71.1) và các vấn đề thi hành còn tồn tại phải bao gồm mối quan hệ giữa Hiệp định TRIPS và Công ước Liên hiệp quốc về Đa dạng sinh học, bảo hộ tri thức truyền thống và văn hóa dân gian”). e) Lập trường các nước: Bất đồng giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển i) Quan điểm của các nước đang phát triển Các nước đang phát triển hầu như không chú trọng việc thiết lập hệ thống bảo hộ quyền SHTT có tính thực thi cao mà tập trung khuyến khích việc cung cấp thông tin một cách tự do. Lập luận của các nước này là: - Tạo điều kiện cho công nghệ phát triển cũng như vì mục tiêu an sinh xã hội. Lấy ví dụ trong lĩnh vực dược phẩm. Các nước này đang phải đối đầu với các loại dịch bệnh hiểm nghèo như SIDA, bệnh lao, sốt rét, v.v… thường xuyên hơn các quốc gia khác, nhưng lại không có phương tiện sản xuất và điều kiện tài chính để cung cấp đẩy đủ thuốc chữa bệnh cho người dân do giá bán các loại thuốc đặc trị ngày càng cao và hơn nữa, các loại dược phẩm này đều là những sản phẩm được bảo hộ SHTT độc quyền của các hãng dược phẩm xuyên quốc gia. Vì vậy, trong hội nghị Katar, Ấn Độ, Brazil và Nam Phi yêu cầu cho phép họ được quyền không thực hiện bảo hộ đối với dược phẩm, khi cần thiết. - Các nước này cho rằng họ cần có sự tiếp cận tối đa đối với nền công nghệ của phương Tây để thúc đẩy sự phát triển và “các thông tin về công nghệ nên phổ biến với mức độ hạn chế nhỏ nhất bởi vì sự phát triển của thế giới thứ ba là vì lợi ích của tất cả các nước khác”. Mặt khác, việc xác định đối tượng có thể được đăng ký như sáng chế hoặc các quyền mà nhà sáng chế được hưởng vẫn chưa tìm được sự thống nhất của các bên. - Họ cũng lập luận rằng phần lớn các nước phát triển đã được tự do khai thác các tài sản trí tuệ để phát triển nền kinh tế của họ trong suốt thế kỷ 18 và thế kỷ 19. Trong khi đó, các nước đang phát triển phải trả tiền cho việc sử dụng tài sản thuộc quyền sở hữu của các cá nhân hoặc các công ty của các nước phát triển. ii) Quan điểm của các nước phát triển Ngược lại với quan điểm của các nước đang phát triển, các nước công nghiệp, phần lớn có nền kinh tế lệ thuộc vào thông tin và chuyển giao công nghệ, cho rằng việc thắt chặt bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ sẽ đem lại các lợi ích lớn về mặt kinh tế. Các nước này cho rằng việc sao chép và vi phạm quyền sở hữu trí tuệ có tổ chức sẽ làm giảm động lực tạo ra các sáng chế, các tác phẩm. Các nước đang phát triển có thể được lợi từ các hành vi sáng tạo ngày một tăng lên trong nước cũng như được hưởng các lợi ích của công nghệ cao từ nước ngoài. Các lợi ích đối với các nước đang phát triển có thể được bắt đầu từ việc đầu tư nước ngoài, chuyển giao công nghệ tăng lên do có được sự bảo hộ cao hơn đối với tài sản sở hữu trí tuệ. II. Nội dung 1. Phạm vi điều chỉnh: TRIPs điều chỉnh trên nhiều lĩnh vực, song trong Thương mại quốc tế có những nội dung cơ bản: - Thương hiệu và nhãn hiệu dịch vụ: dùng cho dịch vụ và hàng hóa, bảo hộ 7 năm và gia hạn không hạn chế (Ðiều 15 và 16). - Chỉ dẫn địa lý: Xác định nguồn gốc và đặc tính của các sản phẩm nông nghiệp như rượu, bia (Hiệp định Lixbon; Hiệp định Mađrít về những chỉ dẫn giả). Kéo dài bảo hộ đến khi nào chỉ dẫn vẫn còn được thực hiện trong phạm vi lãnh thổ nước thành viên. - Bí mật thương mại (lợi thế cạnh tranh): bao gồm các công thức, hình mẫu, phương pháp, chương trình, kỹ thuật, quy trình, hoặc biên tập thông tin nhằm mang lại tính cạnh tranh cho hoạt động kinh doanh. Người sở hữu bí mật thương mại có thể đòi bồi thường thiệt hại cho mình do việc người khác tiết lộ hoặc sử dụng bí mật thương mại của họ không hợp lý. - Kiểu dáng công nghiệp: Thời hạn bảo hộ ít nhất là 10 năm - Sáng chế: về sản phẩm và quy trình trong lĩnh vực công nghệ, được bảo hộ ít nhất là 20 năm. - Thông tin không bí mật: Vô thời hạn  Áp dụng đối với các quốc gia tham gia kí kết hiệp định bao gồm cả các nước phát triển, đang phát triển. 