Bài tập cá nhân Tố tụng dân sự đề 12

Nếu anh M rơi vào trường hợp quy định tại điều 28 NĐ 68/2002: Do ông A đã chết trước thời điểm anh M làm thủ tục xác nhận cha, nên Tòa án có thể căn cứ Khoản 7 điều 28 bộ luật tố tụng dân sự 2004 để giải quyết cho anh M. Khi đó, Tòa án có thể giải quyết cho anh M theo thủ tục tố tụng dân sự. Theo điều 28 NĐ 68/2002 thì về nguyên tắc việc nhận cha, mẹ, con giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài chỉ được tiến hành nếu cả bên nhận cha, mẹ con và bên được nhận cha, mẹ , con đều còn sống vào thời điểm nộp đơn yêu cầu và không có tranh chấp. Do vậy, sở tư pháp UBND tỉnh cũng không có thẩm quyền mà thuộc thẩm quyền Tòa án

doc3 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2955 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài tập cá nhân Tố tụng dân sự đề 12, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ BÀI 12 Ông A và bà B có 3 người con là C, E, E. Năm 2005, ông A, bà B chết không để lại di chúc. Sau khi ông A, bà B chết, anh M đến nhận A là cha đẻ của mình và gửi đơn yêu cầu Tòa án xác nhận ông A là cha đẻ của mình. Anh/ chị hãy xác định: a) Nếu các con của ông A, bà B không chấp nhận anh M là con của ông A thì tòa án có thẩm quyền giải quyết yêu cầu của anh M theo thủ tục tố tụng dân sự không? Tại sao? b) Nếu các con của ông A, bà B đều chấp nhận anh M là con của ông A thì tòa án có thẩm quyền giải quyết yêu cầu của anh M theo thủ tục tố tụng dân sự không? Tại sao? BÀI LÀM a) Nếu các con của ông A, bà B không chấp nhận anh M là con của ông A thì tòa án có thẩm quyền giải quyết yêu cầu của anh M theo thủ tục tố tụng dân sự không? Tại sao? Tòa án chỉ có thẩm quyền giải quyết một vụ án hay việc dân sự nào đó khi được pháp luật trao quyền. Khoản 4 điều 27 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 có quy định về thẩm quyền giải quyết “Tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha, mẹ” của tòa án. Như vậy, khi có tranh chấp xảy ra, tòa án sẽ có thẩm quyền giải quyết và có thể giải quyết theo tố tụng dân sự. Khái niệm “tranh chấp” về vấn đề này trong các quy định của pháp luật chưa được giải thích cụ thể, rõ ràng. Tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng pháp luật, khái niệm “tranh chấp” được hiểu theo phạm vi rộng, nghĩa là, không chỉ những người được nhận là cha, mẹ không đồng ý nhận con hay con mà còn cả những trường hợp khác như: Vợ, chồng, bố, mẹ, con của người được nhận là cha, mẹ, con; những người đã nuôi dưỡng người xin nhận cha, mẹ, con không đồng ý việc nhận cha, mẹ, con; hoặc có thêm người thứ ba đứng ra nhận người cha, mẹ, con đó là cha, mẹ, con của mình…như vậy là có tranh chấp. Phân biệt thẩm quyền của tòa án nhân dân và ủy ban nhân dân trong việc giải quyết việc xin xác nhận cha mẹ / Trần Văn Tuân // Tạp chí Tòa án nhân dân, số 22/2004, tr. 24 – 26. Vì các con ông A, bà B không chấp nhận anh M là con của ông A – đó chính là tranh chấp về xác định cha của anh M nên căn cứ khoản 4 điều 27 Bộ luật tố tụng dân sự 2004, tranh chấp này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Do đó, Tòa án có thẩm quyền giải quyết yêu cầu của anh M theo thủ tục tố tụng dân sự. b) Nếu các con của ông A, bà B đều chấp nhận anh M là con của ông A thì tòa án có thẩm quyền giải quyết yêu cầu của anh M theo thủ tục tố tụng dân sự không? Tại sao? * Trường hợp 1: Không có yếu tố nước ngoài Theo quy định của pháp luật thì con đã thành niên hoặc người giám hộ của con chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự được làm thủ tục nhận cha trong trường hợp cha đã chết; nếu việc nhận cha là tự nguyện và không có tranh chấp. Điều 32 Nghị định của chính phủ số 158/2005/NĐ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2005 về đăng kí và quản lý hộ tịch; Khi anh M gửi đơn lên Tòa án yêu cầu Tòa án xác nhận ông A là cha (đã chết), các con ông A đã không phản đối, như vậy việc xác nhận cha là hoàn toàn tự nguyện và không có tranh chấp. Do đó, việc xin xác nhận ông A là cha của anh M không thuộc thẩm quyền của Tòa án mà thuộc thẩm quyền của UBND cấp xã, phường, thị trấn và được thực hiện theo thủ tục hành chính. Theo đó, anh M có quyền gửi đơn yêu cầu tại UBND cấp xã, phường, thị trấn theo Điều 33 Nghị định 158/2006. Việc anh M gửi đơn đến Tòa án yêu cầu xác định cha trong trường hợp không có tranh chấp là không đúng với quy định của pháp luật. Tòa án phải trả lại đơn với lý do yêu cầu của anh M không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án (Khoản 3 điều 167 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 ). Khi trả đơn, Tòa án nên giải thích cho anh M rõ quy định của pháp luật, hướng dẫn anh M làm đơn gửi UBND xã để xác định cha theo thủ tục hành chính. * Trường hợp 2: Có yếu tố nước ngoài Nếu anh M rơi vào trường hợp quy định tại điều 28 NĐ 68/2002: Do ông A đã chết trước thời điểm anh M làm thủ tục xác nhận cha, nên Tòa án có thể căn cứ Khoản 7 điều 28 bộ luật tố tụng dân sự 2004 để giải quyết cho anh M. Khi đó, Tòa án có thể giải quyết cho anh M theo thủ tục tố tụng dân sự. Theo điều 28 NĐ 68/2002 thì về nguyên tắc việc nhận cha, mẹ, con giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài chỉ được tiến hành nếu cả bên nhận cha, mẹ con và bên được nhận cha, mẹ , con đều còn sống vào thời điểm nộp đơn yêu cầu và không có tranh chấp. Do vậy, sở tư pháp UBND tỉnh cũng không có thẩm quyền mà thuộc thẩm quyền Tòa án. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ luật Tố tụng dân sự 2004; 2. Nghị định của chính phủ số 158/2005/NĐ-CP ngày 27 thangs12 năm 2005 về đăng kí và quản lý hộ tịch; 3. Nghị định của chính phủ số 68/2002/NĐ-CP ngày 10 tháng 7 năm 2002 quy định chi tiết thi hành một số điều của luật hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài; 4. Giáo trình luật Tố tụng dân sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, 2008; 5. Thực tiễn các giải quyết các án kiện về xác định quan hệ cha mẹ và con, Luận văn Nguyễn Thị Lan, Trường đại học Luật Hà Nội, 1995; 6. Phân biệt thẩm quyền của tòa án nhân dân và ủy ban nhân dân trong việc giải quyết việc xin xác nhận cha mẹ, Trần Văn Tuân, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 22/2004, tr. 24 – 26.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBài tập cá nhân Tố tụng dân sự đề 12.doc