Tóm tắt Luận án Vai trò động lực của kinh tế tư nhân trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở Nghệ An hiện nay

Gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo khu vực KTTN đã từng bước phát triển và khẳng định thương hiệu rộng khắp trên cả nước, ngày càng phát huy vai trò là động lực của nền kinh tế quốc dân. Sự bứt phá trong đổi mới kinh tế do đại hội VI (12/1986) của Đảng khởi xướng, do phù hợp với xu thế quy luật phát triển kinh tế của thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, phù hợp với ý nguyện của nhân dân nên đã nhanh chóng đi vào cuộc sống, tạo cơ sở lý luận và niềm tin mạnh mẽ trong toàn Đảng toàn dân với sự nghiệp đổi mới, trong đó có phát triển về khu vực KTTN.

pdf27 trang | Chia sẻ: toanphat99 | Lượt xem: 2117 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Vai trò động lực của kinh tế tư nhân trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở Nghệ An hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
008); Công trình “Tiềm năng, lợi thế và xác định cơ cấu sản phẩm chiến lược ở Nghệ An giai đoạn 2011 – 2015 (có tính đến 2020)” (Đậu Quang Vinh chủ biên, Nxb Nghệ An, 2011); Tác giả Hoàng Nam Hưng trong công trình “Đảng bộ tỉnh Nghệ An lãnh đạo phát triển KTTN từ năm 2000 đến năm 2010” (luận văn thạc sĩ, hoàn thành năm 2012); Đặng Thành Cương trong công trình “Tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào tỉnh Nghệ An” (Luận án tiến sĩ kinh tế, bảo vệ năm 2012); Công trình “Phát triển KTTN ở miền Tây Nghệ An trong gia đoạn hiện nay” (Đề tài khoa học và công nghệ cấp Bộ của trường Đại học Vinh, do Th.s. Nguyễn Thị Diệp chủ nhiệm đề tài, Nghệ An, 2012, Mã số: B2010 - 27- 90). 1.3. Những công trình nghiên cứu về giải pháp tiếp tục phát huy vai trò động lực của khu vực KTTN đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Nghệ An Trong số các các công trình nghiên cứu về giải pháp tiếp tục phát huy vai trò động lực của khu vực KTTN đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Nghệ An, có các công trình tiểu biểu sau. Công trình Tiềm năng, lợi thế và xác định cơ cấu sản phẩm chiến lược ở Nghệ An giai đoạn 2011 – 2015 (có tính đến 2020) (của Đậu Quang Vinh chủ biên, Nxb Nghệ An, 2011); Tác giả Hoàng Nam Hưng trong công trình “Đảng bộ tỉnh Nghệ An lãnh đạo phát triển KTTN từ năm 2000 đến năm 2010” (luận văn thạc sĩ, hoàn thành năm 2012); Đặng Thành Cương trong công trình “Tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào tỉnh Nghệ An” (Luận án tiến sĩ kinh tế, bảo vệ năm 2012); Công trình “Phát triển KTTN ở miền Tây Nghệ An trong giai đoạn hiện nay” (Đề tài khoa học và công nghệ cấp Bộ của Trường Đại học Vinh, do ThS. Nguyễn Thị Diệp chủ nhiệm đề tài, Nghệ An, 2012, Mã số: B2010 - 27- 90); Luận văn cao học của Nguyễn Thị Trang, chuyên ngành kinh tế phát triển, với đề tài "phát triển KTTN ở tỉnh Nghệ An" bảo vệ năm 2014. Tiểu kết chương 1 Đã có nhiều công trình nghiên cứu về khu vực KTTN, vai trò động lực của KTTN ở nước ta với các mức độ và mục đích khác nhau. Đối với thực trạng phát triển khu vực KTTN ở tỉnh Nghệ An, cũng đã có một số công trình nghiên cứu, các công trình đó đã bước đầu làm rõ được đường lối, quan điểm của Đảng bộ tỉnh Nghệ An đối với khu vực KTTN, thực trạng của khu vực KTTN ở một số ngành, lĩnh vực, vùng, miền của Nghệ An, các giải pháp để tiếp tục phát huy vai trò động lực của KTTN. Tuy nhiên, các công trình đó chủ yếu tiếp cận vấn đề từ góc độ kinh tế học, chưa có công 6 trình nào đi từ góc độ tiếp cận triết học để phân tích một cách toàn diện và có hệ thống về thực trạng vai trò động lực của khu vực KTTN ở Nghệ An và các giải pháp để tiếp tục phát huy vai trò động lực của khu vực KTTN trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu đi trước đã đạt được những kết quả nhất định và là nguồn tài liệu hữu ích cho tác giả triển khai luận án của mình. Tóm lại, liên quan đến đề tài có những vấn đề sau đây cần tiếp tục làm rõ thêm là; sự tồn tại và phát triển khu vực KTTN trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam nói chung và tỉnh Nghệ An nói riêng có tất yếu không? khu vực KTTN có phải là động lực thúc đẩy nền kinh tế không, nếu có thì mức độ thúc đẩy của khu vực KTTN so với các khu vực kinh tế khác như thế nào? Những kết quả đạt được, hạn chế, nguyên nhân của hạn chế trong việc phát huy vai trò động lực của khu vực KTTN ở Nghệ An hiện nay ra sao? Cần làm gì để tiếp tục phát huy vai trò động lực của khu vực KTTN ở Nghệ An trong thời gian tới. Đây là những vấn đề sẽ được đề cập trong luận án Vai trò động lực của KTTN trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở Nghệ An hiện nay. Đó cũng là những vấn đề cơ bản mà luận án này sẽ giải quyết từ góc độ triết học. Chương 2 VAI TRÒ ĐỘNG LỰC CỦA KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN 2.1. Một số khái niệm cơ bản 2.1.1. Khái niệm khu vực KTTN Hiện nay, có ít nhất 2 cách hiểu về khái niệm KTTN. Thứ nhất, KTTN là khu vực kinh tế nằm ngoài quốc doanh (ngoài khu vực kinh tế nhà nước), bao gồm cả các doanh nghiệp trong và ngoài nước, trong đó tư nhân nắm trên 50% vốn đầu tư. Thứ hai, KTTN gồm có; kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân. Từ các cách hiểu trên, tác giả luận án có một nhận thức chung cơ bản về KTTN như sau: Khu vực KTTN là những hình thức tổ chức kinh tế được hình thành và phát triển dựa trên chế độ tư hữu, do cá nhân hay tập thể cá nhân lập ra hoặc hoạt động dưới những hình thức liên doanh, liên kết, mà ở đó có trên 50% vốn điều lệ thuộc sở hữu tư nhân. 2.1.2. Vai trò động lực của khu vực KTTN 2.1.2.1. Khái niệm động lực PGS.TS Nguyễn Ngọc Hà cho rằng động lực của sự phát triển là cái thúc đẩy sự phát triển, tất cả những cái đóng vai trò là nguyên nhân thúc đẩy sự phát triển của một sự vật nào đó đều là động lực của sự phát triển của sự vật ấy. 7 2.1.3. Bản chất và đặc điểm của khu vực KTTN 2.1.3.1.Bản chất của khu vực KTTN Về quan hệ sở hữu Đây là quan hệ sở hữu tư nhân giữa người và người về tư liệu sản xuất, sở hữu tư nhân cũng có quá trình phát triển từ thấp đến cao theo sự phát triển của hình thái kinh tế - xã hội. Trong lịch sử có hai hình thức: Sở hữu tư nhân nhỏ và sở hữu tư nhân lớn, sở hữu tư nhân nhỏ tồn tại trong nhiều phương thức sản xuất và quá trình tạo ra sản phẩm chủ yếu bằng sức lao động của chính mình và của các thành viên trong gia đình, sở hữu tư nhân lớn lại được hình thành từ sở hữu tư nhân nhỏ và khi đã thành sở hữu tư nhân