Tiểu luận Văn hóa trong kinh doanh

Trong quan hệ, người Nhật Bản chấp nhận người khác có thể mắc sai lầm, nhưng luôn cho đối tác hiểu rằng điều đó không được phép lặp lại và tinh thần sửa chữa luôn thể hiện ở kết quả cuối cùng. Mọi người đều có ý thức rất rõ rằng không được xúc phạm người khác, cũng không cần buộc ai phải đưa ra những cam kết cụ thể. Nhưng những chuẩn mực đạo đức xã hội, đạo đức doanh nhân (trách nhiệm đặt trên tình cảm) đã tạo một sức ép vô hình lên tất cả khiến mọi người phải xác định được bổn phận của mình nếu muốn có chỗ đứng trong tổ chức. Điều này rõ ràng đến mức khi tiếp xúc với các nhân viên người Nhật nhiều người nước ngoài cảm thấy họ tận tụy và kín kẽ, nếu có trục trặc gì thì lỗi rất ít khi thuộc về người Nhật Bản. Người Nhật Bản có qui tắc bất thành văn trong khiển trách và phê bình như sau : - Người khiển trách là người có uy tín, được mọi người kính trọng và chính danh "Không phê bình khiển trách tùy tiện, vụn vặt, chỉ áp dụng khi sai sót có tính hệ thống, gây lây lan, có hậu quả rõ ràng" Phê bình khiển trách trong bầu không khí hòa hợp, không đối đầu. Phát huy tính tích cực của nhân viên Người Nhật Bản quan niệm rằng: trong bất cứ ai cũng đồng thời tồn tại cả mặt tốt lẫn mặt xấu, tài năng dù ít nhưng đều ở đâu đó trong mỗi cái đầu, khả năng dù nhỏ nhưng đều nằm trong mỗi bàn tay, cái Tâm có thể còn hạn hẹp nhưng đều ẩn trong mỗi trái tim. Nhiều khi còn ở dạng tiềm ẩn, hoặc do những cản trở khách quan hay chủ quan. Vấn đề là gọi thành tên, định vị nó bằng các chuẩn mực của tổ chức, tạo điều kiện, môi trường làm việc thuận lợi, thúc đẩy bằng đào tạo, sẵn sàng cho mọi người tham gia vào việc ra quyết định theo nhóm hoặc từ dưới lên. Các doanh nghiệp Nhật Bản đều coi con người là tài nguyên quí giá nhất, nguồn động lực quan trọng nhất làm nên giá trị gia tăng và phát triển bền vững của doanh nghiệp. Người Nhật Bản quen với điều : sáng kiến thuộc về mọi người, tích cực đề xuất sáng kiến quan trọng không kém gì tính hiệu quả của nó, bởi vì đó là điều cốt yếu khiến mọi người luôn suy nghĩ cải tiến công việc của mình và của người khác. Một doanh nghiệp sẽ thất bại khi mọi người không có động lực và không tìm thấy chỗ nào họ có thể đóng góp.

pdf20 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4364 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Văn hóa trong kinh doanh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
góp tận tâm của mỗi cá nhân đối với doanh nghiệp luôn được tôn trọng và được đánh giá cao. Không ít nhà doanh nghiệp thường tổ chức những bữa ăn chung vào các kì nghỉ cuối tuần hoặc hằng tháng với sự tham gia của ban lãnh đạo và một số nhân viên hoặc tổ chức những cuộc chiêu đãi hằng năm với mục đích thể hiện sự thống nhất của tất cả các thành viên trong doanh nghiệp. Việc hằng tuần hoặc hằng tháng trao cho những người lao động có đóng góp xuất sắc những phần thưởng hay biểu tượng của doanh nghiệp . . . cũng biểu hiện thái độ tôn trọng của doanh nhân đối với nhân viên. Tất cả những phương tiện tác động tinh thần và đạo đức kể trên tạo ra sức mạnh không nhỏ đối với hoạt động của doanh nghiệp, để cho các nhân viên bộc lộ sức lực và khả năng sáng tạo của mình đóng góp thật nhiều cho sự lớn mạnh của doanh nghiệp. Văn hoá doanh nhân hay văn hoá của nhà doanh nghiệp là sự kết hợp giữa trí tuệ, tài năng và nhân cách đạo đức mà cái tâm là cốt lõi thể hiện trong toàn bộ các mối quan hệ đa chiều của mọi hoạt động kinh doanh. Văn hoá kinh doanh và văn hoá doanh nhân tuy có những điểm khác biệt, nhưng chúng cùng nhằm nuôi dưỡng, nâng cao phẩm chất, tính cách của con người và đều hướng tới giá trị của lòng nhân ái, cái thiện, cái đẹp và cái chân chính. Sự lịch lãm, lễ độ, thái độ nhã nhặn, lòng bao dung, biết tôn trọng quyền lợi của nhau trong giao tiếp, ứng xử… tạo niềm tin và uy tín không chỉ đối với doanh nhân mà còn đối với cả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta đòi hỏi các nhà doanh nghiệp và hoạt động kinh doanh quan tâm hơn nữa đối với văn hoá, đưa văn hoá vào lĩnh vực kinh doanh. Sự kết hợp giữa kinh doanh và văn hoá đảm bảo cho sự phát triển bền vững của các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay. Nhóm 10 5 I. Khái niệm Văn hoá kinh doanh là toàn bộ các nhân tố văn hoá được chủ thể kinh doanh chọn lọc, tạo ra, sử dụng và biểu hiện trong hoạt động kinh doanh tạo nên bản sắc kinh doanh của chủ thể đó . II. Các nhân tố cấu thành văn hoá kinh doanh Văn hoá kinh doanh là một phương diện của văn hoá trong xã hội và là văn hoá trong lĩnh vực hoạt động kinh doanh . Văn hóa kinh doanh bao gồm toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần, những phương thức và kết quả hoạt động của con người được tạo ra và sử dụng trong quá trình kinh doanh. Để tạo nên hệ thống văn hóa kinh doanh hòan chỉnh với bốn nhân tố cấu thành là : triết lý kinh doanh, đạo đức kinh doanh, văn hóa doanh nhân và các híonh thức văn hóa khác, chủ thể kinh doanh phải kết hợp đồng thời hai hệ giá trị sau :  Chủ thể kinh doanh sẽ lựa chọn và vận dụng các giá trị văn hóa dân tộc, văn hóa xã hội, . . . vào họat động kinh doanh để tạo ra sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ. Đó là tri thức, kiến thức, sự hiểu biết về kinh doanh được thể hiện từ việc tuyển chọn nhân công, lựa chọn nguyên nhiên vật liệu, lựa chọn máy móc dây chuyền công nghệ, . . .ngôn ngữ được sử dụng trong kinh, niềm tin, tín ngưỡng và tôn giáo, các giá trị văn hóa truyền thống, các họat động văn hóa tinh thần, . . . ví dụ Công ty Mai Linh có lựa chọn và vận dụng các giá trị văn hóa dân tộc, văn hóa xã hội vào việc đặc tên cho Cong ty của mính để làm thành Mai Linh đaược mọi người biết đến không còn đơn thuần là tên công ty mà nó là tên của một thương hiệu nổi tiếng trên đất nứơc Việt nam. về ý nghĩa “ Mai” nói lên hìonh ảnh của hoa mai trong ngày tết cố truyền, của sự may mắn, đồng thời cũng là một từ dùng để chỉ tương lai, về một ngày mai tốt đẹp. Còn “Linh” mang ý nghĩa của tinh nhanh, linh hoạt, linh động trong giải quyết công việc.  