Bài tập học kì hình sự 2 - Đề 5

ĐỀ BÀI: Trên đường đi uống rượu về, H và Q phát hiện chị B cùng hai người bạn đang say rượu nằm mê mệt bên lề đường. Thấy chị B đeo nhiều nữ trang bằng vàng, H và Q lấy đi toàn bộ tài sản trị giá 10 triệu đồng. Gần sáng cơn say hết, chị B tỉnh giấc mới biết mình bị mất tài sản và đi báo công an. Hỏi: Hành vi của H, Q cấu thành tội gì? Tại sao? I. ĐẶT VẤN ĐỀ Trong những năm gần đây, các loại tội phạm ngày càng gia tăng nhất là các tội phạm xâm phạm tới quan hệ sở hữu. Để có biện pháp đấu tranh loại tội này có hiệu quả trước tiên thì ta phải hiểu rõ dấu hiệu pháp lý của từng loại tội, phải phân biệt được tội này với tội kia. Có như vậy mới định tội danh và định khung hình phạt được chính xác. Nói như vậy nhưng trên thực tế có nhiều vụ án để định tội cho thật chính xác là điều không phải dễ dàng, do đó mà vẫn tồn tại nhiều vụ án oan sai, nhiều vụ bỏ lọt tội phạm. Vì thế em xin giải quyết tình huống sau làm mình chứng: “Trên đường đi uống rượu về, H và Q phát hiện chị B cùng hai người bạn đang say rượu nằm mê mệt bên lề đường. Thấy chị B đeo nhiều nữ trang bằng vàng, H và Q lấy đi toàn bộ tài sản trị giá 10 triệu đồng. Gần sáng cơn say hết, chị B tỉnh giấc mới biết mình bị mất tài sản và đi báo công an. Hỏi: Hành vi của H, Q cấu thành tội gì? Tại sao?” Qua việc giải quyết yêu cầu của đề bài em mong muốn hiểu thấu đáo hơn về việc xác định tội danh cho hành vi pham tội nói riêng và lý luận về vấn đề định tội danh nói riêng vào thực tiễn cuộc sống.Bài viết hẳn không tránh khỏi những thiếu sót, kính mong các thầy, cô thông cảm và góp ý để bài viết được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ Qua tình huống trên, em xin khẳng định: Hành vi của H và Q cấu thành tội trộm cắp tài sản theo quy định thại khoản 1, Điều 138, BLHS 1999 sửa dổi, bổ sung năm 2009: “Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trộng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”. Để lý giải khẳng định đó, em xin đưa ra những căn cứ sau: Trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác.Đặc điểm nổi bật của tội trộm cắp tài sản là người phạm tội lén lút (bí mật) lấy tài sản mà chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản không biết mình bị lấy tài sản, chỉ sau khi mất họ mới biết là mình bị mất tài sản. Tính chất lén lút (bí mật) của hành vi trộm cắp tài sản thể hiện ở chỗ người phạm tội giấu diếm hành vi phạm tội của mình. Lén lút, đối lập với công khai trắng trợn. Tuy nhiên, lén lút không phải là đặc trưng duy nhất của tội trộm cắp tài sản, mà trong nhiều tội phạm người phạm tội cũng lén lút nhưng là để thực hiện một mục đích khác như: lẻn vào nhà người khác để đặt mìn nhằm mục đích giết hại những người trong gia đình họ, lẻn vào phòng ngủ của phụ nữ để thực hiện hành vi hiếp dâm . Vì vậy, khi nói đến tội trộm cắp tài sản thì không thể không đi kèm với hành vi chiếm đoạt tài sản, nếu lén lút mà không nhằm chiếm đoạt tài sản thì không phải là trộm cắp tài sản. Có thể nói trộm cắp là chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn lén lút. So với Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 138 BLHS năm 1999 có nhiều sửa đổi bổ sung, nhất là đối với các tình tiết mang yếu tố định tội, phân biệt ranh giới giữa hành vi là tội phạm với hành vi chưa tới mức phải xử lý về hình sự; đây là điểm khác biệt cơ bản so với BLHS năm 1985 về tội phạm này. 1. Chủ thể của tội phạm Đối với tội trộm cắp tài sản, chủ thể của tội phạm cũng tương tự như đối với tội xâm phạm sở hữu khác. Chủ thể thường tức là đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự (Điều13 BLHS)và đạt độ tuổi luật quy định (Điều12 BLHS). Tuy nhiên, người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 138 BLHS. Ở đây đề bài không nêu H và Q có dấu hiệu hạn chế về năng lực hành vi, mắc bệnh tâm thần và độ tuổi nên ta mặc nhiên coi H và Q đã đủ tuổi và ở trong tình trạng có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ. 