MỞ ĐẦU1. Tính cấp thiết của đề tài
Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN - Nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân là một trong những chủ trương lớn và nhiệm vụ cấp bách của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Trong Nhà nước pháp quyền, quyền tư pháp là một bộ phận của quyền lực nhà nước luôn gắn bó chặt chẽ với quyền lập pháp và quyền hành pháp trong tổng thể quyền lực nhà nước thống nhất và giữ một vai trò đặc biệt quan trọng. Quyền tư pháp được thực hiện thông qua hoạt động của các cơ quan tư pháp, trong đó hoạt động xét xử của TAND thể hiện tập trung nhất của quyền tư pháp, thể hiện nền công lý, sự công bằng và bình đẳng của các chủ thể trước pháp luật. Vì vậy, mục tiêu của chiến lược cải cách tư pháp ở nước ta đến năm 2020 đã được chỉ ra trong Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị (gọi tắt là Nghị quyết số 49-NQ/TW) là: "xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao” [4, tr.2].
Trong hệ thống các cơ quan tư pháp Việt Nam, Toà án được xác định là khâu trung tâm và việc nâng cao chất lượng hoạt động xét xử của Tòa án được coi là khâu đột phá của quá trình cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN trong giai đoạn hiện nay. Trong thời gian qua, các Toà án đã có nhiều cố gắng trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 "Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới" (gọi tắt là Nghị quyết số 08-NQ/TW) là:
. Khi xét xử phải bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc phán quyết của Toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, . để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định . [2].
Chất lượng hoạt động tư pháp nói chung và hoạt động xét xử nói riêng đã “được nâng lên một bước, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [4, tr.1].
Bên cạnh đó, công tác tư pháp vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, đó là:
Chất lượng công tác tư pháp nói chung chưa ngang tầm với yêu cầu và đòi hỏi của nhân dân [2]; Chính sách hình sự, chế định pháp luật dân sự và pháp luật về tố tụng tư pháp còn nhiều bất cập, chậm được sửa đổi, bổ sung. Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động của các cơ quan tư pháp còn bất hợp lý. Đội ngũ cán bộ tư pháp, . còn thiếu; trình độ nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ còn yếu, thậm chí có một số cán bộ sa sút về phẩm chất, đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp. Vẫn còn tình trạng oan sai trong điều tra, bắt, giam giữ, truy tố, xét xử [4, tr.1].
Các TAQS là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam được tổ chức trong quân đội. Tuy thuộc hệ thống TAND nhưng các TAQS có những đặc thù về mặt tổ chức và hoạt động phù hợp với đặc điểm tổ chức và hoạt động của quân đội. Trong những năm qua, so với các TAND, số lượng các vụ án hình sự phải giải quyết theo thủ tục sơ thẩm không nhiều nhưng do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan nên trong hoạt động xét xử nói chung và xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự (xét xử hình sự sơ thẩm) nói riêng của các TAQS cũng còn bộc lộ một số hạn chế và tồn tại nhất định.
Công cuộc cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi khoa học pháp lý cần đi sâu nghiên cứu và tìm ra lời giải đáp đối với hàng loạt vấn đề lý luận và thực tiễn, trong đó có vấn đề đảm bảo hoạt động áp dụng pháp luật của các Tòa án nói chung và TAQS nói riêng.
Tất cả những phân tích nêu trên là lý do để tác giả lựa chọn vấn đề "Áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của Tòa án quân sự các cấp ở Việt Nam hiện nay" làm đề tài luận văn thạc sĩ Luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu những vấn đề liên quan đến áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử đã được một số nhà khoa học, cán bộ thực tiễn thực hiện và được công bố trong các công trình khoa học như sau:
- Luận án tiến sĩ Luật học của tác giả Lê Xuân Thân: "Áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân ở Việt Nam hiện nay", năm 2004. Luận án đã phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân nhằm đáp ứng kịp thời mới của nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn hiện nay của đất nước ta.
- Luận văn thạc sĩ Luật học của tác giả Nguyễn Đức Hiệp: "Áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử án hình sự của Tòa án nhân dân ở tỉnh Ninh Bình", năm 2004. Luận văn đã phân tích cơ sở lý luận về áp dụng pháp luật trong xét xử án hình sự và đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật trong xét xử án hình sự của TAND ở tỉnh Ninh Bình, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm bảo đảm áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử án hình sự của TAND ở tỉnh Ninh Bình đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng xét xử hiện nay.
- Thạc sĩ Chu Thị Trang Vân với "Tìm hiểu một số nguyên tắc áp dụng pháp luật trong quá trình xét xử vụ án hình sự", Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 5/2001, đã đi sâu phân tích các nguyên tắc cơ bản về áp dụng pháp luật trong quá trình xét xử vụ án hình sự.
- Ngoài ra còn một số công trình khác nghiên cứu một số vấn đề có liên quan đến hoạt động xét xử của Tòa án, như:
"Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật" của GS.TSKH. Đào Trí Úc, Nxb Khoa học xã hội, 1993.
"Đảm bảo công bằng xã hội trong tư pháp" - PGS.TS Chu Hồng Thanh, Tạp chí Dân chủ pháp luật số 21/2001.
"Tăng cường năng lực xét xử của Tòa án cấp huyện - một số vấn đề cấp bách" - Tạp chí Tòa án nhân dân số 1/2002 và "Nâng cao năng lực soạn thảo bản án hình sự - một yêu cầu cấp bách", Tạp chí Dân chủ pháp luật số 4/2001 của TS. Nguyễn Văn Hiện.
Nhìn chung, các công trình nêu trên chỉ nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của TAND nói chung hoặc trong xét xử án hình sự của TAND ở một địa phương cụ thể, hoặc chỉ nghiên cứu một số vấn đề cụ thể có liên quan đến hoạt động xét xử và áp dụng pháp luật của Tòa án. Cho đến nay, chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ, có hệ thống cả ở góc độ lý luận chung cũng như thực tiễn về hoạt động áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của TAQS các cấp ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Về mục đích: Luận văn nghiên cứu, đề xuất các giải pháp nhằm đảm bảo áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của Tòa án quân sự các cấp ở Việt Nam hiện nay.
Về nhiệm vụ: Phù hợp mục đích trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Phân tích cơ sở lý luận về áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của TAQS.
- Đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật trong xét xử của TAQS các cấp ở Việt Nam từ năm 2000 đến năm 2004, rút ra những ưu điểm, thành tựu đạt được, những hạn chế và nguyên nhân của hạn chế.
- Đề xuất và luận chứng các giải pháp nhằm đảm bảo áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của Tòa án quân sự các cấp ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Về đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung vào nghiên cứu hoạt động áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của TAQS các cấp ở Việt Nam.
Về phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu đề tài trong khoảng thời gian từ năm 2000 đến năm 2004.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về tăng cường pháp chế, xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, đặc biệt là các quan điểm của Đảng chỉ đạo cải cách tư pháp.
Luận văn sử dụng các phương pháp của triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử mác xít, trong đó chú trọng các phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp lịch sử cụ thể; ngoài ra còn sử dụng phương pháp của các bộ môn khoa học khác như phương pháp thống kê.
6. Những điểm mới của luận văn
- Luận văn đóng góp vào việc phân tích làm sáng tỏ các đặc điểm của áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của TAQS các cấp ở Việt Nam hiện nay.
- Đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của TAQS các cấp trong thời gian qua, rút ra ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của hạn chế.
- Luận chứng các giải pháp nhằm đảm bảo áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của TAQS các cấp ở Việt Nam.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu trong luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong quá trình nghiên cứu thực tiễn và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án nói chung và TAQS nói riêng; xây dựng tiến trình cải cách tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp trong quân đội nói chung và các TAQS nói riêng.