Trong quá trình họat động, các chủ thể kinh doanhcũng tạo ra các giá trị của riêng mình. Các giá trị này được thể hiện thông qua những giá trị hữu hình như giá trị của sản phẩm, hình thức mẫu mã sản phẩm, máy móc, thiết bị nhà xưởng , biểu tượng, khẩu hiệu, lễ nghi, sinh họat, thủ tục, chương trình, truyền thuyết, các họat động văn hóa tinh thần của doanh nghiệp. Tuy nhiên, sự phân biệt hai hệ thống giá trị kể trên chỉ là tương đối, các giá trị văn hóa dân tộc, văn hóa xã hội đã được chọn lọc và các giá trị văn hóa được tạo ra trong quá trình kinh doanh không thể tách bạch, chúng hoa quỵên vào nhau thành một hệ thống văn hóa kinh doanh với 4 nhân tố cấu thành là : 1. Triết lý kinh doanh : Khái niệm : Triết lý kinh doanh là những tư tưởng triết học phản ánh thực tiễn kinh doanh thông qua con đường trải nghiệm, suy ngẫm, khái quát hóa của các chủ thể kinh doanh và chỉ dẫn cho họat động kinh doanh . Là một hệ thống bao gồm những giá trị cốt lõi có tính pháp lý và đạo lý tạo nên phong thái đặc thù của chủ thể kinh doanh và phương thức phát triển bền vững của họat động này. Triết lý kinh doanh còn là cơ sở để các nhà quản trị đưa ra các quyết định quản lý có tính chiến lược quan trọng trong những tình huống mà sự phân tích lỗ lãi không thể giải quyết. Đồng thời, triết lý kinh doanh còn là phương tiện để giáo dục và phát triển nguồn nhân lực cho họat động kinh doanh. Vì thế, nên trong những công ty xuất sắc của Mỹ như IBM, HP, Intel, . . . các nhà quản trị đều có thói quen đối Nhóm 10 6 chiếu triết lý kinh doanh với các dự định hành động cũng như các kế họach, chiến lược trong giai đoạn xây dựng và vấn đề đầu tiên mà các nhân viên mới phải học là sự hòa nhập với môi trường văn hóa của công ty với trọng tâm là triết lý kinh doanh để giá trị cảu công ty được truyền tải và di truyền vào từng thành viên, tạo nên sứ mệnh và hành vi chung của tòan thể nhân viên trong công ty. Hình thức thể hiện của triết lý kinh doanh cũng rất khác nhau với mỗi một chủ thể kinh doanh cụ thể. Đó có thể là một văn bản được in ra thành một cuốn sách nhỏ hoặc dưới dạng một câu khẩu hiệu hoặc bài hát. Triết lý kinh doanh cũng có thể không được thể hiện ra bằng các dạng vật chất mà tồn tại ở những giá trị niềm tin định hướng cho quá trình kinh doanh. Và dù dưới hình thức nào thì triết lý kinh doanh luôn trở thành ý thức thường trực trong mỗi chủ thể kinh doanh, chỉ đạo những hành vi của họ. Kết cấu nội dung của triết lý kinh doanh thường bao gồm những bộ phận sau :  Sứ mệnh và các mục tiêu kinh doanh cơ bản,  Các phương thức hành động để hòan thành được những sứ mệnh và mục tiêu,  Các nguyên tắc tạo ra một phong cách ứng xử, giao tiếp và họat động kinh doanh đặc thù của doanh nghiệp. 2. Đạo đức kinh doanh : Khái niệm : Đạo đức kinh doanh là một tập hợp các nguyên tắc, chuẩn mực có tác dụng điều chỉnh, đánh giá, hướng dẫn và kiểm soát hành vi của các chủ thể kinh doanh. Đây là hệ thống các quy tắc xử sự, các chuẩn mực đạo đức, các quy chế, nội quy, . . . có vai trò điều tiết các họat động của quá trình kinh doanh nhằm hướng đến triết lý đã quy định. Ngày nay, hoạt động kinh doanh đòi hỏi các chủ thể phải có những hành vi phù hợp với đạo lý dân tộc và các quy chuẩn về cái thiện và cái tốt chung của toàn nhân loại. Do vậy, đạo đức kinh doanh sẽ góp phần phát triển mối quan hệ với người lao động, với chính quyền, với khách hàng, với đối thủ cạnh tranh, với nhà cung cấp và với cộng đồng xã hội, từ đó góp phần tạo nên môi trường kinh doanh ổn định. 3. Văn hóa doanh nhân : Khái niệm : Văn hóa doanh nhân là toàn bộ các nhân tố văn hóa mà các doanh nhân chọn lọc, tạo ra, sử dụng và biểu hiện trong hoạt động kinh doanh của mình. Tài năng, đạo đức và phong cách của nhà kinh doanh có vai trò quyết định trong việc hình thành văn hóa kinh doanh của chủ thể kinh doanh. Doanh nhân không chỉ là người quyết định cơ cấu tổ chức và công nghệ kinh doanh mà còn là người sáng tạo ra các biểu tượng, các ý thức hệ, ngôn ngữ, niềm tin, nghi lễ, huyền thoại, . . .Do đó, trong quá trình xây dựng và phát triển kinh doanh, văn hóa của doanh nhân sẽ được phản chiếu lên văn hóa kinh doanh. 4. Các hình thức văn hóa khác : Khái niệm : Các hình thức văn hóa khác bao gồm những giá trị của văn hóa kinh doanh được thể hiện bằng tất cả những giá trị trực quan hay phi trực quan điển hình. Một số hình thức thể hiện khác của văn hóa kinh doanh như :  Giá trị sử dụng, hình thức, mẫu mã sản phẩm : Đây là một hình thức thể hiện của văn hóa kinh doanh vì con người luôn luôn khát vọng hướng đến chân – thiện – mỹ, Nhóm 10 7 tức là luôn vươn tới cái đúng, cái tốt và cái đẹp nên nhu cầu của khách hàng không đơn thuần chỉ là được đáp ứng những đòi hỏi vật chất mà song song với đó là tính thẩm mĩ, tính nghệ thuật trong giá trị và hình thức của sản phẩm cũng phải không ngừng được nâng cao.  Kiến trức nội và ngoại thất : cũng là một trong những giá trị quan trọng của văn hóa kinh doanh vì kiến trúc nội và ngọai thất thường tạo nên những ảnh hưởng lớn đến hành vi con người về phương diện cách thức giao tiếp, phản ứng và thực hiện công việc. Các công trình kiến trúc nội và ngoại thất cũng là một bộ phận hữu cơ quan trọng trong hệ thống các sản phẩm mà chủ thể kinh doanh tạo ra.  Nghi lễ kinh doanh : Nghi lễ kinh doanh là những hoạt động đã được dự kiến từ trước và chuẩn bị kỹ lưỡng, thường được tổ chức dưới hình thức các sự kiện và hoạt động văn hóa – xã hội có tính chất nghiêm trang, chính thức và tình cảm. Nghi lễ kinh doanh thường được thể hiện định kỳ hay bất thường với mục đích thắt chặt các mối quan hệ và vì ích lợi của những người tham dự.  Giai thoại và truyền thuyết : thường được thêu dệt từ những sự kiện có thực được mọi thành viên trong tổ chức cùng chia sẻ và nhắc lại với những thành viên mới. Đó có thể là những mẫu chuyện kể về những nhân vật anh hùng như những mẫu lý tưởng về những chuẩn mực và giá trị chung, hoặc những giai thoại do những sự kiện đã mang tính lịch sử và được thêu dệt thêm, hoặc những huyền thoại chứa đựng những giá trị và niềm tin của chủ thể kinh doanh và không được chứng minh bằng các bằng chứng thực tế.  Biểu tượng : là một công cụ biểu thị đặc trưng của văn hóa kinh doanh, nó biểu thị niềm tin giá trị mà chủ thể kinh doanh muốn gửi gắm. Các công trình kiến trúc, lễ nghi, giai thoại truyền thuyết, khẩu hiệu, hình thức mẫu mã của sản phẩm, cách bố trí máy móc dây chuyền công nghệ, . . . đều chứa đựng những đặc trưng của biểu tượng, bởi thông qua giá trị vật chất cụ thể, hữu hình, các biểu trưng này đều muốn truyền đạt những giá trị, những ý niệm, những ý nghĩa tiềm ẩn bên trong, xâu xa cho người tiếp nhận theo cách thức khách nhau. (ví dụ : logo)  Ngôn ngữ, khẩu hiệu : Chủ thể kinh doanh có thể lựa chọn một hay nhiều ngôn ngữ khác nhau, nó có thể là ngôn ngữ bản địa hoặc ngôn ngữ quốc tế, là ngôn ngữ chính thống hay ngôn ngữ đời thường. Do vậy, cách thức lực chọn và sử dụng ngôn ngữ trong giao lưu, giao tiếp kinh doanh cũng là khía cạnh biểu trưng quan trọng của văn hóa kinh doanh. Khẩu hiệu là hình thức dễ nhập tâm, ngắn gọn, xúc tích, dễ nhớ và là cách diễn đạt ngắn gọn nhất của triết lý kinh doanh. Khẩu hiệu thường được sử dụng với các ngôn ngữ từ đơn giản nên để hiểu được ý nghĩa tiềm ẩn của chúng, cần liên hệ với bản tuyên bố sứ mệnh của chủ thể kinh doanh.  