2. Quy định: hiệp định, điều ước về SHTT Các quy định của Hiệp định có thể chia thành 5 nhóm cơ bản, bảo hộ quyền SHTT trong TMQT được quy định rõ trong từng nhóm: - Nhóm 1: Các quy định liên quan đến việc thực hiện sự bảo hộ (nguyên tắc tắc đối xử quốc gia và tối huệ quốc) - Nhóm 2: Các quy định về tiêu chuẩn tối thiểu về nội dung bảo hộ (thời gian và phạm vi bảo hộ) ví dụ : o Nhãn hiệu thương mại (7 năm cho mỗi lần đăng ký hoặc đăng ký lại - Điều 18) o Thiết kế công nghiệp (Ít nhất là 10 năm - Điều 26:3) o Thiết kế mạch tích hợp (10 năm từ ngày đăng ký hoặc sử dụng - Điều 38:2 và 38:3) o Thông tin mật, kể cả bí mật thương mại (được bảo hộ chống lại việc tiết lộ không được phép và việc sử dụng không công bằng vì mục đích thương mại - Điều 39); o Chỉ dẫn địa lý (không cho phép đăng ký những nhãn hiệu thương mại gây hiểu lầm về nguồn gốc địa lý của hàng hóa, ví dụ champagne được hiểu là rượu được sản xuất tại Pháp chứ không phải nơi khác - Điều 22 và 23); - Nhóm 3: Các quy định về quyền áp dụng các biện pháp thích hợp nhằm ngăn chặn chủ sở hữu trí tuệ lạm dụng quyền của mình hoặc có hành động hạn chế thương mại hay chuyển giao công nghệ một cách bất hợp lý. - Nhóm 4: Các quy định về bảo đảm việc thực thi sự bảo hộ bằng các quy định về cơ chế tổ chức, thủ tục và đền bù có liên quan đến những việc như chủ sở hữu có thể được hỗ trợ, trợ giúp tạm thời trong luật dân sự; không để hải quan cho qua hàng giả, hàng ăn cướp hoặc vi phạm quyền sở hữu trí tuệ; trừng trị những kẻ làm hàng giả... - Nhóm 5: Các quy định về thời hạn thực hiện việc điều chỉnh luật lệ quốc gia cho phù hợp với các quy định trên là 1 năm đối với các nước phát triển, 5 năm đối với các nước đang phát triển và đang chuyển đổi, và 11 năm đối với các nước kém phát triển nhất. Trong Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ, Việt Nam đã cam kết chấp nhận Công ước Giơnevơ 1971, công ước Bécnơ 1971 và Công ước Pari 1967 .v.v. Cũng như việc chấp các cam kết căn bản trong TRIPs, đặc biệt là chấp thuận bảo hộ các quyền sở hữu cơ bản trong TMQT, 1 số cam kết cụ thể như:  Nhãn hiệu hàng hóa không ít hơn 10 năm sau mỗi lần đăng ký và không hạn chế số lần đăng ký lại.  Sáng chế không dưới 20 năm kể từ khi nộp đơn.  Thiết kế bố trí (topography) mạch tích hợp ít nhất là 10 năm và có thể chấm dứt sau 15 năm kể từ khi đăng ký hoặc đưa ra sử dụng.  Thông tin bí mật không ít hơn 5 năm đối với các dữ liệu sản phẩm có tính đến tính chất của dữ liệu và sự đầu tư, chi phí trong việc tạo ra các dữ liệu đó.  