Bài học cho tổ chức tổ chức bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (DIV) từ vai trò của Tập đoàn Bảo hiểm tiền gửi LB Mỹ (FDIC) trong cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ 2007 - 2010

MỤC LỤC MỞ ĐẦU . 5 1. Tính cấp thiết của đề tài 5 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu 5 3. Mục đích nghiên cứu 6 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu . 7 5. Phương pháp nghiên cứu . 7 6. Kết quả nghiên cứu dự kiến 7 7. Kết cấu của đề tài . 8 CHưƠNG I: TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM TIỀN GỬI 9 1.1. Các khái niệm . 9 1.1.1. Bảo hiểm(BH) . 9 1.1.2. Bảo hiểm tiền gửi( BHTG) . 9 1.1.3. Các khái niệm có liên quan khác . 9 1.2. Giới thiệu 2 tổ chức bảo hiểm tiền gửi ở Mỹ và Việt Nam . 14 1.2.1. Tập đoàn Bảo hiểm tiền gửi Liên bang Mỹ - FDIC . 14 1.2.2 Tổ chức Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam – DIV . 17 1.3. Một vài nhận định so sánh hai tổ chức . 21 CHưƠNG II: VAI TRÒ CỦA FDIC TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH MỸ 2007 - 2010 23 2.1. Bối cảnh khủng hoảng tài chính Mỹ 23 2.1.1. Sơ lược khủng hoảng 23 2.1.2. Nguyên nhân khủng hoảng . 25 2.1.3. Ảnh hưởng của khủng hoảng đến hệ thống Ngân hàng và các tổ chức tài chính . 26 2.2. FDIC sát cánh cùng bộ tài chính và cục dự trữ liên bang Mĩ (FED) giải quyết khủng hoảng 29 2.2.1. Quỹ vốn của FDIC bị sụt giảm nặng nề do phải chi trả quá nhiều trong các cuộc đổ vỡ ngân hàng. Tuy nhiên, FDIC vẫn thể hiện sự chuyên nghiệp trong việc tiếp nhận và xử lý ngân hàng đổ vỡ, giải quyết nhanh gọn, giảm thiểu tối đa ảnh hưởng đến hệ thống ngân hàng Mỹ 29 2.2.2. Nâng hạn mức chi trả bảo hiểm tiền gửi, hạn chế việc rút tiền hàng loạt. 34 2.2.3. FDIC đã thực hiện chương . 35 2.2.4. FDIC sát cánh cùng bộ tài chính và cục dự trữ liên bang Mĩ, mua lại tài sản xấu để cứu vãn hệ thống tài chính: . 40 CHưƠNG III: BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO TỔ CHỨC BẢO HIỂM TIỀN GỬI VIỆT NAM - DIV . 41 3.1. Ảnh hưởng của khủng hoảng đến nền kinh tế Việt Nam 41 3.1.1. Đối với nền kinh tế Việt Nam nói chung 41 3.1.2. Đối với hệ thống Ngân hàng và các tổ chức tài chính . 42 3.2. Thực trạng hoạt động của DIV : . 43 3.2.1. Về những thành quả đã đạt được . 43 3.2.2. Những tồn tại và hạn chế: 46 3.3. Bài học rút ra cho DIV từ vai trò của FDIC trong việc giải quyết khủng hoảng tài chính Mĩ 2007-2010: 48 3.3.1. Tăng cường năng lực giám sát để ngăn ngừa và cảnh báo rủi ro đối với hoạt động ngân hàng 49 3.3.2. Bổ sung vốn hoạt động để tăng năng lực tài chính của DIV cho phù hợp với thông lệ quốc tế và để dự phòng khi có rủi ro xảy ra 52 3.3.3. Nâng cao nghiệp vụ tiếp nhận, xử lý đổ vỡ để tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, bình ổn thị trường tài chính . 55 3.3.4. Bài học về cải cách hệ thống phí BHTG 58 3.3.5. Bài học về hạn mức chi trả BHTG . 60 3.3.6. Bài học về nghiệp vụ hỗ trợ các tổ chức tham gia BHTG . 62 KẾT LUẬN . 64 TÀI LIỆU THAM KHẢO . 65 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Cuối năm 2007 kéo dài đến tận 2010, cuộc khủng hoảng tài chính bắt nguồn từ Mỹ đã lan ra toàn thế giới với sự sụp đổ hoặc sáp nhập liên tiếp của các tổ chức tài chính lớn như Lehman Brothers, Merrill Lynch, AIG, Countrywide Financial, Freddie Mac, Fannie Mae. Chính phủ Mỹ cùng Tập đoàn Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) Liên bang Mỹ (FDIC) đã đưa ra nhiều giải pháp nhằm ngăn ngừa việc rút tiền hàng loạt của người dân từ các tổ chức tín dụng và cải tổ hệ thống Ngân hàng. Chính sách BHTG là một trong những nhân tố thiết yếu trong việc ngăn ngừa khủng hoảng và bình ổn hệ thống tài chính tiền tệ của một đất nước. Trong khi đó, chính sách và hoạt động BHTG ở Việt Nam còn rất nhiều hạn chế, hơn nữa hệ thống tài chính tiền tệ của nước ta sẽ còn gặp rất nhiều khó khăn và thử thách khi chúng ta hội nhập sâu với thế giới. Đó là những lý do vấn đề “Bài học cho tổ chức Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (DIV) từ vai trò của Tập đoàn Bảo hiểm tiền gửi Liên bang Mỹ (FDIC) trong cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ 2007-2010” được chọn làm đề tài nghiên cứu khoa học này. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu BHTG là một nhân tố đóng vai trò vô cùng quan trọng trong tháo gỡ khó khăn của khủng hoảng và củng cố niềm tin của người gửi tiền. Ở Việt Nam đã có Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (DIV) tuy nhiên cơ cấu cũng như hoạt động của DIV và luật pháp điều chỉnh đi kèm còn nhiều hạn chế. Vì vậy, cần có nhiều đề tài nghiên cứu hơn nữa về BHTG Việt Nam, nhất là sau cuộc khủng hoảng vừa qua. Tính cho đến thời điểm hiện nay, trên thế giới và đặc biệt là ở Việt Nam chưa có nhiều nghiên cứu về BHTG. Tại Việt Nam đã có một số công trình nghiên cứu sau đây:

pdf67 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3261 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài học cho tổ chức tổ chức bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (DIV) từ vai trò của Tập đoàn Bảo hiểm tiền gửi LB Mỹ (FDIC) trong cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ 2007 - 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oản bảo đảm FDIC cung cấp là những khoản lớn và có sự hỗ trợ bảo đảm hoàn toàn của Chính phủ Mỹ, Luật tạm thời quy định phí tham dự để bù đắp chi phí. Dưới đây là danh sách một số ngân hàng trong tham gia chương trình nói trên. STT Tên ngân hàng Thanh phố 1 First Bank of Boaz BOAZ 2 First Progressive Bank BREWTON 3 Cullman Savings Bank CULLMAN 4 First Federal Savings and Loan Association of Cullman CULLMAN 5 BankSouth DOTHAN 6 Horizon Bank FYFFE 7 The Citizens Bank GENEVA 8 Liberty Bank GERALDINE 9 Peoples Bank of Greensboro GREENSBORO 10 The Headland National Bank HEADLAND 11 Security Federal Savings Bank JASPER 12 Metro Bank PELL CITY 13 The Peoples Bank of Red Level RED LEVEL 14 The Citizens Bank of Valley Head VALLEY HEAD 15 The Farmers & Merchants Bank WATERLOO 16 Bank of Bearden BEARDEN 17 Community State Bank BRADLEY 18 The First National Bank of Izard County CALICO ROCK 19 River Town Bank DARDANELLE 20 Decatur State Bank DECATUR 38 21 Bank of Delight DELIGHT 22 Bank of Gravett GRAVETTE 23 Farmers Bank GREENWOOD 24 The Bank of Rison RISON 25 Logan County Bank SCRANTON 26 Smackover State Bank SMACKOVER 27 Bodcaw Bank STAMPS 28 Bank of Star City STAR CITY 29 Nordstrom fsb SCOTTSDALE 30 First Commercial Bank (USA) ALHAMBRA Nguồn: Chương trình bảo lãnh tài khoản giao dịch này vừa được Hội đồng quản trị Tổng công ty bảo hiểm tiền gửi Mỹ phê chuẩn một quyết định tạm thời để kéo dài thêm thời gian cho tới 31/12/2010 thay cho quyết định cũ chỉ đến 30/6/2010. Quyết định này sẽ BH toàn bộ tài khoản giao dịch của khách hàng tại các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi22. Chủ tịch FDIC, bà Sheila Bair cho biết: Do ảnh hưởng kéo dài của cuộc khủng hoảng tài chính đã làm một