Ấn phẩm điển hình :Những ấn phẩm điển hình là những tư liệu chính thức có thể giúp những người hữu quan nhận thấy rõ hơn về văn hóa kinh doanh của chủ thể kinh doanh. Chúng có thể bao gồm : Bộ triết lý kinh doanh, các quy tắc, các chuẩn mực đạo đức trong kinh doanh, các tài liệu giới thiệu về đơn vị, sổ tay nhân viên, thẻ nhân viên, . . .  Lịch sử phát triển và truyền thông văn hoá : Đây là nhân tố cấu thành và có vai trò quan trọng trong việc xây dựng các đặc trưng mới của văn hoá kinh doanh. Những truyền thống, tập quán, những nhân tố văn hoá đã định hìnhvà xuất hiện trong lịch sử vừa là chỗ dựa nhưng cũng có thể là rào cản tâm lý không dễ vượt qua trong việc xây Nhóm 10 8 dựng và phát triển những đặt trưng văn hoá mới.Tuy nhiên, lịch sử phát triển và truyền thống văn hoá sẽ giúp chủ thể kinh doanh có những thay đổi phù hợp với giá trị truyền thống và thích ứng được với hiện tại, đồng thời chuẩn bị hành trang vững chắc tiến tới tương lai. Như vậy, triết lý kinh doanh, đạo đức kinh doanh, văn hoá doanh nhân và các hình thức văn hoá kháclà bố nhân tố cấu thành không thể thiếu và không thể tách rời của một hệ thống văn hoá kinh doanh hoàn chỉnh. III. Các đặc trưng của văn hoá kinh doanh Văn hoá kinh doanh, là văn hoá của một lĩnh vực đặc thù trong xã hội, văn hoá kinh doanh là một bộ phận trong nền văn hoá dân tộc, văn hoá xã hội. vì thế nó cũng mang những đặc điểm chung của văn hoá như : 1. Tính tập quán : Hệ thống cácgiá trị của văn hoá kinh doanh sẽ quy định những hành vi được chấp nhận hay không được chấp nhận trong một hoạt động hay môi trường kinh doanh cụ thể. Có những tập quán kinh doanh đep tồn tại như một sự khẳng định những nét độc đáo đó là tập quán chăm lo đến đời sống riêng tư của người lao động trong các doanh nghiệp Nhật Bản, tập quán cung cấp các dịch vụ sau bán hàng cho khách của các doanh nghiệp hiện đại.Tuy nhiên cũng có những tập quán không dễ gì thông cảm ngay như tập quán đàm phán và ký kết hợp đồng trên bàn tiệc của nhiều doanh nghiệp tại việt Nam. 2. Tính cộng đồng : Kinh doanh bao gồm một hệ thống các hoạt động có tính chất đặc trưng với mục tiêu là lợi nhuận của chủ và các nhu cầu được đáp ứng của khách, kinh doanh không thể tồn tại do chính bản thân nó mà phải dựa vào sự tạo dựng, tác động qua lại và củng cố của mọi thành viên tham gia trong quá trình hoạt động. Văn hoá kinh doanh bao gồm những giá trị, những lề thói, những tập tục, . . . mà các thành viên trong cộng đồng cùng tuân theo một cách rất tự nhiên, không cần phải ép buộc. 3. Tính dân tộc : Là đặc trưng tất yếu của văn hoá kinh doanh, vì bản thân văn hoá kinh doanh là một tiểu văn hoá nằm trong văn hoá dân tộc và mỗi chủ thể kinh doanh đều thuộc về một dân tộc cụ thể với một phần nhân cách tuân theo các giá trị của văn hoá dân tộc. Khi các giá trị của văn hoá dân tộc được thẩm thấu vào tất cả các hoạt động kinh doanh sẽ tạo nên nếp suy nghĩ và cảm nhận chung của những người làm kinh doanh trong cùng một dân tộc . 4. Tính chủ quan : Văn hoá kinh doanh là sự thể hiện quan điểm, phương hướng chiến lược và cách thức tiến hành kinh doanh cua một chủ thể kinh doanh cụ thể. Tính chủ quan của văn hoá kinh doanh được thể hiện thông qua việc các chủ thể khác nhau sẽ có những suy nghĩ, đánh giá khác nhau về cùng một sự việc và hiện tượng kinh doanh (ví dụ : hành động khai man để trốn thuế). 5. Tính khách quan : Do được hình thành trong cả một quá trình với sự tác động của nhiều nhân tố bên ngoài như xã hội, lịch sử, hội nhập, . . . nên văn hoá kinh doanh tồn tại khách quan ngay cả trong với chính chủ thể kinh doanh. Có những giá trị của văn hoá kinh doanh Nhóm 10 9 buộc chủ thể kinh doanh phải chấp nhận nó chứ không thể biến đổi chúng theo ý muốn chủ quan của mình. 6. Tính kế thừa : Văn hoá kinh doanh là sự tích tụ của tất cả các hoàn cảnh. Trong kinh doanh, mỗi thế hệ sẽ cộng thêm các đặc trưng riêng biệt của mình vào hệ thống văn hoá kinh doanh trước khi truyền lại cho thế hệ sau. Qua thời gian, những cái cũ có thể bị loại trừ nhưng sự sàng lọc và tích tụ qua thời gian sẽ làm cho các giá trị văn hoá kinh doanh trở nên giàu có, phong phú và tinh khiết hơn. 7. Tính học hỏi : Có những giá trị văn hoá kinh doanh không thuộc về văn hoá dân tộc hay văn hoá xã hội và cũng không phải do các nhà lãnh đạo sáng lập ra. những giá trị đó được hình thành từ kinh nghiệm khi xử lý các vấn đề, từ kết quả của quá trình nghiên cứu thị trường, nghiên cứu đối thủ cạnh tranh, hoặc tiếp nhận từ quá trình giao lưu các nền văn hoá khác, . . . 8. Tính tiến hoá : Kinh doanh rất sôi động và luôn thay đổi. Do đó, văn hoá kinh doanh với tư cách là bản sắc của chủ thể kinh doanh cũng luôn tự điều chỉnh cho phù hợp với trình độ kinh doanh và tình hình mới. Trong thời đaị hội nhập, việc giao thoa với các sắc thái kinh doanh của các chủ thể khác nhằm trao đổi và tiếp thu các giá trị tiến bộ là điều tất yếu. IV. Các nhân tố tác động đến văn hoá kinh doanh : Văn hoá kinh doanh chịu ảnh hưởng của những nhân tố sau: 1. Nền văn hoá xã hội : Văn hoá kinh doanh là một bộ phận của văn hoá dân tộc, văn hoá xã hội, vì vậy, sự phản chiếu của văn hoá dân tộc văn hoá xã hội lên nền văn hoá kinh doanh là một điều tất yếu. Mỗi một cá nhân trong một nền văn hoá kinh doanh đều phụ thuộc vào vào một nền văn hoá dân tộc cụ thể, với một phần nhân cách tuân theo giá trị văn hoá dân tộc. mức độ coi trọng tính cá nhân hay tính tập thể, khoảng cách phân cấp của xã hội, tính linh hoạt chuyển đổi giữa các tầng lớp xã hội, tính đối lập giữa nam quyền và nữ quyền, tính thận trọng, . . . là những thành tố của văn hoá xã hội tác động rất mạnh mẽ đến văn hoá kinh doanh. Đồng thời, hoạt động kinh doanh luôn tồn tại trong một môi trường xã hội nhất định nên nhất thiết nó phải chịu ảnh hưởng của văn hoá xã hội. 2. Thể chế xã hội : Thể chế xã hội bao gồm : thể chế chính trị, thể chế kinh tế, thể chế hành chính, thể chế văn hoá, các chính sách của chính phủ, hệ thống pháp chế, . . . là những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới môi trường kinh doanh và qua đó ảnh hưởng sâu sắc tới việc hình thành và phát triển văn hoá kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường, để đạt mục tiêu doanh thu cao nhất với chi phí thấp nhất trong các hoạt động kinh doanh, nhất thiết cac chủ thể kinh doanh phải có tri thức, có văn hoá để khai thác và sử dụng các nguồn lực khan hiếm như vốn, tài nguyên, lực lượng lao động, khoa học công nghệ sao cho hiệu quả nhất. Sự cạnh tranh của thị trường cũng buộc các nhà kinh doanh phải có đạo đức, tôn trọng con người, có cuộc sống trong sạch, có phong tác tự chủ, năng động sáng tạo, có tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chấp nhận rủi ro, dám chịu trách nhịâm về kết quả hoạt động của mình đó chính là bản lĩnh văn hoá của nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. 