Trong năm 2006, thị trường nông sản thế giới có nhiều biến động do tình trạng tăng giá của dầu mỏ và tình trạng hạn hán nặng nề ở các nước Châu Phi hồi đầu năm. Tình hình thị trường nông sản tại Việt Nam cũng bị ảnh hưởng của các diễn biến bất thường nói trên, cũng như các diễn biến lên xuống về cung cầu khác. Diễn biến cụ thể của từng mặt hàng trong năm 2006 vừa qua có thể được tóm tắt như sau:
1. Ngành hàng Hồ tiêu
1.1. Tình hình chung
Tình hình thị trường hồ tiêu thế giới năm 2006 có nhiều chuyển biến tích cực và đánh dấu sự hồi phục của thị trường so với các năm trước đây. Diễn biến quan trọng nhất là giá hồ tiêu giao dịch sau nhiều năm trầm lắng ở mức thấp, từ 1.200 – 1.800 USD/tấn đối với tiêu đen và 1.800 – 2.000 US/tấn đối với tiêu trắng; đã gia tăng mạnh mẽ từ tháng 7 cho đến cuối năm 2006.
Nguyên nhân chủ yếu đẩy giá tiêu lên cao là sự sụt giảm về sản lượng hồ tiêu sản xuất trong năm 2006 so với năm 2005. Theo Cộng đồng Hồ tiêu thế giới (IPC), sản lượng tiêu thế giới năm 2005 là 314.270 tấn, tổng lượng xuất khẩu trên thị trường thế giới là 212.479 tấn. Trong khi đó, các dự báo về sản lượng tiêu năm 2006 chỉ ở mức 269.900 tấn do tình hình sâu bệnh hại, khô hạn và giảm năng suất tiêu ở các nước và lượng xuất khẩu chỉ đạt 197.600 tấn (Hội nghị các nước xuất khẩu tiêu lần thứ 37 diễn ra tại Kandy, Sri Lanka, ngày 4/9/2006). Các dự báo từ đầu năm đều cho là sản lượng tiêu ở các nước sản xuất chính như Ấn Độ, Việt Nam đều giảm.
So với cầu (theo thống kê của IPC, lượng hồ tiêu xuất khẩu các năm 2002-2004 dao động từ 227 đến 232 ngàn tấn/năm), nếu sản lượng tiêu giảm thấp hơn 300 ngàn tấn/năm; tổng lượng xuất khẩu giảm xuống mức khoảng 200 ngàn tấn/năm thì khả năng thiếu cung sẽ xảy ra, và đẩy giá tiêu thế giới lên cao.
Nhìn chung, thị trường giao dịch hạt tiêu tăng diễn ra mạnh trong giai đoạn từ thu hoạch tiêu trở đi. Khi các đánh giá về sản lượng và lượng cung trên thị trường trong năm đã rõ ràng, và lo ngại về giảm cung ở các nước xuất khẩu chính, các nhà thu mua đã tích cực hoạt động và đẩy giá lên cao, nhất là vào giai đoạn từ tháng 6-7 trở đi. Vào đến cuối năm, giao dịch giảm vì các nhà nhập khẩu đã thu mua được hầu hết khối lượng hàng hóa kinh doanh. Đồng thời, các nhà nhập khẩu cũng trông chờ diễn biến về sản lượng và giá cả của mùa vụ hồ tiêu mới. Vì các lý do này, mặc dù không còn nguồn cung nhưng giá tiêu vẫn giảm nhẹ.
Theo VPA, tổng cung thị trường hồ tiêu thế giới năm 2006 vào khoảng 200 ngàn tấn, trong đó Việt Nam xuất khẩu khoảng 116 ngàn tấn (58%). Theo Bộ Thương mại Việt Nam, lượng tiêu Việt Nam xuất khẩu đến hết tháng 11/2006 là 113.362 tấn.
Bảng 1. Sản lượng và số lượng xuất khẩu tiêu trong năm 2005, dự kiến của 2006 và kế hoạch cho năm 2007 (tấn)
Tiêu 2005 2006 (dự kiến) 2007 (kế hoạch)
Sản lượng Xuất khẩu Sản lượng Xuất khẩu Sản lượng Xuất khẩu
Đen 263.270 179.329 219.900 166.800 211.000 148.500
Trắng 51.000 33.150 50.000 30.800 55.000 32.500
Tổng 314.207 212.479 269.900 197.600 266.000 181.000
Nguồn: (IPC, trích từ bản tin số 36/2006 của Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam VPA).
1.2. Chỉ số giá và giá tổng hợp của IPC
Diễn biến giá thị trường hồ tiêu thế giới năm 2006 phản ánh rõ nét sự mất cân đối cung cầu. Từ tháng 1 đến tháng 6, khi hầu hết các nước đang thu hoạch hồ tiêu (ngoại trừ Braxin), giá tiêu vẫn duy trì ở mức thấp và tương đương với giá năm 2004 và 2005. Bắt đầu vào tháng 7, khi khả năng xuất khẩu tiêu của các nước xuất khẩu chủ yếu đã rõ ràng, và dự đoán về dự trữ không còn nhiều, giá hồ tiêu lập tức tăng vọt, do có nhiều đơn hàng mua tiêu. Tốc độ tăng giá tổng hợp luân chuyển đối với tiêu đen (so với tháng trước) của tháng 7/06 là 17,6%; tháng 8 là 23,4%; tháng 9 là 30,5%; tháng 10 là 3,6%. Tương tự, tốc độ tăng giá tổng hợp tiêu trắng là 11,2%; 21,9%; 14,1% và 6,0%. Mức giá tổng hợp đạt đỉnh cao vào tháng 10/2006. So với cùng kỳ năm trước, giá tổng hợp tiêu đen tăng 2,03 lần, giá tiêu trắng tăng 1,77 lần (bảng 2).
Phân tích biến động giá dựa trên chỉ số giá của IPC cũng cho thấy trong giai đoạn tháng 7-9/06, giá tiêu tăng rất mạnh. Chỉ số giá IPC đối với tiêu đen tăng đến 11,2 điềm trong tháng 7; 19,2 điểm trong tháng 8 và 30,5 điểm trong tháng 9. Giá tiêu trắng tăng tương ứng là 10,7; 21,3 và 16,7 điểm.
Trong suốt tháng 10/06, giá ở tất cả các thị trường đã đạt đỉnh và bắt đầu giảm nhẹ. Tuy nhiên, tốc độ giảm giá chậm hơn nhiều so với tốc độ tăng giá. Chỉ số giá trung bình của tháng 10 vẫn cao hơn tháng 9 đôi chút. Chỉ số IPC đối với tiêu đen tăng 4,7 điểm; tiêu trắng tăng 8,2 điểm. Giá tiêu đen tăng chủ yếu do giá tiêu đen Sarawak và Lampung còn tăng trong tháng 10 so với tháng 9. Trong trường hợp tiêu trắng, giá tăng chủ yếu do giá tiêu trắng Sarawak tăng.
Qua tháng 11/06, chỉ số giá giảm 11,9 điểm đối với tiêu đen và 8,5 điểm đối với tiêu trắng. Giá FOB trung bình ở tất cả các thị trường nguồn đều giảm. Giá tổng hợp tiêu đen giảm 9%; tiêu trắng giảm 6%. Như vậy, kể từ tháng 11/06 trở đi, giá tiêu có xu hướng giảm nhẹ vì các nguồn cung và dự trữ đã cạn, các nhà thu mua đã mua được số lượng tiêu cần thiết, khối lượng giao dịch giảm nhiều. Ngoài ra, vẫn có tâm lý chờ đợi tình hình sản lượng, khả năng cung và dự đoán giá tiêu của vụ thu hoạch mới từ quý 1/2007.
82 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2421 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Tổng hợp diễn biến thị trường nông sản Việt Nam 2006, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
át triển mạnh mà chưa có biện pháp khắc phục càng khiến nhà vườn trồng măng cụt thất thu. Cũng chính vì hiện tượng này nên măng cụt Nam bộ đang mất dần lợi thế cạnh tranh ngay trên vùng sản xuất khi mà măng cụt Thailan chất lượng ngon hơn, giá rẻ hơn, ít bị hỏng hơn đang tràn ngập thị trường trái cây các tỉnh Phía Nam.
Ngành hàng Chăn nuôi
Thị trường trong nước
Diễn biến giá thịt thị trường trong nước
Thị trường thịt trong năm 2006 diễn biến bất thường, nhìn chung giá thịt có xu hướng giảm so với năm 2005 và đã gây không ít khó khăn với người chăn nuôi nói riêng và ngành chăn nuôi nói chung.