loạt các ngân hàng bị phá sản hoặc đặt trong tình trạng khẩn cấp. Việc kéo dài chương trình TAG sẽ giúp cho khách hàng cảm thấy yên tâm và không có hiện tượng rút tiền hàng loạt khi biết tài khoản của mình vẫn được BH, tránh được “hiệu ứng domino” phá sản của các ngân hàng. Đồng thời, cung cấp một nguồn vốn ổn định cho các ngân hàng tham gia, giúp họ duy trì hoạt động của mình với chi phí thấp, tiền gửi lớn qua đó bảo toàn được lượng tiền gửi từ các tài khoản giao dịch, từng bước tái tạo lại thu nhập và nguồn vốn hoạt động của đơn vị hay chính là bảo vệ quỹ của BHTG. 22 FDIC Board of Directors Approves Extension of Transaction Account Guarantee Program, FDIC Press Releases PR - 75/2010, July 13, 2010 39 Đến hết năm 2009, có gần 6400 tổ chức tham gia BHTG, chiếm khoảng 80% trong tổng số của ngành công nghiệp kinh doanh tiền với số tài sản ước tính khoảng 266 tỷ USD thì vẫn tiếp tục tham gia chương trình TAG và được hưởng lợi từ việc đảm bảo của FDIC với số phí thu theo mức độ rủi ro của các tổ chức tham gia BHTG và được tiếp tục giữ nguyên trong quyết định này. Hội đồng quản trị cũng đang cân nhắc việc giảm mức phí xuống còn 0,25% dựa trên báo cáo số dư trung bình hàng ngày của các tài khoản được BH để giảm áp lực đối với các ngân hàng. Chủ tịch FDIC cũng cho biết thêm: Quyết định này sẽ tiếp tục giúp các tổ chức tham gia BHTG duy trì được tính thanh khoản tốt để cho vay hỗ trợ nhằm phục hồi nền kinh tế đất nước. Bà cũng hy vọng Quốc hội sẽ quan tâm và sớm thông qua hạn mức bảo hiểm vì điều này là rất quan trọng để giúp cho BHTG Liên bang tiếp tục đứng vững và ổn định tài chính Quốc gia. - : trả gốc v 23 m: 23 - 40 2.2.4. FDIC sát cánh cùng bộ tài chính và cục dự trữ liên bang Mĩ, mua lại tài sản xấu để cứu vãn hệ thống tài chính: Các ngân hàng Mỹ hiện vẫn nắm giữ nhiều tài sản liên quan tới thế chấp mà không thể định giá hoặc bán. Việc có quá nhiều cái gọi là "tài sản xấu" đã hạn chế khả năng cho vay, khiến hệ thống tài chính Mỹ bị đóng băng và đẩy nền kinh tế nước này chìm sâu hơn vào suy thoái. Chương trình Đầu tư Nhà nước-tư nhân (PPIP), được thiết kế để mua toàn bộ các "tài sản xấu" làm ảnh hưởng đến hệ thống ngân hàng nước này. Điểm quan trọng trong PPIP là Bộ Tài chính, FED và FDIC sẽ cùng tham gia rót vốn hoặc bảo đảm, xác định giá trị và đấu giá số tài sản xấu. Để khuyến khích các nhà đầu tư tư nhân tham gia chương trình, Chính phủ sẽ cung cấp cho họ các đảm bảo và các khoản cho vay lãi suất thấp thông qua FDIC24. PPIP gồm hai phần, phần một gọi là Kế hoạch Giải tỏa các Khoản nợ Tồn đọng (Legacy Loans Program - LLP), phần hai là Kế hoạch Giải tỏa các Chứng khoán Tồn đọng (Legacy Securities Program - LSP). FDIC được giao quản lí Chương trình thứ nhất, LLP với qui trình như sau: FDIC yêu cầu các ngân hàng chào hàng các khoản cho vay tồn đọng (legacy loans) muốn thanh lý và đứng ra tổ chức đấu thầu những khoản vay này. FDIC sẽ kêu gọi các nhà đầu tư tư nhân đấu thầu và người chào giá cao nhất sẽ cùng FDIC đứng ra lập một quĩ đầu tư liên doanh để mua số tài sản thắng thầu đó. Nhà đầu tư tư nhân và TARP sẽ bỏ mỗi bên 7.15% giá trị của số tài sản này vào quĩ, còn lại 85.7% sẽ đi vay từ các nguồn bên ngoài và FDIC bảo lãnh cho khoản vay này. Điểm mấu chốt của LLP là việc FDIC bảo lãnh 85.7% tổng số tiền đầu 24 ThS Nguyễn Thị Hồng Ngọc – Chi nhánh BHTGVN Khu vực Hà Nội - 17/12/2009 41 tư của liên doanh. Vì quĩ này có tỷ lệ đòn bẩy tài chính là 6:1 (=85.7:14.3), nên đòn bẩy tài chính của nhà đầu tư tư nhân là 12:1, nghĩa là nếu quĩ lời 1% trên tổng số tài sản thì nhà đầu tư lời 12% trên số tiền mình góp vào quĩ. Ngược lại, trong trường hợp quĩ bị lỗ thì tối đa nhà đầu tư chỉ mất số 7.15% của mình, phần còn lại TARP và FDIC sẽ chịu. Chính cơ chế lời ăn lỗ (quá 7.15%) chính phủ chịu này sẽ khuyến khích các nhà đầu tư tư nhân tham gia vào LLP. Những hoạt động của Cơ quan Bảo hiểm tiền gửi Mỹ (FDIC) trong thời kỳ khủng hoảng cho thấy, FDIC đóng vai trò nhất định trong việc thực hiện các kế hoạch giải cứu thoát khỏi khủng hoảng của Chính phủ Mỹ. CHƢƠNG III: BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO TỔ CHỨC BẢO HIỂM TIỀN GỬI VIỆT NAM - DIV 3.1. Ảnh hưởng của khủng hoảng đến nền kinh tế Việt Nam 3.1.1. Đối với nền kinh tế Việt Nam nói chung Khủng hoảng tài chính toàn cầu sẽ không có nhiều tác động trực tiếp đến hệ thống tài chính Việt Nam bởi hệ thống tài chính Việt Nam dường như chưa hội nhập sâu rộng với hệ thống tài chính toàn cầu. Nước ta chỉ mới mở cửa tài khoản vốn vào mà hầu như chưa mở cửa dòng ra. Tuy nhiên trên từng lĩnh vực, khủng hoảng tài chính vẫn có những tác động nhất định như sau: 42 - Xuất nhập khẩu: Đây là lĩnh vực chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ cuộc suy thoái của Mỹ vì hiện nay Mỹ chiếm hơn 20% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên những ngành như may mặc, giày dép và hàng thủy sản là chịu thiệt hại nhiều nhất khi phải cạnh tranh với những doanh nghiệp Mỹ và người tiêu dùng Mỹ thắt chặt chi tiêu. - Dòng vốn đầu tư: Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam vẫn cao qua các năm 2007-2009 do nó mang tính dài hạn, các nhà đầu tư chủ yếu là Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan. Tuy nhiên, dòng vốn đầu tư gián tiếp (FII) có bị ảnh hưởng nhưng không nhiều. - Bất động sản: FDI vào lĩnh vực khu cao ốc văn phòng, resort cao cấp bị suy giảm, nhưng không phải là điều đáng lo ngại. - Đối với ngành du lịch: Khách du lịch vào Việt Nam không chỉ bao gồm khách cao cấp mà rất đa dạng nên ngành du lịch cũng không bị ảnh hưởng nhiều. 3.1.2. Đối với hệ thống Ngân hàng và các tổ chức tài chính Đối với hệ thống Ngân hàng và các tổ chức tài chính nói riêng bị ảnh hưởng không đáng kể vì : - Hầu hết các ngân hàng Việt Nam là ngân hàng thương mại, độ phân tán rủi ro cao và cũng không mua chứng khoán MBS, CDO của Mỹ, hơn nữa còn chịu sự kiểm soát chặt chẽ của Chính phủ Việt Nam. - Thị trường chứng khoán cũng bị ảnh hưởng nhất định vì tâm lý của nhà đầu tư Việt Nam bị ảnh hưởng, một phần do nhà đầu tư ngoại rút vốn về nước. Nhưng thực sự thị trường chứng khoán phản ánh yếu tố nội tại của nền kinh tế nên mặc dù hiện nay chỉ số chứng khoán duy trì ở mức thấp so với trước khi khủng hoảng nhưng không đáng quan ngại. Thực sự thì hệ thống tiền tệ và thị trường vốn, thị trường chứng khoán ở Việt Nam bị tổn thương, bất ổn chủ yếu là do các yếu tố trong nội tại như 43 thiếu tính công khai, thiếu minh bạch, tồn tại giao dịch nội gián...chứ không liên quan nhiều đến cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ. 