lớn thì chính nó lại là cơ sở tạo nên đối kháng về giai cấp, giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột, do vậy những hình thức khác nhau của sở hữu tư nhân thường là những hình thức sở hữu đặc trưng ở những phương thức sản xuất khác nhau. Về quan hệ quản lý Nếu sở hữu tư nhân là nhỏ (trong các hộ tư nhân như: nông dân, thợ thủ công cá thể, tiểu thương,) thì quan hệ quản lý có tính chất giống như quản lý trong một gia đình và chịu sự phân công quản lý của người chủ gia đình đối với vấn đề SXKD, vì vậy nó mang tính chất gia trưởng chứ không phải là quan hệ bóc lột. Trong quá trình phát triển, các hộ cá thể có nhu cầu mở rộng quy mô sản xuất, cần nhiều nhân công, loại hình kinh tế hộ tất yếu phải thay đổi, hộ cá thể đã chuyển thành hộ tiểu chủ, vì vậy quan hệ bóc lột đã xuất hiện. Về quan hệ phân phối Thực chất, quan hệ phân phối là việc giải quyết mối quan hệ về lợi ích kinh tế giữa các cá nhân tham gia vào quá trình tái sản xuất. Trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, thực hiện phân phối theo ba nguyên tắc cơ bản sau để đem đến sự công bằng và dân chủ cho người lao động; phân phối theo tài sản; phân phối theo giá trị sức lao động; phân phối thông qua các quỹ phúc lợi và bảo hiểm của doanh nghiệp. Vậy, bản chất chung của khu vực KTTN chính là dựa trên chế độ sở hữu tư nhân, dù là kinh tế cá thể, tiểu chủ hay kinh tế tư bản tư nhân. 2.1.3.2. Đặc điểm của khu vực KTTN - Đối với loại hình kinh tế cá thể, tiểu chủ. Loại hình này có các đặc điểm sau. Thứ nhất; kinh tế cá thể, tiểu chủ là hình thức kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân nhỏ, hoạt động SXKD chủ yếu dựa vào vốn và lao động của bản thân và gia đình. Thứ hai; đối với SXKD của kinh tế cá thể, tiểu chủ, quy mô và vốn tài sản nhỏ, manh mún, phân tán; công nghệ sản xuất lạc hậu; trình độ lao động thấp, dễ bị phân hoá trong nền kinh tế thị trường. Thứ 8 ba; kinh tế cá thể, tiểu chủ dựa trên sở hữu tư nhân nhỏ về tư liệu sản xuất. Ở đó, chủ sở hữu cũng đồng thời là người quản lý và trực tiếp lao động. Thứ tư; kinh tế cá thể, tiểu chủ là loại hình hoạt động sản xuất đa ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau.. - Đối với kinh tế tư bản tư nhân Thứ nhất, phần lớn DNTN nước ta do một cá nhân làm chủ, vì vậy việc lựa chọn hình thức, quy mô SXKD hết sức linh hoạt, tự chủ.Thứ hai, DNTN nước ta trải qua nhiều thăng trầm theo đường lối chủ trương của Đảng nên đến nay vẫn còn non trẻ. Phần lớn các DNTN mới ra đời sau khi có Luật DNTN và Luật Công ty (1990) và hiện nay là Luật Doanh nghiệp (1999, 2005). Thứ ba, sự phát triển lớn mạnh của các DNTN góp phần tạo nên môi trường kinh tế có sức cạnh tranh cao, khắc phục được những yếu tố gây cản trở, trì trệ cho nền kinh tế. Thứ tư, trình độ sản xuất và sở hữu chưa cao, thể hiện rõ nét nhất là loại hình một chủ vẫn chiếm ưu thế, hình thức công ty, CTCP còn chiếm tỷ trọng thấp, các hộ kinh tế cá thể làm ăn độc lập, manh mún là phổ biến, sự liên kết hợp tác giữa các DNTN với nhau còn rời rạc.Thứ năm, trình độ quốc tế hoá còn thấp, một mặt do khu vực KTTN còn non trẻ, mặt khác do chính sách mở cửa của nền kinh tế cho đến nay vẫn chưa, thông thoáng, nhất là đối với khu vực KTTN. Thứ sáu, DNTN nước ta phát triển không đều, doanh nghiệp chủ yếu tập trung vào những vùng có cơ sở hạ tầng thuận lợi, dân cư đông đúc, đầu tư trong một số ngành có sinh lãi cao, trình độ phát triển DNTN có sự chênh lệch lớn của các vùng miền trên cùng lãnh thổ. Thứ bảy, trong quá trình SXKD, bên cạnh nhiều DNTN làm ăn chân chính, có một số DNTN kinh doanh trái pháp luật, cản trở sự phát triển của xã hội, ảnh hưởng đến uy tín của DNTN. 2.1.4. Tính tất yếu của khu vực KTTN ở Việt Nam Thứ nhất, trình độ lực lượng sản xuất ở nước ta còn thấp kém, lạc hậu. Do đó, chúng ta phải duy trì nhiều hình thức sở hữu, trong đó có sở hữu tư bản chủ nghĩa, có tác dụng thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Thứ hai, lực lượng sản xuất phát triển không đồng đều giữa các vùng, các ngành và tính chất quá độ từ một nước thuộc địa nửa phong kiến lên CNXH. Thứ ba, sự tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trong nền kinh tế thị trường hiện đại. Sự phát triển của quan hệ sản xuất đã diễn ra theo chiều hướng, bên cạnh sự tập trung còn có sự tách biệt hoá quá trình sản xuất thành nhiều khâu độc lập nhưng hợp tác với nhau và chịu sự chi phối của toàn xã hội. Thứ tư, xu thế toàn cầu hoá, hội nhập, đòi hỏi năng lực tư duy của cá nhân cần được khẳng định, thể hiện và phát huy. 9 Thứ năm, nền kinh tế thị trường ở nước ta chỉ phát triển lành mạnh với điều kiện có sự phát triển bình đẳng của các khu vực kinh tế, trong đó có KTTN. 2.2. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin và Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò động lực của khu vực KTTN 2.2.1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò động lực của khu vực KTTN C.Mác cho rằng: "Cái bản chất tư nhân nổi bật của nó biểu hiện ra là sự không phụ thuộc vào tài sản của Nhà nước" [21, tr. 454], C.Mác còn khẳng định, chế độ sở hữu cá nhân về tư liệu sản xuất là điều kiện tất yếu để giải quyết lực lượng sản xuất và phát triển nền sản xuất xã hội. Ph. Ăngghen viết: "Đối với công trường thủ công và đối với giai đoạn phát triển ban đầu của đại công nghiệp không thể có hình thức sở hữu nào khác ngoài quyền tư hữu, không thể có chế độ xã hội nào ngoài xã hội xây dựng trên cơ sở tư bản".Từ đó, chúng ta thấy rằng C. Mác và Ph. Ăngghen xác định việc xoá bỏ chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa (chứ không phải là sở hữu tư nhân nói chung) là đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản; trong thời kỳ quá độ, tất yếu phải còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu trong đó có sở hữu tư nhân, hay nói cách khác là còn tồn tại khu vực KTTN; chỉ có phát triển KTTN mới làm cho lực lượng sản xuất phát triển nhanh chóng. Phát triển quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen trong điều kiện mới, V.I.Lênin cho rằng, trong thời kỳ quá độ lên CNXH thì trong một mức độ nào đó chủ nghĩa tư bản là không tránh khỏi và tương ứng với nó vẫn còn sở hữu tư nhân và KTTN, vì vậy trong nền kinh tế thời kỳ quá độ vẫn còn có những thành phần, những bộ phận, những mảnh của cả CNTB và CNXH. 2.2.2. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về vai trò động lực của khu vực KTTN - Giai đoạn trước đổi mới Trong thời kỳ phục hồi kinh tế 1954 - 1957, Đảng ta chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, xóa bỏ tận gốc quan hệ sản xuất phong kiến (chủ đất và tá điền). Trong phát triển không phân biệt bất cứ khu vực kinh tế nào, lúc này kinh tế quốc doanh chiếm tỷ trọng nhỏ bé, kinh tế hợp tác chưa phát triển, tham gia lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội chủ yếu là KTTN, kinh tế cá thể.. Trong giai đoạn cải tạo và xây dựng CNXH 1958 – 1960, Đảng ta chủ trương cải tạo CNXH; biến nền kinh tế nhiều thành phần thành nền kinh tế XHCN gồm hai hình thức sở hữu chủ yếu là quốc doanh và tập thể; coi kinh tế cá thể và kinh tế tư bản tư doanh là đối tượng trực tiếp của công cuộc cải tạo này 10 Trong thời kỳ 1960 - 1975, Đảng ta chủ trương xây dựng CNXH theo phương châm tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH. Đây cũng là thời kỳ khu vực KTTN bị thu hẹp, bị khống chế nặng nề nhất trong toàn bộ nền kinh tế. Thời kỳ cả nước xây dựng CNXH (1976 - 1985), Đảng ta chủ trương phát triển kinh tế và cải tạo quan hệ sản xuất được thực hiện trên phạm vi cả nước. Hội nghị Trung ương 6 khoá IV (9/1979) không chỉ cho phép "bung ra" và "cởi trói" cho sản xuất, mà còn cho phép "bung ra" và cởi trói cho cả tư duy và đường lối kinh tế, tức là trở lại với quan điểm kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế quốc dân phải giữ vai trò chủ đạo nhưng vẫn để cho một số tư sản dân tộc hoạt động dưới sự quản lý của Nhà nước. Ban Bí thư đã đi tới việc ban hành Chỉ thị 100/CT vào ngày 13/1/1981 cho áp dụng cơ chế khoán trong toàn bộ nền nông nghiệp của Việt Nam về mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp và cải tiến cơ chế khoán 100 nói riêng, theo hướng có lợi cho nền kinh tế trong thời gian tiếp theo. - Giai đoạn đổi mới +Thời kỳ từ năm 1986 - 1990, là sự khởi đầu công cuộc đổi mới., các quan điểm đổi mới kinh tế do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đề ra dần dần được cụ thể hoá thêm một bước. Ví dụ, về nông nghiệp, sau Chỉ thị 100 về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động (năm 1981) thì ngày 5/4/1988, Bộ Chính trị Trung ương Đảng (khoá VI) đã ra Nghị quyết 10 "về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp. Đặc biệt ngày 21/12/1990, Quốc hội ban hành Luật Công ty và Luật DNTN (có hiệu lực từ ngày 15/4/1991). + Thời kỳ từ năm 1991 - 1999, tại Đại hội lần thứ VII của Đảng (6/1991), Đảng ta đã xác định mô hình kinh tế nước ta là; nền kinh tế có nhiều thành phần với nhiều dạng sở hữu và hình thức tổ chức SXKD phù hợp với tổ chức và trình độ của lực lượng sản xuất, với các tiêu chí mọi đơn vị kinh tế không phân biệt quan hệ sở hữu đều hoạt động theo cơ chế tự chủ kinh doanh, hợp tác và cạnh tranh với nhau bình đẳng trước pháp luật; +Thời kỳ từ năm 2000 đến nay, là giai đoạn Luật doanh nghiệp ra đời và có hiệu lực thi hành thay thế cho Luật công ty và Luật DNTN, đồng thời những nội dung đổi mới quan trọng của Nghị quyết Trung ương 5 (khoá IX) đã tạo điều kiện cho KTTN trong giai đoạn này phát triển mạnh hơn nhiều lần so với giai đoạn 1991 - 1999 và dần dần khẳng định vị thế của mình trong nền kinh tế quốc dân. Đến tháng 3/2002, Hội nghị Trung ương 5 khoá IX đã phát triển thêm một bước quan điểm thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần, đồng thời cũng đánh giá cao vai trò KTTN và xác định: “KTTN là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, phát triển KTTN là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển kinh tế nhiều thành phần theo 11 định hướng XHCN, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trọng tâm là phát triển kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao nội lực của đất nước trong hội nhập kinh tế quốc tế” [66, tr. 57,58]. Đến Đại hội X (4/2006), nhận thức về KTTN của Đảng phát triển lên một tầm cao mới: " KTTN có vai trò quan trọng là một trong những động lực của nền kinh tế" [71, tr. 354] .Tại Đại hội X, sự đổi mới ấn tượng nhất đó là việc Đảng ta cho phép đảng viên làm KTTN với điều kiện phải gương mẫu chấp hành pháp luật, chính sách của Nhà nước, nghiêm chỉnh chấp hành Điều lệ Đảng và quy định của Ban Chấp hành Trung ương. Tại Đại hội XI (tháng 1/2011), Đảng ta tiếp tục giữ quan điểm về vai trò, vị trí của khu vực KTTN như tại Đại hội X: KTTN là một trong những động lực của nền kinh tế" Đặc biệt trong Hiến Pháp năm 2013, vai trò của doanh nghiệp, doanh nhân lần đầu tiên được ghi nhận trong Hiến Pháp: Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phải huy động theo cơ chế thị trường, xóa bỏ độc quyền doanh nghiệp, các cơ chế, chính sách tạo ra sự bất bình đẳng. Về hình thức sở hữu, Hiến pháp năm 2013 ghi nhận, tôn trọng sự đa dạng hình thức sở hữu, bác bỏ quyền sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, các quyền tài sản và sở hữu trí tuệ. Mới đây nhất trong Dự thảo các văn kiện trình Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, vai trò của khu vực KTTN nói chung, DNTN nói riêng đã được nâng tầm và khẳng định; khu vực KTTN không chỉ là sự tồn tại tất yếu khách quan trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, mà còn là một trong những động lực, “trụ cột” của nền kinh tế. 2.3. Biểu hiện vai trò động lực của khu vực KTTN ở Việt Nam trong nền kinh tế thị trường hiện nay 2.3.1. Khu vực KTTN góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cả nước Từ khi có Luật doanh nghiệp ra đời và sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương V khoá IX, khu vực KTTN đã đóng góp vào GDP và công nghiệp rất cao, nhanh hơn so với các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế quốc dân đạt 382.804 tỷ đồng ( chiếm 45,61%) vào năm 2005. Ngược lại đóng góp vào GDP của khu vực kinh tế nhà nước không tương xứng với nguồn lực (vốn đầu tư, vốn kinh doanh, sự ưu đãi) mà nó được thừa hưởng. Đến năm 2014, KTNN đóng góp 28,73%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 17,89%, trong đó KTTN: 43,33%, còn lại 10,05% thuế sản phẩm từ trợ cấp sản phẩm, điều này chúng ta khẳng định dứt khoát hiệu quả của khu vực KTTN đang ngày càng đi lên và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của đất nước.Từ năm 2005 - 2013, mức huy động vốn sản xuất kinh doanh bình quân hàng năm của các doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng liên tục, từ 24,98% năm 2005 lên 41,83% năm 2008 và đến năm 2013 tăng lên 48,57%, 12 trong khi đó DNNN ngày càng giảm dần, năm 2005 đạt 54,88% xuống 32,61% năm 2013. Không chỉ tăng thêm