104 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3073 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của Tòa án quân sự các cấp ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xử, các bản án trong hoạt động xét xử của Thẩm phán, HTQN và Thư ký Tòa án của đơn vị mình. Ủy ban Thẩm phán của một số TAQS cấp quân khu hoạt động chưa đồng đều, chưa phát huy tốt vai trò của mình trong việc sơ, tổng kết, rút kinh nghiệm xét xử và chưa làm tốt công tác đảm bảo áp dụng thống nhất pháp luật đối với các TAQS khu vực, chưa có các giải pháp hữu hiệu, cụ thể để khắc phục kịp thời những hạn chế, sai sót về xét xử.
Tiểu kết Chương 2
Là cơ quan xét xử của Nhà nước được tổ chức trong quân đội, các TAQS có những nét đặc điểm đặc thù về tổ chức, thẩm quyền và hoạt động xét xử phù hợp với đặc điểm tổ chức và hoạt động của quân đội. Trải qua các giai đoạn cách mạng, các TAQS từng bước phát triển và kiện toàn về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Trong những năm qua, bên cạnh những thuận lợi là cơ bản, hoạt động xét xử của các TAQS cũng gặp không ít khó khăn. Được sự quan tâm về mọi mặt của Đảng, Nhà nước và quân đội, các TAQS đã khắc phục mọi khó khăn, phấn đấu thực hiện tốt nhiệm vụ xét xử, không ngừng nâng chất lượng và hiệu quả công tác xét xử nói chung và xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự nói riêng, đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Kết quả hoạt động xét xử của các TAQS trong những năm qua đã góp phần quan trọng trong việc tăng cường pháp chế XHCN, bảo vệ kỷ luật, nâng cao sức chiến đấu của quân đội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tập thể, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, trong đó có quân nhân, công nhân viên quốc phòng.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, hoạt động xét xử nói chung và hoạt động áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự nói riêng của các TAQS cũng còn những tồn tại, hạn chế nhất định. Những hạn chế này do cả các nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau, trong đó chủ yếu là do có nhiều vướng mắc, bất cập do hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, đồng bộ; chưa có sự giải thích, hướng dẫn áp dụng kịp thời, đồng bộ của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Mặt khác, sự hạn chế và không đồng đều về trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ của các chủ thể áp dụng pháp luật cũng là những nguyên nhân của các tồn tại trong áp dụng pháp luật của các TAQS.
Việc nghiên cứu thực trạng áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của các TAQS có ý rất quan trọng. Đây là cơ sở thực tiễn để đề xuất những kiến nghị và giải pháp cụ thể, đồng bộ nhằm không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động xét xử đáp ứng theo yêu cầu và mục tiêu cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN.
Chương 3
GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG XÉT XỬ HÌNH SỰ SƠ THẨM CỦA TOÀ ÁN QUÂN SỰ CÁC CẤP Ở VIỆT NAM
Nước ta đang tiến hành cải cách tổ chức và hoạt động hệ thống các cơ quan tư pháp, trong đó Toà án được xác định là khâu trung tâm và việc nâng cao chất lượng hoạt động xét xử của Tòa án được coi là khâu đột phá của quá trình cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN trong giai đoạn hiện nay. Mặt khác, hoạt động xét xử trực tiếp đụng chạm đến các quyền và tự do cơ bản (kể cả quyền sống) của công dân nhằm bảo đảm xử lý nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, bảo vệ kịp thời các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, không làm oan người vô tội đồng thời không được bỏ lọt tội phạm. Vì vậy, công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta không thể tách rời với việc bảo đảm cho hoạt động xét xử nói chung và áp dụng pháp luật trong xét xử các vụ án hình sự nói riêng, trong đó có hoạt động xét xử hình sự sơ thẩm của các TAQS.
Hoạt động áp dụng pháp luật trong xét xử của Tòa án được thực hiện tại phiên tòa với sự tham gia đầy đủ của những người tiến hành và tham gia tố tụng nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án làm cơ sở để HĐXX ra các phán quyết về vụ án trên cơ sở các quy định của pháp luật. Một trong những nội dung cơ bản mà Nghị quyết số 08-NQ/TW và Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị đặt ra trong tiến trình cải cách tư pháp là nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa, việc phán quyết của Toà án phải căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo,... để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật. Việc nâng chất lượng tranh tụng tại phiên tòa không thể tách rời với việc bảo đảm cho hoạt động áp dụng pháp luật đúng đắn trong thực tiễn.
Thực tiễn trong những năm vừa qua, hoạt động áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của TAQS các cấp đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Bên cạnh đó, cũng còn có những hạn chế nhất định do nhiều nguyên nhân, cả khách quan và chủ quan (như đã đề cập ở Mục 2.3 của luận văn).
Xuất phát từ những lý do nêu trên, việc bảo đảm cho hoạt động xét xử nói chung và áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của các TAQS nói riêng là một yêu cầu cấp thiết, một nhu cầu tất yếu khách quan của phát triển xã hội và cần phải có những giải pháp đồng bộ để khắc phục những tồn tại trong những năm qua. Các giải pháp đó là:
3.1. CÁC GIẢI PHÁP CHUNG
Căn cứ vào những yếu tố ảnh hưởng và yêu cầu đối với việc đảm bảo áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của TAQS cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật của các Tòa án này, luận văn đề xuất và luận chứng các giải pháp sau:
3.1.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật
Trong thời gian qua, Nhà nước ta đã có nhiều cố gắng và đã đạt được những kết quả lớn trong việc ban hành, sửa đổi các văn bản pháp luật, trong đó có các văn bản pháp luật trong lĩnh vực tư pháp. Tuy nhiên, nhìn chung hệ thống pháp luật nước ta vẫn chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, tính khả thi thấp, chậm đi vào cuộc sống [3, tr. 1]. Trước yêu cầu mới về xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN nói chung và công cuộc cải cách tư pháp nói riêng, Nhà nước ta cần phải tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa việc hoàn thiện các văn bản pháp luật.
Thực trạng áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của các TAQS những năm qua cho thấy một trong những nguyên nhân làm hạn chế đến hoạt động áp dụng pháp luật là do một số quy định của pháp luật về xét xử sơ thẩm chưa phù hợp với thực tiễn; việc giải thích, hướng dẫn áp dụng chưa kịp thời. Vì vậy, để đảm bảo cho việc áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của các TAQS cần phải sửa đổi, bổ sung một số quy định của pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự. Nội dung của các giải pháp này nhằm đảm bảo chất lượng của các quy phạm pháp luật. Việc hoàn thiện pháp luật phải đáp ứng được các yêu cầu sau:
- Phải thể chế hóa đầy đủ và đúng đắn mục tiêu, quan điểm, phương hướng về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đã được ghi nhận trong các Nghị quyết số 08/NQ-TW; Nghị quyết số 49-NQ/TW, Nghị quyết số48-NQ/TW ngày 25/5/2005 của Bộ Chính trị;
- Đáp ứng kịp thời yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình mới; tăng cường khả năng chống bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, mọi hành vi phạm tội đều phải được phát hiện và xử lý nghiêm minh, kịp thời và chính xác;
- Các quy định của pháp luật phải đề cao trách nhiệm cũng như tạo mọi điều kiện để các cơ quan, những người tiến hành và tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự;
- Kỹ thuật lập pháp phải bảo đảm để các quy định của pháp luật được thể hiện chính xác, rõ ràng và có tính khả thi cao.
Bên cạnh việc sửa đổi, bổ sung các quy phạm pháp luật, các cơ quan có thẩm quyền cần quan tâm và tăng cường công tác giải thích, hướng dẫn thi hành pháp luật để có nhận thức và áp dụng thống nhất giữa các cơ quan áp dụng. Thực tiễn cho thấy, do có nhiều lý do khác nhau, cả chủ quan và khách quan mà một số quy định của pháp luật không được rõ ràng, cụ thể nên khó áp dụng trong thực tiễn hoặc có những cách hiểu khác nhau giữa các chủ thể áp dụng.