2. Khách thể của tội phạm Khách thể của tội trộm cắp tài sản cũng tương tự như tội có tính chất chiếm đoạt khác, nhưng tội trộm cắp tài sản không xâm phạm gì đến quan hệ nhân thân mà chỉ xâm phạm đến quan hệ sở hữu, đây cũng là một điểm khác với tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, tội cướp giật tài sản, đặc điểm này được thể hiện trong cấu thành tội trộm cắp tài sản. Điều luật không quy định thiệt hại về tính mạng, sức khỏe là tình tiết định khung hình phạt, vì vậy, nếu sau khi đã chiếm đoạt được tài sản, người phạm tội bị đuổi bắt mà có hành vi chống trả để tẩu thoát, gây chết người hoặc thương tích, hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì tùy từng trường hợp cụ thể mà người phạm tội còn phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người hoặc tội cố ý gây thương thích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Trong trường hợp đề bài nêu thì H và Q cũng chỉ có hành vi xâm phạm đến quan hệ sở hữu. Vì khi lấy tài sản thì chủ sở hữu tài sản là chị B, trong tình trạng chị B say, không có điều kiện để ngăn cản hành vi phạm tội của H và Q, hơn nữa khi đó trời lại tối. Do đó cả H và Q không có ý định hay hành vi nào nhằm đối phó lại chị B và những người xung quanh. Như vậy H và Q chỉ xâm phạm đến quan hệ sở hữu. 3. Mặt khách quan của tội phạm a) Hành vi khách quan Do đặc điểm của tội trộm cắp tài sản, nên người phạm tội chỉ có một hành vi khách quan duy nhất là “chiếm đoạt”, nhưng chiếm đoạt bằng hình thức lén lút với thủ đoạn lợi dụng sơ hở, mất cảnh giác của người quản lý tài sản, không trông giữ cẩn thận hoặc lợi dụng vào hoàn cảnh khách quan khác như chen lấn, xô đẩy, nhằm tiếp cận tài sản để thực hiện hành vi chiếm đoạt mà người quản lý không biết. Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta có thể chứng kiến rất nhiều hành vi trộm cắp như: trộm cắp ở bến tàu, bến xe, nhà ga, khách sạn, trong chợ, ngoài đường, trộm đêm, trộm ngày, trộm trên các phương tiện giao thông . ở đâu, lúc nào cũng có thể xảy ra hành vi trộm cắp tài sản. Tuy nhiên, không phải trường hợp phạm tội nào cũng giống nhau, thực tiễn xét xử cho thấy nhiều trường hợp dễ nhầm lẫn với các tội phạm khác, có khi chúng ta xác định đó là hành vi trộm cắp nhưng lại không phải, ngược lại có trường hợp được xác định không phải là hành vi trộm cắp nhưng lại đúng là trộm cắp. Đối với các trường hợp này thường nhầm với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, tội cướp giật tài sản, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tội chiếm giữ trái phép tài sản. Để xác định hành vi trộm cắp tài sản và phân biệt tội trộm cắp với một số tội khác gần kề, chúng ta nghiên cứu một số dạng trộm cắp tài sản có tính chất đặc thù sau: - Người phạm tội dùng những thủ đoạn gian dối tiếp cận tài sản để đến khi cóđiều kiện sẽ lén lút chiếm đoạt tài sản của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản. - Người phạm tội lợi dụng đông người, chen lấn, xô đẩy để chiếm đoạt tài sảncủa người khác. - Người phạm tội lợi dụng người quản lý tài sản không có mặt ở nơi để tài sảnhoặc tài sản không có người trực tiếp quản lý (tài sản ở nơi công cộng) nên đã chiếm đoạt. b) Hậu quả Hậu quả của tội trộm cắp tài sản cũng là thiệt hại về tài sản mà cụ thể là giá trị tài sản bị chiếm đoạt. Nói chung, tài sản bị chiếm đoạt do hành vi trộm cắp gây ra là tiền các loại, hàng hóa và các giấy tờ có giá trị thanh toán như phiếu công trái, ngân phiếu. Thực tiễn xét xử cho thấy nhiều trường hợp người bị hại không bị mất tài sản mà chỉ mất các giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu tài sản như: giấy chứng nhận đăng ký xe máy, xe ôtô; giấy chứng nhận quyền sở hữu về nhà ở; giấy chứng