về nguồn vốn, mà còn có đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngân sách nhà nước, góp phần tích cực vào tăng trưởng nhanh nền kinh tế. các doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN còn có sự đóng góp lớn trong công tác an sinh xã hội. 2.3.2. Khu vực KTTN góp phần thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế - xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại Một là, xét về cơ cấu ngành, khu vực KTTN đã góp phần chuyển dịch kinh tế chung của cả nước theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá; tỷ trọng khu vực nông - lâm nghiệp và thuỷ sản trong cơ cấu chung đã giảm dần từ 24,53% năm 2000 xuống 20,97 năm 2005 và 20,91% và còn 17,70 năm 2014. Qua các năm ta thấy tỷ trọng khu vực kinh tế nông - lâm nghiệp và thuỷ sản giảm đều dần, trong khi đó tỷ trọng khu vực ngành công nghiệp và xây dựng tăng lên đều qua các năm từ 36,73 năm 2000 lên 41,02% năm 2005 và 40,24% năm 2009, năm 2014 tỷ lệ là 33,21%. Hai là, về cơ cấu thành phần kinh tế cũng có sự chuyển biến tích cực theo hướng phát huy ngày càng hiệu quả sự đóng góp của các loại hình kinh tế mới trong nền kinh tế quốc dân. Ba là, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nội bộ khu vực KTTN cũng có những đặc điểm đáng chú ý, các hộ cá kinh doanh thể chiếm số lượng ngày càng nhiều phát triển tự nhiên, theo xu hướng khát vọng làm giàu, phân bổ rộng khắp, có mặt ở hầu hết các vùng, miền trên cả nước. Việc hình thành các loại hình DNTN góp phần chuyển đổi cơ cấu lao động tăng tiềm lực kinh tế và giải quyết công ăn việc làm, xoá đói giảm nghèo ở nông thôn nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đồng thời có tác dụng đến chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế nước ta theo hướng hiện đại. 2.3.3. Khu vực KTTN góp phần tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập của nền kinh tế Sự trỗi dậy của khu vực KTTN trong thời gian qua với mức đóng góp 43,33% GDP vào năm 2014, trong khi đó DN nhà nước là 28,73%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đóng góp 17,89%, còn lại thu từ thuế sản phẩm từ trợ cấp sản phẩm 10,5%. Sức sống mãnh liệt này đã thúc đẩy quá trình đổi mới tư duy kinh tế phù hợp với thể chế kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, thúc đẩy quá trình đổi mới phương thức quản lý nhà nước đối với DN, hướng tới việc góp phần và phát huy các nguồn lực trong nền kinh tế. 2.3.4. Khu vực KTTN góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, góp phần xoá đói giảm nghèo, đào tạo nguồn nhân lực mới cho thị trường lao động 13 Lợi thế nổi bật của khu vực KTTN là có thể thu hút một lực lượng lao động đông đảo, đa dạng, phong phú ở mọi trình độ từ lao động thủ công đến lao động trí tuệ ở tất cả mọi vùng, miền của đất nước, ở tất cả mọi tầng lớp dân cư, v.v vào tất cả mọi loại hình sản xuất, kinh doanh của khu vực kinh tế này. Ngoài ra, các doanh nghiệp tư nhân trong quá trình phát triển thường xuyên áp dụng các khoa học công nghệ mới hiện đại nên trình độ, kỹ năng của người lao động cũng nhanh chóng được nâng cao. 2.3.5. Khu vực KTTN góp phần tái cấu trúc kinh tế theo hướng hiện đại Để đảm bảo môi trường kinh doanh bình đẳng, cần giúp DN khu vực KTTN phát triển và phát huy vai trò động lực trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta vốn bị thành kiến trong thời gian quá dài. Sẽ không có một nền kinh tế thị trường lớn mạnh nếu quy mô của khu vực KTTN nhỏ bé bị kìm hãm, vì vậy đòi hỏi khu vực DNNN phải được sắp xếp lại, chỉ giữ những DN 100% vốn nhà nước ở những ngành, những lĩnh vực có vị trí then chốt trong nền kinh tế quốc doanh, số còn lại phải tiến hành cổ phần hóa, bán, khoán, cho thuê, xác định rõ DN, SXKD vì mục đích công ích, đạt lợi nhuận. Tiểu kết chương 2 Chương II, tác giả trình bày một số khái niệm cơ bản về khu vực KTTN, vai trò động lực của khu vực KTTN. Bản chất và đặc điểm, tính tất yếu của khu vực KTTN trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta đồng thời trình bày một số quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò động lực của khu vực KTTN. Đặc biệt, luận án đã trình bày quá trình nhận thức của Đảng ta về KTTN trước và từ khi đổi mới đến nay. Với sự tương hợp của mình trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, KTTN đã phát huy vai trò động lực của mình trong nền kinh tế. Vì vậy cần đề cao vai trò của các doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN, coi khu vực kinh tế này là một động lực quan trọng, “trụ cột” của nền kinh tế thực sự. Những vấn đề lý luận được trình bày trong chương 2 là cơ sở của việc đánh giá vai trò động lực khu vực KTTN ở Nghệ An từ năm 2000 đến 2014 dưới sự lãnh đạo đổi mới tư duy của các cấp chính quyền trong việc vận dụng các quan điểm, chủ trương đường lối của Đảng từ khi có Luật DN (2000) ra đời cho đến nay. 14 Chương 3 VAI TRÒ ĐỘNG LỰC CỦA KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN Ở NGHỆ AN HIỆN NAY 3.1. Điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến khu vực KTTN ở Nghệ An 3.1.1. Điều kiện tự nhiên - Về vị trí địa lý Nghệ An nằm ở vị trí trung tâm vùng Bắc Trung Bộ, có diện tích tự nhiên là 16.490,85 km2, dân số đến năm 2014 là 3.037.440 người, với mật độ dân số 184 người/km2 đang chiếm vị trí thứ tư cả nước với gần 3,64%. Phía bắc, Nghệ An giáp tỉnh Thanh Hóa (197 km), tỉnh Hà Tĩnh ở phía Nam, phía Tây chung đường biên giới với Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào với ba tỉnh: Hủa Phẳn, Xiêng Khoảng, BôlyKhămxay có chung 419,5 km đường biên giới, phía Đông giáp biển Đông với bờ biền dài 82 km. Với vị trí này, tạo cho Nghệ An có vai trò quan trọng trong mối giao lưu kinh tế - xã hội Bắc - Nam, xây dựng và phát triển kinh tế biển, kinh tế đối ngoại và mở rộng hợp tác quốc tế, sẽ là động lực thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước, đẩy nhanh tiến độ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. - Về tài nguyên đất Tỉnh Nghệ An là địa phương có diện tích tự nhiên lớn nhất cả nước, đất ở Nghệ An có nhiều thành phần đa dạng, phân bố xen kẽ là một điều kiện thuận lợi để kêu gọi các nhà đầu tư trong và ngoài nước về đầu tư tại Nghệ An với nhiều ngành, lĩnh vực khác nhau. - Về khí hậu. Nghệ An nằm trong khu vực nhiệt đới ẩm gió mùa, song không thuận lợi là do sự hoạt động của gió Tây Nam dưới tác dụng bức chắn địa hình của dãy Trường Sơn gây nên khí hậu khô, ảnh hưởng gió lào, nắng nóng, mưa dầm dài lâu, thường làm giảm ý chí của các nhà đầu tư. -Về tài nguyên rừng Hiện nay, diện tích rừng của tỉnh là trên 685.000 ha đứng đầu cả nước, chiếm khoảng 6,5% diện tích rừng cả nước, nhìn chung rừng ở đây rất đa dạng, có tiềm năng khai thác và giá trị kinh tế cao, là điều kiện thuận lợi để các DN có thể đầu tư phát triển kinh tế trang trại, lâm nghiệp, chế biến, dược liệu..., góp phần vừa làm giàu, vừa thúc đẩy kinh tế của tỉnh tăng trưởng. -Về tài nguyên khoáng sản 15 Tỉnh có nguồn tài nguyên khoáng sản như vàng, đá quý, rubi, đá trắng, đá granit, đá bazan... đặc biệt là đá vôi (nguyên liệu sản xuất xi măng), đá xây dựng, cát, sỏi,...