Từ phân tích trên, chúng tôi xin có một số kiến nghị về sửa đổi bổ sung một số quy định của BLTTHS, BLHS, cụ thể:
- Về sửa đổi bổ sung một số quy định của BLTTHS: Trong Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “Về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” đã nhấn mạnh: "Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử..." [4, tr. 5], và:
Phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp trong hoạt động tố tụng tư pháp theo hướng tăng quyền và trách nhiệm cho điều tra viên, kiểm sát viên và Thẩm phán để họ chủ động trong thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hành vi và quyết định tố tụng của mình [4, tr. 4].
Do đó, trong BLTTHS cần sửa đổi bổ sung một số quy định cụ thể sau đây:
+ Tranh tụng phải được quy định thành một nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự và giữ vai trò chi phối và định hướng mọi hoạt động, hành vi tố tụng của tất cả các chủ thể tham gia tố tụng.
+ Phân định rõ ràng chức năng buộc tội, gỡ tội và xét xử giữa các chủ thể tham gia tranh tụng và Toà án. Cần quy định trong BLTTHS về xét hỏi tại phiên tòa theo hướng kiểm sát viên tiến hành xét hỏi trước, sau đó đến người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Các thành viên của HĐXX có thể hỏi ở bất kỳ thời điểm nào khi thấy cần làm sáng tỏ về các tình tiết của vụ án.
+ Điều 217 BLTTHS cần sửa đổi, bổ sung vào cuối Khoản 1, quy định như sau: “Tại phiên tòa kiểm sát viên có quyền quyết định thay đổi tội danh và điều khoản Bộ luật hình sự cần áp dụng cho phù hợp với thực tế diễn biến tại phiên tòa và chịu trách nhiệm về kết luận của mình”.
+ Điều 218 BLTTHS cần bổ sung vào sau đoạn 1 quy định sau đây: “Các bên tranh luận có quyền yêu cầu bên kia giải thích những vấn đề chưa rõ, chủ tọa phiên tòa là người quyết định bên bị yêu cầu có phải trả lời yêu cầu đó hay không. Người bào chữa có thể đặt câu hỏi, phản đối câu hỏi với những người tham gia tố tụng và những người được hỏi có trách nhiệm trả lời trực tiếp. Khi được sự ủy quyền của người nhờ mình bào chữa, luật sư có quyền trả lời mọi câu hỏi chất vấn của kiểm sát viên”.
+ Theo quy định của BLTTHS, không bắt buộc 100% các vụ án hình sự đều phải có sự tham gia của người bào chữa nên trong thực tiễn một số lượng lớn các vụ án được xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm không có sự tham gia của người bào chữa. Trong khi đó Điều 49 và Điều 50 BLTTHS lại không quy định cho bị can, bị cáo có quyền thu thập chứng cứ trong các trường hợp này gây khó khăn cho họ trong việc thực hiện quyền chứng minh và việc xác định sự thật khách quan của vụ án. Vì vậy, chúng tôi cho rằng Điều 49 và Điều 50 BLTTHS cần quy định bổ sung về quyền thu thập chứng cứ của bị can, bị cáo và trong trường hợp họ không thể thu thập được thì có thể yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ. Cũng cần quy định rõ trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng phải tiến hành điều tra, thu thập chứng cứ theo yêu cầu của bị can, bị cáo, nếu đó là chứng cứ có lợi cho họ trong việc bào chữa.
+ Điều 185 BLTTHS quy định "Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm Thẩm phán và hai Hội thẩm. Trong trường hợp vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp thì Hội đồng xét xử có thể gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm". Trên thực tế, đa số các Hội thẩm là những người không có trình độ chuyên môn nên trong quá trình xét xử họ thường ỷ nại vào Thẩm phán. Vì vậy, nguyên tắc "khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật" trong đa số các trường hợp chỉ mang tính hình thức và việc thực hiện nguyên tắc "Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số" có thể làm cho các phán quyết của HĐXX không bảo đảm khách quan, toàn diện và chính xác. Vì vậy, Điều 185 BLTTHS cần sửa đổi bổ sung theo hướng quy định số Thẩm phán chuyên nghiệp chiếm đa số trong thành phần HĐXX, cụ thể: "Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm hai Thẩm phán và một Hội thẩm. Trong trường hợp vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp, thì Hội đồng xét xử có thể gồm ba Thẩm phán và hai Hội thẩm".
+ Để phù hợp với nguyên tắc "khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật", đồng thời không mâu thuẫn với chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan tiến hành tố tụng và khắc phục triệt để vướng mắc lâu nay vần tồn tại trong hoạt động xét xử sơ thẩm, cần sửa đổi bổ sung quy định Điều 196 BLTTHS về giới hạn của việc xét xử như sau: "Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi mà Viện kiểm sát truy tố và Tòa án đã quyết định đưa ra xét xử".
+ Để có căn cứ giải quyết tranh chấp về thẩm quyền giữa TAND và TAQS, khắc phục tình trạng TAND không nắm được quy định của Pháp lệnh tổ chức TAQS nên vẫn thụ lý xét xử cả những bị cáo hoặc tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của TAQS, cần bổ sung vào Điều 173 BLTTHS nội dung sau đây: “Trong trường hợp vụ án vừa có bị cáo hoặc tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự, vừa có bị cáo hoặc tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân thì Tòa án quân sự xét xử toàn bộ vụ án”.
+ Để bảo đảm cho công tác chuẩn bị xét xử đối với những vụ án tuy ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng nhưng tính chất lại phức tạp, đề nghị sửa đổi, bổ sung quy định tại Khoản 2 Điều 176 BLTTHS theo hướng cho phép Chánh án Tòa án có thể quyết định kéo dài thời hạn chuẩn bị xét xử đối với các vụ án này đến 30 ngày.
- Về việc sửa đổi bổ sung một số quy định của BLHS:
Một số quy định của BLHS cũng cần được sửa đổi bổ sung để khắc phục các khiếm khuyết về mặt lập pháp và vướng mắc trong thực tiễn xét xử đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động áp dụng pháp luật, cụ thể là:
+ Về một số tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Khoản 1 Điều 48 BLHS: Tình tiết "phạm tội có tính chất chuyên nghiệp": Trong BLHS không quy định rõ thế nào là phạm tội có tính chất chuyên nghiệp nên việc nhận thức và áp dụng tình tiết này trong thực tiễn còn có sự khác nhau không đảm bảo tính công bằng, bình đẳng và sự thống nhất trong áp dụng pháp luật giữa các Tòa án. Do vậy, theo chúng tôi Điểm b Khoản 1 Điều 48 BLHS cần bổ sung quy định với nội dung: "Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp là phạm tội nhiều lần, liên tục nhằm mục đích vụ lợi hay làm giàu bất chính đã trở thành có hệ thống tạo nên nguồn thu nhập cơ bản, nguồn sống chủ yếu của người phạm tội". Ngoài ra, các tình tiết "phạm tội có tính chất côn đồ" (Điểm d); "phạm tội vì động cơ đê hèn" (Điểm đ) cũng cần có sự giải thích chính thức trong BLHS.
+ Tương tự như các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, cũng cần có sự giải thích trong BLHS về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Khoản 1 Điều 46 BLHS như: "người phạm tội đã ngăn chặn, làm giảm bớt tác hại của tội phạm (Điểm a); "người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả" (Điểm b); "phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn" (Điểm g); Về dấu hiệu cấu thành cơ bản của một số tội như: "gây hậu quả nghiêm trọng", "đã bị xử lý kỷ luật mà còn vi phạm";
+ Việc áp dụng các quy định về tịch thu và bồi thường tại Điều 41 và Điều 42 BLHS, nhất là đối với tài sản bị mua đi bán lại nhiều lần, qua nhiều cầu, tài sản thuộc loại cấm lưu hành,... Cũng cần có sự giải thích chính thức trong BLHS để có sự nhận thức và áp dụng thống nhất trong xét xử.