3. Sự khác biệt và giao lưu văn hoá : Nhóm 10 10 Trong môi trường kinh doanh quốc tế ngày nay, các chủ thể kinh doanh không thể duy trì văn hoá của mình như một lãnh địa đóng kín mà phải mở của và phát triển giao lưu về văn hoá. Giao lưu văn hoá tạo điều kiện cho các chủ thể kinh doanh học tập, lựa chọn những khía cạnh tốt về văn hoá của các chủ thể khác nhằm phát triển mạnh nền văn hoá của doanh nghiệp mình. 4. Quá trình toàn cầu hoá : Tiến trình toàn cầu hoá, quốc tế hoá nền kinh tế đã góp phần làm cho hoạt động kinh doanh phát triển mạnh mẽ. Mở cửa hoà nhập cùng kinh tế thế giới, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát huy hết khả năng của mình, nâng cao trình độ kinh doanh cho phù hợp với yêu cầu của thị trường Trong quá trình toàn cầu hoá diễn ra sự giao lưu giữa các nền văn hoá kinh doanh, đã bổ sung thêm giá trị mới cho văn hoá kinh doanh của mỗi nước, làm phong phú thêm kho tàng kiến thức về kinh doanh, biết cách chấp nhận những luật chơi chung, những giá trị chung để cùng hợp tác phát triển. 5. Khách hàng : Các chủ thể kinh doanh tồn tại và phát triển không vì lợi nhuận trước mắt mà phải vì lợi nhuận lâu dài và bền vững. Với vai trò là người góp phần tạo ra doanh thu, khách hàng đóng góp một phần rất quan trọng việc tạo ra lợi nhậun lâu dài và bền vững cho chủ thể kinh doanh. Trong xã hội hiện đại, khách hàng không mua sản phẩm thuần tuý, họ muốn mua những giá trị, họ đưa ra các quyết định dựa trên bối cảnh văn hoá chứ không đơn thuần là những quyết định có tính chất thiệt hơn. Khách hàng ngày càng đòi hỏi nhiều hơn, họ có tính cách, suy nghĩ, lập trường riêng, có nghĩa họ có văn hoá riêng của họ. Cuộc sống càng hiện đại, cung cách càng phát triển thì họ càng tự do hơn trong lựa chọn. Do đó, nhu cầu, thẩm mỹ, trình độ dân trí về kinh tế của khách hàng tác động trực tiếp đến văn hoá kinh doanh của các chủ thể kinh doanh. V. Vai trò của văn hoá kinh doanh : Do ảnh hưởng của mỗi nền văn hoá mà nhân cách, đạo đức, niềm tin, thái độ, hệ thống các giá trị, . . . ở mỗi con người, mỗi doanh nghiệp, mỗi tổ chức được hình thành và phát triển. Vì vậy, văn hoá kinh doanh đóng vai trò rất quan trọng đối với các chủ thể. 1. Văn hoá kinh doanh là phương thức phát triển sản xuất kinh doanh bền vững : Hoạt động kinh doanh được thúc đẩy bằng nhiều động cơ khác nhau, trong đó động cơ kiếm được nhiều lợi nhuận là động cơ quan trọng nhất. Tuy nhiên, sẽ chưa thật đầy đủ nếu ta khẳng định “mọi cuộc kinh doanh đều bị thúc đẩy hoặc dẫn dắt chỉ bằng mục tiêu lợi nhuận và nhà kinh doanh nào cũng chỉ hoạt động vì sự ích kỷ và giàu có của bản thân” vì :  Động cơ khiến các nhà kinh doanh kiếm lợi không chỉ là các nhau cầu sinh lý và bản năng mà còn do các nhu cầu cấp cao hơn đó là nhu cầu mong muốn được xã hội tôn trọng, mong muốn được tự thể hiện và sáng tạo. Thực tế đã chứng minh, nhiều nhà kinh doanh đã dùng tài sản của mình để đóng góp từ thiện, lập các quỹ phát triển khoa học và công nghệ, các quỹ giáo dục, . . . mà không vì mục đích quảng cáo hay phô trương.  Lợi nhuận dù quan trọng song không phải vật chuẩn và vật hướng dẫn duy nhất đối với hoạt động kinh doanh, vì ngoài lợi nhuận ra còn có pháp luật và văn hoá điều chỉnh. Nhóm 10 11 Ví dụ : Kinh doanh mại dâm, buôn lậu, ma tuý, . . . là những hoạt động kinh doanh siêu lợi nhuận, nhưng phần đông các nhà kinh doanh đều không muốn tham gia vào loại thị trường này. Vì vậy, kinh doanh và văn hoá có mối quan hệ biện chứng với nhau. Kinh doanh có văn hoá là lối kinh doanh có mục đích và theo phương thức cùng đạt tới cái lợi, cái thiện và cái đẹp, và trái với nó là lối kinh doanh phi văn hoá, sẵn sàng chà đạp lên mọi giá trị và không từ bất cứ một thủ đoạn nào để kiếm lời. 2. Văn hoá kinh doanh là nguồn lực phát triển kinh doanh :  Trong tổ chức và quản lý kinh doanh Vai trò của văn hoá thể hiện ở sự lựa chọn phương hướng kinh doanh, sự hiểu biết về sản phẩm, dịch vụ, về những mối quan hệ giữa người và người trong tổ chức, về việc biết tuân theo các quy tắc và quy luật của thị trường. Ngoài ra văn hoá kinh doanh còn được thể hiện thông qua việc hướng dẫn và định hướng tiêu dùng, thông qua chỉ đạo, tổ chức, hướng dẫn một phong cách có văn hoá trong kinh doanh. Khi tất cả những yếu tố văn hoá đó kết tinh vào hoạt động kinh doanh tạo thành phương thức kinh doanh có văn hoá và là nguồn lực rất quan trọng để phát triển kinh doanh. Nó sẽ giúp chủ thể tạo phong cách kinh doanh trung thực và ngay thẳng, đáp ứng các nhu cầu của cuộc sống. Văn hoá kinh doanh sẽ tạo ra mối quan hệ mật thiết giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng theo nguyên tắc các bên cùng có lợi; nó kích thích sự cạnh tranh lành mạnh nhằm tiến tới phát triển mạnh mẽ hơn, chứ không phải là để diệt trừ nhau.  Văn hoá trong giao lưu, giao tiếp kinh doanh Văn hoá kinh doanh hướng dẫn toàn bộ hoạt động giao lưu, giao tiếp trong kinh doanh. Đặc biệt trong mối quan hệ mua và bán, khi giao tiếp với khách hàng: những lời chào và lời nói tế nhị, lịch sự; những dịch vụ hậu mãi thích hợp sẽ tạo mối quan hệ lâu dài với khách hàng và lúc này văn hoá kinh doanh thực sự trở thành nguồn lực vô cùng quan trọng đối với chủ thể kinh doanh trong quá trình hoạt động. Văn hoá giao lưu giao tiếp kinh doanh còn dược thể hiện thông qua đàm phán, ký kết hợp đồng thương mại, thông qua soạn thảo các thông điệp về nội dung và hình thức quảng cáo, . . .  