Kiểu dáng công nghiệp ít nhất 10 năm. Uu đãi cho các nước đang phát triển: a. Được áp dụng các điều khoản về MFN và tối hệ quốc. b. Các quốc gia đang phát triển không cần phải điều chỉnh nội luật theo TRIPs đến hết 1/1/2000. c. Cho phép kéo dài thời hạn đến 1/1/2005 để bảo hộ sáng chế các sản phẩm công nghệ chưa được bảo hộ đến thời điểm ký kết TRIPs. Các nước LDCs được gia nhập TRIPs mà không cần qua đàm phán về giai đoạn chuyển tiếp các nghĩa vụ của TRIP trong quá trình đàm phán gia nhập WTO. (Gần đây nhất nước LDC là Campuchia được dành thời hạn chuyển tiếp đến 1/1/2006 để xây dựng hệ thống pháp luật phù hợp với TRIPs)  Về hỗ trợ kỹ thuật: Thành viên là nước phát triển phải dành cho các nước đang và kém phát triển khác sự hợp tác về tài chính và kỹ thuật để tạo thuận lợi cho việc thi hành Hiệp định TRIPs. → Hiện nay: o Các nước đang phát triển phê phán các nước phát triển không thực hiện đúng hiệp đinh. o Các nước pt có khuynh hướng thực hiện các quy định này và khuyến khích các nước đang phát triển nộp đơn yêu cầu hỗ trợ kỹ thuật. o Thực tế vấn đề hỗ trợ kỹ thuật gặp rất nhiều khó khăn do nhu cầu thực tế thường cao hơn những gì mang lại và các nước đang phát triển cũng không muốn “sao chép” mô hình của các nước phát triển.  Theo hiệp định các nước phát triển có nhiệm vụ yêu cầu các doanh nghiệp, tổ chức trong nước chuyển giao công nghệ cho các quốc gia LDCs, tuy nhiên thực tế là các nước này chưa thực hiện đầy đủ. Nhìn chung, bảo hộ quyền SHTT đặc biệt là TRIPs thường đảm bảo nhiều quyền lợi của các nước giàu, vì thế không thu nhận được sự ủng hộ từ phía các nước nghèo.Tuy nhiên trong dài hạn, SHTT nhất định sẽ đem lại lợi ích cho các nước nghèo vì cũng có nhưng ưu đãi riêng cho các nước này. Vì thế mà xu hướng thực tế bây giờ các nước đang dần chuyển sang thái độ chấp nhận bảo hộ quyền SHTT. Đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế thế giới hiện nay. 3. Cơ chế đảm bảo thực hiện. Thời hạn thực hiện điều chỉnh luật lệ về nguyên tắc, phạm vi, nội dung, thực thi bảo hộ cũng như các thủ tục và chế tài trong tố tụng dân sự, hành chính, hình sự và hình phạt để thực hiện các nghĩa vụ là :  12 tháng liên quan tới nhãn hiệu hàng hóa và sáng chế  18 tháng liên quan tới quyền tác giả và thông tin bí mật  30 tháng liên quan tới Công ước Giơnevơ 1971, Công ước về phân phối tín hiệu vệ tinh mang chương trình truyền hình đã được mã hóa, thời hạn bảo hộ tác phẩm.  24 tháng liên quan tới các quyền còn lại kể từ khi Hiệp định có hiệu lực. Trong các quy định của TRIPS: - Nghĩa vụ chung (Điều41): + Quy định trong luật: Thủ tục thực thi, các biện pháp chế tài ; + Yêu cầu đối với các thủ tục: không tạo ra rào cản; đúng đắn và công bằng; không phức tạp và quá tốn kém; thời hạn hợp lý hoặc không được trì hoãn vô thời hạn; + Quyết định phán xử: dạng văn bản; nêu rõ lý do; trao cho các bên không chậm trễ; dựa trên các chứng cứ mà các bên đều có cơ hội trình bày ý kiến về các chứng cứ đó. + Không quy định nghĩa vụ thiết lập một hệ thống tư pháp riêng để thực thi các quyền sở hữu trí tuệ tách biệt với hệ thống tư pháp thực thi luật nói chung. • Thực thi quyền sở hữu trí tuệ: - Thủ tục và biện pháp chế tài dân sự và hành chính (Điều 42-49): gồm có các điều khoản về chứng cứ, lệnh của tòa án, bồi thường thiệt hại và các chế tài khác bao gồm cả các quyền của cơ quan xét xử trong việc xử lý hoặc tiêu hủy những hàng hóa vi phạm - Các điều khoản tiếp theo liên quan đến các biện pháp cần được áp dụng đối với việc đình chỉ thông quan những hàng hóa giả mạo và vi phạm bản quyền tại các cơ quan hải quan, để ngăn chặn những hàng hóa này vào lưu thông trong nước - Các nước thành viên phải có những thủ tục và chế tài hình sự ít nhất trong những trường hợp giả mạo nhãn hiệu và vi phạm bản quyền một cách cố ý trên bình diện thương mại. Các