+ Để khắc phục khiếm khuyết về mặt lập pháp cần bỏ từ trên trong quy định tại Điểm d Khoản 2 Điều 140 BLHS “Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ trên năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng”.
3.1.2. Giải pháp nhằm tăng cường công tác kiểm tra, giám đốc án, tổng kết thực tiễn xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật đối với hoạt động áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm
Công tác kiểm tra, giám đốc án của TAQS Trung ương và TAQS cấp quân khu; công tác tổng kết thực tiễn xét xử và hướng dẫn áp dụng pháp luật của Ủy ban Thẩm phán TAQS Trung ương, Uỷ ban Thẩm phán TAQS cấp quân khu; vai trò tổ chức, kiểm tra của lãnh đạo TAQS có ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt động áp dụng pháp luật trong xét xử của các TAQS. Thực tiễn xét xử trong những năm qua cho thấy một trong những nguyên nhân dẫn đến các hạn chế, tồn tại là do một số mặt của hoạt động này có nơi, có lúc chưa được quan tâm thường xuyên, đúng mức và chất lượng chưa cao. Do vậy, để đảm bảo áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm của các TAQS, Phòng Giám đốc kiểm tra và Ủy ban Thẩm phán TAQS Trung ương; các Thẩm tra viên và Uỷ ban Thẩm phán TAQS cấp quân khu; lãnh đạo TAQS các cấp cần phát huy hơn nữa vai trò trách nhiệm của mình.
Nhiệm vụ của Phòng giám đốc kiểm tra TAQS Trung ương và các Thẩm tra viên các Tòa án cấp quân khu là phát hiện kịp thời, chính xác những sai sót về áp dụng pháp luật trong xét xử của các TAQS, để đề xuất các biện pháp khắc phục kịp thời như rút kinh nghiệm hoặc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, Phòng Giám đốc kiểm tra TAQS Trung ương và các Thẩm tra viên của TAQS cấp quân khu phải chủ động, tích cực và kịp thời kiểm tra các bản án, quyết định sơ thẩm ngay sau khi có hiệu lực pháp luật. Các TAQS cần coi trọng và thực hiện tốt công tác giải quyết đơn thư, khiếu nại liên quan đến hoạt động xét xử; trực tiếp kiểm tra công tác xét xử của các TAQS cấp dưới.
Ủy ban Thẩm phán TAQS Trung ương và TAQS cấp quân khu có vai trò rất quan trọng trong việc bảo đảm áp dụng pháp luật thống nhất và tổng kết thực tiễn xét xử. Để thực hiện tốt vai trò này, Ủy ban Thẩm phán TAQS các cấp phải kịp thời giải đáp các vướng mắc và uốn nắn những nhận thức và áp dụng không đúng pháp luật; đánh giá đúng về những kết quả đạt được, những vấn đề tồn tại và nguyên nhân. Từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cần thiết và có giải pháp khắc phục kịp thời, có hiệu quả.
Ủy ban TAQS Trung ương trong phạm vi thẩm quyền có nhiệm vụ hướng dẫn áp dụng pháp luật và tổng kết thực tiễn xét xử trong ngành TAQS cần thường xuyên tiến hành và thực hiện tốt công tác này đảm bảo cho việc áp dụng pháp luật trong xét xử của toàn ngành; phối hợp với cơ quan bảo vệ pháp luật trong quân đội để ban hành các hướng dẫn liên ngành.
Lãnh đạo các TAQS phải đề cao trách nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật, đặc biệt là trách nhiệm kiểm tra việc thụ lý hồ sơ, phân công Thẩm phán giải quyết vụ án và công tác tổ chức xét xử; giải quyết các vướng mắc trong quá trình xét xử các vụ án và các hoạt động đảm bảo cho công tác xét xử. Cần tổ chức rút kinh nghiệm kịp thời các phiên toà xét xử để khắc phục các tồn tại và nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật của Thẩm phán và HTQN.
Để thực hiện tốt các giải pháp này cần phải:
- Cần kiện toàn tổ chức và hoạt động của Phòng giám đốc kiểm tra TAQS Trung ương và đội ngũ Thẩm tra viên của các TAQS cấp quân khu và Ủy ban Thẩm phán TAQS các cấp đảm bảo hoàn thành chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật.
- Lựa chọn những cán bộ có phẩm chất đạo đức tốt, trình độ chuyên môn giỏi và có kinh nghiệm thực tiễn để thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám đốc án và bổ nhiệm là thành viên Ủy ban Thẩm phán;
- Có kế hoạch kiểm tra định kỳ và đột xuất đối với hoạt động xét xử của các TAQS cấp dưới.
- Thường xuyên tổ chức hội thảo khoa học, tập huấn nghiệp vụ và nghiên cứu xây dựng các đề tài, chuyên đề về áp dụng pháp luật trong xét xử.
3.1.3. Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm quân nhân
Việc nâng cao chất lượng của đội ngũ Thẩm phán và HTQN của TAQS trong giai đoạn hiên nay là một đòi hỏi cấp bách xuất phát từ thực tiễn và yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp.
Trung thành với Tổ quốc, có phẩm chất đạo đức tốt; liêm khiết, trung thực, có tri thức tổng hợp về cuộc sống; có trình độ về pháp lý, năng lực xét xử, ý thức gương mẫu chấp hành pháp luật và tinh thần kiên quyết bảo vệ công lý là tiêu chuẩn cần phải có ở người Thẩm phán và HTQN. Đây vừa là yêu cầu và mục tiêu thường xuyên, lâu dài nhằm xây dựng đội ngũ Thẩm phán và HTQN đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao cho. Nội dung của giải pháp này là xây dựng đội ngũ Thẩm phán và HTQN tốt về phẩm chất đạo đức và giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ.
- Về xây dựng đội ngũ Thẩm phán: Lãnh đạo các TAQS phải thực hiện tốt quy chế tuyển chọn, đào tạo và sử dụng cán bộ ngành TAQS đảm bảo đúng các tiêu chuẩn theo quy định của Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm. Việc tái bổ nhiệm Thẩm phán phải căn cứ vào chất lượng hoàn thành nhiệm vụ của Thẩm phán trong nhiệm kỳ, kiên quyết không đề nghị tái bổ nhiệm những người hoàn thành nhiệm vụ ở mức độ thấp.
Cùng với việc bổ nhiệm, tái nhiệm Thẩm phán, phải có kế hoạch, hình thức và biện pháp đào tạo, bồi dưỡng toàn diện đội ngũ cán bộ ngành TAQS; có quy hoạch khoa học, hợp lý về sử dụng đội ngũ Thẩm phán để không bị hẫng hụt, lựa chọn các Thẩm phán xuất sắc ở TAQS cấp dưới để bổ nhiệm Thẩm phán ở Tòa cấp trên; thực hiện tốt việc luân chuyển cán bộ, nhất là đối với các Thẩm phán giữ vị trí lãnh đạo.
Tiến hành các hình thức, biện pháp về đào tạo, bồi dưỡng về mọi mặt để nâng cao trình độ năng lực cho đội ngũ Thẩm phán, đào tạo toàn diện không chỉ kiến thức pháp lý mà cả kiến thức khác như chính trị, triết học, các khoa học xã hội khác phục vụ cho xét xử, như: Tích cực liên hệ với các trường đào tạo chuyên ngành trong và ngoài quân đội để cử cán bộ đi học: Trường Đại học Luật Hà Nội, Học viện đào tạo các chức danh tư pháp, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Học viện Chính trị quân sự,...; Tổ chức Hội nghị tập huấn chuyên ngành giúp Thẩm phán nắm vững các văn bản pháp luật và hướng dẫn áp dụng pháp luật; Tổ chức nghiên cứu, xây dựng các đề tài khoa học, các chuyên đề về xét xử sơ thẩm như: phương pháp nghiên cứu hồ sơ, kỹ năng xét hỏi tại phiên tòa, nội dung bản án sơ thẩm...
