Bài tập cá nhân thương mại - Đề số 10 năm 2011
ĐỀ BÀI
Khẳng định sau có đúng với quy định của pháp luật hiện hành hay không? Vì sao?
- Trong mọi trường hợp thương nhân Việt Nam chỉ được làm đại lý mua bán các loại hàng hoá cho thương nhân nước ngoài khi được Bộ Công Thương cấp phép.
- Bên đại diện không được phép làm đại diện cho nhiều thương nhân tại cùng một thời điểm.
1. Trong mọi trường hợp thương nhân Việt Nam chỉ được làm đại lý mua bán các loại hàng hoá cho thương nhân nước ngoài khi được Bộ Công Thương cấp phép.
Khẳng định trên là sai.
Là một loại hình trung gian thương mại, hoạt động đại lí thương mại được qui định cụ thể tại mục 4, chương V của luật thương mại 2005. Theo qui định tại Điều 166 Luật này, đại lí thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên giao đại lí và bên đại lí thỏa thuận việc bên đại lí nhân danh chính mình mua, bán hàng hóa cho bên giao đại lí hoặc cung ứng dịch vụ của bên giao đại lí cho khách hàng để hưởng thù lao.
2. Bên đại diện không được phép làm đại diện cho nhiều thương nhân tại cùng một thời điểm.
Khẳng định trên là sai.
Đại diện cho thương nhân là việc một thương nhân nhận làm ủy nhiệm (gọi là bên đại diện) của thương nhân khác (gọi là bên giao đại diện) để thực hiện các hoạt động thương mại với danh nghĩa, theo sự chỉ dẫn của thương nhân đó và được hưởng thù lao về việc đại diện.
4 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4454 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài tập cá nhân thương mại - Đề số 10 năm 2011, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trong mọi trường hợp thương nhân Việt Nam chỉ được làm đại lý mua bán các loại hàng hoá cho thương nhân nước ngoài khi được Bộ Công Thương cấp phép.
Khẳng định trên là sai.
Là một loại hình trung gian thương mại, hoạt động đại lí thương mại được qui định cụ thể tại mục 4, chương V của luật thương mại 2005. Theo qui định tại Điều 166 Luật này, đại lí thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên giao đại lí và bên đại lí thỏa thuận việc bên đại lí nhân danh chính mình mua, bán hàng hóa cho bên giao đại lí hoặc cung ứng dịch vụ của bên giao đại lí cho khách hàng để hưởng thù lao. Quan hệ đại lí mua bán hàng hóa phát sinh giữa bên giao đại lí và bên đại lí. Nội dung của hoạt động đại lí thương mại là việc bên đại lí nhận hàng hóa để làm đại lí bán hoặc nhận tiền mua hàng để làm đại lí mua hoặc nhận cung ứng dịch vụ cho bên giao đại lí. Để thực hiện hoạt động đại lí, bên giao đại lí được quyền tự do lựa chọn bên thứ ba và nhân danh chính mình khi giao kết và thực hiện hợp đồng cho bên giao đại lí. Khi giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa hoặc hợp đồng cung ứng dịch vụ với người thứ ba, bên đại lí nhân danh chính mình và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng với bên thứ ba ràng buộc bên đại lí với bên thứ ba. Sau đó, bên đại lí trực tiếp thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ với bên thứ ba. Trong đại lí mua bán hàng hóa, bên giao đại lí là chủ sở hữu đối với hàng hóa hoặc tiền giao cho bên đại lí (Điều 170 Luật thương mại). Khi thực hiện hoạt động đại lí, bên đại lí không phải là người mua hàng của bên giao đại lí mà chỉ là người nhận hàng để rồi tiếp tục bán cho bên thứ ba. Chỉ khi hàng hóa được bán, quyền sở hữu mới được chuyển từ bên giao đại lí cho bên thứ ba. Cơ sở pháp lí của quan hệ đại lí thương mại là hợp đồng đại lí được giao kết giữa thương nhân giao đại lí và thương nhân làm đại lí. Hợp đồng phải được giao kết bằng văn bản hoặc hình thức khác có giá trị tương đương. Các hình thức đại lí gồm có: Đại lí bao tiêu; đại lí độc quyền; tổng đại lí mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ và các hình thức đại lí khác mà các bên thỏa thuận.