biện pháp cần phải bao gồm cả hình thức bỏ tù và phạt vi phạm đủ để ngăn chặn vi phạm. - Các biện pháp kiểm soát biên giới (Điều 51- 60); • Thực thi quyền sở hữu trí tuệ: Các thủ tục hình sự (Điều 61): + Hành vi phạm tội: Cố tình giả mạo nhãn hiệu hoặc xâm phạm bản quyền với quy mô thương mại + Các biện pháp chế tài: phạt tiền và/hoặc phạt tù; bắt giữ, tịch thu và tiêu huỷ hàng hoá xâm phạm và các phương tiện. → Mặc dù dưới những quy định chặt chẽ trên TRIPs cũng có những tính linh hoạt nhất định: a. Ở cả hình thức đãi ngộ quốc gia và phân biệt đối xử b. Có những trường hợp được miễn trừ thực hiện các hiện một số quy định của TRIPs để phù hợp với luật pháp quốc gia. c. Một số khái niệm chưa được định nghĩa hay định nghĩa của mỗi nước là khác nhau theo điều kiện đặc biệt của mỗi nước => Tuy nhiên các nước đang phát triển chưa khai thác được những linh hoạt này là do các nước này chưa đủ năng lực để xây dựng hệ thống pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ hoàn chỉnh cũng như việc các nước cam kết các tiêu chuẩn cao hơn các nước khác trong các hiệp định song phương, đa phương, đặc biệt với Hoa Kỳ và EU.v.v. 4. Quy trình thực hiện: Các bộ phận cấu thành hệ thống bảo hộ SHTT của mỗi quốc gia rất khác nhau, nhất là giữa các quốc gia phát triển và các quốc gia đang phát triển. Cụ thể ở một số quốc gia như: Paraquay: Áp dụng và thực thi luật pháp để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ: Năm 2004, Paraguay đã ban hành luật và triển khai những biện pháp cứng rắn nhằm tăng cường bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Ví dụ, chính phủ đã phối hợp với khu vực tư nhân và ủng hộ hai dự thảo luật, trong đó tăng cường các mức hình phạt đối với các trường hợp vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, một cho nạn ăn cắp bản quyền và một cho nạn làm hàng giả. Các dự luật đã tăng mức hình phạt lên từ năm năm trở lên và không đề cập đến các trường hợp vi phạm nhẹ được phép bảo lãnh thay cho án tù. Nhật Bản : Nhật Bản đã 4 chính sách lớn trong Chiến lược Quốc gia về Sở hữu trí tuệ của Nhật Bản và đã xây dựng và phát triển 1 hệ thống toàn diện trong hệ thống bảo hộ SHTT gồm:  Chính sách 1. Xúc tiến sự sáng tạo tạo ra tài sản trí tuệ  Chính sách 2. Củng cố và tăng cường hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ  Chính sách 3. Sử dụng tài sản trí tuệ  Chính sách 4. Sự tiến bộ, mở rộng các yêu cầu để củng cố và nâng cao trình độ nhân lực Đài Loan: Vào ngày 24/8/2004, Quốc hội Đài Loan đã thông qua một dự luật, theo đó sẽ thắt chặt hơn nữa những điều luật đã được ban bố năm 2003. Dự luật mới này quy định bất kì hành động nào sử dụng công nghệ hay tài liệu nhằm ngăn cản “các biện pháp chống ăn cắp bản quyền” đều bị coi là phạm tội và có thể chịu hình phạt lên đến một năm tù hoặc có thể phải nộp phạt tới 8000 đô-la Mỹ. Đồng thời dự luật này cũng cho phép Cục Hải quan tịch thu hàng hóa bị tình nghi và tạm thời trì hoãn xác định nguồn gốc của chúng. Trong khuôn khổ hợp tác APEC và ASEAN, Việt Nam và các thành viên khác đều cam kết thực hiện việc bảo hộ sở hữu trí tuệ theo các nguyên tắc tối huệ quốc, đối xử quốc gia và công khai của Hiệp định TRIPs vào năm 2000. III. Đánh giá chung. 