Các tổ chức đảng ở các TAQS cần phải hết sức coi trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng; thường xuyên giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quán triệt quan điểm, đường lối của Đảng, chủ trương, chính sách của Nhà nước.
Lãnh đạo các Tòa án quân sự và cơ quan có thẩm quyền phải chú trọng thường xuyên và chặt chẽ công tác quản lý Thẩm phán. Thường xuyên theo định kỳ rà soát, đánh giá các hoạt động của từng Thẩm phán làm cơ sở đánh giá chất lượng phân loại Thẩm phán và để từ đó có hướng đào tạo, bồi dưỡng cho họ làm tốt hơn. Phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh những trường hợp có biểu hiện lệch lạc, vi phạm đạo đức nghề nghiệp,...
Nhà nước cần phải xây dựng cơ chế, chính sách đãi ngộ thoả đáng phù hợp với lao động đặc thù của Thẩm phán như: chế độ tiền lương, phụ cấp, chế độ ưu đãi khi thi hành công vụ, bậc quân hàm (đối với Thẩm phán TAQS),... Phải coi Thẩm phán là một nghề, do đó cần sửa đổi Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm theo hướng bổ nhiệm Thẩm phán suốt đời hoặc với nhiệm kỳ dài hơn để họ yên tâm công tác, có thời gian tu dưỡng, rèn luyện, tích luỹ kinh nghiệm.
- Về xây dựng đội ngũ HTQN: Các cơ quan có thẩm quyền phải lựa chọn kỹ và giới thiệu những người đủ tiêu chuẩn theo quy định của Pháp luật để cử làm HTQN, trong đó coi trọng tuổi đời, tuổi quân, cấp bậc, quân hàm, kiến thức về tổ chức, quân sự, kinh nghiệm trong cuộc sống. Các TAQS phải làm tốt công tác quản lý đội ngũ HTQN, thường xuyên bồi dưỡng kiến thức pháp luật và nghiệp vụ với thời gian và nội dung phù hợp thông qua các hình thức bồi dưỡng tập trung theo các chuyên đề như: kỹ năng nghiên cứu hồ sơ vụ án, xét hỏi... Bảo đảm các văn bản pháp luật và tài liệu cần thiết để họ cập nhật kiến thức pháp luật phục vụ công tác xét xử. Tổ chức cho các HTQN tham dự các phiên tòa để họ học tập phương pháp và kinh nghiệm xét xử.
Mỗi HTQN phải nhận thức đầy đủ, đúng đắn về vị trí, vai trò của mình khi tham gia xét xử để từ đó nâng cao tinh thần trách nhiệm chính trị, có lập trường, quan điểm đúng đắn; nắm vững đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, thận trọng, khách quan khi xét xử các vụ án.
3.1.4. Giải pháp đảm bảo chất lượng hoạt động bổ trợ tư pháp có liên quan đến hoạt động áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của các Tòa án quân sự
Các hoạt động bổ trợ tư pháp liên quan đến hoạt động áp dụng pháp luật của các TAQS (như: hoạt động bào chữa của luật sư; giám định tư pháp,...) có vai trò hết sức quan trọng đối với việc đảm bảo áp dụng pháp luật trong xét xử. Do vậy, một trong những giải pháp quan trọng để đảm bảo việc áp dụng pháp luật trong xét xử là phải nâng cao chất lượng của các hoạt động này.
Luật sư tham gia tố tụng trong vụ án hình sự (do bị can, bị cáo, đương sự mời hoặc theo yêu cầu của Tòa án trong những trường hợp pháp luật quy định) có vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo, đương sự. Bằng hoạt động của mình, luật sư góp phần bảo vệ công lý, công bằng xã hội, pháp chế XHCN và bảo đảm sự dân chủ trong hoạt động xét xử.
Những năm gần đây, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đội ngũ luật sư và tổ chức các đoàn luật sư ở nước ta từng bước được kiện toàn và phát triển cả về số lượng và chất lượng. Đặc biệt những quy định của BLTTHS năm 2003 đã mở rộng và tạo điều kiện thuận lợi để luật sư phát huy tốt vai trò của mình trong quá trình giải quyết các vụ án như: được tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can; được phép có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can; được đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật;... [6, tr.48]. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử cho thấy còn có một số vấn đề (như năng lực, phẩm chất đạo đức và việc thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm của luật sư,...) đang đặt ra cần được tiếp tục quan tâm để xây dựng đội ngũ luật sư có ý thức trách nhiệm cao, có tâm trong sáng, có năng lực nghề nghiệp để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo, đương sự; thực hiện đúng nghĩa vụ, trách nhiệm của mình trên cơ sở quy định của pháp luật,... đáp ứng được yêu cầu của xã hội.
Để bảo đảm chất lượng hoạt động của luật sư, ngoài việc nâng cao năng lực trình độ của luật sư thông qua các hình thức đào tạo, bồi dưỡng về kiến thức pháp luật, kiến thức xã hội, rèn luyện kỹ năng thực hành,... cần phải hoàn thiện pháp luật về luật sư theo hướng xây dựng đội ngũ luật sư chuyên nghiệp, chỉ cho phép những người đủ tư cách mới được hành nghề. Đây là vấn đề quan trọng để bảo đảm tính chuyên nghiệp trong hoạt động luật sư.
Cùng với trình độ năng lực, luật sư phải có phẩm chất đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình; trung thực, khách quan, tôn trọng lẽ phải và tuân thủ các quy định của pháp luật, Để có những phẩm chất này đòi hỏi luật sư phải không ngừng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức nghề nghiệp. Cơ quan có thẩm quyền cần thực hiện tốt công tác quản lý đối với đội ngũ luật sư, phát hiện và xử lý nghiêm khắc, kịp thời những trường hợp vi phạm. BLHS cần bổ sung một số quy định về các tội phạm xâm phạm quyền bào chữa của công dân cũng như xâm phạm hoạt động nghề nghiệp của luật sư.
Các hoạt động bổ trợ tư pháp khác như: giám định pháp y, giám định tâm thần, giám định khoa học hình sự... cũng có vai trò quan trọng đối với quá trình giải quyết vụ án. Trong tố tụng hình sự, trưng cầu giám định tư pháp là biện pháp nhằm kiểm tra, đánh giá chứng cứ của vụ án. Đây là hoạt động sử dụng những phương pháp khoa học, kỹ thuật và kiến thức, nghiệp vụ chuyên ngành để kết luận những vấn đề có liên quan đến vụ án theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng. Kết luận giám định về vấn đề liên quan đến vụ án là phương tiện chứng minh, là một trong những nguồn chứng cứ chủ yếu.
Trong những năm qua, hoạt động giám định tư pháp đã góp phần quan trọng đối với hoạt động áp dụng pháp luật trong xét xử của Tòa án nói chung và của các TAQS nói riêng. Nhìn chung các kết luận giám định đảm bảo tính khách quan, khoa học và là một trong các căn cứ để Tòa án giải quyết đúng đắn vụ án. Tuy nhiên, công cuộc cải cách tư pháp và thực tiễn xét xử trong giai đoạn hiên nay đã và đang đặt ra yêu cầu cần phải có những biện pháp để nâng cao chất lượng hoạt động này, đó là:
- Các ngành, các cấp cần thực hiện đầy đủ các yêu cầu đề ra trong Nghị quyết số 08-NQ/TW và Nghị quyết 49/NQ-TW của Bộ Chính trị: "Từng bước hoàn thiện các tổ chức giám định tư pháp. Thành lập cơ quan giám định pháp y quốc gia. Sớm hoàn thiện pháp luật về giám định...", "hoàn thiện chế định giám định tư pháp, Nhà nước cần đầu tư cho một số lĩnh vực giám định để đáp ứng yêu cầu thường xuyên của hoạt động tố tụng. Quy định chặt chẽ, rõ ràng về trình tự, thủ tục, thời hạn trưng cầu và thực hiện giám định. Ban hành quy chế chuẩn giám định phù hợp với từng lĩnh vực. Xác định rõ cơ chế đánh giá kết luận giám định, bảo đảm đúng đắn, khách quan để làm căn cứ giải quyết vụ việc".