3.2. Thực trạng hoạt động của DIV : 3.2.1. Về những thành quả đã đạt được Qua hơn chín năm hoạt động, DIV đã có những đóng góp tích cực đến hệ thống tài chính ngân hàng quốc gia: Bên cạnh việc triển khai có hiệu quả DIV đã thực hiện công khai hóa chính sách BHTG theo quy định của pháp luật, qua đó góp phần củng cố niềm tin của người gửi tiền đối với tổ chức tham gia BHTG, thúc đẩy việc huy động tiền gửi cho đầu tư phát triển, tăng cường uy tín của các tổ chức tham gia BHTG. Tại khắp các quầy giao dịch của các tổ chức tín dụng đều niêm yết Giấy chứng nhận BHTG hay thông điệp “ tiền gửi được bảo hiểm”. Điều đó chứng tỏ một điều là chính sách BHTG đã thực sự đi vào cuộc sống và sát cánh cùng các tổ chức tín dụng. Hơn nữa, thông qua việc kiểm soát rủi ro đối với các tổ chức tham gia BHTG bằng các hoạt động giám sát từ xa và kiểm tra tại chỗ, DIV góp phần thúc đẩy quá trình củng cố, chấn chỉnh và nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức tham gia BHTG. Việc kiểm soát rủi ro được DIV thực hiện chủ yếu trên cơ sở tiếp nhận và xử lý các thông tin được cung cấp, trao đổi từ các nguồn khác nhau. Thông tin có thể được cung cấp trực tiếp cho DIV từ người gửi tiền hay từ tổ chức tham gia BHTG dưới dạng văn bản, báo cáo hay các file dữ liệu...theo quy định của Nhà nước về BHTG. Sau 5 tháng kể từ khi Quy định về thông tin báo cáo áp dụng cho các tổ chức tham gia BHTG (QĐ 191 – tháng 8/2006) của tổ chức BHTG Việt Nam có hiệu lực, DIV đã hoàn thành xây dựng hệ thống truyền nhận điện tử được thiết kế trên cơ sở website, để thực hiện việc truyền tin báo cáo điện tử và hướng dẫn thực hiện các quy định về thông tin. Các ngân hàng Việt Nam đã nhận thức 44 rõ được vai trò và trách nhiệm của mình trong môi trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay, thể hiện rõ tinh thần sẵn sàng trong việc áp dụng các quy định chung của thế giới nên đã tích cực triển khai và rất có ý thức cung cấp thông tin cho DIV. Điều này tạo cơ sở tốt cho DIV thực hiện tốt nhiệm vụ giám sát từ xa, cảnh báo kịp thời để tránh sự đổ vỡ cho các tổ chức tham gia BHTG. Hơn nữa, DIV cũng gửi những thông tin nổi bật và các số liệu chung về hệ thống ngân hàng mỗi quý tới các ngân hàng qua mục “thông tin khách hàng” với mục đích cung cấp thêm thông tin tham khảo cho những ngân hàng quan tâm tới công tác đánh giá và phân tích, góp phần làm tăng tính minh bạch và công khai cho hoạt động kiểm tra giám sát của DIV. Ngoài ra, DIV cũng có thể nắm được thông tin gián tiếp nhờ việc trao đổi thông tin với các cơ quan quản lý Nhà nước chuyên ngành cũng như các cơ quan có liên quan đến hoạt động BHTG. Theo quy định tại Nghị định của Chính phủ về BHTG25 26, việc trao đổi, chia sẻ thông tin giữa Thanh tra Ngân hàng Nhà nước-Ban kiểm soát đặc biệt của Ngân hàng Nhà nước tại tổ chức tham gia BHTG với DIV được thực hiện bằng văn bản theo định kì và đột xuất (nếu có), thông qua hình thức khai thác thông tin cần thiết cho DIV đưới dạng truyền qua mạng tin học của Cục Công nghệ tin học Nhà nước- Ngân hàng Nhà nước. Ngoài ra, DIV còn tiến hành kiểm tra đối với những tổ chức tham gia BHTG về việc chấp hành các quy định về an toàn hoạt động ngân hàng như: các tỷ lệ đảm bảo an toàn, các giới hạn đảm bảo an toàn, dự phòng rủi ro...Thông qua việc giám sát rủi ro của các tổ chức tham 25 Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1999), Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 01/09/1999 của Chính phủ về bảo hiểm tiền gửi. 26 Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ( 2005), Nghị định số 109/2005/NĐ-CP ngày 24/5/2005 của Chính phủ về việc sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 89/NĐ-CP ngày 01/09/1999 của Chính phủ về BHTG. 45 gia BHTG, DIV từng bước tiến tới thực hiện phân loại, xếp loại, cho điểm để đánh giá mức độ rủi ro trong hoạt động của từng tổ chức nhằm thực hiện lộ trình áp dụng loại phí BH điều chỉnh theo mức độ rủi ro. DIV cũng đã thực hiện nghiệp vụ hỗ trợ tài chính đối với một số tổ chức tham gia BHTG có khó khăn tạm thời về tài chính, tránh nguy cơ đổ vỡ gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng, sâu rộng đến sự an toàn của hệ thống tài chính - ngân hàng và sự ổn định chính trị, kinh tế- xã hội. Nghị định 109/NĐ-CP ngày 24/8/2005 ra đời là khung pháp lý cho hoạt động hỗ trợ tài chính của DIV trong trường hợp các tổ chức tham gia BHTG có khó khăn về chi trả. Với chức năng này, DIV đã thực sự trợ giúp các tổ chức tín dụng vượt qua khó khăn để phát triển. Sau sự cố xảy ra đối với một số ngân hàng TMCP vào năm 2005, ngoài việc triển khai nghiệp vụ cho vay hỗ trợ để chi trả tiền gửi được BH cho người gửi tiền, DIV đã triển khai nghiệp vụ bảo lãnh để các tổ chức tham gia BHTG có thể vay của các tổ chức tài chính khác. Biện pháp xử lý đổ vỡ Ngân hàng hiện nay trong chính sách BHTG Việt Nam được áp dụng nhiều nhất là thực hiện chi trả tiền BH cho các khách hàng của tổ chức bị đổ vỡ. Một tổ chức tham gia BHTG bị coi là đổ vỡ khi tổ chức đó mất khả năng thanh toán nợ đến hạn, bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền có văn bản chấm dứt hoạt động, bị giải thể bắt buộc hoặc bị phá sản, phải chi trả tiền BH. Sau khi đã chi trả BH cho người gửi tiền tại tổ chức tham gia BHTG bị phá sản, DIV trở thành chủ nợ đối với tổ chức đó và có quyền tham gia quản lý, thanh lý tài sản của tổ chức đó. Tiền thu hồi từ thanh lý tài sản của tổ chức tham gia BHTG bị phá sản được DIV chuyển vào quỹ dự phòng nghiệp vụ BH, làm tăng thêm nguồn vốn cho quỹ. Hinh thức xử lý đổ vỡ ngân hàng bị phá sản dựa vào trình tự xử lý của Luật Phá sản. 46 Tóm lại là DIV đã thực sự góp phần quan trọng vào công cuộc đổi mới đất nước, tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, duy trì sự phát triển an toàn lành mạnh của hệ thống các tổ chức tham gia BHTG, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, là nhân tố quan trọng trong việc phát huy nguồn vốn nội lực để phát triển kinh tế, giữ vững ổn định, an ninh kinh tế, chính trị và trật tự an toàn xã hội. 3.2.2. Những tồn tại và hạn chế: Tuy nhiên, hoạt động BHTG ở Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế và bất cập, cụ thể như: Thứ nhất, văn bản pháp lý điều chỉnh lĩnh vực hoạt động BHTG mới chỉ ở mức Nghị định, trong khi hầu hết các lĩnh vực về hoạt động tài chính – ngân hàng đều đã có luật điều chỉnh27. Điều này làm hạn chế địa vị pháp lý của DIV, chưa tương xứng với vai trò, chức năng trong việc phải điều chỉnh một lĩnh vực hoạt động rộng khắp, mang tính nhạy cảm cao, liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của hàng triệu lượt người gửi tiền và hàng nghìn tổ chức tham gia BHTG, đặc biệt khi có sự kiện BH xảy ra sẽ nảy sinh xung đột về quyền lợi, mà vấn đề này lại có liên quan đến sự điều chỉnh của hầu hết các bộ luật, hiến pháp. Trong khi đó, tại hầu hết các nước trên thế giới có mô hình BHTG hoạt động hiệu quả thì khuôn khổ pháp luật cho chính sách BHTG đều là Luật. Có thể dẫn chiếu một số Luật như: “Luật BHTG” của Mỹ, “Luật BHTG Ngân hàng” của Canada, “Luật về ngành tín dụng” của Đức, “Luật BHTG” của Nhật, “Luật BHTG” của Đài Loan, “Luật DDOEF No 94-6” của Pháp28. Như vậy, Luật BHTG là khuôn khổ pháp luật, là nền tảng pháp lý để tạo dựng vị thế cho chính sách BHTG, cũng như