Quý 1: Những ngày cuối tháng 1/2006 (23/1 trở đi) do sức mua xã hội tăng mạnh , giá cả hầu hết các mặt hàng phục vụ nhu cầu Tết và các hoạt động dịch vụ đều tăng. So với tháng 12 năm 2005 thì chỉ số giá thịt gia súc, gia cầm tăng 0,1 – 0,8%. Giá thịt lợn tại Hà Nội ở mức khá cao, thịt nạc vai giá 43.000 – 46.000 Đ/kg, chân giò: 37.000 – 45.000 Đ/kg. Tháng 2, giá thịt lợn sau khi tăng cao trong những ngày giáp Tết giảm dần, với mức giảm 3.000 - 7.000 Đ/kg (có nơi giảm nhiều hơn). Các tỉnh giá phổ biến ở mức: lợn hơi: 14.000 - 15.500 Đ/kg (phía Bắc) và 18.000 - 21.000 Đ/kg (phía Nam); thịt lợn mông sấn 28.000 - 35.000 Đ/kg (phía Bắc) và 35.000 - 38.000 Đ/kg (phía Nam). Giá thịt bò giảm 10.000 - 30.000 Đ/kg, thịt bò loại 1 phổ biến ở mức 70.000 - 90.000 Đ/kg.
Quý 2: Trong suốt quý 2, giá thịt lợn cũng như các loại thịt khác nhìn chung diễn biến theo chiều hướng đi xuống do tâm lý lo ngại về dịch lở mồm long móng trên đàn gia súc. Tại các thị trường, giá thịt hơi và các loại thịt lợn mổ sẵn đồng loạt giảm mạnh kể từ giữa tháng 5, song không đủ khuyến khích nhu cầu mua. Tính đến thời điểm đầu tháng 6, tại An Giang không còn dịch bệnh lở mồm long móng, nhưng giá lợn hơi bán cho thương lái vẫn tiếp tục giảm khoảng 100.000 Đồng/tạ so với giữa tháng 5, chỉ còn 1,4 triệu Đồng/tạ, và giảm 500.000 Đồng/tạ so với trước khi dịch xảy ra trong cả nước.
Cuối tháng 5, tại các tỉnh bùng phát dịch lở mồm long móng, giá các loại thịt lợn cũng liên tục giảm mạnh. Trong đó, tại Gia Lai, giá thịt lợn loại ngon giảm từ 50.000 Đồng/kg xuống còn 35.000 Đồng/kg. Lượng thịt bán ra cũng chỉ bằng 1/3 so với thời điểm trước, mặc dù thịt bày bán ở các quầy đều có dấu đóng kiểm tra của thú y. Một số tỉnh thành mặc dù không xảy ra dịch bệnh, song thị trường thịt và gia súc cũng bị ảnh hưởng rất nhiều, khiến giá và lượng tiêu thụ đều sụt giảm mạnh. Tại Đồng Nai, Tây Ninh, Cần Thơ, tình trạng giảm giá cũng xảy ra tương tự. Đặc biệt, tình trạng thương lái lợi dụng thông tin về dịch bệnh lở mồm long móng để ép giá mua lợn hơi cũng xảy ra khá phổ biến ngay tại các khu vực không bị ảnh hưởng như Cần Thơ. Điều này đã khiến khá nhiều hộ chăn nuôi lợn theo quy mô lớn và trang trại tại Đồng Nai - tỉnh có đàn lợn thịt đứng đầu cả nước với khoảng 1 triệu con, đang tìm cách hạn chế số lượng đàn, ngừng thả thêm đàn mới. Các lò mổ nhập lợn thịt chỉ bằng khoảng 60 - 70 % so với trước đây và họ cũng không dám dự trữ lợn sống do mức tiêu thụ thịt lợn của thị trường giảm. Với mức giá như thế này, người nuôi hoàn toàn không còn lãi mà còn có nguy cơ bị phá sản.
Dịch lở mồm long móng lây lan mạnh trên diện rộng đã phần nào hạn chế tốc độ tăng trưởng của đàn gia súc. Trong 6 tháng đầu năm 2006, sau khi dịch cúm gia cầm được khống chế thành công, đàn gia cầm đã được khôi phục và bắt đầu phát triển chủ yếu ở cấp hộ có quy mô chăn nuôi nhỏ, ước tăng 6,5% so cùng kỳ năm trước. Trong khi đó, ước tính hơn 80.000 con trâu bò, 35.000 con lợn bị mắc bệnh lở mồm long móng ở trên 39 tỉnh, thành phố trong cả nước, hàng ngàn con trâu bò và hàng vạn con lợn mắc bệnh bị chết hoặc phải tiêu huỷ. Đến cuối quý 2, dịch lở mồm long móng ở gia súc đã bước đầu được khống chế ở các địa phương, công tác tiêm phòng cho gia súc đang được đẩy mạnh. Tuy nhiên công tác kiểm dịch, kiểm soát lưu thông gia súc nhiễm bệnh còn gặp rất nhiều khó khăn, nhất là ở các tỉnh ở biên giới, nguy cơ lây nhiễm bệnh rất cao.
Quý 3: Đến quý III thị trường thịt vẫn tiếp tục giảm, cả miền Nam và miền Bắc giá lợn hơi siêu nạc thương phẩm loại 90-100 kg chỉ còn 13.000-14.500 Đồng/kg. So với năm 2005, ở phía Nam giá lợn hơi đã giảm 25-35%, và ở phía Bắc 10-15%. Còn tại miền Trung, giữa quý III, giá thịt lợn hơi đã giảm xuống còn 9.000-10.000 Đồng/kg từ 13.000-14.000 Đồng/kg trước đó, mức giá này thấp nhất trong vòng gần chục năm qua. Loại heo siêu nạc cũng chỉ còn 14.000-15.000 Đồng/kg thay vì 19.000 Đồng/kg như ở quý II. Bên cạnh đó giá lợn giống cũng tụt thảm hại, xuống mức 22.000 Đồng/kg so với 36.000 Đồng/kg hồi đầu năm.
Tại Gia Lai, giá bò lai cũng giảm mạnh, cuối tháng 8, giá bò cái lai giống 1 năm tuổi có trọng lượng 1,3- 1,5 tạ/con bán ra thị trường khoảng 6 triệu đồng so với thời giá lúa cao điểm là 14- 15 triệu đồng giá bò cái lai đến tuổi sinh sản cũng chỉ bằng một nửa so với trước đây. Theo phân tích của các nhà kinh tế, giá bò lai ở thời điểm này mới là "thực" và chắc chắn không thể trở lại "sốt ảo" như trước. Bởi giá trị con bò lai (sống) so với lượng thịt thực có không tương xứng với mặt bằng thị trường và sở dĩ bò lai từng có giá cao "vượt khung" là do người chăn nuôi chưa nghĩ đến mục đích cuối cùng là trọng lượng thịt mà chỉ nghĩ đến con giống tạo đàn.
Từ đầu tháng 7-2006, giá thị trường thịt gà bất ngờ "hạ nhiệt", thịt gà Mỹ giá chỉ 32.000-34.000 Đồng/kg. Thịt gà Mỹ hiện nay đang dần chiếm thị trường Việt Nam, tính riêng thị trường TP.HCM thịt gà Mỹ cũng chiếm khoảng 30-40%. Tại thời điểm này, TP.HCM có 5-6 đơn vị nhập khẩu và kinh doanh sản phẩm gà Mỹ với số lượng lớn. Ngoài ra còn có một số công ty và siêu thị cũng nhập nhưng với số lượng ít hơn. Các doanh nghiệp ở Hà Nội và Hải Phòng cũng đang chuẩn bị nhập khẩu gà với số lượng lớn.