- Các tổ chức giám định pháp y, pháp y tâm thần; giám định khoa học hình sự, tài chính kế toán,... cần được sắp xếp cho hợp lý, tinh gọn. cần sớm có đội ngũ giám định viên về những lĩnh vực môi trường, công nghệ thông tin,...
- Các giám định viên phải đảm bảo đủ các tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật. Ngoài các yêu cầu về năng lực chuyên môn, phẩm chất chính trị, đạo đức còn phải có hiểu biết nhất định về pháp luật tố tụng. Cần quy định không cho giám định viên tham gia vào các hoạt động mà chúng có thể ảnh hưởng đến sự khách quan trong kết luận giám định.
- Các phương tiện kỹ thuật, máy móc phục vụ cho việc giám định cần được hiện đại hóa để đáp ứng kịp thời, chính xác và nhanh chóng các yêu cầu của công tác giám định.
- Các cơ quan tiến hành tố tụng cũng như các cơ quan tổ chức có liên quan phải phối hợp, cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan đến giám định theo yêu cầu của giám định viên.
- Để việc tham gia tố tụng tại phiên tòa của người giám định được thuận lợi, cần quy định trách nhiệm cụ thể của người giám định khi được Toà án triệu tập. Để bảo đảm cho việc nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên toà, cần tăng cường đội ngũ cán bộ làm công tác giám định tư pháp cả về số lượng và chất lượng.
- Cùng với việc nâng cao ý thức trách nhiệm, Nhà nước cần đảm bảo chế độ thù lao cho giám định viên phù hợp hoạt động giám định và tham gia tố tụng của họ tại phiên tòa.
3.2. CÁC GIẢI PHÁP CỤ THỂ
3.2.1. Giải pháp đảm bảo áp dụng pháp luật trong giai đoạn chuẩn bị xét xử
Giai đoạn chuẩn bị xét xử là khâu đầu tiên của quá trình xét xử vụ án hình sự. Nó được bắt đầu từ thời điểm Toà án thụ lý hồ sơ vụ án đến trước khi mở phiên tòa xét xử. Đây là giai đoạn hết sức quan trọng của quá trình áp dụng pháp luật trong xét xử. Trên thực tế, giai đoạn này chỉ thực sự bắt đầu sau khi Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án (làm chủ toạ phiên toà).
Trong giai đoạn này Chánh án TAQS cấp sơ thẩm phải đề cao tinh thần trách nhiệm, thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn của mình để tổ chức, kiểm tra, đôn đốc việc xét xử vụ án theo đúng quy định của pháp luật. Việc áp dụng pháp luật trong xét xử nói chung và xét xử sơ thẩm nói riêng phụ thuộc rất nhiều vào việc phân công Thẩm phán giải quyết từng vụ án cụ thể. Căn cứ vào tính chất của vụ án, trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ và kinh nghiệm thực tiễn, Chánh án phân công Thẩm phán giải quyết vụ án cho phù hợp, bảo đảm đúng đúng pháp luật; Kịp thời phân công HTQN tham gia HĐXX và ra các quyết định cần thiết để đảm bảo cho việc giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, Chánh án và Phó Chánh án phải tăng cường công tác kiểm tra công tác chuẩn bị và chất lượng giải quyết các vụ án của các Thẩm phán, tổ chức rút kinh nghiệm xét xử để kịp thời khắc phục những sai sót nếu có.
Trong giai đoạn chuẩn bị, Thẩm phán có nhiệm vụ làm các công tác chuẩn bị cho việc đưa vụ án xét xử nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án: Nghiên cứu hồ sơ vụ án; ra một trong các quyết định theo quy định tại Khoản 2 Điều 176. Trường hợp vụ án có đủ điều kiện để đưa ra xét xử, thì Thẩm phán xem xét việc áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn; lên kế hoạch xét xử và triệu tập những người tham gia phiên toà và làm các công việc chuẩn bị khác cho việc mở phiên toà đảm bảo đúng thời hạn theo quy định của pháp luật.
Về cơ bản, việc áp dụng pháp luật để ra các quyết định liên quan đến việc giải quyết vụ án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử do Thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà thực hiện. Vì vậy, ngoài trình độ chuyên môn và kỹ năng nghiệp vụ, Thẩm phán phải nêu cao ý thức trách nhiệm, thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Thẩm phán phải nghiên cứu hồ sơ vụ án một cách thận trọng, tỉ mỉ và toàn diện để phát hiện kịp thời những thiếu sót (cả về nội dung và thủ tục tố tụng), những điểm không hợp lý, mâu thuẫn giữa các chứng cứ để có hướng xử lý kịp thời. Việc xem xét, đánh giá chứng cứ có trong hồ sơ phải bảo đảm các nguyên tắc và yêu cầu về đánh giá chứng cứ. Coi trọng việc xem xét, giải quyết khiếu nại và những vấn đề phát sinh trong quá trình nghiên cứu, chuẩn bị xét xử vụ án,...
Ngoài ra, việc trao đổi, thảo luận với đồng nghiệp, những nhà chuyên môn ở các lĩnh vực khoa học chuyên ngành về những vấn đề của vụ án mà Thẩm phán chưa rõ hoặc còn có những quan điểm khác nhau cũng là điều kiện để Thẩm phán áp dụng đúng pháp luật trong giai đoạn chuẩn bị xét xử.
3.2.2. Giải pháp đảm bảo áp dụng pháp luật trong giai đoạn xét xử tại phiên tòa
Giai đoạn xét xử công khai tại phiên tòa được bắt đầu từ khi HĐXX vào phòng xử án và kết thúc sau khi tuyên án. Nó thể hiện chính thức toàn bộ nội dung hoạt động áp dụng pháp luật (cả pháp luật nội dung và pháp luật hình thức) để ra phán quyết về vụ án của HĐXX với sự tham gia đầy đủ của hầu hết những người tiến hành và tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật. Vì vậy, đây là giai đoạn trung tâm và giữ vai trò quyết định đối với toàn bộ quá trình xét xử sơ thẩm vụ án. Nó được tiến hành theo các trình tự và thủ tục tố tụng: Thủ tục bắt đầu phiên tòa; xét hỏi; tranh luận; nghị án và tuyên án.
Vai trò của Thẩm phán chủ toạ phiên toà trong giai đoạn xét xử tại phiên toà có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc áp dụng đúng đắn các quy định của pháp luật (cả luật hình thức và luật nội dung) của HĐXX. Ngoài việc tuân thủ trình tự và thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật, Thẩm phán chủ toạ phiên toà phải đảm bảo các nguyên tắc: “mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật”; “bảo đảm sự bình đẳng giữa các bên”, “Thẩm phán và HTQN độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; dân chủ, công khai và khách quan,... trong quá trình xét xử. Các phán quyết của HĐXX phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Viện kiểm sát, của người bào chữa, bị cáo, người làm chứng, nguyên đơn, bị đơn... Để áp dụng đúng pháp luật và ra các phán quyết chính xác về vụ án, cần thực hiện tốt các yêu cầu sau:
- Nâng cao trách nhiệm của HĐXX, trong đó Thẩm phán - chủ tọa phiên tòa là người tổ chức, điều khiển toàn bộ hoạt động áp dụng pháp luật trong xét xử. Thẩm phán phải nắm vững toàn bộ nội dung vụ án, dự kiến các tình huống có thể xảy ra tại phiên tòa và các phương án xử lý các tình huống đó. Tôn trọng ý kiến của HTQN, nhất là các ý kiến về lĩnh vực chuyên môn mà họ hiểu biết rõ.
- Đảm bảo việc xem xét, đánh giá các tình tiết, chứng cứ của vụ án vô tư, khách quan, toàn diện nhằm xác định sự thật khách của vụ án.