Văn hoá trong việc thực hiện trách nhiệm xã hội của chủ thể Trách nhiệm xã hội của chủ thể kinh doanh là sự gánh vác tự nguyện những nghĩa vụ, trách nhiệm vượct lên trên những trách nhiệm về kinh tế và pháp lý và thoả mãn những mong muốn của xã hội. Kinh doanh không chỉ chú trọng đến lợi nhuận mà còn quan tâm đến trách nhiệm xã hội của các chủ thể. Các phúc lợi xã hội mà các chủ thể được hưởng đã quy định họ phải có nghiã vụ đóng góp thoả đáng cho xã hội. Việc đóng góp cho ng6n sách nhà nước, tham gia hoạt động xã hội từ thiện, tôn trọng những quy phạm đạo đức trong quan hệ xã hội, quan hệ kinh doanh, tôn trọngcác giá trị truyền thống. 3. Văn hoá kinh doanh là điều kiện đẩy mạnh kinh doanh quốc tế : Khi trao đổi thương mại quốc tế sẽ tạo ra cơ hội tiếp xúc giữa các nền văn hoá khác nhau của các nước và việc hiểu văn hoá của quốc gia đến kinh doanh là một điều quan trọng. Quốc gia bán hàng hoá và dịch vụ, trên chừng mục nào đó đã đưa văn hoá của mình đến nước đó, và đồng thời cũng có sự hiểu biết nhất định về văn hoá cuả nước sở tại như: phong tục, tập quán để trên cơ sở đó có những phương tiện tiếp xúc khi giao dịch, khi đàm phán thương mại phù hợp với nền văn hoá của quốc gia đó. Nhóm 10 12 Bên cạnh đó, thông qua việc tìm kiếm và cung cấp hàng hoá cho thị trường quốc tế, giới thiệu những nét đẹp, những tinh hoa của văn hoá dân tộc mình cho bạn bè thế giới. VI. Xây dựng nền văn hóa kinh doanh Tại sao với rừng vàng biển bạc,có nhân dân cần cù, lại được lãnh đạo bởi một Đảng vững mạnh, giàu kinh nghiệm và ý chí, chúng ta vẫn chưa thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu có qúa nhiều lý do. Nhưng có một lý do rất quan trọng, và ngày càng trở nên quan trọng hơn từ khi chúng ta tiến hành mở cửa, đổi mới và xây dựng một nền kinh tế thị trường, người ta không còn coi giàu có là một “tội lỗi”, không còn coi tầng lớp doanh nhân như những kẻ xấu xa nữa. Giàu có không còn là tội lỗi nhưng doanh nhân – những người đóng vai trò quyết định trong việc tạo nên sự giàu có ấy, vẫn chưa được tôn vinh. Tình trạng này, cần xem xét từ hai phía: phía xã hội và phía các doanh nhân. Từ phía xã hội, xã hội theo nghĩa rộng nhất phải nhận rằng quá trình đổi mới tư duy đã không theo kịp những đòi hỏi của cuộc sống. Cho mãi đến gần đây, việc thành lập doanh nghiệp vẫn hết sức khó khăn. Doanh nhân không những gặp rất nhiều trở ngại trong quá trình hoạt động mà còn trở thành đối tượng bị phân biệt đối xử. Doanh nhân thậm chí vẫn bị coi là tầng lớp bóc lột, mặc dù với trí tuệ và kinh nghiệm quản lý của mình, họ đang đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc tạo ra công ăn việc làm, cũng có nghĩa là tạo nên thu nhập cho người lao động và góp phần ổn định xã hội và phát triển đất nước. Từ phía các các doanh nhân, mặc dù đã có được bước phát triển vượt bậc vẫn chưa thoát khỏi tình trạng kinh doanh manh mún, không chuyên nghiệp, không có chiến lược dài hạn. Một số thậm chí kinh doanh theo lối chụp giật, phi pháp và không thực hiện đúng những nghĩa vụ của mình với Nhà nước và xã hội. Chính đó là một trong những lý do khiến cho hình ảnh của nhiều doanh nhân bị bóp méo. Ngoài ra cũng phải nói rằng, về mặt tâm lý, chính các nhà doanh nhân cũng nhiều khi không dám tin tưởng vào vai trò và sứ mạng của mình. Một số thiếu dũng cảm hoặc ý chí để quyết định đầu tư dài hạn. Nhưng cuộc sống sẽ không cho phép chúng ta dừng lại. Đổi mới hay là chết - ai đó đã nêu lên khẩu hiệu này, khẩu hiệu mà chúng tôi cho rằng không phải là quá đáng. Trong một thế giới biến đổi mau lẹ như thế giới ngay nay, để tồn tại và phát triển chúng ta phải có khả năng thích ứng, tự hoàn thiện để có thể hợp tác, hội nhập và nắm bắt các cơ hội một cách kịp thời. Chúng ta đang xây dựng một nền kinh tế thị trường mà trong nền kinh tế thị trường, nòng cốt chính là các doanh nhân. Chúng tôi cho rằng hiện nay vai trò của doanh nhân là quan trọng hơn bao giờ hế. Để hoàn thành tốt sứ mạng của mình, nhà doanh nghiệp cần phải đạt tới những tiêu chuẩn nhất định, và đến lượt mình các tiêu chuẩn đó lại có thể được xây dựng trên một nền văn hóa kinh doanh tiên tiến. Nhiệm vụ của chúng ta chính là xây dựng hệ tiêu chuẩn doanh nhân Việt Nam và nền văn hóa kinh doanh như thế. Nhóm 10 13 Nền văn hóa doanh nhân được thể hiện và chỉ có thể được thể hiện qua các doanh nhân. Xây dựng hệ tiêu chuẩn doanh nhân là một công việc lớn, cần có sự đóng góp của nhiều cơ quan, tổ chức và cá nhân. 1. Các phẩm chất cá nhân a) Chủ nghĩa yêu nước và ý thức công dân Nói đến doanh nhân là nói đến khát vọng làm giàu, nhưng trước khi là doanh nhân thì doanh nhân phải là một công dân, hơn nữa, là một công dân yêu nước. Những kẻ vì lợi ích của cá nhân mà gây hại cho môi trường và cảnh quan đất nước, những kẻ thông qua đầu cơ, tham nhũng để nhanh chóng đạt lấy sự giàu có vật chất bằng mọi giá không thể là những doanh nhân yêu nước. Ngược lại, chúng ta phái tôn vinh nhưng người làm giàu chính đáng, bởi chính họ đem đến sự thịnh vượng cho đất nước. b) Các giá trị nhân bản Doanh nhân là những người trực tiếp tổ chức, điều hành và quản lý quá trình vận hành của nền kinh tế, tức là quá trình sáng tạo và nâng cao các giá trị vật chất cho xã hội. Chính sứ mạng và vai trò đó khiến cho doanh nhân có một vị trí đặc biệt. Họ có nhiều điều kiện hơn trong việc tiếp cận các nguồn lực, nguồn tài nguyên và tài sản vật chất của xã hội. Vì thế, hơn ai hết, họ phải là nhũng người ý thức sâu sắc về những giá trị nhân bản, điều sẽ tạo nên tính cân đối trong đời sống. 2. Quan hệ xã hội a) Các quan hệ trong nội bộ cộng đồng doanh nhân Hoạt động kinh doanh đòi hỏi các doanh nhân có khả năng cạnh tranh, và đó chính là động lực để tăng hiệu quả của nền kinh tế. Nhưng quá trình cạnh tranh giữa các doanh nhân không thể là thứ cạnh tranh bằng mọi giá. Quá trình cạnh tranh phải dựa trên cơ sở các quy định pháp luật. b) Quan hệ với khách hàng Trong một nền kinh tế lành mạnh, khách hàng phải được tôn trọng, không chỉ với nghĩa là những người trả tiền để mua hàng hoá và dịch vụ. Doanh nhân phải có trách nhiệm đối với hàng hóa và dịch vụ và bảo vệ khách hàng, coi đó không chỉ như nghĩa vụ hợp đồng mà còn là nghĩa vụ đạo đức. c) Quan hệ đối với các tổ chức xã hội và các tầng lớp xã hội khác Bên cạnh các hoạt động kinh doanh thuần tuý, các doanh nhân với cách là những người có tiềm lực về vật chất trong xã hội, cần phải có trách nhiệm đóng góp vào các hoạt động chung. Doanh nhân phải đóng thuế một cách đầy đủ và minh bạch, đồng thời tuỳ theo khả năng mà tham gia từ thiện hoặc trở thành Mạnh Thường Quân của các hoạt động có lợi ích xã hội khác. Cần phải hiểu rằng đó cũng là cách đầu tư dài Nhóm 10 14 hạn, bởi lẽ một xã hội phát triển ổn định và phồn vinh, có trình độ tổ chức và văn hóa cao