Giá một số sản phẩm chăn nuôi tại thị trường Việt Nam ngày 15 tháng 8 năm 2006:
Giá tại các tỉnh phía Bắc
Giá tại các tỉnh phía Nam
Thịt lợn hơi (Đ/kg)
13.000 – 14.500
17.000 – 21.500
Thịt gà ta hơi (Đ/kg)
3.000 – 33.000
40.000 – 42.000
Thịt gà ta (Đ/kg)
60.000 – 65.000
65.000 – 70.000
Thịt bò (Đ/kg)
70.000 – 85.000
75.000 – 80.000
Trứng gà (Đ/10 quả)
14.000 – 15.000
15.000 – 16.000
Trứng vịt (Đ/10 quả)
12.000 – 13.000
13.000 – 14.000
Đầu tháng 9, giá thịt lợn tiếp tục giảm 500 - 1.500 Đồng/kg tại một số tỉnh (chủ yếu ở phía Nam), các tỉnh phổ biến: lợn hơi: 12.500 - 14.000 Đồng/kg (phía Bắc) và 15.000 - 20.000 Đồng/kg (phía Nam); thịt lợn mông sấn: 26.000 - 32.000 Đồng/kg (phía Bắc) và 28.000 - 34.000 Đồng/kg (phía Nam). Giá thịt bò tăng từ 1.000 đến 3.000 Đồng/kg tại một số thị trường tiêu thụ lớn trong những ngày lễ, phổ biến ở mức giá 65.000 - 85.000 Đồng/kg (thịt bò thăn). Đến cuối tháng 9, thịt gia súc có xu hướng tăng nhẹ, tại Lào Cai giá thịt bò tăng từ 65.000 Đồng/kg lên 70.000 Đồng/kg. Thịt gà công nghiệp tăng 3.000- 5.000 Đồng/kg, lên mức 35.000 Đồng/kg, thịt gà ta giữ ở mức 47.000 Đồng/kg.
Theo nhận định của Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn An Giang, sở dĩ giá heo hơi và bò hơi ở khu vực ĐBSCL xuống quá thấp là do vào mùa lũ. Ở khu vực đồng bằng, phần lớn diện tích bị ngập trong nước lũ như các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Tiền Giang, nên hầu hết diện tích đất đã bị ngập không còn nơi nuôi giữ, bắt buộc bà con phải bán. Hai là bị ảnh hưởng bởi dịch lở mồm long móng. Ba là vào mùa lũ, bà con trong vùng lũ đánh bắt được nhiều cá tôm, làm cho thị trường thực phẩm trở nên phong phú. Hầu hết người tiêu dùng lại thích các loại thực phẩm đánh bắt trong tự nhiên, đã quay lưng với thịt heo, bò. Ngoài ra, thức ăn chăn nuôi lên giá cũng là nguyên nhân khiến cho người chăn nuôi không còn muốn nuôi tiếp.
Trái lại với giá thịt, trong suốt 6 tháng đầu năm giá thức ăn hỗn hợp cho lợn thịt, lợn nái, lợn con không hề giảm. Từ giữa quý 3, giá một số nguyên liệu lại đột ngột tăng giá. Đầu quý III, giá ngô đang ở mức 2.500-2.700 Đồng/kg đã tăng lên 2.850-3.100 Đồng/kg (tăng 15%) vào giữa quý 3. Cũng tương tự giá khô dầu tăng 10-15%; giá bột cá trong nước loại trên 60% đạm, bột cá Pêru tăng 15-25% (tùy loại) so với 6 tháng đầu năm.Các tháng cuối năm ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi còn gặp khó khăn hơn khi nguyên liệu chế biến trong và ngoài nước đều lên giá. Nguyên nhân các nước xuất khẩu ngô và đậu tương như Nam Mỹ, Canada, châu Âu bị hạn hán, đồng thời Mỹ và một số nước đang có "mốt" chế biến ngô thành cồn để thay xăng. Ngoài ra việc tăng giá xăng dầu cũng ảnh hưởng lớn đến giá thức ăn chăn nuôi do phí vận chuyển tăng cao. Theo Hiệp hội Thức ăn chăn nuôi Việt Nam thì rất khó hạ được giá thành thức ăn chăn nuôi khi ngành này phải phụ thuộc quá lớn vào nguyên liệu nhập khẩu.
Quý 4: Giá thịt, trứng ở quý 4 cũng không ổn định. Tại Gia Lai, riêng trong tháng 11 ở tuần 2 giá các loại thịt lợn giảm từ 1.000 đến 2.000 Đồng/kg so với tuần 1. Tương tự, giá thịt gà ta sạch cũng có chiều hướng giảm nhẹ ở tuần 2 (giảm khoảng 500-1.000 Đồng/kg), ở mức 44.000 Đồng/kg. Ổn định ở tuần 3, nhưng đến tuần 4 thì giá thịt lợn và trứng lại tăng từ 1.200 đến 2.200 Đồng/kg. Giá thịt bò trong tháng 11 nhìn chung ổn định ở mức giá 79.200 Đồng/kg.
Giá thịt, trứng tại Gia Lai ngày 15/11/2006:
Mặt hàng
Đơn vị tính
Giá
Thịt heo đùi
Đồng/kg
29.700
Thịt ba chỉ
"
13.200
Thịt vai
"
24.200
Thịt chân giò trước
"
17.600
Thịt bò loại 1
"
79.200
Gà ta sạch
"
44.000
Trứng gà
10quả/hộp
14.300
Trứng vịt
"
15.500
Còn tại thị trường Thái Nguyên thời điểm giữa quý 4 thì giá thịt lợn lại đang giảm so thời điểm đầu quý 4 từ 500- 1.000 đồng/kg.
Giá thịt lợn tại Thái Nguyên ngày 14/11/2006:
Mặt hàng
Đơn vị tính
Giá
Thịt lợn hơi
Đồng/kg
14.000
Thịt lợi thăn
"
33.000
Thịt mông sấn loại 1
"
27.000
Thịt vai
"
25.000
Thịt ba chỉ
"
20.000
Tại TP.HCM giai đoạn giữa tháng 11 thì giá trứng gà đã tăng mạnh trở lại, lên mức 1.600 Đồng- 1.800 Đồng/trứng (giá bán lẻ), tăng khoảng 400 Đồng. Theo giới kinh doanh trứng gia cầm tại TP.HCM, nguyên nhân tăng giá là do nguồn cung cấp trứng hiện nay còn hạn chế, trong khi sức tiêu thụ đang tăng trở lại. Một nguyên nhân khác là do các cơ sở sản xuất bánh đang vào mùa sản xuất bánh phục vụ dịp lễ Noel và tết dương lịch sắp đến. Tương tự, giá thịt gà, vịt hiện cũng tăng từ 2.000 Đồng – 4.000 Đồng/kg so với những ngày đầu trong tháng. Giá bán lẻ thịt gà công nghiệp từ 31.000 Đồng- 32.000 Đồng/kg, gà thả vườn từ 42.000 Đồng- 46.000 Đồng/kg, vịt từ 32.000 Đồng- 34.000 Đồng/kg.
Gần cuối tháng 11, trứng gà Trung Quốc đã đổ về các chợ ở Đồng Nai, Bình Dương rồi chuyển vào TP.HCM tiêu thụ với số lượng lớn - Giá trứng trên thị trường giảm mạnh. Giá trứng tại TP.HCM tiếp tục giảm mạnh, từ 1.800 Đồng/trứng xuống còn 1.500 Đồng/trứng và có nơi chỉ còn 1.200 Đồng/trứng. Trứng gà Trung Quốc luôn rẻ hơn hàng trong nước khoảng 200 Đồng/trứng. Được biết, giá trứng gà bên Trung Quốc chỉ khoảng 600 Đồng/trứng. Dự báo giá sẽ còn giảm mạnh nếu không có sự can thiệp của các cấp chính quyền ngăn chặn việc nhập lậu này.
Do nhu cầu chuẩn bị nguồn hàng phục vụ Tết của các thành phần kinh tế tăng cùng với tác động của các yếu tố: giá lương thực, thức ăn chăn nuôi tăng, ảnh hưởng của bão số 9, việc dự kiến điều chỉnh tăng giá một số mặt hàng quan trọng vào đầu năm 2007… nên giá nhiều mặt hàng thực phẩm có chiều hướng tăng dần. Từ tháng 12, giá thịt lợn tiếp tục tăng, với mức tăng 500-1.500 Đồng/kg, các tỉnh phổ biến ở mức 14.000-15.000 Đồng/kg (phía Bắc) và 15.000-21.000 Đồng/kg (phía Nam). Thịt gia cầm tăng 2.000-3.000 Đồng/kg ở nhiều nơi, giá gà ta 40.000-55.000 Đồng/kg. Tại thị trường Hà Nội thì giá thịt lợn tăng từ 12-14%, thịt bò tăng 7-8%, thịt gà ta mổ sẵn tăng 10-12%. Và những mặt hàng này hiện vẫn đang có biểu hiện tiếp tục tăng thêm.