được phân bổ gần như đồng đều ở các địa phương trong tỉnh, là một lợi thế lớn trong việc kêu gọi các DNTN tích cực đầu tư vào các ngành công nghiệp như; khai khoáng, sản xuất xi măng, nguyên liệu xây dựng, công nghiệp chế biến... -Về tài nguyên biển Nghệ An có bờ biển dài 82 km, diện tích vùng biển 4.230 hải lý vuông, trữ lượng hải sản của tỉnh đạt 80.000 tấn, trong đó có khả năng khai thác 35.000 - 40.000 tấn. Tiềm năng khai thác du lịch rất lớn, là điều kiện thuận lợi các doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN đầu tư, phát triển từ kinh doanh du lịch, dịch vụ, đầu tư xây dựng các khu nghỉ mát, Resort cao cấp... 3.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội * Về tăng trưởng kinh tế Trong những năm qua, các lĩnh vực kinh tế - xã hội tăng trưởng khá và chuyển dịch đúng hướng với tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2011 – 2015, đạt 7,89%, thu nhập bình quân đầu người năm 2015 ước đạt 29 triệu đồng/năm. (tăng 2 lần so với 2010). Với mức tăng trưởng này Nghệ An vẫn là tỉnh nghèo, mức thu nhập bình quân chỉ bằng 70% so với cả nước, kinh tế phát triển chưa tương xứng với tiềm năng. Tỉnh cần sớm phải có nhiều cơ chế, chính sách để thu hút DN đầu tư tại Nghệ An. * Về văn hóa – xã hội Nghệ An là tỉnh có vị trí chiến lược quan trọng, là một trong những yết hầu con đường xuyên Việt, là nơi gặp gỡ giao lưu của các huyết mạch giao thông đường thủy, bộ tạo cho Nghệ An sớm trở thành một trung tâm kinh tế - văn hóa có vị trí đặc biệt trong lịch sử dân tộc và văn hóa Việt Nam. Đây là một cơ hội để khu vực KTTN phát triển ngành du lịch, dịch vụ. * Nguồn nhân lực Đến năm 2014, dân số Nghệ An đạt 3.037.440 người, đứng thứ tư trong cả nước, sau thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội Thanh Hóa và được đánh giá là có cơ cấu " dân số vàng, là điều kiện thuận lợi cho khu vực KTTN thu hút nguồn lao động, nhất là doanh nghiệp trong ngành công nghiệp phụ trợ, điện tử, cơ khí, lắp ráp * Hệ thống kết cấu hạ tầng - Các Khu công nghiệp - Các Cụm công nghiệp Hiện nay, các khu công nghiệp và cụm công nghiệp đã lấp đầy diện tích, sự phát triển này là cơ hội để DN tùy thuộc vào khả năng có thể lựa chọn nhiều ngành, nghề đầu tư tại Nghệ An. 16 - Khoa học - công nghệ ; Hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông (bao gồm đường biển, hàng không, đường sắt, Cửa khẩu); Hệ thống cung cấp nước sinh hoạt; Thông tin - viễn thông; Tài chính- Ngân hàng- Bảo hiểm; Cơ sở y tế; Siêu thị, khách sạn nhà hàng; Các điểm du lịch chủ yếu, đủ đáp ứng nhu cầu DN khi tiến hành đầu tư, sản xuất kinh doanh tại Nghệ An. - Vốn đầu tư phát triển Nhìn chung, các dự án đầu tư trong và ngoài nước đã và đang đi vào hoạt động trên địa bàn tỉnh, bước đầu đem lại hiệu quả về kinh tế - xã hội và có triển vọng trong tương lai. -Vị trí của Nghệ An trong chiến lược phát triển chung của cả nước và vùng Bắc Trung Bộ Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia, tỉnh Nghệ An với trung tâm là thành phố Vinh được xác định là một trung tâm kinh tế, văn hóa của vùng Bắc Trung Bộ, Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 30/7/2013 của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ phát triển tỉnh Nghệ An đến năm 2020, về cơ bản trở thành một tỉnh công nghiệp. 3.2. Thực trạng vai trò động lực của khu vực KTTN ở Nghệ An từ 2000 - 2014 3.2.1. Quan điểm chỉ đạo và kết quả vai trò động lực khu vực KTTN ở Nghệ An 3.2.1.1.Sự chỉ đạo của cấp ủy Đảng và chính quyền ở Nghệ An trong việc phát huy vai trò động lực của khu vực KTTN Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Nghệ An khóa XV ngày 08/8/2001 ra Nghị quyết về:“phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng làng nghề thời kỳ 2001- 2005”. Ngày 29/03/2003, nhằm tạo bước đột phá thu hút các doanh nghiệp đầu tư tại Nghệ An, UBND đã ra Quyết định số 112/2003/QĐ – UBND “về việc ban hành một số chính sách ưu đãi đầu tư trên địa bàn tỉnh Nghệ An”; Quyết định số 104/2003/QĐ – UBND ngày 08/12/2003 “Về cơ chế, chính sách khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ, nâng cao mức cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa” quy định cụ thể một số cơ chế chính sách khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư đổi mới, cải tiến công nghệ, ứng dụng các tiến bộ khoa học – công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa, có khả năng cạnh tranh thị trường trong và ngoài nước, tạo ra hiệu quả sản xuất cao. Quyết định số 112/2003/QĐ.UB ngày 29/12/2003 "về việc ban hành quy định một số chính sách ưu đãi đầu tư tại tỉnh Nghệ An"; Quyết định số 82/2004/QĐ – UBND ngày 2/8/2004 ban hành quy định “về khuyến khích phát triển tiểu thủ công nghiệp, nghề và làng nghề trên địa bàn tỉnh”. Cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ An lần thứ XVI, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã họp Hội nghị lần thứ 2 (ngày 28/04/2006) và ra Nghị quyết về 17 "Chương trình xúc tiến đầu tư gắn với phát triển nguồn thu ngân sách tỉnh, giai đoạn 2006-2010";Hội nghị lần 10 Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh (Khóa XVI) ngày 22/05/2008 về "Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Để phát huy vai trò động lực của khu vực KTTN trong sự phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn từ năm 2006 đến năm 2020, UBND tỉnh đã từng bước ban hành nhiều quyết định khuyến khích, hỗ trợ cho các DN như: Quyết định số 101/2007/QĐ-UBND ngày 06/09/2007 của UBND tỉnh Nghệ An về "Quy định một số chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư trên địa bàn tỉnh Nghệ An"; Quyết định số 56/2008/QĐ-UBND ngày 26/09/2008 "Về việc phê duyệt Quy hoạch phát triển công nghiệp tỉnh Nghệ An đến năm 2020"; Quyết định số 80/2008/QĐ-UBND ngày 18/12/2008 về "Công nhận làng có nghề, làng nghề và chính sách khuyến khích phát triển tiểu thủ công nghiệp và làng nghề trên địa bàn tỉnh Nghệ An”; Quyết định số 10/2009/QĐ-UBND ngày 16/01/2009 của UBND tỉnh ban hành "Cơ chế khuyến khích, hỗ trợ các tổ chức, cá nhân đầu tư đổi mới công nghệ, nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ nhằm nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa ở Nghệ An" ; Quyết định số 83/2009/QĐ-UBBND ngày 4/9/2009 ban hành quy định "về chính sách hỗ trợ đầu tư xây dựng hạ tầng khu công nghiệp nhỏ trên địa bàn tỉnh Nghệ An"; Quyết định 348/QĐ- UBND ngày 09/2/2012 "về việc phê duyệt đề án phát triển DN Nghệ An giai đoạn 2011-2015"; Quyết định số 26/2014/QĐ-UBND ngày 28/03/2009 "về việc ban hành chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư các dự án công nghệ cao trên địa bàn tỉnh Nghệ An"; Nghị quyết số 123/NQ-HĐND ngày 16/7/2014 "về việc điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Nghệ An đến năm 2020"; Quyết định số 3373/QĐ-UBND.