chính là điều kiện cần thiết để hoạt động kinh doanh thuận lợi. 3. Vai trò chính trị a) Tiếng nói trong đời sống chính trị Cùng với sự khẳng định của kinh tế thị trường, vai trò của doanh nhân cũng tăng lên. Tầng lớp doanh nhân không chỉ tăng lên về số lượng mà cả về ảnh hưởng và tỷ trọng đóng góp cho nền kinh tế đất nước. Trong tương lai, với tiềm lực kinh tế của mình, đó la một lực lượng chính trị hùng hậu, nhưng ngay từ bây giờ họ đã trở thành một lực lượng xã hội không thể bỏ qua. Chúng tôi cho rằng đã đến lúc doanh nhân cần phải có tiếng nói của mình trong đời sống chính trị xã hội của đất nước. b) Người tham mưu về đường lối kinh tế Vai trò chính trị của doanh nhân thể hiện tập trung nhất thông qua vai trò người tham mưu cho Nhà nước về đường lối, chiến lược và sách lược kinh tế. Với tư cách là những người trực tiếp hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế, hiệu biết sâu sắc thị trường trong nước và thế giới, nắm được các xu thế phát triển trên thế giới đồng thời có quan hệ rộng rãi đối với các đối tác kinh tế và cả chính trị ở nước ngoài, các doanh nhân có thể đề xuất các giải pháp, đồng thời đóng vai trò cầu nối cho Nhà nước trong các quan hệ đối ngoại. 4. Tính tiên phong về tri thức a) Kỹ năng kinh doanh Kinh doanh chuyên nghiệp cần có các kỹ năng và cả tinh thần sáng tạo. Tình trạng kinh doanh manh mún, chụp giật, thậm chí phi pháp của một số kẻ trong thời gian vừa qua, ngoài các lý do khách quan như hệ thống luật pháp lạc hậu, tình trạng quan liêu và tham nhũng tràn lan . . . còn có lý do chủ quan là kiến thức kinh doanh của doanh nhân quá thấp. Một số lượng đông đảo các doanh nhân hoạt động một cách tự phát, hoàn toàn thiếu hiểu biết những kỹ năng thông thường, đó là chua kế đến những kiến thức liên quan về pháp luật, môi trường và văn hóa . . . b) Tính sáng tạo Tuy nhiên, kỹ năng và kiến thức cũng mới chỉ là những gì có thể học được trong các cơ sở đào tạo. Để trở thành một doanh nhân giỏi còn phải có tinh thần sáng tạo. Lao động của nhà doanh nhân khá gần gũi với lao động của người nghệ sĩ: doanh nhân cũng phải lựa chọn trong số vô vàn cơ hội một cơ hội khả thi, trong vô vàn giải pháp, một giải pháp tốt nhất. Với một nhà kinh doanh chân chính, kết quả kinh doanh không đơn thuần là một khoản lợi nhuận mà còn là, có lẽ chủ yếu là, sự vật chất hóa những giá trị trí tuệ và tinh thần mà doanh nhân đã sử dụng trong quá trình hoạt động. Hiệu quả kinh doanh chính là thước đo tính đúng đắn của các giải pháp, cũng chính là thước đo của tài năng doanh nhân. Nhóm 10 15 c) Tính năng động Một khi đứng vào hàng ngũ doanh nhân, người ta đã tự nguyện chấp nhận một cuộc đua tranh quyết liệt. Không phải vô cớ mà có câu “Thương trường như chiến trường”. Trong cuộc cạnh tranh đó, ai nắm bắt nhanh nhạy các cơ hội và huy động được nhiều tiềm năng và có chiến lược, sách lược đúng đắn sẽ chiến thắng. Tính năng động sẽ khiến ta nhanh nhạy, giúp nhà kinh doanh huy động các tiềm năng. Và nền kinh tế của đất nước sẽ chiến thắng nếu nhiều doanh nhân của chúng ta chiến thắng. 5. Khả năng hợp tác và cạnh tranh quốc tế Khả năng hợp tác và tính năng động là những phẩm chất không thể thiếu của nhà kinh doanh hiện đại. Trong một thời đại mà không một cá nhân hay quốc gia nào có thể đứng ngoài xu thế toàn cầu hóa, dưới tác động của những dòng luân chuyển không ngừng và vô cùng mạnh mẽ của các nguồn vật chất cũng như nhân lực, để phát triển, chúng ta phải có khả năng cạnh tranh. Và chính trong quá trình cạnh tranh đó nhu cầu hợp tác lại trở nên cấp bách hơn bao giờ hết. Điều này thoạt nhìn có vẻ mâu thuẫn nhưng lại là hai mặt của một quá trình biện chứng. Hợp tác tốt có nghĩa là có nhiều lợi thế và do đó nhiều cơ hội chiến thắng trong cạnh tranh. Những tiêu chuẩn văn hóa kinh doanh một mặt phải buộc các doanh nhân tuân theo những tiêu chuẩn nhân bản phổ quát, mặt khác phải tạo cho doanh nhân một không gian tự do để hoạt động có hiệu quả. Nó phải được xây dựng trên cơ sở những tiêu chuẩn văn hóa kinh doanh quốc tế và phải nhận được sự đồng tình rộng rãi của cộng đồng doanh nhân cũng như toàn xã hội. Trong thời đại toàn cầu hóa sôi động hiện nay, một nền văn hóa kinh doanh như vậy sẽ góp phần để nền kinh tế Việt Nam cùng cả nước hội nhập vào đời sống kinh tế chính trị toàn cầu. Một nền văn hóa kinh doanh tiên tiến là điều kiện tiên quyết để chúng ta xây dựng thành công cộng đồng những doanh nhân chuyên nghiệp, hạt nhân của nền kinh tế thị trường. Chỉ với một nền văn hóa kinh doanh tiên tiến, các doanh nhân mới có thể phát huy được vai trò của mình, trở thành đồng minh kinh tế, chính trị của Đảng trong sự nghiệp xây dựng đất nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh TRIẾT LÝ “3 P” TRONG VĂN HOÁ KINH DOANH Nhiều người thường cho rằng văn hoá kinh doanh là chuyện “màu mè“, là cái đến sau - khi doanh nghiệp đã lớn mạnh, thành đạt. Liệu có đúng như thế chăng ? Như mọi người đều biết, hoạt động kinh doanh chỉ có thể thực hiện khi có đủ 3 yếu tố: con người (People - người làm ra sản phẩm, người bán, người mua...), sản phẩm / dịch vụ (Product) và lợi nhuận (Profit). Chính quan niệm khác nhau về ý nghĩa, vai trò của 3 yếu tố này - thể hiện qua việc xắp xếp thứ tự ưu tiên từng yếu tố - sẽ đẫn đến những thái độ, cung cách ứng sử khác nhau trong kinh doanh. Đó là điều mà ta có thể gọi là “triết lý 3 P” với 3 mô hình như dưới đây : Nhóm 10 16 Đối với một doanh nghiệp xem lợi nhuận là tối thượng, đặt nó lên hàng đầu (1) thì anh ta sẵn sàng kinh doanh bất cứ sản phẩm gì (2), không cần biết đến chất lượng, nhằm đạt được lợi nhuận cao nhất. Con người làm ra sản phẩm hoặc khách hàng, đối với doanh nghiệp này chỉ được xem như công cụ để anh ta khai thác làm giàu, được xếp ở vị trí sau cùng (3). Quan niệm này dẫn đến kiểu làm ăn chộp giật, không tạo ra khách hàng trung thành và hậu quả là không thể tồn tại lâu dài. Lại cũng có những doanh nghiệp quan niệm cần phải chú ý đến sản phẩm hay dịch vụ trước nhất(1), sản phẩm tốt thì mới đạt hiệu quả kinh doanh và sẽ có lợi nhuận(2). Với quan niệm này doanh nghiệp đã chú ý đến chất lượng, mẫu mã sản phẩm, đến vấn đề cạnh tranh trong kinh doanh. Tuy nhiên yếu tố con người vẫn bị xếp cuối bảng (3). Do vậy để có thể đạt lợi nhuận cao, người ta cố ép giá thành, nâng giá bán bằng cách chèn ép, khai thác tối đa nhân công và tìm cách dụ khách hàng. Trái hẳn các mô hình trên doanh nghiệp vẫn hướng đến lợi nhuận, vẫn chú trọng đến chất lựợng, mẫu mã sản phẩm, thế nhưng đặt