Cũng vào thời gian đầu tháng 12, sau khi nhiều báo đài đưa tin các công ty thức ăn chăn nuôi, trại heo sử dụng hormon tăng trưởng trong chăn nuôi, giá thịt lợn tại một số tỉnh phía Nam (điển hình là tỉnh Đồng Nai) xuống rất mạnh. Trong những ngày đầu tháng giá heo hơi xuống chỉ còn 15.000-16.500 Đồng/kg. Đây là lần thứ ba trong năm heo thịt tiếp tục mất giá thảm hại. Trong quý 3, khi dịch lở mồm long móng bùng phát trên nhiều tỉnh, thành, người tiêu dùng không mặn mà với thịt heo nên giá xuống chỉ còn 13.000-14.000 Đồng/kg. Nhiều người chăn nuôi tính toán, giá thành một ký thịt heo hơi cũng phải từ 19.000-20.000 Đồng, thế nhưng nay người chăn nuôi chỉ bán được giá trên dưới 16.500 Đồng/kg. Vậy là người chăn nuôi phải chịu lỗ từ 300.000- 400.000 Đồng/tạ heo khi xuất chuồng. Nếu tính toàn Đồng Nai hiện có khoảng 1 triệu heo thịt, mỗi tháng xuất ra thị trường hơn 100.000 con thì giới chăn nuôi heo của tỉnh cũng lỗ hơn 30 tỷ Đồng/tháng.
Cung cầu thịt và trứng trong nước
Năm 2006, ngành chăn nuôi Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn; giá sản phẩm chăn nuôi liên tục xuống thấp từ quý 2 (thấp hơn cả giá thành sản xuất), giá thức ăn chăn nuôi vẫn giữ ở mức cao, đặc biệt sản phẩm chăn nuôi từ nước ngoài tràn vào cạnh tranh với thị trường trong nước. Nhiều trang trại chăn nuôi lớn, đặc biệt là các trang trại chăn nuôi lợn đang trong tình trạng lỗ nặng.
Từ đầu quý 4/2006 thịt gà ngoại nhập khẩu vào thị trường Việt Nam với số lượng ngày càng nhiều, đặc biệt là thị trường TP.HCM với số lượng hơn 400 tấn/tháng (trước đó chỉ khoảng trung bình 100 tấn/tháng). Việc gia cầm ngoại chiếm gần 20% thị phần TP.HCM khiến người nuôi gia cầm công nghiệp và doanh nghiệp chế biến rất lo lắng. Thịt gà ngoại đa phần của Mỹ, Brazil và Argentina, trước chủ yếu bày bán ở các siêu thị, nhà hàng, nay đã bày nhiều ở các chợ lớn nhỏ trong thành phố. Theo tính toán của các chuyên gia thị trường, lấy mức trung bình 400 tấn/tháng thì mỗi ngày chừng 13 tấn đùi cánh đông lạnh được nhập khẩu. Trong khi đó theo Chi cục Thú y, hiện thị trường TP.HCM tiêu thụ mỗi ngày hơn 41,000 con gia cầm, tương đương 60 tấn. Như vậy, cánh, đùi gà nhập khẩu đã chiếm xấp xỉ 20% thị phần. Nhận định của Phòng Tổng hợp thuộc Chi cục Thú y TP.HCM, đây là mức tăng khá chóng mặt. Trước đó, khoảng tháng 5 năm 2006, thịt gà ngoại đông lạnh mới bắt đầu chia sẻ thị phần tại hai thị trường lớn nhất nước là TP.HCM và Hà Nội. Trong vòng 4 tháng (tính đến đầu tháng 9 năm 2006) trung bình mức nhập khẩu thịt gà chỉ khoảng 100 tấn/tháng – chiếm khoảng 3-5% thị phần.
Câu hỏi đặt ra là liệu trong thời gian tới, đặc biệt là khi Viêt Nam gia nhập WTO với rất nhiều mức thuế nhập khẩu được cắt giảm, thì liệu thịt gà Việt Nam có mất tiếp thị phần hay không? Phân tích của giới kinh doanh gia cầm cho thấy, có rất nhiều yếu tố để dự báo được điều này. Thực ra người tiêu dùng Việt Nam không thích ăn thịt gà đông lạnh, thậm chí cả gà ta nuôi công nghiệp vì thịt bở. Tuy nhiên khi bùng nổ cúm gia cầm cùng bệnh cúm ở người (H5N1) yếu tố vệ sinh an toàn thực phẩm được đặt lên hàng đầu. Trong khi đó đùi cánh gà ngoại nhập được Trung tâm Thú y vùng kiểm dịch đầu vào, Chi cục Thú y kiểm soát đầu ra. Vì vậy người tiêu dùng đã chấp nhận mà bằng chứng chính là sự tăng vọt lượng nhập khẩu như đã nói trên. Giá cả cũng là yếu tố song hành. Giá thịt gà ngoại nhập vào Việt Nam trung bình khoảng 11.000 Đồng/kg, cộng thuế nhập khẩu, chi phí hải quan kiểm dịch, VAT... khoảng 30% thì giá thành sẽ khoảng 20.000 – 24.000 Đồng/kg đùi, cánh gà. Giá bán ra đến tay người tiêu dùng trung bình khoảng 35.000 Đồng/kg, rẻ gần một nửa so với đùi gà ta (loại gà công nghiệp). Việc Việt Nam gia nhập WTO chỉ còn tính từng ngày. Khi đó thuế nhập khẩu các sản phẩm gia cầm của Mỹ và các nước trong WTO vào Việt Nam giảm thì việc gia cầm ngoại càng có thêm cơ hội chiếm lĩnh thị trường. Tất nhiên người tiêu dùng được lợi nhưng người chăn nuôi và giới kinh doanh gia cầm nội có thể phải nhường bước cho nhà nhập khẩu.
Cùng với thịt gà nhập khẩu thì thị trường thịt bò hiện cũng được nhập khẩu với lượng đáng kể vào Việt Nam. Hiện mỗi năm, ngành chăn nuôi cung cấp cho thị trường khoảng 100.000 tấn thịt bò, đây là con số quá thấp so với nhu cầu. Theo thống kê của Bộ Thương mại, năm 2005, nhập khẩu thịt bò từ Mỹ của Việt Nam đạt 1 triệu USD, cao gần gấp đôi so với năm 2003. Nếu thực hiện các quy định miễn, giảm thuế, rất có thể thịt bò Mỹ sẽ lấn chiếm đa phần thị phần thịt bò Việt Nam.
Tình hình nhập khẩu lậu gia cầm từ Trung Quốc vào thị trường Việt Nam diễn biến rất phức tạp tại các tỉnh biên giới trong năm 2006. Ở Việt Nam, phần lớn gia súc, gia cầm đều được giết mổ nhỏ lẻ tại chỗ nên lực lượng Thú y rất khó kiểm soát nguồn gốc, xuất xứ. Chắc chắn cũng sẽ có một một lượng gia súc, gia cầm nhập lậu từ các tỉnh biên giới ồ ạt vào nước ta trong dịp này bởi thời gian trước Tết, giá gà Trung Quốc rất rẻ, chỉ khoảng 20,000 đồng/kg.
Càng gần Tết Nguyên đán thì nhu cầu về trứng gia cầm của người tiêu dùng càng tăng mạnh. Nhu cầu tăng càng làm cho tình hình nhập lậu trứng gia cầm từ Trung Quốc vào Việt Nam nhiều hơn. Hiện nay, trên thị trường nước ta, đặc biệt là các tỉnh phía Nam đã xuất hiện ngày càng nhiều trứng nhập lậu từ Trung Quốc. Đây là loại trứng có mẫu mã đẹp, lòng đỏ to tròn nhưng có chứa hoá chất SR VI - một loại chất nhuộm mầu trong công nghiệp, có khả năng gây ung thư. Loại phẩm màu này thường được dùng để trộn với bột ớt, tạo màu đỏ tươi.
Cũng trong thời điểm quý 4, tại khu vực phía Nam, trước những thông tin các mẫu thịt lợn xét nghiệm có tồn dư hóc môn kích thích tăng trưởng cho thấy tình trạng sử dụng chất kích thích tăng trưởng trong chăn nuôi đang ở mức báo động, đe dọa trực tiếp sức khỏe của người tiêu dùng. Không những vậy nó cũng gây không ít khó khăn với thị trường cung cầu thịt nói chung và chắc chắn những người chăn nuôi chân chính càng cận kề với bờ vực phá sản.