cho sự phát 27 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1997), Luật các tổ chức tín dụng. 28 Philippe A.Goutin (2001), Hội thảo BHTG và kiểm soát Ngân hàng. 47 triển ổn định của hệ thống BHTG, góp phần thực thi hiệu quả các chính sách của quốc gia. Thứ hai, năng lực tài chính của tổ chức BHTG còn thấp so với thông lệ quốc tế. Tổng lượng vốn đầu tư của DIV tính đến 30/11/2009 là 4879 tỷ đồng trong đó phần chênh lệch 3879 tỷ đồng là do tích lũy trong 10 năm từ tiền lãi đầu tư vốn tạm thời nhàn rỗi và tiền thu phí BHTG 29 - DIV DIV Thêm vào đó, việc cấp vốn cho tổ chức BHTG theo tỷ lệ bao nhiêu, phải duy trì tỷ lệ như thế nào và vốn cấp là bao nhiêu thì phù hợp cũng chưa được xem xét đầy đủ. Thứ ba, hiện nay Việt Nam vẫn đang áp dụng cách tính phí BH đồng hạng. Cách tính phí này tương đối phù hợp cho giai đoạn đầu mới thành lập. Tuy nhiên, hiện nay bắt đầu nảy sinh sự bất công cho phía các tổ chức tham gia BHTG hoạt động tốt, rủi ro thấp, đồng thời lại tạo cơ hội cho những tổ chức tham gia BHTG có mức rủi ro cao lạm dụng để trục lợi. Thứ tư, năng lực tiếp nhận và xử lý các tổ chức bị đổ vỡ của DIV còn rất hạn chế. Mặc dù đã đưa ra một đề án với 7 kịch bản để tiếp nhận và xử lý các tổ chức đổ vỡ dựa trên nguyên tắc thị trường, chi phí thấp nhất, thời gian nhanh nhất, thu hồi được tài sản cao nhất, có hiệu quả và chia sẻ được rủi 29 Nguyễn Thị Thuận (2009), “Nâng cao năng lực tài chính của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đáp ứng yêu cầu của giai đoạn phát triển mới”, Thông tin Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, (13), 12/2009, tr.34. 48 ro 30 nhưng thực tiễn cho thấy, khi có một tổ chức tham gia BHTG gặp khó khăn thì vai trò của DIV mới chỉ dừng lại ở việc chi trả tiền BH cho người gửi tiền và tham gia vào quá trình thanh lý tài sản của tổ chức bị đổ vỡ. Tính đến nay, DIV đã thực hiện chi trả tiền gửi được bảo hiểm cho 1519 người gửi tiền với tổng số tiền là 18.700 triệu đồng tại 37 Quỹ tín dụng trên phạm vi toàn quốc31. Thứ năm, mặc dù DIV đang tích cực đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền nhưng nhận thức của công chúng về BHTG và vai trò của tổ chức BHTG đối với người gửi tiền và hệ thống tài chính còn hạn chế. Đây là nguy cơ tiềm ẩn rủi ro do sự cố rút tiền hàng loạt khi có những thông tin không chính xác gây hoảng loạn ngân hàng làm mất an toàn hệ thống. Bên cạnh đó, việc công khai, minh bạch về thông tin tài chính của các tổ chức tham gia BHTG còn ít được coi trọng, hoặc đã công khai thì số liệu cũng đã được chỉnh sửa, làm cho các thông tin cung cấp ra thị trường bị sai lệch. Đối với một số chức năng, nhiệm vụ như chức năng giám sát, kiểm tra tuy được giao nhưng lại không quy định chế tài xử lý nên hiệu quả không cao. 3.3. Bài học rút ra cho DIV từ vai trò của FDIC trong việc giải quyết khủng hoảng tài chính Mĩ 2007-2010: Cuộc khủng hoảng tài chính diễn ra tại nước Mỹ trong thời gian vừa qua được xem không chỉ là cuộc khủng hoảng lớn đối với nền kinh tế lớn nhất thế giới mà mức độ thiệt hại của nó còn có nguy cơ làm cho nền kinh tế toàn cầu suy thoái, hoạt động của nhiều ngân hàng trên thế giới có dấu hiệu suy giảm, niềm tin của người gửi tiền vào ngân hàng bị suy yếu. Mặc dù nền kinh tế cũng như hệ thống tài chính – tiền tệ của Việt Nam không chịu ảnh 30 Nam/65105541/91/ 31 49 hưởng quá nặng nề từ cuộc khủng hoảng tài chính này nhưng với việc chính thức trở thành thành viên của WTO (07/11/2007) thì tác động của Hội nhập kinh tế quốc tế và xu hướng tự do hóa Tài chính – Ngân hàng sẽ khiến những bất ổn tiềm ẩn trên thị trường tài chính thế giới có thể tác động làm gia tăng rủi ro đối với hoạt động tài chính ở Việt Nam. Chính vì thế, một yêu cầu đặt ra đối với nước ta hiện nay là phải theo sát và nắm bắt cách thức tái cấu trúc hệ thống tài chính cũng như biện pháp giải quyết khủng hoảng của các quốc gia khác để rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu. Đặc biệt, như đã phân tích ở trên, trong giai đoạn khủng hoảng, BHTG đã chứng tỏ là một công cụ phát huy vai trò hiệu quả trong việc tạo lập niềm tin của dân chúng vào hệ thống ngân hàng; trong đó phải kể đến Tập đoàn bảo hiểm tiền gửi Liên bang Mỹ (FDIC). Từ vai trò của FDIC trong cuộc khủng hoảng tài chính Mĩ 2007-2010, chúng ta có thể rút ra một số bài học cho Tổ chức BHTG của Việt Nam (DIV). 3.3.1. Tăng cường năng lực giám sát để ngăn ngừa và cảnh báo rủi ro đối với hoạt động ngân hàng Bài học được rút ra từ nguyên nhân của khủng hoảng tài chính 2007- 2010. Ta có thể thấy trong cuộc khủng hoảng vừa rồi, việc các ngân hàng sụp đổ hàng loạt đã khiến cho hệ thống tài chính Mỹ điêu đứng. Và trong các nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng, nguyên nhân chủ yếu là do các tổ chức tài chính tín dụng này đã quá chủ quan và dễ dãi trong việc cho vay tiền mua bất động sản với những hợp đồng cho vay “dưới chuẩn”, cũng như là đầu tư vào các loại chứng khoán bị “nhiễm độc”, nói tóm lại là những khoản đầu tư không an toàn. Đến đây ta càng nhận rõ vai trò của việc giám sát rủi ro trong hoạt động cũng như việc tuân thủ các quy định của pháp luật của các ngân hàng. Ở Mĩ, FDIC dành rất nhiều quan tâm đến việc giám sát các ngân hàng. Nguồn nhân lực thực hiện công tác giám sát hoạt động ngân 50 hàng ở Mỹ được đầu tư đáng kể so với nhiều quốc gia khác. Ngay từ khi mới thành lập tổ chức này đã có hơn 4.000 ủy viên thực hiện công tác kiểm tra. Và cho tới năm 2008, con số này đã lên tới khoảng 8.000 người32. Nội dung kiểm tra giám sát gồm: Thứ nhất, kiểm tra việc đảm bảo là thành viên tham gia BHTG và bổ sung vốn nhằm đảm bảo quy định về vốn trong hoạt động ngân hàng. Thứ hai, kiểm tra khả năng đảm bảo hoạt động lành mạnh và an toàn của ngân hàng với 4 nội dung: xác định chất lượng tài sản hiện có; phát hiện các hoạt động tài chính phát sinh có thể dẫn đến khó khăn tài chính; thẩm định điều hành ngân hàng; phát hiện các hoạt động không bình thường và có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Như vậy, để xây dựng được một mô hình BHTG giảm thiểu rủi ro có hiệu quả thì tổ chức BHTG phải có thẩm quyền can thiệp vào mọi thời điểm trong quá trình hoạt động của tổ chức tham gia BHTG, từ lúc ra đời, phát triển hay suy thoái nhằm kiểm soát và ngăn chặn rủi ro kịp thời. Trong suốt hơn chín năm hoạt động, BHTG Việt Nam không chỉ có vai trò chi trả cho các tổ chức tham gia BHTG bị đổ vỡ mà còn phải giám sát thường xuyên, liên tục các tổ chức này. Giám sát liên tục bao gồm việc giám sát từ xa và kiểm tra tại chỗ. Cơ quan giám sát không có quy định hoặc không có đủ nguồn lực để kiểm tra tại chỗ định kì thì có thể thực hiện giám sát từ xa đối với các tổ chức tham gia BHTG, cách thức như đã được nhóm nghiên cứu phân tích trong phần thực trạng hoạt động. Vấn đề của DIV hiện nay là chưa xây dựng được một mô hình hoạt động theo nguyên tắc giảm thiểu rủi ro hiệu quả cũng như chưa được phép can