1. Ý nghĩa và hạn chế Ý nghĩa của TRIPS: Việc bảo hộ quyền SHTT tốt sẽ khuyến khích nghiên cứu phát triển công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hóa và tạo uy tín cho sản phẩm. Việc bảo hộ tốt sẽ dẫn đến giá thành sản phẩm cao, hạn chế các vi phạm như tình trạng khai thác công nghệ không được phép của người sở hữu độc quyền(vụ kiện Microsoft) hay sản xuất hàng giả, hàng nhái… Hệ thống bảo hộ sở hữu trí tuệ mạnh sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển, hạn chế được việc “thất thu ngân sách” và tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh, là một trong những yếu tố để đánh giá một nền kinh tế mạnh. (Thay vì mua hàng được bảo hộ sở hữu trí tuệ, người tiêu dùng sẽ mua những mặt hàng “nhái” do giá thành rẻ hơn. Hầu hết những loại hàng này không đăng kí giấy phép hoặc là hàng nhập lậu. Một số tiền thuế có thể thu được từ công ty sản xuất có bảo hộ bản quyền sẽ bị thất thoát. Bản thân công ty đó cũng sẽ chịu thiệt thòi, lợi nhuận giảm… gây thiệt hại cho doanh nghiệp  mất lòng tin của người tiêu dùng đối với doanh nghiệp và chính sách quản lí vĩ mô của chính phủ). Trong ngắn hạn, các quốc gia đang phát triển vừa mới gia nhập WTO (đang thực hiện lộ trình cam kết về xây dựng một hệ thống bảo hộ sở hữu trí tuệ) có thể lợi dụng các khe hở của một hệ thống bảo hộ SHTT yếu để phát triển công nghệ với chi phí thấp. Đa phần các nước nghèo vẫn áp dụng giải pháp này để hiện đại hóa công nghệ của mình, qua đó phát triển kinh tế. Tuy nhiên, để tạo dựng một môi trường kinh doanh lành mạnh và chuyên nghiệp, cách tiếp cận này không được khuyến khích. Những tồn tại: Vấn đề về quyền sở hữu trí tuệ có quan hệ chặt chẽ với thương mại và phát triển kinh tế. Vào cuối những năm 1980, sự bùng nổ của đầu tư quốc tế và kéo theo đó là hoạt động mua bán quyền SHTT diễn ra sôi động trên phạm vi toàn thế giới đã khiến các nhà hoạch định chính sách ở cấp quốc tế ngày càng nhận thức được vấn đề này. Điều đó đã dẫn đến thực tế là vấn đề quyền SHTT không dừng lại ở phạm vi lãnh thổ quốc gia mà ngày càng mang tính toàn cầu. Các tập đoàn đa quốc gia của các nước giàu bị tổn thất nhiều do quyền SHTT bị vi phạm nhiều ở các nước đang phát triển. Chính điều này thúc đẩy các nước phát triển xây dựng một cơ chế mang tính kiểm soát toàn cầu đối với vấn đề bảo hộ quyền SHTT. Tuy nhiên, đó là một tham vọng hoàn toàn không dễ thực hiện. TRIPS là một hiệp định có tính chất “mở”, cho phép các nước xây dựng một hệ thống bảo hộ riêng phù hợp với những tiêu chuẩn tối thiểu được quy định trong TRIPS. Về bản chất, mục đích của TRIPs là xây dựng trong lòng các nước thành viên một hệ thống bảo hộ SHTT nghiêm ngặt hơn, qua đó, các nước giàu có thể tăng chi phí bán các bằng sáng chế. Như vậy, trên một khía cạnh nào đó, TRIPs chỉ là một sự ngụy tạo được thể chế hóa, được luật lệ của WTO phê chuẩn (Người ta vẫn tưởng rằng một hiệp ước quốc tế gắn liền với tổ chức thương mại quốc tế lớn nhất hiện nay chắc chắn sẽ đem lại lợi ích cho cả nước giàu và nước nghèo. Song sự thật là tiếng nói của các nước giàu trong WTO vẫn lất át các nước nghèo, tức là TRIPs mới chỉ đảm bảo quyền lợi của các nước giàu, các nội dung của TRIPs có lợi nhiều cho các nước giàu, và vì thế, không thu nhận được sự ủng hộ từ phía các nước nghèo). Việc thi hành TRIPS đòi hỏi những chi phí đáng kể từ ngân sách chính phủ của các nước đang phát triển là những quốc gia có nguồn lực hạn chế, nguồn chi phí này sẽ dùng để xây dựng và duy trì hệ thống pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ. VD: TRIPS hạn chế các nước nghèo sử dụng luật pháp về sở hữu trí tuệ như công cụ đòn bẩy cho kinh tế xã hội. Họ không thể bảo trợ các nhà sản xuất giữ giá sản phẩm ở mức chấp nhận được để phần lớn bộ phận người tiêu dùng đều có thể tiếp cận được. TRIPS không công nhận tri thức địa phương, điều này hạ thấp uy tín của hệ thống sở hữu trí tuệ ở những nước đang phát triển. 