Bên cạnh đó, tại miền Bắc (16 tỉnh) chương trình nuôi bò sữa đang bên bờ vực phá sản, gây thiệt hại lên đến hàng chục tỷ đồng. Tình trạng nhập lậu lợn và gia cầm vẫn xảy ra ở một số tỉnh biên giới làm cho thị trường và bệnh tật khó kiểm soát. Tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn vẫn xuất hiện nhiều sản phẩm gia cầm và thịt lợn nhập lậu qua Trung Quốc. Riêng trong tháng 8/2006, các lực lượng chống buôn lậu tỉnh Cao Bằng đã phát hiện, bắt giữ và tiêu huỷ 318 kg thịt gà, vịt và 260 kg thịt lợn thương phẩm có xuất xứ từ Trung Quốc nhập lậu qua các đường mòn biên giới. Với ưu thế giá rẻ, gà thương phẩm chỉ khoảng 20.000 đồng/kg, bằng 1/3 giá thịt gà thương phẩm trong nội địa nên mặt hàng này đang trở thành loại hàng hoá đem lại lợi nhuận lớn cho các đối tượng buôn lậu và được tiêu thụ rất nhanh.
Dịch bệnh cũng ảnh hưởng không nhỏ đến cung cầu thịt nội địa, dịch lở mồm long móng có xu hướng giảm năm 2006, tại thời điểm cuối quý 2, trên cả nước có 25 tỉnh/thành phố có ổ dịch nhưng đến cuối quý 3, toàn quốc còn 7 tỉnh/thành phố chưa công bố hết dịch lở mồm long móng (Thái Bình, Thái Nguyên, Hưng Yên, Hà Giang, Lào Cai, Hà Nội, Quảng Ngãi) và đến hết quý 4 thì còn 5 tỉnh dịch chưa qua 21 (Cao Bằng, Tuyên Quang, TP. Cần Thơ, Lâm Đồng và Sóc Trăng). Tuy nhiên, sau gần một năm khống chế được thì dịch cúm gia cầm thì lại tái phát vào tháng 12/06. Tính đến cuối quý 4 dịch cúm gia cầm đã xuất hiện ở 18 xã, phường của 9 huyện thuộc 3 tỉnh (Cà Mau, Bạc Liêu và Hậu Giang). Tình hình dịch cúm gia cầm và lở mồm long móng diễn biến phức tạp luôn luôn tín hiệu xấu cho thị trường thực phẩm và việc các mặt hàng thực phẩm tăng giá là điều khó tránh.
Sau ba năm liên tiếp bị dịch cúm gia cầm “tàn phá”, các nhà máy chế biến thức ăn chăn nuôi tiếp tục gặp khó khăn với dịch lở mồm long móng ở gia súc. Chủ tịch Hiệp hội Sản xuất thức ăn chăn nuôi Việt Nam (VFA) cho biết, dịch lở mồm long móng lần này gây thiệt hại cho các doanh nghiệp lớn hơn nhiều so với các đợt dịch cúm gia cầm. Tuy VFA chưa thống kê cụ thể mức độ thiệt hại nhưng qua thông tin từ các nhà máy sản xuất thức ăn ở Đồng Nai, vùng có nhiều nhà máy chế biến thức ăn chăn nuôi có công suất lớn trong nước, mức tiêu thụ của các doanh nghiệp bị giảm mạnh, nhiều nhà máy không thu hồi được tiền nợ bán “gối đầu” sản phẩm cho các đại lý, chủ trang trại chăn nuôi ở các tỉnh.
Thủ tướng Chính phủ cũng đã có công điện khẩn về việc tập trung huy động các nguồn lực của địa phương cùng với sự hỗ trợ của trung ương thực hiện đồng bộ các biện pháp phòng, chống dịch lở mồm long móng. Tuy nhiên, vấn đề tài chính cũng cần quan tâm trong công tác phòng chống dịch, một chuyên gia thú y cho biết Việt Nam cần khoảng 25 - 100 triệu đôla Mỹ hàng năm để mua vắc xin chích ngừa cho toàn bộ đàn gia súc móng guốc, bao gồm bốn loài chính là heo, bò, trâu và dê. Đây là khoản tiền vượt quá khả năng của ngành nông nghiệp.
Để bình ổn thị trường trường thịt, nhà nước đã có cơ chế hỗ trợ người chăn nuôi có gia súc bị tiêu huỷ. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã đề xuất mức hỗ trợ khoảng 70% giá trị của con gia súc. Theo đó, mức hỗ trợ bình quân là khoảng 10.000 Đồng/kg đối với lợn. Để ngăn chặn tái phát dịch cúm gia cầm, Bộ NN-PTNT chỉ đạo tiếp tục dừng ấp nở thủy cầm, đồng thời tăng cường công tác kiểm tra xử lý nghiêm túc các trường hợp vi phạm quy định, đặc biệt là các thành phố lớn. Ngành thú y cũng tổ chức các đợt kiểm tra từ cơ sở giết mổ đến cửa hàng kinh doanh và ăn uống, sẽ xử lý nghiêm, kể cả kiến nghị rút giấy phép nếu vi phạm. Các doanh nghiệp, nhà sản xuất thức ăn cần chủ động gắn với nhà chăn nuôi, vùng chăn nuôi để cung ứng thức ăn chăn nuôi chất lượng, chủ động thị trường, cùng chia sẻ với người chăn nuôi trong lúc khó khăn.
Nhằm tháo gỡ khó khăn do ảnh hưởng của bệnh lở mồm long móng, Thống đốc Ngân hàng nhà nước đã có công văn số 5429/NHNN-TD chỉ đạo các tổ chức tín dụng thực hiện khoanh nợ và tiếp tục cho vay vốn đối với các hộ gia đình, cá nhân, doanh nghiệp, trang trại, hợp tác xã chăn nuôi gia súc của trung ương và địa phương trên cả nước có gia súc bị tiêu huỷ. Đối tượng được xử lý khoanh nợ gồm những cá thể nói trên đã vay vốn các tổ chức tín dụng còn dư nợ đến ngày 30/4/06 đối với các khoản nợ trong hạn, nợ đến hạn. Thời gian khoanh nợ trong thời gian một năm đối với các chủ chăn nuôi lợn, kể từ ngày 30/4/06 đến 30/4/07. Trong thời gian khoanh nợ, các tổ chức tín dụng không được phép thu nợ lãi tiền vay phát sinh đối với số dư nợ được khoanh.
Thị trường thế giới
Sau khi phục hồi đáng kể vào năm 2005, thị trường thịt thế giới năm 2006 một lần nữa lại chịu ảnh hưởng bởi dịch cúm gia cầm. Xu hướng phát triển của thị trường thịt năm nay tiếp tục phản ánh những lo ngại của người tiêu dùng do dịch cúm gia cầm bùng phát trên toàn thế giới cùng lệnh cấm liên quan tới bệnh bò điên đối với thịt bò Bắc Mỹ và bệnh lở mồm long móng đối với xuất khẩu thịt đỏ của Nam Mỹ (gồm thịt bò, thịt cừu và thịt lợn)
Từ cuối năm 2005 đến hết quý I năm 2006, dịch cúm gia cầm đã xuất hiện ở gần 40 quốc gia vốn chưa từng có. Nhiều nước trong số những nước tiêu thụ và nhập khẩu gia cầm lớn thuộc châu Âu, Trung Đông và Châu Phi. Con số hơn 224 người mắc bệnh và khoảng hơn một nửa số này thiệt mạng đã gây tác động mạnh tới người tiêu dùng và nhiều nước đã ban hành lệnh cấm. Những thay đổi trong tiêu dùng, tránh xa thịt gia cầm đã làm giá của mặt hàng này giảm mạnh - ảnh hưởng sâu sắc tới biến động thị trường thịt chung của toàn thế giới năm 2006.