hai yếu tố này lần lượt ở hàng thứ hai, ba. Trong khi đó yếu tố con người được coi là hàng đầu (1). Với quan niệm như vậy doanh nghiệp sẽ đối xử tốt với khách hàng, đối tác và nhân viên của mình. Số khách hàng trung thành ngày càng đông, mặt khác, năng suất lao động sẽ tăng song song với việc nâng cao chất lượng sản phẩm. Khi ấy lợi nhuận sẽ đến như kết quả tất yếu và ngày càng tăng. Có vẻ như mâu thuẫn khi không đặt lợi nhuận lên hàng tối thượng thì lợi nhuận càng lớn, song thực tế đã chứng minh cho điều này. Nhìn lại lịch sử kinh tế ta thấy 3 mô hình này gắn với các chặng đường phát triển kinh tế, thể hiện các bước tiến trong nhận thức về văn hoá kinh doanh. Mô hình thứ nhất suất hiện trong thời kỳ tư bản hoang dại - lúc mà hoạt động kinh doanh gần như không theo luật lệ nào. Mô hình thứ 2 gắn với thời kỳ công nghiệp mới vừa phát triển, theo xu hướng đề cao máy móc, kỹ thuật và xem con người chỉ là một bộ phận, một cái đinh ốc trong guồng máy sản xuất. Đây là lối tư duy kỹ trị, tôn sùng kỹ thuật. Cho mãi đến thời hiện đại, người ta mới nhận thức được vai trò quan trọng của con người trong sản xuất, kinh doanh và mô hình thứ 3 phát triển. Cho nên cũng có thể nói, lịch sử phát triển kinh tế song hành với sự phát triển thể chế pháp luật và quan niệm tôn trọng con người. Cần nói thêm là khi đặt yếu tố con người lên hàng đầu trong kinh doanh, thực ra cũng không đòi hỏi doanh nghiệp phải đầu tư nhiều. Cốt yếu là vấn đề quan hệ đối xử. Tổ chức dịch vụ tốt, chăm sóc cho khách hàng, đối xử tử tế với nhân viên, người lao động là việc chẳng tốn kém nhiều so với cái lợi lớn mà nó mang lại như đã nói ở trên. Ngày nay, khi mà trình độ công nghệ giữa các nhà sản xuất không chênh lệch mấy thì lợi thế cạnh tranh không chỉ đơn thuần là vấn đề giá cả, chất lượng sản phẩm mà quan trọng là mối quan hệ giữa doanh nghiệp và khách hàng. Chẳng hạn, trong bộ phận nghiên cứu thị trường ở các công ty, tập đoàn lớn không chỉ có các chuyên viên kinh doanh, tiếp thị mà còn có cả các chuyên viên về tâm lý học, xã hội học, nhân chủng học, mỹ học, . . . Chính họ sẽ giúp cho doanh nghiệp hiểu sâu hơn về hành vi tiêu dùng, về đặc điểm tâm lý, tín ngưỡng, môi trường, xã hội, . . . của khách hàng ở thị trường mà doanh nghiệp muốn thâm nhập. Nhóm 10 17 Hiểu rõ kiến thức văn hoá kinh doanh để định hướng phát triển là điều cần thiết cho sự thành công của doanh nghiệp trong tương lai. VĂN HOÁ KINH DOANH CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI  Văn hoá kinh doanh Nhật bản Một đất nước vốn dĩ nghèo nàn về tài nguyên, có nhiều thiên tai, kinh tế chủ yếu là nông - ngư nghiệp và sự ảnh hưởng của Tam Giáo Đồng nguyên du nhập nên người Nhật Bản coi trọng: - Tinh thần tập thể - Hài hòa Thiên Nhân Địa - Đề cao sự hợp lí - Sự ứng xử theo thứ tự coi trọng Lễ, Tín, Nghĩa, Trí, Nhân. Xã hội Nhật Bản tự biết mình thiếu rất nhiều các điều kiện nhưng cần phải khẳng định mình, nên có khuynh hướng du nhập và cải hóa những gì du nhập vào để chúng biến thành Kiểu Nhật Bản. Bởi vậy Văn hóa Doanh nhân Nhật Bản có sự giao thoa đỉnh cao các yếu tố Tây / Đông / Nhật Bản. Tuy nhiên đến một lúc nào đó sự phát triển làm cho chiếc áo đó bộc lộ nhiều bất cập và mâu thuẫn. Tất cả cái đó cũng phản ánh trong tính cách phức tạp của người Nhật Bản. Ngôn ngữ có nhiều mặt hạn chế (như rất ít các nguyên âm, Phụ âm luôn đặt trước nguyên âm, một tỉ trọng lớn từ ngữ gốc ngoại nhập được thể hiện dưới dạng chữ Kanji và chữ Katakana) góp phần khiến người Nhật Bản rất cẩn trọng khi phát biểu, thể hiện chính kiến, và thường thông qua thái độ ngầm định, những yếu tố phi ngôn ngữ, sự nỗ lực thể hiện của bản thân để điền vào chỗ trống của ngôn từ. Bởi vậy để hiểu họ thường phải kết hợp nghe họ nói, quan sát những gì họ thể hiện và thấu hiểu tính cách của họ. Người Nhật Bản coi trọng lao động hơn tất cả, gắn bó với doanh nhân hơn với gia đình của mình, đặt tất cả sự nghiệp của mình cho sự thành công của tổ chức. Cạnh tranh và hợp tác được thúc đẩy song hành. Hàng chục năm qua đi, những phẩm chất đó đã trở thành những nét mới, bền chắc và định hình thành Văn hóa Doanh nhân Nhật Bản. 2. Nét độc đáo của VHDN Nhật Bản Triết lý kinh doanh Có thể nói rất hiếm các doanh nhân Nhật Bản không có triết lý kinh doanh. Điều đó được hiểu như sứ mệnh của doanh nhân trong sự nghiệp kinh doanh. Là hình ảnh của doanh nhân trong ngành và trong xã hội. Nó có ý nghĩa như mục tiêu phát biểu, xuyên suốt, có ý nghĩa định hướng cho doanh nhân trong cả một thời kỳ phát triển rất dài. Thông qua triết lý kinh doanh doanh nhân tôn vinh một hệ giá trị chủ đạo xác định nền tảng cho sự phát triển, gắn kết mọi người và làm cho khách hàng biết đến doanh nhân . Hơn nữa các doanh nhân Nhật Bản sớm ý thức được tính xã hội hóa ngày càng tăng của hoạt động sản xuất kinh doanh, nên triết lý kinh doanh còn có ý nghĩa như một thương hiệu, cái bản sắc của doanh nhân. Lựa chọn những giải pháp tối ưu Những mối quan hệ: Doanh nhân - Xã hội; Doanh nhân - Khách hàng; Doanh nhân - Các Doanh nhân đối tác; Cấp trên - cấp dưới thường nảy sinh rất nhiều mâu thuẫn về lợi ích, tiêu chí, đường lối. Để giải quyết các doanh nhân Nhật Bản thường tìm cách mở rộng đường tham khảo giữa các bên, tránh gây ra những xung đột đối đầu. Các bên đều có thể đưa ra các quyết định trên tinh thần giữ chữ Tình trên cơ sở hợp lý đa phương. Các qui định Pháp luật hay qui chế của doanh nghiệp được soạn thảo khá "lỏng lẻo" rất dễ linh hoạt nhưng rất ít trường hợp lạm dụng bởi một bên. Nhóm 10 18 Đối nhân xử thế khéo léo. Trong quan hệ, người Nhật Bản chấp nhận người khác có thể mắc sai lầm, nhưng luôn cho đối tác hiểu rằng điều đó không được phép lặp lại và tinh thần sửa chữa luôn thể hiện ở kết quả cuối cùng. Mọi người đều có ý thức rất rõ rằng không được xúc phạm người khác, cũng không cần buộc ai phải đưa ra những cam kết cụ thể. Nhưng những chuẩn mực đạo đức xã hội, đạo đức doanh nhân (trách nhiệm đặt trên tình cảm) đã tạo một sức ép vô hình lên tất cả khiến mọi người phải xác định được bổn phận của mình nếu muốn có chỗ đứng trong tổ chức. Điều này rõ ràng đến mức khi tiếp xúc với các nhân viên người Nhật nhiều người nước ngoài cảm thấy họ tận tụy và kín kẽ, nếu có trục trặc gì thì lỗi rất ít khi thuộc về người Nhật Bản. Người Nhật Bản có qui tắc bất thành văn trong khiển trách và phê bình như sau : - Người khiển trách là người có uy tín, được mọi người kính trọng và chính danh "Không phê bình khiển trách tùy tiện, vụn vặt, chỉ áp