2. Triển vọng: Sở hữu trí tuệ ra đời từ nhu cầu của những nước giàu, những tập đoàn kinh tế lớn, những công ty đa quốc gia có khối lượng tài sản khổng lồ và có tầm ảnh hưởng đến hầu hết những chủ thể kinh tế quốc tế. Tại sao họ lại ủng hộ sở hữu trí tuệ? Bởi lẽ, quyền sở hữu trí tuệ, xét đến cùng là sản phẩm của chủ nghĩa bảo hộ. Tới khi nào còn chủ nghĩa bảo hộ thì quyền sở hữu trí tuệ vẫn còn lí do để tồn tại. Về lâu dài, một hệ thống hữu hiệu đối với các quyền sở hữu trí tuệ có thể có tác động tích cực về mặt kinh tế đối với các quốc gia đang phát triển. Quyền sở hữu trí tuệ thúc đẩy phát triển công nghệ mới và nỗ lực sáng tạo, có lợi cho các nước đang phát triển, đặc biệt về chuyển giao công nghệ. Thêm vào đó, TRIPS là một hiệp định mở. Theo đó, các quốc gia khi gia nhập WTO có thể sử dụng như một nhượng bộ khi đàm phán song phương với Mỹ và EU để đổi lấy các ưu đãi khác. Đứng ở góc nhìn tích cực hơn, việc thực hiện tốt các quy định về quyền sở hữu trí tuệ sẽ giúp cho kinh tế thế giới phát triển hơn, đảm bảo được quyền lợi của người tiêu dùng. Tội phạm về quyền sở hữu trí tuệ vi phạm thương hiệu, bằng phát minh sáng chế, quyền tác giả, buôn lậu hàng hoá trên quy mô toàn cầu có thu nhập với trị giá ước tính lên đến 500 tỷ đô la mỗi năm. Vào tháng 7 năm 2003, Tổng thư ký INTERPOL đã điều trần trước một uỷ ban của Quốc hội Hoa Kỳ về vấn đề này và cảnh báo với các nhà lập pháp Hoa Kỳ rằng, doanh số buôn bán hàng giả và hàng nhái theo ước tính lên đến 450 tỷ đô la/năm trên toàn thế giới và hành vi này đang ngày càng thu hút các tổ chức tội phạm tham gia do yếu tố siêu lợi nhuận. Vi phạm bản quyền phần mềm toàn cầu gây thiệt hại 40 tỷ USD năm 2006. Liên minh kinh doanh phần mềm (BSA) cho biết, hơn 1/2 chương trình phần mềm được cài đặt tại khu vực Đông Nam Á là sản phẩm sao chép bất hợp pháp, vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, gây tổn thất khoảng 8 tỷ USD cho các nhà sản xuất. Theo một kết quả nghiên cứu khác, năm qua, các công ty phần mềm trên toàn thế giới đã chi ra hơn 59 tỷ USD để phát minh phần mềm mới, nhưng nạn ăn cắp phần mềm đã làm tổn thất hơn 33 tỷ USD. Một hệ thống bảo hộ sở hữu trí tuệ đủ mạnh giúp cho các quốc gia có thể khai thác được mọi nguồn lực một cách hiệu quả  nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Xây dựng một hệ thống bảo hộ SHTT mạnh và hoàn thiện là một nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế dài hạn của bất kỳ quốc gia nào. Nó cũng đồng thời là một đòi hỏi bắt buộc trong quá trình hội nhập kinh tế. Tuy nhiên, trên thực tế, bức tranh kinh tế toàn cầu luôn đầy màu sắc tương phản. Vấn đề đặt ra là liệu có thể có và bao giờ có một bức tranh kinh tế toàn cầu mà trong đó mảng màu quyền SHTT là đơn sắc. Câu trả lời là chúng ta có thể làm được điều đó nhưng không phải trong ngắn hạn. Song trong bất cứ hoàn cảnh nào, những vấn đề mang tính nhân đạo phải được ưu tiên hàng đầu. Hy vọng rằng trong vòng đàm phán sắp diễn ra của WTO, các nước nghèo sẽ giành được ưu đãi trong việc sản xuất các sản phẩm y tế.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfttwto_6204.pdf
Luận văn liên quan