Trái với năm 2005 - thời điểm chỉ số giá thịt của FAO đạt mức đỉnh trong gần 15 năm qua lên 126 điểm, giá thịt gia cầm đã giảm mạnh đầu năm nay xuống còn 112 điểm. Trong khi chỉ số giá thịt gia cầm giảm 22 điểm kể từ tháng 10/2005, giá thịt bò tiếp tục duy trì ở mức cao do lệnh cấm tiếp tục được áp dụng đối với thịt bò xuất khẩu của Bắc và Nam Mỹ. Dự kiến trong năm 2006, nguồn cung thịt gia cầm sẽ lớn tiếp tục kéo giá thịt giảm xuống. Mặc dù vậy, những hạn chế trong nguồn cung xuất khẩu thịt bò dự kiến sẽ hỗ trợ ít nhiều cho giá của mặt hàng này trong năm nay
Tổng quan thị trường thịt thế giới quý I:
Đơn vị: triệu tấn
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
Mức thay đổi so với năm 2005
Sản xuất
260,3
268,1
272,5
1,6
Thịt bò
63,1
64,3
65,9
2,5
Gia cầm
78,9
81,9
81,0
-1,1
Thịt lợn
100,4
103,7
107,0
3,2
Thịt cừu
12,7
13,0
13,3
2,6
Thương mại
19,0
20,5
20,7
0,6
Thịt bò
6,1
6,5
6,7
2,9
Gia cầm
7,5
8,3
8,0
-3
Thịt lợn
4,5
4,7
4,9
3,2
Thịt cừu
0,7
0,8
0,81
4,2
Theo số liệu của USDA, xuất khẩu thịt lợn Mỹ trong tháng 4/06 tiếp tục khả quan, với tỷ lệ tăng 1,7% so với cùng kỳ năm 2005. Khối lượng xuất trong tháng 4/06 chiếm 15,9% sản lượng thịt lợn của Mỹ tháng này, và là tỷ lệ cao nhất trong một tháng. Xuất khẩu thịt bò của Mỹ tăng đáng kể, trong tháng 10 đạt 58.270 triệu tấn, tăng 5,8% so với tháng 9 và tăng 35,7% so với tháng 10 năm 2005. Mexico là nước nhập khẩu lớn nhất thịt bò của Mỹ, chiếm khoảng 57% lượng xuất khẩu thịt bò của Mỹ. Năm nay tổng sản lượng xuất sang Mexico đạt 307.578 triệu tấn, tăng 38% so với năm 2005. Thịt bò từ Mỹ cũng xuất sang Canada trong tháng 10 đã giảm 10% so với tháng 9. Tuy nhiên so với năm 2005 thì năm 2006 xuất khẩu sang thị trường Canada tăng gấp hai lần. Ngoài ra, Ai-Cập cũng là nước nhập khẩu thịt bò với số lượng đáng kể từ Mỹ, trong tháng 10 năm nay Mỹ đã xuất khẩu 8.561 triệu tấn thịt bò sang Ai-Cập tăng 40,8% so với tháng 9 cùng năm.
Tổng sản lượng thịt lợn trong tháng 8 đạt 1,77 tỷ bao (8,03 triệu tấn), tăng 1% so với cùng kỳ năm 2005. Số lượng lợn giết mổ là 9,09 triệu con, tăng 1% so với tháng 8 năm 2005. Trong lượng hơi trung bình là 263 bao (119,4 kg)/con, cao hơn 1 bao (0,454 kg).
Sản lượng thịt đỏ tại Mỹ trong tháng 8 đạt 4,24 tỷ bao (tương đương 1,92 triệu tấn), tăng 4% so với cùng kỳ năm ngoái. Sản lượng thịt bò đạt 2,44 tỷ bao (1,10 triệu tấn), tăng 5% so với cùng kỳ năm 2005. Tổng sản lượng thịt bê tháng 8 đạt 14,2 triệu bao (6,44 ngàn tấn), tăng 4% so với cùng kỳ năm 2005.
Theo nguồn tin Poultrysite, tính tới ngày 1/7/06, các nhà sản xuất nông nghiệp Nga ước tính đã có 22,8 triệu đầu con trâu bò, giảm 5,3% so với cùng kỳ năm ngoái, trong số này gồm 9,6 triệu con bò, giảm 5.6%. Số lượng lợn đạt 15,3 triệu đầu con, tăng 4,7%, số lượng cừu và dê đạt 21 triệu con, tăng 2,9% so với cùng kỳ năm 2005. Trong nửa đầu năm nay, các nhà sản xuất nông nghiệp Nga đã sản xuất được khoảng 3,2 triệu tấn gia súc và gia cầm cho giết mổ (trọng lượng hơi), 15,4 triệu tấn sữa và 19,1 tỷ quả trứng.
Nhật Bản mở lại thị trường nhập khẩu thịt bò từ Mỹ, trong tháng 8, lượng thịt bò Nhật Bản nhập khẩu từ nước này chỉ 105 tấn. Số này rất nhỏ so với năm 2003, trước lúc phát hiện bệnh bò điên tại Mỹ, mỗi tháng Nhật Bản đã nhập từ 22.000 – 25.000 tấn. Dự tính năm 2006 Nhật Bản sẽ nhập từ Mỹ khoảng 15.000 tấn thịt bò.
Vào đầu tháng 7, Uỷ ban châu Âu (EC) đã công bố một loạt biện pháp mới nhằm hỗ trợ các nước thành viên Liên minh châu Âu (EU) trong cuộc chiến chống cúm gia cầm. EC đã gia hạn lệnh cấm nhập khẩu gia cầm sống từ các nước thứ ba cho tới 31/12/2006. Trong khi đó lệnh cấm nhập khẩu các sản phẩm gia cầm từ Trung Quốc, Malaixia và Thái Lan vào EU vẫn có hiệu lực cho tới 31/12/07, do virút H5N1 gây cúm gia cầm vẫn xuất hiện ở Đông Nam Á.
Trong khi đó, những quy định mới của Nhật đối với thịt lợn nhập khẩu đang gây khó khăn cho ngành thịt lợn Mỹ. Theo đó, thịt nhập khẩu sẽ được kiểm tra kỹ hơn, và một số nhà sản xuất thịt lợn của Mỹ phải thay đổi nguồn thức ăn cho lợn. Những quy định mới này thay đổi giới giạn phần bã tối đa của tất cả các hàng hóa thực phẩm đối với 799 phụ gia thức ăn, thuốc thú y và hóa chất nông nghiệp. Tiêu chuẩn trước đây chỉ giới hạn ở 283 chất. Bên cạnh đó, các nhà sản xuất sẽ phải dừng cho gia súc ăn những phụ gia này trong thời gian lâu hơn trước khi đem đi giết mổ để có thể đạt được những tiêu chuẩn mới.
Những quy định này của Nhật dựa trên chuẩn mực quốc tế do Tổ chức nông nghiệp và lương thực của Liên Hợp quốc và Tổ chức y tế thế giới xây dựng để đảm bảo an toàn thực phẩm. Trong khi đó các nhà sản xuất thịt lợn của Mỹ tuân theo tiêu chuẩn quản lý thuốc và thực phẩm Mỹ nên có sự khác biệt đối với một số mặt hàng.
Đánh giá và dự báo
Thị trường trong nước và nhận định
Dự báo những tháng đầu năm 2007, do tình hình dịch cúm gia cầm còn diễn biến phức tạp nên sẽ ảnh hưởng đến nguồn cung thực phẩm trong dịp Tết Nguyên đán, theo quy luật sức mua xã hội sẽ tăng cao hơn, nhất là sự chuẩn bị nguồn hàng của các thành phần kinh tế tham gia thị trường Tết. Về thị trường thịt trong năm 2007 thì nếu thời tiết không có những biến động bất thường, dịch bệnh trong chăn nuôi, đặc biệt là dịch lở mồm long móng và dịch cúm gia cầm được khống chế và thuế nhập khẩu nhiều mặt hàng sản phầm chăn nuôi và thức ăn chăn nuôi được điều chỉnh giảm khi Việt Nam gia nhập WTO, nguồn cung thực phẩm trên thị trường sẽ đáp ứng được mọi nhu cầu, giá cả sẽ không có biến động lớn.
Và khi Việt Nam ra nhập WTO (01/2007), khả năng ngành chăn nuôi Việt Nam sẽ bị cạnh tranh đầu tiên, thậm chí là cuộc cạnh tranh không cân sức vì sản phẩm chăn nuôi trong nước giá thành rất cao. Tuy nhiên, người tiêu dùng sẽ phần nào hưởng lợi về giá cả vì hiện nay giá sản phẩm chăn nuôi của Việt Nam vẫn cao hơn thê giới. Hơn nữa, khi nhập WTO, thuế nhập khẩu sẽ giảm đáng kể, ví dụ thuế nhập khẩu thịt bò sẽ giảm từ 20% như hiện nay còn 15% trong năm đầu và giảm xuống còn 8% trong vòng bốn năm tiếp theo.