thiệp vào hoạt động của tổ chức tham gia BHTG, đồng thời, việc tiếp cận các thông tin về các tổ chức này còn nhiều hạn chế. Điều này đã gây trở 32 www.saga.vn 51 ngại cho việc cảnh báo rủi ro sớm ngay từ bên trong để ngăn chặn những đổ vỡ đáng tiếc có thể xảy ra. Mục tiêu của chính sách BHTG ở Việt Nam là xây dựng hệ thống giám sát đủ mạnh theo thông lệ quốc tế cả về khung pháp lý và cơ sở vật chất kĩ thuật cho hệ thống nhằm quản lý các rủi ro để ngăn chặn, phòng ngừa và giảm thiểu tổn thất xảy ra với hệ thống BHTG. Để làm được điều này, trước hết nước ta cần nhanh chóng hoàn thiện khung pháp lý về hoạt động BHTG tại Việt Nam, trong đó cần xây dựng Luật về BHTG làm cơ sở cho DIV phát huy tốt nhất vai trò của mình trong việc bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền và đảm bảo an toàn hệ thống tài chính ngân hàng. Các văn bản pháp luật để ban hành chính sách BHTG có "khung, hình" càng cao thì địa vị pháp lý của chính sách càng cao, từ đó, việc giám sát sẽ chặt chẽ và có hiệu quả hơn. Hiện nay, ở nước ta chưa có Luật BHTG mà các văn bản quy định quyền hạn và hoạt động của DIV chỉ dừng lại ở Nghị định và các văn bản dưới luật33; các văn bản dưới luật lại chưa thống nhất, đồng bộ nhau nên đã làm giảm năng lực hoạt động và đóng góp trong việc ổn định hệ thống tài chính quốc gia của hoạt động BHTG. Do đó, cần xây dựng Luật BHTG kế thừa những quy định tại các văn bản trước đây, học hỏi kinh nghiệm quốc tế nhưng cũng cần vận dụng phù hợp với tình hình thực tế của Việt Nam và cần có sự tương thích với các Bộ Luật khác trong nền kinh tế mà trước hết là Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật các TCTD và Luật Giám sát an toàn hoạt động ngân hàng... Luật BHTG cần quy định rõ mối quan hệ và cách thức giải quyết các mối quan hệ giữa tổ chức BHTG, tổ chức nhận tiền gửi và người gửi tiền, quy định rõ chức năng giám sát của tổ 33 Nghị định số 89/1999/NĐ-CP (01/09/1999) về bảo hiểm tiền gửi; Nghị định số 109/2005/NĐ-CP (24/08/2005) Về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 01 tháng 9 năm 1999 của Chính phủ về bảo hiểm tiền gửi; Thông tư số 03/2006/TT-NHNN (25/04/2006) Về việc hướng dẫn một số nội dung tại Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 01/9/1999 của Chính phủ về bảo hiểm tiền gửi và Nghị định số 109/2005/NĐ-CP ngày 24/8/2005 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 89/1999/NĐ-CP… 52 chức BHTG đối với hoạt động của các tổ chức tài chính – ngân hàng. Việc thực thi các quy định về BHTG là chưa hiệu quả. Các quy định về BHTG đều đã được ban hành nhưng việc thực hiện còn thiếu tính tự giác của các đối tượng liên quan. Trước mắt, trong khi hệ thống thông tin báo cáo và chia sẻ thông tin đầy đủ theo thông lệ quốc tế chưa được xây dựng thì việc thực hiện chia sẻ thông tin, báo cáo theo các quy định hiện hành giữa các cơ quan mạng lưới an toàn tài chính quốc gia là rất cần thiết và nên được quy định trong các văn bản pháp luật phù hợp. Cán bộ giám sát cần tăng tính tự giác trau đồi kiến thức đồng thời cũng cần đào tạo chuyên sâu và có hệ thống. Trong những năm gần đây, thị trường tài chính - ngân hàng đã phát triển nhanh cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Đi kèm với sự phát triển nhanh của các tổ chức tín dụng là rủi ro tăng cao, công tác giám sát vì thế cũng cần được cập nhật liên tục với tính chuyên môn ngày càng cao. Một trong những lí do của sự kém hiệu quả trong công tác giám sát là sự phức tạp của trong hoạt động của các tổ chức tăng lên nhưng năng lực cán bộ lại không tăng tương ứng. Nước ta còn phải học hỏi rất nhiều từ các nước trên thế giới trong việc đào tạo cán bộ giám sát để theo kịp sự phát triển của ngành ngân hàng - tài chính nói riêng và cả nền kinh tế nói chung. 3.3.2. Bổ sung vốn hoạt động để tăng năng lực tài chính của DIV cho phù hợp với thông lệ quốc tế và để dự phòng khi có rủi ro xảy ra Trong khủng hoảng tài chính 2007 – 2010, FDIC đã phải đối mặt với việc hàng loạt các ngân hàng phá sản khiến cho nguồn quỹ BHTG bị sụt giảm nặng nề và thậm chí bị thâm hụt. Tuy nhiên như đã nói ở trên, FDIC đã có những biện pháp kịp thời để khắc phục tình trạng thâm hụt này như là nâng mức phí đóng góp của các tổ chức tham gia BHTG và làm một việc chưa từng làm trước đó là yêu cầu các ngân hàng trả trước phí bảo hiểm trong vòng 3 năm 2010-2012 (khoảng 12 tỷ USD). Câu hỏi đặt ra là Việt 53 Nam có thể áp dụng biện pháp này nếu có khủng hoảng lớn xảy ra ở Việt Nam? Trước hết chúng ta cần phân tích những mặt lợi và hại của biện pháp mà FDIC đã áp dụng. Việc tăng mức phí lên gấp đôi đồng thời thu trước phí trước cho 3 năm thì sẽ nhanh chóng bổ sung được quỹ tiền BHTG đã bị cạn kiệt năng nề trước sự sụp đổ hàng loạt của các ngân hàng nhưng đồng thời cũng đẩy các ngân hàng còn lại vào khó khăn vì phải chi trả sớm hơn và nhiều hơn. Như vậy có thể thấy biện pháp này của FDIC chỉ là một biện pháp mang tính chất đối phó với khủng hoảng thực tế đã xảy ra, là một biện pháp tạm thời giải quyết khó khăn do nguồn quỹ vốn bị thâm hụt. Tuy nhiên, cần phải khẳng định một điều là việc bổ sung vốn hoạt động cho DIV là hết sức cần thiết trong hiện tại cũng như lâu dài. Như đã nêu ở trên thì nguồn vốn hạn hẹp chính là một trong những hạn chế của DIV. Với nguồn vốn như vậy thì DIV mới chỉ dừng lại ở khả năng trợ giúp các Quỹ tín dụng nhỏ, chưa đủ tầm để sẵn sàng tham gia hỗ trợ các tổ chức có quy mô lớn hơn, chưa đủ khả năng đối phó với tình trạng rút tiền hàng loạt và chưa thể cùng Ngân hàng Nhà nước tham gia xử lí khủng hoảng lớn đối với các tổ chức tín dụng. Trong điều kiện kinh tế với nhiều rủi ro tiềm ẩn như ở nước ta hiện nay, năng lực tài chính của DIV như vậy là quá nhỏ bé so với trọng trách được giao. Bởi vậy, một trong những mục tiêu hoàn thiện chính sách BHTG là tăng cường năng lực tài chính cho tổ chức BHTG thông qua cấp vốn và hỗ trợ tài chính. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế, cạnh tranh khốc liệt, vấn đề an toàn trong hoạt động BHTG không thể nói trước được điều gì. Các biện pháp phòng ngừa rủi ro tổn thất luôn phải được chuẩn bị trước để có phương án thích hợp đối phó. Những tình huống đổ vỡ của các tổ chức tín dụng đặc biệt là của các ngân hàng trong hệ thống nếu không được chuẩn bị bằng các biện pháp có thể thì hậu quả có thể nói là khôn lường. 