dụng khi sai sót có tính hệ thống, gây lây lan, có hậu quả rõ ràng" Phê bình khiển trách trong bầu không khí hòa hợp, không đối đầu. Phát huy tính tích cực của nhân viên Người Nhật Bản quan niệm rằng: trong bất cứ ai cũng đồng thời tồn tại cả mặt tốt lẫn mặt xấu, tài năng dù ít nhưng đều ở đâu đó trong mỗi cái đầu, khả năng dù nhỏ nhưng đều nằm trong mỗi bàn tay, cái Tâm có thể còn hạn hẹp nhưng đều ẩn trong mỗi trái tim. Nhiều khi còn ở dạng tiềm ẩn, hoặc do những cản trở khách quan hay chủ quan. Vấn đề là gọi thành tên, định vị nó bằng các chuẩn mực của tổ chức, tạo điều kiện, môi trường làm việc thuận lợi, thúc đẩy bằng đào tạo, sẵn sàng cho mọi người tham gia vào việc ra quyết định theo nhóm hoặc từ dưới lên. Các doanh nghiệp Nhật Bản đều coi con người là tài nguyên quí giá nhất, nguồn động lực quan trọng nhất làm nên giá trị gia tăng và phát triển bền vững của doanh nghiệp. Người Nhật Bản quen với điều : sáng kiến thuộc về mọi người, tích cực đề xuất sáng kiến quan trọng không kém gì tính hiệu quả của nó, bởi vì đó là điều cốt yếu khiến mọi người luôn suy nghĩ cải tiến công việc của mình và của người khác. Một doanh nghiệp sẽ thất bại khi mọi người không có động lực và không tìm thấy chỗ nào họ có thể đóng góp. Tổ chức sản xuất kinh doanh năng động và độc đáo Tinh thần kinh doanh hiện đại là lấy thị trường làm trung tâm, xuất phát từ khách hàng và hướng tới khách hàng. Điều này đã thể hiện rất sớm trong phong cách và đường lối kinh doanh Nhật Bản. Các doanh nhân Nhật Bản luôn đề cao chất lượng thỏa mãn nhu cầu khách hàng, các cam kết kinh doanh, đi trước thị trường và kết hợp hài hòa các lợi ích. Cải tiến liên tục, ở từng người, từng bộ phận trong các doanh nhân Nhật Bản để tăng tính cạnh tranh của doanh nhân và thỏa mãn khách hàng tốt hơn là điều rất nhiều người nước ngoài đã từng biết. Công ty như một cộng đồng Điều này thể hiện trên những phương diện : - Mọi thành viên gắn kết với nhau trên tinh thần chia xẻ trách nhiệm hơn là bởi hệ thống quyền lực "Tổ chức như một con thuyền vận mệnh, một mái nhà chung" - Sự nghiệp và lộ trình công danh của mỗi nhân viên gắn với các chặng đường thành công của doanh nhân - Mọi người sống vì doanh nhân, nghĩ về doanh nhân, vui buồn với thăng trầm của doanh nhân Triết lý kinh doanh được hình thành luôn trên cơ sở đề cao ý nghĩa cộng đồng và phù hợp với các chuẩn mực xã hội, hướng tói những giá trị mà xã hội tôn vinh. Đã có thời người ta hỏi nhau làm ở đâu hơn là hỏi gia đình như thế nào. Sự dìu dắt của lớp trước đối với lớp sau, sự gương mẫu của những người lãnh đạo làm cho tinh thần cộng đồng ấy càng Nhóm 10 19 bền chặt. Trong nhiều chục năm chế độ tuyển dụng chung thân suốt đời và thăng tiến nội bộ đã làm sâu sắc thêm điều này. Công tác đào tạo và sử dụng người Thực tế và hoàn cảnh của Nhật Bản khiến nguồn lực con người trở thành yếu tố quyết định đến sự phát triển của các doanh nhân. Điều đó được xem là đương nhiên trong Văn hóa Doanh nhân Nhật Bản. Các doanh nhân khi hoạch định chiến lược kinh doanh luôn coi đào tạo nhân lực và sử dụng tốt con người là khâu trung tâm. Các doanh nhân quan tâm đến điều này rất sớm và thường xuyên. Các doanh nhân thường có hiệp hội và có quỹ học bổng dành cho sinh viên những ngành nghề mà họ quan tâm. Họ không đẩy nhân viên vào tình trạng bị thách đố do không theo kịp sự cải cách quản lí hay tiến bộ của khoa học công nghệ mà chủ động có kế hoạch ngay từ đầu tuyển dụng và thường kỳ nâng cấp trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho nhân viên. Các hình thức đào tạo rất đa dạng, nhưng chú trọng các hình thức đào tạo nội bộ mang tính thực tiễn cao. Việc sử dụng người luân chuyển và đề bạt từ dưới lên cũng là một hình thức giúp cho nhân viên hiểu rõ yêu cầu và đặc thù của từng vị trí để họ xác định cách hiệp tác tốt với nhau, hiểu được qui trình chung và trách nhiệm về kết qua cuối cùng, cũng như thuận lợi trong điều hành sau khi được đề bạt.  Một số tập quán trong kinh doanh tại Malaysia *Danh thiếp kinh doanh phải được in bằng tiếng Anh. Vì rất nhiều thương gia Malaysia là người Trung Quốc nên một mặt danh thiếp nên in bằng tiếng Trung Quốc. Hơn nữa, nên in bằng chữ vàng. *Trên danh thiếp nên ghi rõ trình độ học vấn, trình độ chuyên môn và chức vụ. *Sau những lời giới thiệu, hãy đưa danh thiếp cho những người có mặt. * Đưa danh thiếp bằng 2 tay (cầm trên tay phải còn tay trái đỡ tay phải). * Nhận danh thiếp bằng 2 tay, xem xét một chút rồi cẩn thận đặt vào hộp danh thiếp, không đặt vào túi hậu và không viết lên danh thiếp của người khác. * Văn hoá kinh doanh Malaysia phần lớn là sự tổng hợp của văn hoá kinh doanh Trung Quốc và ấn Độ. * Người Malaysia chỉ kinh doanh cùng với những người mà họ biết và họ quý mến. Do vậy nên phát triển mối quan hệ cá nhân với các đối tác Malaysia. * Bạn cần thực hiện một số chuyến đi tới Malaysia trước khi quyết định các bước hành động. Thiết lập mối quan hệ bền chặt trong kinh doanh là một khía cạnh của văn hoá kinh doanh Malaysia. * Việc thương lượng ở Malaysia diễn ra chậm hơn nhiều so với ở Bắc Mỹ. * Thái độ Lịch thiệp sẽ góp phần quan trọng trong thành công khi kinh doanh ở Malaysia. * Phải luôn tôn trọng người già. Không hút thuốc hay đeo kính trong các cuộc tiếp xúc. * Trong văn hoá kinh doanh ở Malaysia, các bên đối tác thường trao đổi với nhau bằng tiếng Anh. Tuy nhiên, cần thận trọng để tránh hiểu lầm ý khi đối thoại với họ bằng ngôn ngữ này. * Ngôn ngữ chính thức ở Malaysia là tiếng Bahasa Malaysia. Khi gặp các quan chức chính phủ buộc phải sử dụng ngôn ngữ này nên cần đem theo một phiên dịch. * Người Malaysia thiểu số sẽ chỉ chấp nhận những biểu hiện khác nếu chúng phù hợp với đạo Hồi. Nhóm 10 20 * Người Malaysia thiểu số thường giải quyết vấn đề theo kiểu cá nhân chứ không tuân theo các quy chế hay luật pháp. * Việc mất tự chủ hay cáu giận khi giao tiếp với phía đối tác Malaysia sẽ gây ra những ảnh hưởng xấu trong quan hệ. * Người Malaysia thường tránh sự đối đầu. Họ sẽ không trả lời trực tiếp "không" khi có ý định từ chối. * Thận trọng khi người Malaysia gốc Trung nói tiếng Anh vì có thể hiểu sai ý nghĩa câu nói của nhau. * Không giống như người phương Tây, người Malaysia thường có những lúc im lặng trong khi đối thoại. Trước khi trả lời một câu hỏi, họ cũng thường im lặng trong 10-15 giây. * Người Malaysia cũng khá mê tín, họ sẽ chọn "ngày đẹp" để ký một hợp đồng.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftl_quan_trih_8615.pdf
Luận văn liên quan