Chủ thể của hoạt động đại lí thương mại gồm bên đại lí và bên giao đại lí và đều là thương nhân. Điều 167 Luật thương mại qui định: “1. Bên giao đại lí là thương nhân giao hàng hóa cho đại lí bán hoặc giao tiền mua hàng cho đại lí mua hoặc là thương nhân ủy quyền thực hiện dịch vụ cho đại lí cung ứng dịch vụ. 2. Bên đại lí là thương nhân nhận hàng hóa để làm đại lí bán, nhận tiền mua hàng để làm đại lí mua hoặc là bên nhận ủy quyền cung ứng dịch vụ.” Theo qui định tại khoản 1 Nghị định số 12/2006/ND-CP ngày 23 tháng 1 năm 2006 của Chính phủ qui định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế và các hoạt động đại lý mua, bán, gia công và quá cảnh hàng hóa với nước ngoài
“Thương nhân được làm đại lý mua, bán các loại hàng hoá cho thương nhân nước ngoài, trừ hàng hóa thuộc Danh mục cấm xuất khẩu, tạm ngừng xuất khẩu, hàng hóa thuộc Danh mục cấm nhập khẩu, tạm ngừng nhập khẩu. Đối với hàng hoá thuộc Danh mục hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu theo giấy phép, thương nhân chỉ được ký hợp đồng đại lý sau khi được Bộ Thương mại cấp phép.”
Như vậy, bên đại lí và bên giao đại lí đều phải là thương nhân, có thể là thương nhân Việt Nam hoặc thương nhân nước ngoài.
Chỉ trong trường hợp hàng hóa thuộc danh mục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu theo giấy phép thì sau khi được bộ Thương mại (nay là Bộ Công thương) cấp phép, thương nhân mới được kí kết hợp đồng đại lí.
Bên đại diện không được phép làm đại diện cho nhiều thương nhân tại cùng một thời điểm.
Khẳng định trên là sai.
Đại diện cho thương nhân là việc một thương nhân nhận làm ủy nhiệm (gọi là bên đại diện) của thương nhân khác (gọi là bên giao đại diện) để thực hiện các hoạt động thương mại với danh nghĩa, theo sự chỉ dẫn của thương nhân đó và được hưởng thù lao về việc đại diện. Quan hệ đại diện cho thương nhân phát sinh giữa bên đại diện và bên giao đại diện. Trong quan hệ đại diện cho thương nhân thì cả bên đại diện và bên giao đại diện đều phải là thương nhân. Trong quan hệ với bên giao đại diện, bên đại diện sẽ nhân danh chính mình nhưng trong quan hệ với bên thứ ba thì họ sẽ nhân danh bên giao đại diện, chứ không nhân danh chính mình. Khi bên đại diện giao dịch với bên thứ ba, thì về mặt pháp lí, các hành vi do người này thực hiện được xem như chính người ủy quyền (người giao đại diện) thực hiện. Bên giao đại diện phải chịu trách nhiệm về các cam kết do bên đại diện thực hiện trong phạm vi ủy quyền. Nội dung của hoạt động đại diện cho thương nhân do các bên tham gia quan hệ thỏa thuận. Quan hệ đại diện cho thương nhân phát sinh trên cơ sở hợp đồng đại diện. Hợp đồng đại diện thực chất chính là một dạng đặc biệt của hợp đồng ủy quyền trong Bộ luật Dân sự và luôn mang tính chất đền bù. Hợp đồng đại diện cho thương nhân được giao kết giữa các thương nhân với nhau, thương nhân giao đại diện phải có quyền thực hiện hoạt động thương mại mà mình ủy quyền, thương nhân đại diện phải có đăng kí kinh doanh dịch vụ đại diện. Đối tượng của hợp đồng đại diện là những công việc mà bên đại diện phải tiến hành trên danh nghĩa và theo sự chỉ dẫn của bên đại diên. Hợp đồng phải được lập thành văn bản hoặc hình thức khác có giá trị pháp lí tương đương.
Theo qui định tại Điều 145 Luật Thương mại 2005:
« Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, bên đại diện có các nghĩa vụ sau đây :
...
Không được thực hiện các hoạt động thương mại với danh nghĩa của mình hoặc người thứ ba trong phạm vi đại diện.
.... »
Như vậy, bên đại diện sẽ được phép làm đại diện cho nhiều hai hoặc nhiều thương nhân cùng một lúc nếu có thỏa thuận về điều đó trong hợp đồng đại diện. Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận, bên đại diện được làm đại diện cho nhiều thương nhân khác nhau nếu phạm vi đại diện không mâu thuẫn nhau. Tuy nhiên, bên đại diện không được làm đại diện cho hai hay nhiều thương nhân trong cùng phạm vi đại diện.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Luật thương mại năm 2005
Nghị định số 12/2006/ND-CP ngày 23 tháng 1 năm 2006 của Chính phủ qui định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế và các hoạt động đại lý mua, bán, gia công và quá cảnh hàng hóa với nước ngoài
Hỏi & đáp Luật thương mại, NXB. Chính trị - hành chính, Hà Nội, năm 2011.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bài tập cá nhân thương mại đề số 10 năm 2011 khóa 34.doc