Việc không chỉ nông sản mà cả ngành chăn nuôi của Việt Nam cũng sẽ gặp phải rất nhiều trở ngại khi gia nhập WTO. Một trong những thách thức đó là mức độ cạnh tranh trong ngành chăn nuôi hiện tại rất là thấp, cụ thể như là năng suất sản xuất, chất lượng sản phẩm, giá cả sản phẩm chăn nuôi thị trường nội địa đều có mức cạnh tranh thấp hơn so với cạnh tranh quốc tế. Thách thức nữa là các sản phẩm chăn nuôi của Việt Nam sẽ phải đối mặt là trợ cấp của các nước giàu. Ví dụ một con bò của EU được hưởng trợ cấp một ngày là 2,62 USD, nhiều hơn thu nhập của người nông dân nghèo Việt Nam. Đây là một ví dụ để thấy trình độ phát triển chênh lệch quá lớn. Ngoài ra đối với những nước không còn dùng trợ cấp chăn nuôi như Australia, hoặc New Zealand thì ngành chăn nuôi Việt Nam sẽ phải đương đầu với hệ thống sản xuất rất hiện đại và hiệu quả. Một thách thức khác là Việt Nam sẽ không được tiếp cận với cơ chế tự vệ đặc biệt để chống lại những đột biến về nhập khẩu cho những mặt hàng chăn nuôi (thịt lợn, thịt bò).
Như vậy, trong trường hợp khi Việt Nam mở cửa thị trường một cách mạnh mẽ thì việc tăng các sản phẩm chăn nuôi nhập khẩu sẽ có tiềm năng tác động đến giá của các mặt hàng trong nước. Trong khi đó, trình độ sản xuất trong lĩnh vực chăn nuôi của Việt Nam còn quá thấp, đặc biệt là của nhóm người nghèo thì họ phải cạnh tranh trên một sân chơi không bình đẳng.
Các chuyên gia kinh tế cho rằng, để ngành nông nghiệp gia tăng năng lực cạnh tranh, thu hút được tỷ lệ lợi nhuận thì cần phải giải quyết hai bài toán trong khu vực nông nghiệp, nông thôn là lao động và phát triển những vùng chuyên canh, sản xuất nông nghiệp trên quy mô lớn. Giải quyết vấn đề này bản thân một mình nông nghiệp không làm được, mà đòi hỏi cả khu vực công nghiệp và dịch vụ phát triển để hút lao động ra, tạo thuận lợi cho tích tụ đất đai, sản xuất hàng hoá.
Về mục tiêu phát triển của ngành chăn nuôi Việt Nam, Cục chăn nuôi, Bộ NN&PTNT cho biết, trong giai đoạn 2006-2010, ngành chăn nuôi Việt Nam sẽ vươn lên thành ngành sản xuất chính với giá trị sản xuất chiếm 35-40% giá trị sản xuất toàn ngành nông nghiệp. Và ngành chăn nuôi lợn sẽ có tốc độ tăng trưởng bình quân của đàn đạt khoảng 3,9%/năm và đến năm 2010, số lượng đầu con đạt 32,8 triệu, cho sản lượng thịt hơi 3,2 triệu tấn và thịt xẻ 2,24 triệu tấn. Để đạt được những mục tiêu này, phương thức chăn nuôi nhỏ phân tán trong nông hộ sẽ giảm từ 75% hiện nay xuống còn 60% vào năm 2010, thay vào đó là hình thức chăn nuôi tập trung (gia trại, trang trại), công nghiệp. Chất lượng đàn lợn thịt phải được nâng cao thông qua đổi mới cơ cấu giống theo hướng tăng tỷ lệ giống lợn ngoại và lợn lai với việc tăng số lượng lợn nái ngoại từ 9,6% hiện nay lên 19,2% vào năm 2010. Cả nước sẽ có khoảng 3-4 cơ sở chế biến thịt lợn xuất khẩu quy mô lớn đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế, với sản lượng thịt xuất khẩu 35-40.000 tấn/năm.
Giai đoạn 2006 - 2015, ngành chăn nuôi tập trung phát triển chăn nuôi lợn công nghiệp, ưu tiên phát triển bò thịt; duy trì và phát triển bền vững chăn nuôi bò sữa và các loại vật nuôi khác theo lợi thế của từng vùng sinh thái. Cùng với những nỗ lực tự thân của từng doanh nghiệp, mối liên kết giữa các thành viên trong hiệp hội để nâng cao khả năng cạnh tranh và đối phó với những rủi ro trên thị trường, đồng thời đảm bảo quá trình sản xuất vệ sinh, an toàn là vấn đề cấp bách với ngành sản xuất, chế biến thức ăn chăn nuôi hiện nay. Đặc biệt là đổi mới chăn nuôi gia cầm theo hướng tập trung công nghiệp, bảo đảm an toàn dịch bệnh, phấn đấu đưa tỷ trọng chăn nuôi trong cơ cấu giá trị nông nghiệp lên 30% vào năm 2010 và 35% vào năm 2015.
Thị trường thế giới
Theo tổ chức Lương thực thế giới (FAO) thì thị trường thịt thế giới năm 2007 dự kiến sẽ khắc phục được hậu quả của các dịch bênh như bệnh lở mồm long móng và bệnh BSE. FAO dự báo sản lượng thịt thế giới năm 2007 sẽ đạt 384,3 triệu tấn, tăng 3,1% so với năm 2006. Sản lượng thịt bò thế giới dự kiến trong năm 2007 sẽ tăng 3,7% so với năm 2006, đạt 112 triệu tấn. Sản lượng thịt cừu và thịt dê thế giới cũng dự đoán tăng 2,2% so với năm 2006, đạt 13,8 triệu tấn. Về tình hình xuất khẩu thịt thế giới năm 2007 cũng sẽ tăng khoảng 6,3% so với năm 2006, đạt 22 triệu tấn. Xuất khẩu thịt bò thế giới cũng dự đoán đạt 7,2 triệu tấn, tăng 9,1% so với năm 2006 dơ lệnh cấm nhập khẩu thịt bò được bãi bỏ của Brazil và Bắc Mỹ. Năm 2007 xuất khẩu thịt lợn cũng dự báo đạt 5 triệu tấn, tăng 4,2% so với năm 2006 do nhu cầu tăng mạnh ở Châu Á và các nước Liên bang Nga. Xuất khẩu thịt cừu và dê thế giới cũng dự báo tăng 12,5% so với năm 2006, đạt 900,000 triệu tấn.
Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) dự báo sản lượng thịt lợn của các thị trường chính trên thế giới năm 2007 sẽ tăng khoảng 4%, đạt trên 103 triệu tấn, trong đó Trung Quốc- nước chiếm hơn một nửa sản lượng trên - đóng góp 77% vào sự gia tăng này. Nhờ xuất khẩu của Mỹ và Brazil gia tăng, xuất khẩu thịt lợn tại các thị trường chủ chốt năm 2007 có thể tăng gần 3%, đạt 5,3 triệu tấn.
Trung Quốc: Sản lượng và tiêu thụ thịt lợn của Trung Quốc dự đoán tăng đều tăng trên 5% trong năm 2007, lần lượt đạt mức kỷ lục gần 55,8 triệu tấn và 55,3 triệu tấn. Tốc độ tăng trưởng sản lượng thịt lợn năm 2006 và 2007 của Trung Quốc có thể thấp hơn so với các năm gần đây do giá cả mặt hàng này suy giảm. Tuy nhiên, tiêu thụ thịt lợn tại thị trường nội địa nước này được dự báo sẽ tiếp tục tăng lên khi dịch cúm gia cầm khiến cho nhu cầu sử dụng mặt hàng thay thế cho thịt gia cầm của người dân ngày càng cao.
Nhật Bản: Nhập khẩu thịt lợn của Nhật Bản năm 2007 dự đoán giảm gần 2%, xuống còn 1,2 triệu tấn. Tồn kho thịt lợn đạt mức cao kỷ lục và việc kiểm soát chặt chẽ các hoạt động nhập lậu của chính phủ là nguyên nhân chính dẫn đến sự suy giảm nhập khẩu mặt hàng này.
Brazil: Nhờ nhu cầu tiêu thụ nội địa gia tăng và hoạt động xuất khẩu hồi phục sau dịch bệnh lở mồm long móng (FMD) cuối năm 2005, sản lượng thịt lợn của Brazil dự đoán tăng gần 5% trong năm 2007, đạt 2,9 triệu tấn. Được biết, Nga là thị trường tiêu thụ thịt lợn chính của Brazil năm 2005, chiếm 67% xuất khẩu của nước này. Tuy nhiên, trong 7 tháng đầu năm 2006, xuất khẩu thịt lợn của Brazil sang Nga đã giảm 44% so với cùng kỳ năm 2005, trong khi tăng lên tại một số thị trường mới như Hồng Kông, Singapore và Ukraina. Năm 2007, xuất khẩu thịt lợn của Brazil dự đoán tăng 6%, đạt 570,000 tấn.