nhận quyền sử dụng đất . Các trường hợp này, thông thường người phạm tội thực hiện hành vi trộm cắp nhưng không biết tài sản mình định trộm cắp là bao nhiêu, gồm các loại tài sản nào như trộm cắp túi sách, ví . nhưng sau khi kiểm tra không có tiền hoặc tài sản có giá trị mà chỉ có các giấy tờ trên. Các loại giấy tờ đó dù có thể đem bán, đem trao đổi với giá trị lớn nhưng không thể coi đó là tài sản, nó chỉ là giấy tờ chứng nhận về tài sản nên nó không phải là đối tượng tác động của hành vi trộm cắp, nếu người phạm tội có ý định trộm cắp các loại giấy tờ trên để thực hiện một mục đích khác thì họ sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi sử dụng giấy tờ đó vào mục đích của họ. Mặc dù, khoản 1 của điều luật quy định giá trị tài sản bị chiếm đoạt từ 500.000 đồng trở lên mới cấu thành tội phạm, còn nếu tài sản bị chiếm đoạt dưới 500.000 đồng thì phải kèm theo điều kiện gây hậu quả nghiêm trọng, hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm mới cấu thành tội phạm. Đối với những trường hợp người phạm tội có ý định chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn hoặc rất lớn như ôtô, xe máy, máy tính xách tay, đồng hồ đắt tiền hoặc tài sản khác có giá trị hàng chục triệu đồng trở lên, thì dù người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản vẫn bị coi là phạm tội trộm cắp tài sản, nhưng là phạm tội trong trường hợp phạm tội chưa đạt hoặc chuẩn bị phạm tội tùy vào từng trường hợp cụ thể. Ở đây H và Q đã bằng hành động lợi dụng sơ hở của chị B, lén lút lấy đi số nữ trang của chịtrị giá 10 triệu đồng, tuy công khai với tài sản nhưng cả H và Q đều có hành vi lén lút với chủ tài sản là chị B và những người xung quanh nhằm che giấu hành vi phạm tội của mình. Hậu quả: gây thiệt hại về tài sản cho chị B: tổng giá trị là 10 triệu đồng. Tài sản bị chiếm đoạt là số nữ trang bằng vàng của chị B. 4. Mặt chủ quan của tội phạm Tội trộm cắp tài sản được thực hiện do cố ý. Mục đích của người phạm tội là mong muốn chiếm đoạt được tài sản. Mục đích chiếm đoạt tài sản của người phạm tội bao giờ cũng có trước khi thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Vì vậy, có thể nói mục đích chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc để cấu thành tội trộm cắp tài sản.Tuy nhiên, ngoài mục đích chiếm đoạt tài sản người phạm tội còn có thể có mục đích khác. Khi trên đường về phát hiện ra chị B và những người bạn của chị do say rượu không biết gì đang nằm mê mệt bên lề đường và trên người chị B có đeo nhiều nữ trang bằng vàng có giá trị nên H và Q đã nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản. Tuy không có chủ định,bàn bạc từ trước và việc phạm tội cũng hoàn toàn là do điều kiện khách quan mang lại nhưng lỗi mà H và Q thực hiện là lỗi cố ý chiếm đoạt tài sản đang có chủ sở hữu. Và mục đích là chiếm đoạt được số nữ trang mà chị B đang đeo. Từ những căn cứ trên, ta có thể khẳng định hành vi của H và Q cấu thành tội trộm cắp tài sản (Khoản 1, Điều 138, BLHS 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009). III. KẾT THÚC VẤN ĐỀ Tội phạm nói chung là hành vi nguy hiểm đáng kể cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự và phải chịu hình phạt. Việc định tội danh đúng sẽ là tiền đề cho việc quyết định hình phạt được chính xác, đảm bảo việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, góp phần đắc lực vào việc bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của công dân, nâng cao uy tín, hoạt động của các cơ quan tố tụng cũng như góp phần củng cố và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.

docxChia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3611 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài tập học kì hình sự 2 - Đề 5, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxBài tập học kì hình sự 2 - đề 5.docx
Luận văn liên quan