ĐT ngày 21/7/2014 "Về việc phê duyệt đề án tập trung thu hút đầu tư có hiệu quả vào tỉnh Nghệ An đến năm 2020 và các giải pháp cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao chỉ số cạnh tranh cấp tỉnh" nhằm phấn đấu đến năm 2015 PCI của tỉnh Nghệ An thuộc nhóm khá của cả nước và đứng trong nhóm 30 tỉnh, thành phố có số điểm số PCI tốt nhất, đến năm 2020 đứng trong tốp 15 của cả nước; Quyết định số 4654/QĐ-UBND ngày 19/9/2014 "về việc ban hành chương trình xây dựng kết cấu hạ tầng trọng yếu trên địa bàn tỉnh Nghệ An đến năm 2020", phấn đấu đẩy nhanh tốc độ xây dựng các công trình trọng yếu, nhằm từng bước hiện đại hoá cơ sở hạ tầng, trước mặt tập trung đầu tư xây dựng hoàn thành các công trình trọng yếu góp phần tạo điều kiện thuận lợi để các DN trong và ngoài tỉnh đầu tư SXKD. 3.2.1.2. Những kết quả đạt được trong việc phát huy vai trò động lực khu vực KTTN ở Nghệ An 18 - Thứ nhất, khu vực KTTN có tốc độ tăng trưởng nhanh, góp phần quan trọng vào việc phát triển lực lượng sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của địa phương. Năm 2000 - 2004 mức huy động vốn SXKD bình quân hàng năm tăng chậm, nhưng từ năm 2004 - 2007 số vốn tăng liên tục, đặc biệt từ 2007 - 2013 số vốn SXKD của của khu vực kinh tế này tăng vọt nhanh chóng từ 20.001.510 triệu đồng (năm 2007) tăng lên 113.596.000 triệu đồng (2013). Như vậy, tỉ trọng vốn SXKD của khu vực KTTN trong tổng số vốn đầu tư toàn xã hội tăng lên nhanh chóng, từ 12,17 % năm 2000 sau 10 năm tăng 78,62% năm 2013 và tất yếu tỷ lệ đó ngày càng thay đổi theo hướng ưu thế ngày càng tăng cho khu vực KTTN ở tỉnh Nghệ An. - Thứ hai, hiệu quả SXKD của khu vực KTTN ngày càng cao, đóng góp lớn cho ngân sách của tỉnh, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế góp phần tái cấu trúc kinh tế Nghệ An theo hướng hiện đại. Doanh thu thuần SXKD của các DN thuộc khu vực KTTN từ 2000 đến 2013 cao dần và tốc độ tăng nhanh vọt so với doanh nghiệp Nhà nước. Nếu năm 2000 khu vực KTTN đạt 1.170 triệu đồng (chiếm 22,56%) thì đến 2010, sau 10 năm mức doanh thu lên tới 40.285.408 triệu đồng (chiếm 64,17%), mặc dù chịu ảnh hưởng cuộc khủng hoảng kinh tế song vẫn tăng mạnh vào năm 2013 là 80.119.255 triệu đồng (chiếm 77,82%). Về số liệu nộp ngân sách và tỷ trọng so với thu ngân sách của cả tỉnh 4 năm gần đây, năm 2010: 2.014.622 triệu đồng (45,8%); năm 2011: 2.884.783 triệu đồng (46,1%); năm 2012: 3.971.005 triệu đồng (73,7%); năm 2013: 3.531.000 triệu đồng (45,4 %). Nhiều doanh nghiệp đã khắc phục khó khăn, vượt qua cơn khủng hoảng, tiếp tục gặt hái được nhiều thành công và có thành tích nộp thuế cho Nhà nước đạt cao. Đến ngày 15/11/2014, tính theo cơ cấu ngành, tỷ trọng lớn nhất là lĩnh vực thương mại, dịch vụ thuộc khu vực KTTN chiếm 32,19%; xây dựng (bao gồm cả tư vấn) chiếm 24%; công nghiệp khai thác, chế biến chiếm 12,64%, còn lại là các ngành nghề khác. - Thứ ba, khu vực KTTN tham gia giải quyết một cách hiệu quả các vấn đề xã hội; tạo nhiều việc làm mới, tăng thu nhập cho người lao động, góp phần xóa đói giảm nghèo, đào tạo nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên. Doanh nghiệp nhà nước từ 2000 – 2011, không tạo thêm công ăn việc làm mới cho người lao động mà ngược lại đã mất đi 11.387 chỗ làm việc. Ngược lại số lao động làm việc trong DNTN của tỉnh đã tăng gấp 9 lần từ năm 2000 đến 2007, đặc biệt tăng nhanh từ 2007 đến 2013, số lao động trong các doanh nghiệp tăng lên rất nhanh, từ 56.991 người (2007) lên 136.972 (2013) điều này cho thấy lực lượng lao động trong khu vực KTTN ở tỉnh ta trong những năm 19 qua có sức thu hút rất lớn và chứng tỏ được tính vượt trội trong nền kinh tế. Năm 2010 thu nhập của người lao động trong KTTN là 3.122.422 triệu đồng (chiếm 67,86%) thì năm 2013, sau hai năm đã tăng lên gấp đôi, đạt 6.003.545 triệu đồng (chiếm 76,15%), trong khi đó DNNN vào năm 2010 là 1.353.493 triệu đồng (chiếm 29,42%) thì đến năm 2013 bị tụt xuống còn 1.343.168 triệu đồng (chiếm 17,04%) chưa bằng 1/4 thu nhập của KTTN. Không dừng lại ở đó để đứng vững trong cạnh tranh, các DNTN đã luôn tạo mọi điều kiện trích nguồn kinh phí để đào tạo, nâng cao trình độ cho người lao động, tìm ra những biện pháp tổ chức lao động, quản lý có hiệu quả nhất - Thứ tư, khu vực KTTN góp phần hình thành và phát triển đội ngũ doanh nhân có tài năng, phẩm chất đạo đức, xây dựng thương hiệu và phát triển hàng hóa góp phần vào công tác an sinh xã hội thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững. Trong những năm qua nhiều doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN của Nghệ An đã nỗ lực hết mình để khẳng định thương hiệu hàng hóa và luôn xung kích đi đầu trong các hoạt động từ thiện, nhân đạo vì sự phát triển cộng đồng, tiêu biểu cho hoạt động này là các doanh nghiệp công ty Cổ phần Công trình Giao thông 4, Ngân hàng Thương mại, Tập đoàn thực phẩm sữa TH, Bệnh viện Đa khoa Thái Thượng Hoàng, Ngân hàng Cổ phần Bắc Á, Công ty Cổ phần Thanh Thành Đạt, DNTN Phương Kiên... 3.2.2. Hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong việc phát huy vai trò động lực của khu vực KTTN ở Nghệ An 3.2.2.1. Những hạn chế vai trò động lực của khu vực KTTN ở Nghệ An Thứ nhất, hầu hết các doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN có quy mô nhỏ, hiệu quả sản xuất kinh doanh, năng suất lao động thấp dẫn đến năng lực, sức cạnh tranh thấp cả trên thị trường nội địa lẫn thị trường quốc tế. Tính đến tháng 10 năm 2014 toàn tỉnh có 8.461 doanh nghiệp đang hoạt động, đa số các DN thuộc khu vực KTTN