54 34 (so với 1000 tỷ đồng trước đó). Để nâng cao năng lực tài chính cho tổ chức BHTG, Nghị định 109/2005/NĐ-CP ngày 24/8/2005 có quy định tại điều 19: Trong trường hợp vốn hoạt động của DIV không đủ để hỗ trợ các tổ chức tham gia BHTG gặp khó khăn về khả năng chi trả hoặc để chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền tại các tổ chức tham gia BHTG bị buộc giải thể do không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn hoặc bị phá sản theo quy định 16 của Nghị định này, tổ chức BHTG có thể huy động vốn bằng các hình thức sau: Vay hoặc tiếp nhận vốn hỗ trợ đặc biệt từ Chính phủ Phát hành trái phiếu theo quy định của pháp luật về phát hành trái phiếu Vay của tổ chức tín dụng hoặc tổ chức khác có bảo lãnh của Chính phủ Về hỗ trợ tài chính của chính phủ cho tổ chức BHTG, chúng ta cần quy định cụ thể những điểm sau: + Hạn mức tối đa là bao nhiêu trong điều kiện hệ thống BHTG có bất ổn lớn, nền kinh tế có nguy cơ cận kề một cuộc khủng hoảng? + Cơ cấu cấu của hạn mức hỗ trợ như thế nào? (bảo lãnh phát hành trái phiếu BHTG là bao nhiêu? Nguồn vay trong nước và nguồn vay nước ngoài là bao nhiêu?) + Quy định về quản lý nguồn vốn này như thế nào? Mặt khác, bài học rút ra từ khủng hoảng tài chính cũng cho thấy các tổ chức tín dụng phải tìm lấy giải pháp hữu hiệu để tự cứu lấy mình trước khi 34 - 55 nhờ vả đến các quan hệ quốc tế. BHTG Việt Nam cũng nên cảnh giác với các khoản hỗ trợ từ các tổ chức tài chính, tổ chức phi Chính phủ nước ngoài vì đôi khi trong việc nhận tài trợ, hỗ trợ hay vay vốn có một số điều kiện khắt khe hay những cân nhắc chính trị đi kèm. Tóm lại, chúng ta cần phải học hỏi kinh nghiệm từ các quốc gia phát triển trên thế giới trong việc bổ sung nguồn quỹ BHTG và phải áp dụng dựa trên cơ sở phù hợp với hoàn cảnh thực tế của hệ thống tài chính Việt Nam. Từ đó, bài học cho Việt Nam là cần phải xây dựng một năng lực tài chính vững vàng cho DIV để sẵn sàng giải quyết khi có rủi ro xảy ra, chứ không chỉ chờ rủi ro xảy ra rồi mới đưa ra giải pháp. Muốn vậy, DIV cần tính toán một lộ trình tăng vốn cụ thể phù hợp trong từng giai đoạn phát triển, đưa ra tỷ lệ mục tiêu cho quỹ dự phòng nghiệp vụ BHTG và các biện pháp tăng vốn thích hợp để đảm bảo được khả năng tài chính lâu dài, bắt kịp với tốc độ gia tăng vốn của nền kinh tế. Bên cạnh đó, không chỉ dựa vào nguồn vốn do Nhà nước cấp, DIV cần chủ động trong việc bổ sung nguồn vốn của mình như xây dựng được một danh mục đầu tư hiệu quả để thu lãi, đảm bảo việc thu phí BHTG chặt chẽ và kịp thời... Ngoài ra, Nhà nước cần xây dựng Luật Bảo hiểm tiền gửi có quy định cụ thể về việc tạo vốn để xử lý khủng hoảng hệ thống, các hoạt động đi vay của DIV khi cần thiết cũng như bảo lãnh của Chính phủ đối với các món vay. 3.3.3. Nâng cao nghiệp vụ tiếp nhận, xử lý đổ vỡ để tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, bình ổn thị trường tài chính Để đảm bảo cho hệ thống ngân hàng hoạt động ổn định, giải quyết êm thấm các vụ phá sản và rút lui của một số ngân hàng, hạn chế sự tác động của đổ vỡ ngân hàng tới tâm lý của người gửi tiền, FDIC đã thực hiện rất chuyên nghiệp nghiệp vụ tiếp nhận xử lí các ngân hàng đổ vỡ, tái cơ cấu hoạt động của hệ thống bằng cách thành lập một ngân hàng bắc cầu hay tìm 56 một tổ chức tín dụng mạnh có khả năng tiếp nhận các khoản tiền gửi và tài sản của các ngân hàng bị đổ vỡ. Đây là một trong những bài học thiết thực nhất đối với không chỉ Việt Nam mà còn với tất cả các tổ chức BHTG khác trên thế giới. Hiệu quả của nghiệp vụ này đặc biệt phát huy khi có khủng hoảng xảy ra. Trong khi đó, năng lực tiếp nhận và xử lý tổ chức bị đổ vỡ của DIV còn rất hạn chế. Mặc dù đã đưa ra một đề án với bảy kịch bản để tiếp nhận và xử lý các tổ chức đổ vỡ dựa trên nguyên tắc thị trường, chi phí thấp nhất, thời gian nhanh nhất, thu hồi được tài sản cao nhất, có hiệu quả và chia sẻ được rủi ro35 nhưng thực tiễn cho thấy, khi có một tổ chức tham gia BHTG gặp khó khăn thì vai trò của DIV mới chỉ dừng lại ở việc chi trả tiền BH cho người gửi tiền và tham gia vào quá trình thanh lý tài sản của tổ chức bị đổ vỡ. Ngay cả trong nghiệp vụ chi trả, chúng ta cũng có nhiều điểm cần rút kinh nghiệm. Khi xảy ra đổ vỡ, trước hết DIV cần công khai trên phương tiện thông tin đại chúng để người gửi tiền và những người có quyền lợi liên quan được biết. Mọi kiến nghị, chất vấn của khách hàng cũng cần được giải đáp đầy đủ và thỏa đáng để tạo niềm tin cho công chúng. Nên quy định thời gian bắt đầu chi tiền BH sớm nhất kể từ khi tiếp nhận xử lý đổ vỡ ngân hàng để bảo vệ quyền lợi người gửi tiền. Đây là việc làm đảm bảo sự minh bạch, tránh hiện tượng bưng bít thông tin, tránh gây ra nhiều hậu quả không mong đợi khi thông tin bị sai lệch do không chính thức. Bên cạnh đó, cần đơn giản hóa các thủ tục, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho người gửi tiền nhận tiền BH thông qua các hình thức thanh toán với các yêu cầu phù hợp quy định của pháp luật. 35 Nam/65105541/91/ 57 Không chỉ hoàn thiện cách thức thực hiện chi trả cho các tổ chức bị đổ vỡ, DIV cần đa dạng hóa biện pháp xử lý đổ vỡ ngân hàng. Sự đơn điệu trong cách thức xử lý đổ vỡ sẽ làm mất đi tính linh hoạt, mềm dẻo và khả năng sáng tạo của DIV, đồng thời cũng làm mất đi cơ hội giảm bớt những tổn thất không đáng có cho nền kinh tế khi có đổ vỡ xảy ra. Cho đến nay, FDIC là một trong những tổ chức BHTG đa năng trên thế giới. Theo Luật BHTG Hoa Kì, FDIC được phép triển khai cả bốn biện pháp xử lý đổ vỡ ngân hàng sau: + Tiền gửi được BH sẽ được chi trả hết. + Chuyển nhượng các giao dịch bán và giao dịch đảm nhiệm: tổ chức BHTG sẽ giàn xếp việc chuyển tất cả các khoản tiền gửi được BH cùng với toàn bộ hay một số tài sản của tổ chức bị đổ vỡ sang một tổ chức khác hoạt động lành mạnh. Tổ chức tiếp nhận này sẽ đảm nhiệm việc thanh toán cho các khoản tiền gửi được BH. + Hợp nhất với ngân hàng lớn mạnh có sự hỗ trợ tài chính: Tổ chức BHTG sẽ thỏa thuận để một tổ chức có khả năng tài chính lớn mạnh mua lại tổ chức gặp khó khăn trước khi nó bị đóng cửa. Toàn bộ vị thế và tài sản của tổ chức bị đổ vỡ nói chung được chuyển thành chi nhánh của tổ chức nhận sáp nhập. Cùng với việc này, tổ chức BHTG sẽ hỗ trợ về mặt tài chính cho tổ chức nhận sáp nhập. + Thực hiện trợ giúp tài chính cho ngân hàng có nguy cơ đổ vỡ nhằm ngăn chặn sự đóng cửa của ngân hàng này: Nếu một tổ chức chỉ đơn thuần là đang gặp phải vấn đề thanh khoản và không thể giải quyết được thông qua các khoản vay từ Ngân hàng trung ương hay từ các tổ chức khác, tổ chức BHTG sẽ trợ giúp bằng việc cho vay hay gửi tiền ở các tổ chức này. Tuy nhiên, khi một tổ chức tham gia BHTG đang lâm vào tình trạng vỡ nợ thì tổ chức BHTG có thể giúp tăng năng lực tài chính cho nó bằng cách bơm thêm 58 vốn cổ phần hay mua lại nhũng tài sản “xấu” của nó. Trong trường hợp cần thiết, tổ chức BHTG thậm chí còn thay đổi ban quản lý cũ của tổ chức này vì họ phải chịu trách nhiệm về tình trạng vỡ nợ của tổ chức. Đặc thù của hệ thống BHTG Việt Nam là có hai nhóm tổ chức tham gia BHTG với quy mô hoàn toàn khác biệt nhau: các Quỹ tín dụng nhân dân và các tổ chức tín dụng ngân hàng, các tổ chức tín dụng phi ngân hàng. Bởi vậy, ta cần ban hành những cơ chế, chính sách phù hợp trong việc xử lý đổ vỡ đối với mỗi nhóm. Trước mắt, ta chỉ nên áp dụng nhiều hơn một trong số bốn biện pháp xử lý đổ vỡ đã nêu ở trên đối với các Quỹ tín dụng nhân dân để làm thí điểm khi nhân rộng cho cả hệ thống. 