- Bảo đảm các điều kiện để những người tham gia tố tụng tại phiên tòa thực hiện đúng và đầy đủ các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình theo quy định của pháp luật.
- Phải phân công cụ thể và có sự phối hợp chặt chẽ giữa Thẩm phán chủ tọa phiên tòa với các thành viên khác của HĐXX trong quá trình xét xử, đặc biệt là ở phần xét hỏi; Bảo đảm sự tham gia của kiểm sát viên và luật sư vào quá trình xét hỏi trong phạm vi mà pháp luật quy định;... Việc công bố lời khai tại cơ quan điều tra và các tài liệu về vụ án phải thực hiện đúng quy định tại Điều 208 BLTTHS;...
- Hội đồng xét xử phải đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo, tạo mọi điều kiện để kiểm sát viên, luật sư tham gia vào quá trình xét hỏi để làm rõ các tình tiết của vụ án; kiểm tra tính hợp pháp, tính có căn cứ của chứng cứ, tài liệu về vụ án. Chủ toạ phiên toà có trách nhiệm điều khiển quá trình tranh luận, đối đáp giữa các bên tại phiên tòa đảm bảo thực sự dân chủ, bình đẳng, đúng trình tự, thủ tục quy định tại Điều 217 và 218 BLTTHS.
Hoạt động chính thức về áp dụng pháp luật của HĐXX được thực hiện tại phòng nghị án dưới sự điều khiển của Thẩm phán - chủ tọa phiên tòa. Căn cứ vào kết quả điều tra công khai, quan điểm của kiểm sát viên, luật sư, bị cáo, người bị hại,... hoạt động áp dụng pháp luật (nghị án) của HĐXX phải tuân thủ trình tự và các yêu cầu sau:
+ Thẩm phán chủ toạ phiên toà nêu các vấn đề (đã được Thẩm phán chuẩn bị ở giai đoạn chuẩn bị xét xử và bổ sung tại phiên toà) mà HĐXX cần thảo luận và giải quyết trong vụ án: về tội danh, điều khoản BLHS cầp áp dụng; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; hình phạt, biện pháp tư pháp,...
+ Các thành viên HĐXX tiến hành thảo luận và biểu quyết theo đa số về từng vấn đề của vụ án (theo thứ tự HTQN nêu ý kiến trước, rồi đến Thẩm phán và cuối cùng là chủ toạ phiên toà). Trên cơ sở đánh giá khách quan, toàn diện tất cả các tình tiết, các chứng cứ của vụ án đã được kiểm tra công khai và ý kiến của các bên tham gia tranh tụng tại phiên toà, HĐXX lựa chọn các quy định pháp luật phù hợp để ra phán quyết về tội danh, điều khoản BLHS cầp áp dụng; hình phạt, biện pháp tư pháp;...
+ Để bảo đảm việc áp dụng pháp luật được đúng đắn, ngoài việc tuân thủ các nguyên tắc như: “Bảo đảm bí mật khi nghị án”; “Toà án xét xử tập thể và biểu quyết theo đa số”; “Thẩm phán và Hội thẩm độc lập chỉ tuân theo pháp luật”;..., Thẩm phán phải chuẩn bị đầy đủ các văn bản quy phạm pháp luật cần thiết liên quan đến việc giải quyết vụ án. Trong trường hợp ý kiến của HTQN về giải quyết các vấn đề của vụ án không đúng do nhận thức không chính xác, đầy đủ về các quy định của pháp luật, Thẩm phán cần giải thích để HTQN có nhận thức chính xác và áp dụng quy phạm pháp luật.
+ Bản án, quyết định hình sự sơ thẩm phải được HĐXX thông qua tại phòng nghị án. Bản án phải bảo đảm về hình thức, cơ cấu và nội dung theo mẫu hướng dẫn tại Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05/11/2004 của TANDTC.
Tiểu kết Chương 3
Việc áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của các TAQS là một yêu cầu cấp thiết và tất yếu khách quan trước yêu cầu phát triển của xã hội, đất nước; công cuộc cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Xuất phát từ thực trạng những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân hạn chế của áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của TAQS các cấp trong những năm vừa qua, cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp cụ thể sau:
- Giải pháp hoàn thiện pháp luật.
- Giải pháp tăng cường công tác kiểm tra, giám đốc án, tổng kết thực tiễn xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật.
- Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán và HTQN;
- Giải pháp đảm bảo chất lượng hoạt động bổ trợ tư pháp có liên quan đến hoạt động áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của TAQS.
- Giải pháp đảm bảo áp dụng pháp luật trong giai đoạn chuẩn bị xét xử.
- Giải pháp đảm bảo áp dụng pháp luật trong giai đoạn xét xử tại phiên tòa;
Các giải pháp nêu trên liên hệ chặt chẽ và tác động qua lại lẫn nhau, giải pháp này là tiền đề, điều kiện để thực hiện các giải pháp kia và ngược lại, do đó cần phải thực hiện các giải pháp này một cách đồng bộ.
KẾT LUẬN
Pháp luật XHCN là hệ thống các quy phạm pháp luật, là những quy tắc xử sự chung, là khuôn mẫu, thước đo đánh giá mọi hành vi của tổ chức, cá nhân trong đời sống xã hội. Các quy phạm pháp luật được ban hành đòi hỏi phải được tôn trọng, tuân thủ và thi hành trong đời sống xã hội, đây cũng là mục đích quan trọng của Nhà nước mong muốn khi ban hành các quy phạm pháp luật. Khi các quy phạm pháp luật được các thành viên trong xã hội nhận thức và tự giác thực hiện một cách nghiêm chỉnh, thống nhất sẽ tạo lên sức mạnh của nền pháp chế: Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.
Áp dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, là hoạt động của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền tổ chức thực hiện pháp luật. Thông qua hình thức này Nhà nước mới có thể thực hiện tốt được chức năng tổ chức và quản lý của mình đối với các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội; pháp luật mới có thể đi vào cuộc sống một cách triệt để và chính xác, ý chí nhà nước trở thành hiện thực; bảo đảm cho bộ máy nhà nước, các tổ chức và mọi công dân hoạt động trong khuôn khổ pháp luật; bảo vệ kịp thời và có hiệu quả các lợi ích của nhà nước, tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của các TAQS là một hoạt động áp dụng pháp luật cụ thể nhân danh Nhà nước của Thẩm phán và HTQN trong quá trình xét xử các vụ án hình sự để ra phán quyết dưới hình thức bản án hoặc quyết định về một hành vi là tội phạm, xác định trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt đối với người phạm tội hoặc tuyên bố không phạm tội và minh oan đối với người vô tội.
Áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của các TAQS có một số đặc thù so với hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác ở chỗ đây là hoạt động nhân danh Nhà nước xét xử các vụ án thuộc thẩm quyền được tiến hành theo các trình tự, thủ tục tố tụng chặt chẽ và những nguyên tắc thể hiện tính chất dân chủ, công khai và minh bạch nhằm bảo vệ pháp chế XHCN và công lý. Từ những đặc điểm này mà hoạt động áp dụng pháp luật của các TAQS phải đáp ứng được những yêu cầu nhất định đồng thời cũng chịu sự tác động và ảnh hưởng của một số yếu tố. Việc nghiên cứu những vấn đề này có ý nghĩa rất quan trọng cả về lý luận và thực tiễn giúp chúng ta tiếp cận công tác xét xử hình sự sơ thẩm của các TAQS với góc độ đặc thù trong cái phổ biến, trên cơ sở đó có những đánh giá thực trạng, xác định nguyên nhân những hạn chế của việc áp dụng pháp luật trong xét xử, từ đó có những kiến nghị và đề ra những giải pháp phù hợp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả xét xử hình sự sơ thẩm của các TAQS, đáp ứng yêu cầu chính trị được Đảng và nhân dân giao phó, đặc biệt là trước yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay.
Hoạt động xét xử của Tòa án là biểu hiện tập trung nhất nền tư pháp nước nhà, là một trong những thước đo quan trọng về pháp chế, dân chủ, công bằng xã hội. Chất lượng áp dụng pháp luật trong xét xử càng cao, có sức thuyết phục, đáp ứng theo yêu cầu nhiệm vụ chính trị trong công tác đấu tranh, giáo dục và phòng ngừa tội phạm thể hiện cho sự tiến bộ và phát triển của nền tư pháp trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Alexeev S.S. (1986), Pháp luật trong cuộc sống của chúng ta, Đồng Ánh Quang (dịch), Nguyễn Đình Lộc (hiệu đính), Nxb Pháp lý, Hà Nội.
Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới.
Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.
Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1999 (2000), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Bộ luật tố tụng hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2003 (2004), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Lê Cảm (1999), Hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền, Nxb Công an nhân dân.
Lê Cảm (2004), "Vai trò của thực tiễn xét xử trong việc phát triển luật hình sự Việt Nam", Tòa án Nhân dân, (6), tr. 9-13.
Lê Cảm, Nguyễn Ngọc Chí (2004), Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
Đại học Quốc gia Hà Nội (2003), Giáo trình lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Trần Ngọc Đường (2005), "Cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam", Tạp chí Cộng sản, (5), tr. 30-34.
Hoàng Hùng Hải (2005), "Mấy ý kiến về đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội thẩm", Tòa án Nhân dân, (6), tr. 17-19.
Phạm Hồng Hải (1999), "Chuẩn bị xét xử vụ án hình sự - một vài vấn đề lý luận và thực tiễn", Nhà nước và pháp luật, (6), tr. 13-20.
Phạm Hồng Hải (2003), "Đạo đức nghề nghiệp và hiệu quả của hoạt động tư pháp", Luật học, (2), tr.12-17.
Hiến pháp Việt Nam năm 1992 (sửa đổi) (2002), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Văn Hiện (2001), "Nâng cao chất lượng soạn thảo bản án hình sự - một yêu cầu cấp bách", Dân chủ pháp luật, (4), tr. 2-7.
Nguyễn Văn Hiện (2002), "Tăng cường năng lực xét xử của Tòa án cấp huyện - một số vấn đề cấp bách", Tòa án Nhân dân, (1), tr. 1-5.
Nguyễn Đức Hiệp (2004), Áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử án hình sự của Tòa án nhân dân ở tỉnh Ninh Bình, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Trương Thị Hòa (2004), "Cải cách tư pháp và việc nâng cao đạo đức nghề nghiệp, trình độ chuyên môn cho cán bộ cơ quan tư pháp", Nhà nước và pháp luật, (9), tr.29-31.
Phan Trung Hoài (2004), Vấn đề hoàn thiện pháp luật về luật sư ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Mạnh Kháng (2003), "Cải cách tư pháp và vấn đề tranh tụng", Nhà nước và pháp luật, (1), tr. 32-37.
Khoa Nhà nước và pháp luật - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2004), Tài liệu học tập và nghiên cứu môn học lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
Lịch sử ngành Tòa án quân sự Việt Nam (1997), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
Luật Tổ chức Tòa án Nhân dân năm 2002 (2002), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
V. I. Lênin (1997), Toàn tập, tập 36, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
C. Mác - Ph. Ănghen (1979), Toàn tập, Tập 21, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự và những tài liệu nghiên cứu (2002), Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội.
Đinh Văn Quế (2004), "Một số vấn đề thủ tục xét hỏi tại phiên tòa hình sự sơ thẩm theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003", Tòa án nhân dân, (8), tr. 3-10.
Chu Hồng Thanh (2001), "Đảm bảo công bằng xã hội trong hoạt động tư pháp", Dân chủ pháp luật, (2), tr. 13, 14, 21.
Lê Xuân Thân (2003), "Các yếu tố cơ bản tạo thành tư cách của người Thẩm phán", Tòa án Nhân dân, (12), tr. 2-4.
Lê Xuân Thân (2004), Áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án Nhân dân ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Đỗ Gia Thư (2004), "Thực trạng đội ngũ Thẩm phán nước ta, những nguyên nhân và bài học kinh nghiệm từ quá trình xây dựng", Tòa án Nhân dân, (7), tr. 5-10.
Phan Hữu Thư (1996), "Văn hóa tư pháp và đạo đức người Thẩm phán", Nhà nước và pháp luật, (2), tr. 5-6.
Phan Hữu Thư (2003), "Đạo đức nghề luật", Đặc san nghề Luật, (3), (4).
Phan Hữu Thư (2004), "Đặc trưng của nghề Luật và đạo đức của người hành nghề Luật", Nhà nước và pháp luật, (10), tr. 14-22.
Trần Quang Tiệp (2004), "Quá trình chứng minh theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003", Nhà nước và pháp luật, (7), tr. 46-52.
Phạm Văn Tỉnh (2001), "Hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự trong thực tiễn, cơ sở đánh giá", Nhà nước và pháp luật, (12), tr. 52-62.
Tòa án Nhân dân tối cao (2003), "Một số gợi ý về tổ chức phiên tòa hình sự theo tinh thần Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 02/1/2002 về cải cách tư pháp", Thông tin khoa học pháp lý, (1), tr. 92.
Tòa án Nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an (2005), Thông tư liên tịch số 01/2005/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BQP-BCA ngày 18/4/2005, hướng dẫn về thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự, Tòa án nhân dân, (13), tr. 46-48.
Tòa án quân sự Trung ương (2000), Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án quân sự năm 2000.
Tòa án quân sự Trung ương (2001), Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án quân sự năm 2001.
Tòa án quân sự Trung ương (2002), Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án quân sự năm 2002.
Tòa án quân sự Trung ương (2003), Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án quân sự năm 2003.
Tòa án quân sự Trung ương (2004), Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án quân sự năm 2004.
Tòa án quân sự Trung ương (2000), Báo cáo thống kê giải quyết án năm 2000.
Tòa án quân sự Trung ương (2001), Báo cáo thống kê giải quyết án năm 2001.
Tòa án quân sự Trung ương (2002), Báo cáo thống kê giải quyết án năm 2002.
Tòa án quân sự Trung ương (2003), Báo cáo thống kê giải quyết án năm 2003.
Tòa án quân sự Trung ương (2004), Báo cáo thống kê giải quyết án năm 2004.
Trường Đại học Luật Hà Nội (2004), Giáo trình lý luận Nhà nước và pháp luật, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
Trường Đào tạo các chức danh tư pháp (2001), Giáo trình kỹ năng xét xử vụ án hình sự, tập 1, Phần chuyên đề, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội.
Trường Đào tạo các chức danh tư pháp (2001), Giáo trình kỹ năng xét xử vụ án hình sự, tập 2, Phần kỹ năng, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội.
Từ điển tiếng Việt (2004), Nxb Đà Nẵng.
Phùng Văn Tửu (1999), Xây dựng, hoàn thiện Nhà nước và pháp luật của dân, do dân, vì dân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đào Trí Úc (1993), Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Đào Trí Úc (2003), "Cải cách tư pháp, ý nghĩa, mục đích và trọng tâm", Nhà nước và pháp luật, (2), tr. 3-6.
Đào Trí Úc (2003), "Vị trí, vai trò, đặc trưng và các nguyên tắc của hoạt động tư pháp", Nhà nước và pháp luật, (7), tr. 3-6.
Chu Thị Trang Vân (2001), "Tìm hiểu một số nguyên tắc áp dụng pháp luật trong quá trình xét xử vụ án hình sự", Nhà nước và pháp luật, (5), tr.36-43.
Võ Khánh Vinh (1994), Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
Viện Nghiên cứu Nhà nước và pháp luật (1995), Những vấn đề lý luận cơ bản về Nhà nước và pháp luật, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của Tòa án quân sự các cấp ở Việt Nam hiện nay.doc