trên địa bàn tỉnh có quy mô nhỏ, số doanh nghiệp có vốn điều lệ dưới 10 tỷ đồng chiếm khoảng 95%, với các hộ cá thể, tiểu chủ thì mức vốn đầu tư cũng rất thấp, có hộ chỉ vài chục triệu đồng, phân tán nhỏ lẻ, không có vốn để sản xuất, không có thị trường đầu ra để mở rộng kinh doanh, sẽ là một cản trở lớn đối với sự phát triển của khu vực kinh tế này cũng đồng nghĩa với việc sẽ cản trở đến tăng trưởng kinh tế của tỉnh. Thứ hai, tiềm lực khoa học công nghệ, trình độ phát triển lực lượng sản xuất của khu vực KTTN chưa cao dẫn đến khả năng hội nhập kinh tế quốc tế kém. Do nguồn vốn vừa yếu vừa thiếu, nên không có vốn tích lũy để đầu tư mua các máy móc thiết bị hiện đại áp dụng vào sản xuất kéo theo hệ lụy, chất lượng sản phẩm kém, khả năng cạnh tranh thấp. 20 Thứ ba, tốc độ chuyển dịch cơ cấu của khu vực KTTN còn chậm, ảnh hưởng đến quá trình phát triển theo hướng công nghiệp hiện đại. Đến 15/11/2014 theo cơ cấu ngành nghề, tỷ trọng lớn nhất là thương mại, dịch vụ, chiếm 32,19%; xây dựng (bao gồm cả tư vấn) chiếm 24%; công nghiệp khai thác, chế biến chiếm 12,64% còn lại là các ngành nghề khác. Thực trạng này phản ánh tình trạng lạc hậu, chậm phát triển của khu vực KTTN ở Nghệ An. Thứ tư, chưa có sự liên kết, hợp tác chặt chẽ giữa các DN thuộc khu vực KTTN với khu vực kinh tế khác để tạo nên sức mạnh tổng hợp trong phát triển kinh tế. Các doanh nghiệp FDI chưa đi vào sản xuất, lắp ráp các mặt hàng công nghệ cao dẫn đến độc lập trong việc tự vận hành sản xuất, kể cả đầu vào và đầu ra, nên sự kết nối, hỗ trợ với khu vực KTTN của tỉnh rất yếu. Còn về phía các doanh nghiệp nhà nước cũng được hưởng nhiều lợi thế từ KTTN, song rất ít hỗ trợ cho các doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN về trị trường, lao động, khoa học - công nghệ, quản lý, phương châm hoạt động vẫn là "mạnh ai nấy làm". Ngay cả sự liên kết giữa hai loại hình doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN còn lỏng lẻo, việc liên kết sản xuất tiêu thụ sản phẩm còn hạn chế. Thứ năm, nhiều DN của khu vực KTTN chưa thực hiện tốt những quy định của pháp luật ảnh hưởng đến niềm tin, chất lượng cuộc sống của người dân. Nhiều DNTN chưa thực hiện tốt những quy định của pháp luật về lao động và sản xuất, chế độ bảo hiểm, tiền lương, tiền công, hợp đồng lao động, thời gian lao động. 3.2.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế trong việc phát huy vai trò động lực của khu vực KTTN ở Nghệ An - Nguyên nhân khách quan Một là, Nhà nước vẫn chưa có những chính sách tạo thuận lợi về môi trường pháp lý, vốn, đất đai, mặt bằng SXKD, thị trườngcác doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế này hầu như chưa có được các chính sách hỗ trợ và các chương trình ưu đãi của Chính phủ. Hai là, nền kinh tế thế giới từ 2008 đến nay gặp nhiều khó khăn. Ba là, Nghệ An là một tỉnh có điểm xuất phát thấp, diện tích rộng song chủ yếu là miền núi, điều kiện kinh tế - xã hội còn khó khăn, cách xa cực tăng trưởng, của cả nước. Bên cạnh đó Nghệ An có luồng khí hậu gió lào khắc nghiệt xuất hiện từng đợt vào tháng 5, 6, 7, làm nắng nóng kéo dài còn mùa đông mưa dầm dài lâu, do đó công tác xúc tiến thu hút đầu tư gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là các nhà đầu tư có năng lực, kinh nghiệm. - Nguyên nhân chủ quan 21 Thứ nhất, môi trường kinh doanh cấp tỉnh của Nghệ An vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Thứ hai, khả năng tiếp cận các nguồn lực cơ bản phục vụ khu vực KTTN Nghệ An còn nhiều hạn chế như; đất đai, vốn, tài chính, khoa học - công nghệ có ảnh hưởng tới hiệu quả đầu tư và sự phát triển của khu vực KTTN. Thứ ba, chất lượng đào tạo nguồn lao động còn thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp khu vực KTTN trong cũng như ngoài tỉnh. Thứ tư, DN thuộc khu vực KTTN ở Nghệ An chưa mạnh dạn chủ động vươn ra hội nhập. Tiểu kết chương 3 Qua việc phân tích thực trạng phát huy vai trò động lực động lực của khu vực KTTN ở Nghệ An từ năm 2000 trở lại đây, cho thấy khu vực KTTN đã phát huy được vai trò động lực trong sự phát triển kinh - tế xã hội ở Nghệ An cả về mặt quy mô và chất lượng. Tuy nhiên trong quá trình phát huy vai trò động lực, khu vực KTTN Nghệ An vẫn còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng đến quá trình phát triển theo hướng công nghiệp hiện đại. Những đánh giá, phân tích ở chương 3 sẽ là cơ sở để tác giả đưa ra các quan điểm và giải pháp ở chương 4, nhằm thu hút các DN thuộc khu vực KTTN trong và ngoài tỉnh tích cực, chủ động đầu tư cùng với những cơ chế chính sách thông thoáng, minh bạch cùng với sự quan tâm của lãnh đạo tỉnh, các cơ quan ban ngành giúp khu vực kinh tế này trở thành đòn bẩy, động lực thúc đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Nghệ An trong thời gian tới. Chương 4 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ TIẾP TỤC PHÁT HUY VAI TRÒ ĐỘNG LỰC CỦA KHU VỰC KTTN Ở NGHỆ AN 4.1. Một số quan điểm để tiếp tục phát huy vai trò động lực của khu vực KTTN ở Nghệ An Phát huy vai trò động lực của khu vực KTTN phải vì mục tiêu giải phóng sức sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội ;. Phát triển khu vực KTTN là chiến lược lâu dài;Phát huy vai trò động lực của khu vực KTTN phải phù hợp với mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN 4.2. Một số giải pháp cơ bản để tiếp tục phát huy vai trò động lực của khu vực KTTN ở Nghệ An hiện nay 4.2.1. Tiếp tục đổi mới tư duy, đặc biệt là tư duy kinh tế Bài học kinh nghiệm rút ra là cần tiếp tục đẩy mạnh đổi mới tư duy, đặc biệt là tư duy kinh tế thông qua tổng kết thực tiễn nhằm có những nhận thức ngày càng đúng đắn, đầy đủ hơn về các thành phần kinh tế nói chung 22 và kinh tế tư nhân nói riêng. Đó là cơ sở để chúng ta có những quyết sách đúng, tạo môi trường thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển. 4.2.2. Xây dựng chiến lược phát triển dài hạn và tạo môi trường thuận lợi thúc đẩy khu vực KTTN phát huy vai trò động lực 4.2.2.1. Cải cách nền hành chính nhà nước ở Nghệ An là một điều kiện quan trọng quyết định phát huy vai trò động lực khu vực KTTN Tiếp tục cải cách hành chính mạnh mẽ theo hướng tạo điều kiện thuận lợi nhất cho doanh nghiệp, đơn giản hóa các thủ tục, giấy tờ nâng cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước nhằm phục vụ các đơn vị, các doanh nghiệp thuộc khu vực 4.2.2.2. Xây dựng hệ thống chính sách và cơ sở pháp lý cho khu vực KTTN phát huy vai trò động lực Thứ nhất, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng và phát triển dịch vụ hiện đại, hỗ trợ kinh doanh. Thứ hai, hỗ trợ ứng dụng khoa học - công nghệ cho khu vực KTTN. Thứ ba, tạo cơ chế chính sách thuận lợi về xúc tiến đầu tư và thương mại. Thứ tư, tập trung đầu tư phát triển làng nghề truyền thống nhiều tiềm năng của tỉnh. Thứ năm, ban hành nhiều chính sách ưu đãi đối với các hộ SXKD cá thể và trang trại. 4.2.3. Bản thân các doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN phải nỗ lực vươn lên, tiếp tục phát huy thành tựu và khắc phục những yếu kém, hạn chế Tiểu kết chương 4 Để khu vực KTTN phát huy là vai trò động lực trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở Nghệ An hiện nay và trong thời gian tiếp theo, cần phải phát huy những đóng góp tích cực và hạn chế những tác động tiêu cực của khu vực kinh tế này là một việc làm hết sức cần thiết. Để thực hiện có hiệu quả và đóng góp nhiều hơn nữa vai trò động lực của khu vực KTTN ở Nghệ An, chúng tôi đưa ra một số quan điểm, từ đó đề xuất một số giải pháp cơ bản giúp khu vực kinh tế này thúc đẩy kinh tế - xã hội ở Nghệ An ngày càng phát triển và vươn ra hội nhập kinh tế toàn cầu. Trong đó chúng tôi nhấn mạnh đến nỗ lực của chính bản thân DN thuộc khu vực KTTN. 23 KẾT LUẬN Gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo khu vực KTTN đã từng bước phát triển và khẳng định thương hiệu rộng khắp trên cả nước, ngày càng phát huy vai trò là động lực của nền kinh tế quốc dân. Sự bứt phá trong đổi mới kinh tế do đại hội VI (12/1986) của Đảng khởi xướng, do phù hợp với xu thế quy luật phát triển kinh tế của thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, phù hợp với ý nguyện của nhân dân nên đã nhanh chóng đi vào cuộc sống, tạo cơ sở lý luận và niềm tin mạnh mẽ trong toàn Đảng toàn dân với sự nghiệp đổi mới, trong đó có phát triển về khu vực KTTN. Chính vì vậy tác giả cho rằng, việc nghiên cứu vai trò động lực của khu vực KTTN trong phạm vi một địa phương, khi mà vị trí, vai trò của khu vực kinh tế này đã được ghi nhận và đánh giá cao tại đại hội X, XI: KTTN là một trong những động lực của nền kinh tế và dự thảo văn kiện trình Đại hội Đảng toàn quốc làn thứ XII khẳng định: Khu vực KTTN trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế. Về thực trạng vai trò động lực của khu vực KTTN ở Nghệ An từ năm 2000 đến nay, Đảng bộ Nghệ An đã vận dụng sáng tạo quan điểm của Đảng trong lãnh đạo phát triển KTTN. Luận án làm rõ những kết quả đạt được nhờ sự sáng tạo, năng động của chính quyền UBND tỉnh Nghệ An từ năm 2000 đến nay; có tốc độ tăng trưởng nhanh, góp phần quan trọng vào việc phát triển lực lượng sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của địa phương; hiệu quả SXKD của khu vực KTTN ngày càng cao đóng góp lớn cho ngân sách của tỉnh, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế góp phần tái cấu trúc kinh tế của tỉnh theo hướng hiện đại; khu vực KTTN tham gia giải quyết một cách hiệu quả các vấn đề xã hội; tạo nhiều việc làm mới, tăng thu nhập cho người lao động, góp phần xóa đói giảm nghèo, đào tạo nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên; góp phần hình thành và phát triển đội ngũ doanh nhân có tài năng, phẩm chất đạo đức, xây dựng thương hiệu và phát triển hàng hóa góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững. Tuy nhiên khu vực KTTN ở Nghệ An chưa phát huy hết vai trò động lực trong sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và cả nước. Trên cơ sở đó, để phát huy vai trò động lực của khu vực KTTN trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở Nghệ An trong thời gian tới, tác giả đã đưa ra các quan điểm; phát huy vai trò động lực của khu vực KTTN phải vì mục tiêu giải phóng sức sản xuất phát triển kinh tế - xã hội; phát huy vai trò động lực khu vực KTTN là chiến lược lâu dài, đồng thời phát huy vai trò động lực khu vực KTTN phải phù hợp với mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN đảm bảo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Bên cạnh đó chúng tôi đưa ra các giải pháp cơ bản; về phía Đảng 24 và nhà nước cần tiếp tục đổi mới tư duy, đặc biệt là tư duy kinh tế về vai trò động lực của khu vực KTTN. Đối với chính quyền và các cơ quan ban ngành của tỉnh Nghệ An cần xây dựng chiến lược phát triển dài hạn và tạo môi trường thuận lợi thúc đẩy khu vực KTTN phát huy vai trò động lực trong đó đổi mới tư duy, cải cách bộ máy hành chính Nhà nước là điều kiện tạo bước đột phá, quyết định phát huy vai trò động lực của khu vực kinh tế này, đồng thời xây dựng hệ thống chính sách và cơ sở pháp lý cho khu vực KTTN hoạt động thuận lợi như; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng và phát triển dịch vụ hiện đại, hỗ trợ kinh doanh; hỗ trợ ứng dụng, phát triển khoa học - công nghệ cho khu vực KTTN; tạo cơ chế chính sách thuận lợi về xúc tiến đầu tư và thương mại; tăng cường khả năng tiếp cận đất đai, mặt bằng SXKD; tăng cường hỗ trợ đầu tư - tín dụng cho khu vực KTTN; tập trung đầu tư phát triển làng nghề truyền thống nhiều tiềm năng của tỉnh; ban hành nhiều chính sách ưu đãi đối với các hộ sản xuất kinh doanh cá thể và trang trại. Bên cạnh đó chúng tôi nhấn mạnh đến nỗ lực của chính bản thân DN thuộc khu vực KTTN - là nhân tố quyết định thực hiện thành công vai trò động lực trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở Nghệ An nói riêng và cả nước nói chung trong thời kỳ hội nhập và phát triển. DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1. Trần Thị Bình (2010), Sự phát triển quan niệm của Đảng về kinh tế tư nhân trong thời kỳ đổi mới, Tạp chí Lý luận Chính trị và Truyền thông, số tháng 12, tr22-26. 2. Trần Thị Bình (2014), Phát huy vai trò và động lực của kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Tiếng Việt - Khoa học - Xã hội Việt Nam, số 4 (77), tr23 -30. 3. Trần Thị Bình (2015), Phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp, Tạp chí Triết học - Viên hàn lâm khoa học - xã hội Việt Nam, số 2 (285), tr.83-88. 4. Trần Thị Bình (2015), Những đóng góp và hạn chế của kinh tế tư nhân trong sự phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Nghệ An giai đoạn 2000 - 2014, tạp chí Khoa học và Công nghệ Nghệ An, số 3, tr 48-50. 5. Trần Thị Bình (2015), Một số điểm hạn chế về môi trường kinh doanh cấp tỉnh của Nghệ An qua bảng xếp hạng PCI năm 2014, tạp chí Khoa học và Công nghệ Nghệ An, số 10, tr 24-29.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftomtatbinh_4484.pdf