3.3.4. Bài học về cải cách hệ thống phí BHTG Mục tiêu của bài học này là vận dụng sáng tạo và chọn lọc phương pháp xác định phí BH và mô hình định phí bảo hiểm của các nước trên thế giới đã thực hiện thành công để áp dụng vào Việt Nam nhằm đảm bảo xây dựng một chính sách phí BH công bằng, hiệu quả và có tính thuyết phục. Hiện nay ở Việt Nam, tất cả các tổ chức tham gia BHTG dù xấu hay tốt đều áp dụng mức phí 0,15% trên tổng số dư tiền gửi được bảo hiểm. Ưu điểm của cách tính này là nó thuận lợi và dễ dàng khi triển khai, tuy nhiên cách tính này đã bộc lộ rất nhiều hạn chế. Thứ nhất, nó không đảm bảo sự công bằng vì những ngân hàng hoạt động hiệu quả vẫn phải đóng phí bằng với các ngân hàng hoạt động có rủi ro cao; thứ hai, do tất cả các tổ chức tham gia BHTG đều chịu một mức phí như nhau, hệ thống tính phí đồng hạng không tạo được động lực thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh giữa các tổ chức tham gia BHTG; thứ ba, nó tạo ra tâm lý ỷ lại trong việc quản lý rủi ro của các tổ chức tham gia BHTG. Cách tính mức phí đồng hạng này đã được FDIC áp dụng khi mới thành lập, theo đó các ngân hàng tham gia BHTG tại FDIC phải nộp một mức phí hàng năm như nhau là 1% số dư tiền gửi thuộc đối 59 tượng BH nhưng chỉ phải chi trả trước một nửa mức phí, phần còn lại là đóng khi FDIC yêu cầu36. Nhưng từ tháng 1/1993 đến nay, FDIC đã áp dụng cách tính tỉ lệ phí BHTG có phân biệt theo mức độ rủi ro của các tổ chức tham gia BHTG. Mức phí hàng năm cho các tổ chức này dao động từ 0.001% đến 0,27% tổng số dư tiền gửi thuộc đối tượng bảo hiểm tại mỗi ngân hàng. Và trong đợt khủng hoảng vừa rồi, FDIC cũng đã nhanh chóng thay đổi tỉ lệ đánh giá các tổ chức tham gia BHTG và một số nội dung của hệ thống phí này. Những thay đổi này đảm bảo các tổ chức tham gia BHTG có rủi ro lớn hơn phải nộp mức phí cao hơn. DIV do đó cần phải cải cách hệ thống tính phí BHTG, chuyển từ cách tính phí đồng hạng sang cách tính phí trên cơ sở mức độ rủi ro. Tức là ta sẽ phân chia các tổ chức tham gia BHTG theo nhóm: +Nhóm thứ nhất bao gồm các NHTM, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, công ty cho thuê tài chính, các công ty tài chính. +Nhóm thứ hai gồm các quỹ tín dụng nhân dân cơ sở. Cách tính phí này có tác dụng như một tín hiệu phát ra để nhắc nhở cho ngân hàng biết mình đang ở vị trí nào. Nếu mức phí thấp có nghĩa là chất lượng hoạt động của ngân hàng tốt, còn nếu mức phí cao có nghĩa là chất lượng hoạt động của ngân hàng có vấn đề. Từ đó, khuyến khích các tổ chức hoạt động tốt để đóng góp mức phí thấp nhất đồng thời có thể khuyến khích các tổ chức đang đóng mức phí cao phấn đấu để chuyển sang mức phí thấp hơn. Quá trình đó được diễn ra liên tục và kết quả là mức độ rủi ro trong hệ thống tài chính ngân hàng được giảm thiểu, sự an toàn lành mạnh được cải thiện. Thêm nữa, theo kinh nghiệm của nhiều nước áp dụng phí 36 phi-va-cac-tinh-han-muc-chi-tra-nhu-the-nao.html 60 BHTG tính theo mức độ rủi ro thì lượng phí BH thu được sẽ cao hơn so với đánh phí đồng hạng. Bên cạnh đó, việc triển khai hệ thống phí này còn giúp DIV nâng cao hiệu quả hoạt động một cách đồng bộ theo mô hình giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng, cho người gửi tiền và cho chính quỹ nghiệp vụ BH. Đồng thời, tăng cường trách nhiệm của DIV trong việc quyết định các tình huống chính sách trong khung pháp luật quy định, chủ động hơn trong hoạt động và nâng cao năng lực tài chính. Từ đó, tạo cơ sở để DIV thực hiện tốt hơn chính sách bảo vệ người gửi tiền của Chính phủ, góp phần đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng. 3.3.5. Bài học về hạn mức chi trả BHTG Việc điều chỉnh kịp thời và hợp lý HMCT tiền gửi là một nhân tố rất quan trọng trong việc ổn định tâm lý của người gửi tiền, đặc biệt là khi xảy ra đổ vỡ của các ngân hàng nhằm tránh tình trạng người dân ồ ạt đến ngân hàng rút tiền do tâm lý lo sợ sẽ bị mất số tiền gửi vào ngân hàng. Hạn mức tiền gửi được nâng cao sẽ khiến người dân yên tâm do tổ chức BHTG cam kết sẽ trả cho những người gửi tiền một khoản tiền cao hơn tương ứng với số tiền họ gửi vào các ngân hàng. Trong cuộc khủng hoảng tài chính vừa qua, có thể thấy việc nâng cao hạn mức chi trả BHTG là một biện pháp được nhiều quốc gia áp dụng. Ở Mỹ, nếu như FDIC không kịp thời nâng hạn mức chi trả cho mỗi khoản tiền gửi của khách hàng từ 100.000 USD lên 250.000 USD thì chắc chắn các ngân hàng ở Mỹ sẽ phải đối mặt với tình trạng người dân đổ xô đi rút tiền và càng lấn sâu hơn vào khó khăn mất khả năng thanh khoản. Tại khu vực châu Âu, trong năm 2008, 25 trên tổng số 27 quốc gia thuộc cộng đồng châu Âu đã điều chỉnh tăng hạn mức chi trả BHTG hoặc chuyển sang chi trả không giới hạn. Tại châu Á, việc điều chỉnh hạn mức cũng được nhiều quốc gia thực hiện, trong đó Ðài Loan và Hồng Kông đã 61 chuyển sang chi trả không giới hạn. Hầu hết các quốc gia trong khu vực Ðông - Nam Á, là thành viên Ủy ban khu vực châu Á thuộc Hiệp hội BHTG quốc tế đã tăng hạn mức chi trả BHTG37. Mặc dù trong thời điểm hiện tại thì Việt Nam không bị ảnh hưởng nhiều từ cuộc khủng hoảng tài chính nhưng chúng ta vẫn nên cân nhắc vấn đề này. Hiện nay, DIV vẫn giữ nguyên hạn mức chi trả BHTG từ năm 2005 cho tất cả các khoản tiền gửi được bảo hiểm của mỗi khách hàng tại một tổ chức tham gia BHTG tối đa là 50 triệu đồng (bao gồm cả gốc và lãi). Nếu khoản tiền gửi lớn hơn mức 50 triệu đồng thì sẽ được nhận tiếp phần vượt trên 50 triệu đồng trong quá trình thanh lý tổ chức tham gia BHTG bị giải thể, phá sản theo quy định của pháp luật. Hạn mức BHTG còn được xác định dựa theo tình hình kinh tế và GDP bình quân đầu người của mỗi quốc gia. Ở Việt Nam, khi mà GDP bình quân đầu người năm sau cao hơn năm trước (GDP đầu người năm 2007 là 834 USD, năm 2008 là 1.034 USD và năm 2009 khoảng 1.100 USD) cộng với tốc độ trượt giá ngày càng nhanh thì có nhiều ý kiến cho rằng hạn mức chi trả 50 triệu đồng không còn phù hợp. Vừa rồi trong gói giải pháp về tài chính, DIV cũng đã đề xuất với chính phủ về việc nâng hạn mức BHTG lên 200 triệu đồng38 dựa trên cơ sở 4 căn cứ là tình hình kinh tế và hệ thống tài chính - ngân hàng đang phải chịu tác động xấu của thị trường tài chính quốc tế; GDP bình quân đầu người; số lượng người gửi tiền; năng lực tài chính của tổ chức bảo hiểm tiền gửi và chính sách của Chính phủ về hoạt động này nhưng đến nay vẫn chưa có quyết định chính thức. 37 38 len-gap-4-lan.htm 62 3.3.6. Bài học về nghiệp vụ hỗ trợ các tổ chức tham gia BHTG Hỗ trợ tài chính là một biện pháp nghiệp vụ quan trọng đối với tổ chức BHTG theo mô hình giảm thiểu rủi ro. Hiện nay, hầu hết các tổ chức BHTG trên thế giới như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc đều có chức năng này vì nó giảm thiểu chi phí, chia sẻ thiệt hại một cách công bằng và quyền lợi của người gửi tiền cũng như tổ chức tham gia BHTG được bảo vệ một cách tốt nhất. Nghiệp vụ hỗ trợ tài chính cho tổ chức vỡ nợ của FDIC quy định trong Luật BHTG Liên bang Hoa Kì đã được nhóm nghiên cứu đề cập trong phần bài học về đa dạng hóa các hình thức xử lý đổ vỡ đối với tổ chức tham gia BHTG ở phần trên. Để làm rõ hơn cho điều này, có thể minh họa bằng tình hình các ngân hàng Mỹ trong cuộc khủng hoảng tài chính vừa qua. Việc có quá nhiều tài sản xấu đã khiến cho các ngân hàng Mỹ gặp khó khăn trầm trọng về thanh khoản. Trước tình hình này thì FDIC đã sát cánh cùng Bộ tài chính Mỹ và Cục dữ trự Liên bang Mỹ (FED) trong chương trình PPIP phối hợp giữa nhà nước và tư nhân để mua lại các tài sản xấu của các ngân hàng như các khoản vay xấu, các chứng khoán đảm bảo bằng tài sản và một số tài sản xấu khác…Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn nhiều nghi ngờ về hiệu quả của biện pháp này trong việc giảm thiểu tài sản xấu trong các ngân hàng Mỹ, bởi thực tế số lượng ngân hàng bị sụp đổ vẫn đang gia tăng và dự đoán là 200 ngân hàng trong năm 2010. Joseph Stiglitz, nhà kinh tế học người Mỹ được Giải Nobel Kinh tế năm 2001 và từng là Phó chủ tịch của Ngân hàng Thế giới, nhận xét chương trình PPIP là một chương trình không hiệu quả, nó không thể đặt giá một mức giá cho các tài sản xấu của các ngân hàng. Kế hoạch này được đưa ra nhằm cứu một số ít những cổ đông và những người nắm giữ trái phiếu nhưng người dân có thể sẽ phải chịu thiệt hại lớn hơn39. 39 63 Như vậy, chúng ta có thể thấy biện pháp hỗ trợ tài chính là một biện pháp sử dụng hết sức thận trọng bởi tính hai mặt của nó. Nếu như áp dụng không thỏa đáng thì nó vừa làm tiêu tốn ngân sách của Nhà nước lại vừa khiến cho các ngân hàng ỷ lại, hiệu quả kinh doanh không cao. Nó chỉ nên được áp dụng khi thật sự cần thiết và phải có sự tính toán thật kĩ lưỡng. Hỗ trợ tài chính của DIV đối với các tổ chức tham gia BHTG chỉ nên áp dụng trong trường hợp thiếu khả năng chi trả khẩn cấp do xảy ra các sự cố bất thường dẫn đến người gửi tiền đến rút tiền ồ ạt nhằm ngăn chặn nguy cơ đổ vỡ ngân hàng. Thực tế ở Việt Nam thời gian qua, việc hỗ trợ tài chính cho các ngân hàng đều do Ngân hàng Nhà nước trực tiếp xử lý. Nghiệp vụ hỗ trợ của DIV bao gồm các hình thức như: cho vay có cầm cố, thế chấp; mua lại các giấy tờ có giá, bảo lãnh để vay tổ chức tín dụng khác. Tổ chức tham gia BHTG trả nợ vay sau khi đã phục hồi khả năng chi trả. Tuy nhiên, đến thời điểm này thì hình thức hỗ trợ như thế không còn được khuyến khích vì một số hạn chế : chi phí lớn; tạo sự bất bình đẳng giữa các ngân hàng; làm tăng rủi ro đạo đức của ngân hàng được hỗ trợ. Do đó, bên cạnh hỗ trợ tài chính, DIV nên áp dụng hỗ trợ ổn định tổ chức, quản lí điều hành để sau khi được tái thiết các ngân hàng có thể trở lại hoạt động bình thường, bền vững cũng như có khả năng trả hết nợ cho DIV. 64 KẾT LUẬN Như chúng ta đã biết cuộc khủng hoảng tài chính kéo theo khủng hoảng kinh tế từ năm 2007 đã ảnh hưởng mạnh mẽ không chỉ đến hệ thống tài chính Mỹ mà còn đến cả nền kinh tế thế giới. Các tổ chức tài chính Mỹ đặc biệt là các Ngân hàng phải cần đến rất nhiều sự trợ giúp của các cơ quan, tổ chức và Chính phủ Mỹ để vượt qua cơn bão táp này. Trong đó vai trò của FDIC là rất quan trọng trong việc giải quyết khủng hoảng bằng các nghiệp vụ tiếp nhận xử lý, mua lại tài sản xấu đảm bảo thanh khoản, kiểm tra giám sát các Ngân hàng, đặc biệt là củng cố niềm tin cho người dân vào hệ thống ngân hàng. Tuy Việt Nam hội nhập chưa sâu với kinh tế thế giới nhưng cuộc khủng hoảng này phần nào có ảnh hưởng đến nền tài chính Việt Nam, đặc biệt là các khoản đầu tư trực tiếp cũng như gián tiếp nước ngoài. Trong tương lai, trong bối cảnh toàn cầu hóa mạnh mẽ, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế là rất lớn, nền kinh tế Việt Nam sẽ nhạy cảm hơn với những biến động của thế giới. Do đó phòng bệnh hơn chữa bệnh, Chính phủ cũng như DIV nên có những chính sách và hướng đi thích hợp để giúp đỡ, hỗ trợ và giám sát hiệu quả hệ thống tài chính. Đặc điểm nền kinh tế Việt Nam và Mỹ là khác nhau, bên cạnh những thành công của FDIC trong việc giải quyết, giảm thiểu tác động của khủng hoảng thì một số hoạt động của FDIC vẫn còn những hạn chế và không thể áp dụng cho Việt Nam. Do vậy lựa chọn cách thức đi cho DIV và xây dựng khung pháp lý như thế nào là một thách thức lớn cho các nhà quản lý Việt Nam để DIV phát huy tốt vai trò của mình trong việc sát cánh cùng Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước giám sát, quản lý và ổn định thị trường tài chính. 65 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Mạnh Dũng, Giải pháp phòng ngừa rủi ro trong hoạt động của Quỹ Tín dụng Nhân dân, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Học viện Ngân hàng, Hà Nội, 2002. 2. Nguyễn Mạnh Dũng, Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của BHTGVN, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp ngành, Ngành Ngân hàng, Hà Nội, 2003. 3. Nguyễn Mạnh Dũng, “Kinh nghiệm tính phí BHTG căn cứ mức độ rủi ro của các Ngân hàng tại Canada”, Thị trường Tài chính Tiền tệ, 4(7) tr157, 2004. 4. TS. Nguyễn Ngọc Định, Lý thuyết bảo hiểm, Trường Đại học Kinh Tế, NXB Tài Chính. 5. TS. Nguyễn Văn Định, Giáo trình bảo hiểm, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, NXB Thống Kê. 6. GS-TSKH Trương Mộc Lâm, Những vấn đề cơ bản về bảo hiểm hàng hóa, NXB Thống Kê. 7. Nguyễn Thị Kim Oanh, BHTG - Nguyên lí, thực tiễn và định hướng, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, 2004. 8. Nguyễn Thị Kim Oanh, Giải pháp phát triển hoạt động BHTG ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Học viện Ngân hàng, Hà Nội, 2004. 9. Gillian G.H. Garcia, Bảo hiểm tiền gửi thực tế và những định chế phù hợp, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Washington D.C, Emerald Group Publishing Limited, 2000. 10. David C. Parker, Bảo hiểm tiền gửi thông lệ quốc tế, CityGrid Publisher, 2004. 11. Tạp chí Bảo hiểm. 66 12. Tạp chí Ngân hàng. 13. Tạp chí Thông tin Bảo hiểm tiền gửi. 14. Các văn bản Luật về lĩnh vực tài chính ngân hàng và Nghị định về BHTG Việt Nam. 15. www.div.gov.vn (Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam). 16. www.saga.vn 17. www.thongtinphapluatdansu.wordpress.com 18. www.vietbao.vn 19. www.webbaohiem.net 20. Andrew Campbell, John Raymond La Brosse, David G. Mayes, Deposit Insurance. 21. 22. Philippe A.Goutin (2001), Hội thảo BHTG và kiểm soát Ngân hàng. 23. Fredic S. Minskin (2001), Tiền tệ, Ngân hàng & Thị trường tài chính, NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội, tái bản lần thứ 3. 24. www.adb.org (Ngân hàng Phát triển Châu Á). 25. www.fdic.gov (Bảo hiểm tiền gửi Mỹ). 26. www.iadi.org (Hiệp hội bảo hiểm tiền gửi quốc tế). 27. www.imf.org (Tổ chức Tiền tệ Quốc tế). 28. www.worldbank.org (Ngân hàng Thế giới). 67

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfBài học cho tổ chức tổ chức bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (DIV) từ vai trò của Tập đoàn Bảo hiểm tiền gửi LB Mỹ (FDIC) trong cuộc khủng hoảng tài chính M.pdf
Luận văn liên quan