Mỹ: Xuất khẩu thịt lợn của Mỹ dự đoán đạt mức kỷ lục trên 1,4 triệu tấn trong năm 2007, chiếm 14,3% sản lượng. Do xuất khẩu của Brazil sang thị trường Nga sụt giảm, năm 2007, xuất khẩu thịt lợn của Mỹ sang thị trường này có khả năng sẽ tăng lên.
Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) dự báo nguồn cung thịt bò thế giới năm 2007 sẽ tiếp tục bị thắt chặt bởi ảnh hưởng tiêu cực từ những hạn chế mậu dịch liên quan tới bệnh bò điên (BSE) và lở mồm long móng (FMD). Mặc dù vậy, tổng xuất khẩu thịt bò của các thị trường chính năm 2007 dự đoán vẫn tăng trên 6% do ngành chăn nuôi bò ở một số nước không chịu tác động mạnh từ các dịch bệnh này (Argentina, Australia, Ấn Độ, New Zealand) và sản xuất đang dần hồi phục trở lại sau thời gian bị hạn chế về mậu dịch liên quan đến dịch bệnh (Brazil, Mỹ). Hiện nay, ngành thịt bò Canada và Mỹ vẫn chưa giành lại được hết thị phần đã mất tại các thị trường do ảnh hưởng của bệnh bò điên (BSE). Năm 2007, xuất khẩu thịt bò của Canada và Mỹ dự đoán giảm lần lượt 28% và 39% so với năm 2002. Tuy nhiên, xuất khẩu thịt bò của Mỹ đang trên đà hồi phục và năm 2007 có thể tăng 30% so với năm 2006, đạt 680,000 tấn.
Sản xuất và tiêu thụ thịt bò tại các thị trường chính trên thế giới năm 2007 dự đoán tăng trên 2%, trong đó tăng trưởng mạnh nhất phải kể đến Trung Quốc, Brazil và Mỹ. Kể từ năm 2002, sản lượng thịt bò của Trung Quốc luôn đạt mức tăng trưởng bình quân hàng năm 5-7% và dự báo trong năm 2007 sẽ tiếp tục tăng trên 5% nhờ số lượng đàn gia súc và nhu cầu tiêu thụ nội địa mặt hàng này đều gia tăng. Cũng nhờ nhu cầu tiêu thụ tại thị trường nội địa gia tăng và việc nhiều nước nhập khẩu dỡ bỏ từng phần hoặc toàn bộ lệnh cấm nhập khẩu, sản lượng thịt bò của Brazil năm 2007 dự đoán tăng 3%. Cho dù đang phải nỗ lực chống lại dịch bệnh FMD, số lượng đàn bò của Brazil năm 2007 dự đoán vẫn tăng 4% nhờ sự gia tăng đầu tư vốn và cải thiện phương pháp chăn nuôi.
Bộ Nông nghiệp Mỹ dự báo xuất khẩu thịt gà giò của các nước xuất khẩu chính sẽ tăng 4,1 %, lên đạt 6,7 triệu tấn trong năm 2007 sau khi đã giảm mạnh trong năm 2006. Kể từ năm 2004, xuất khẩu thịt gà giò của EU đã bắt đầu giảm và đặc biệt giảm mạnh trong năm 2006 do lệnh cấm nhập khẩu đối với thịt gà của Pháp được đưa ra khi cúm gia cầm bùng phát tại một trang trại của nước này. Tuy nhiên, xuất khẩu của EU dự kiến sẽ phục hồi trong năm 2007 khi lệnh cấm này được dỡ bỏ. Trong khi đó, xuất khẩu thịt gà giò của Mỹ trong năm 2007 dự kiến tăng 2,2%, đạt 2,5 triệu tấn.
Sau khi xuất khẩu thịt gà giò của Braxin liên tiếp tăng trong giai đoạn 1999-2005, xuất khẩu giảm xuống vào năm 2006 do nhu cầu yếu ở các thị trường tiêu thụ chính của Braxin, đồng Real của Braxin tăng giá so với các ngoại tệ chính và những quan ngại về dịch cúm gia cầm có thể bùng phát khiến người tiêu dùng chuyển sang các loại thịt khác. Do vậy, ngành thịt gia cầm của Braxin phải đối mặt với tình hình dư cung. Tuy nhiên, dự kiến năm 2007, xuất khẩu sẽ hồi phục với mức tăng 2% lên đạt gần 2,6 triệu tấn khi mối quan ngại về cúm gia cầm giảm bớt cùng với chiến dịch tiếp thị, đang được ngành thịt gia cầm nước này xúc tiến mạnh mẽ, có thể kích thích nhu cầu tiêu dùng gia tăng trở lại.
Năm 2007: Xuất khẩu thịt gà giò dự báo tăng 4,1%. Xuất khẩu thịt gà giò của các nước xuất khẩu chính có thể tăng 4,1 %, lên đạt 6,7 triệu tấn trong năm 2007 sau khi đã giảm mạnh trong năm 2006, và ít thay đổi về thị phần với Mỹ dự báo tăng lên đạt 37% trong khi Braxin giảm nhẹ xuống còn 38% và EU vẫn giữ mức 10%. Nhập khẩu thịt gà giò của EU năm 2007 dự kiến tăng khoảng 8%, đạt 645.000 tấn.
Nga, nước nhập khẩu thịt gà giò lớn nhất thế giới, dự báo giảm nhập khẩu trên 7%, xuống còn gần 1,2 triệu tấn do sản lượng thịt gà giò nội địa tăng vững trong những năm qua và dự kiến đạt mức kỷ lục vào năm 2007. Hiện Mỹ cung ứng trên 60% nhu cầu nhập khẩu thịt gà giò của Nga và phần còn lại chủ yếu là Braxin.
Tổng đàn lợn của EU – 25 năm 2007 dự báo sẽ đạt 404,8 triệu con, giảm nhẹ so với mức 405 triệu con năm 2006. Trong đó, khối lượng xuất của EU – 25 sẽ đạt khoảng 800.000 con, lượng giết mổ sẽ đạt 243,6 triệu con, tăng so với 243 triệu con của năm 2006.
Tuy nhiên, xét về mặt khối lượng, tổng sản lượng thịt lợn của EU – 25 năm 2007 dự báo đạt 21,5 triệu tấn, tăng nhẹ so với 21,45 triệu tấn dự tính đạt được trong năm nay. Xuất khẩu thịt lợn ra ngoài EU – 25 dự báo đạt 1,4 triệu tấn, tương đương với mức xuất khẩu của năm 2006. Tổng mức tiêu dùng thịt lợn của khối dự báo đạt 20,12 triệu tấn trong năm 2007, tăng nhẹ so với 20,07 triệu tấn năm 2006.
9. Ngành hàng gạo
9.1. Tình hình thị trường quốc tế
Sản lượng gạo niên vụ 2006/2007 tăng 0,9 triệu tấn so với niên vụ 2005/2006, đạt 416,38 triệu tấn. Trong đó, các nước được dự báo có sản lượng tăng trong niên vụ này gồm: Trung Quốc, nước có sản lượng lúa gạo lớn nhất thế giới, tăng 1,6 triệu tấn, đạt 128 triệu tấn; tiếp đến là Việt Nam tăng 0,5 triệu tấn, đạt 22,5 triệu tấn; Indônêsia tăng 0,1 triệu tấn, đạt 35,1 triệu tấn; Thái Lan - nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới cũng chỉ tăng 0,1 triệu tấn, đạt 18,3 triệu tấn. Các nước được dự báo có sản lượng giảm trong niên vụ này là: Mỹ giảm 1,0 triệu tấn, đạt 6,1 triệu tấn; tiếp đến là Nhật Bản giảm 0,3 triệu tấn, đạt 7,9 triệu tấn. Dự báo, tiêu thụ gạo toàn cầu đạt 418,19 triệu tấn. Cân đối cung cầu, thế giới sẽ thiếu hụt khoảng 1,8 triệu tấn.
Dự trữ gạo toàn cầu trong niên vụ này đạt 78,6 triệu tấn, giảm 1,82 triệu tấn so với dự trữ gạo niên vụ 2005/2006. Trong đó, Trung Quốc là nước có mức dự trữ gạo lớn nhất, đạt 36,94 triệu tấn, chiếm gần một nửa lượng dự trữ gạo toàn cầu; tiếp đó là Ấn Độ đạt 9,72 triệu tấn, chiếm 12,3%.
Một số nước xuất khẩu gạo lớn đã giảm sản lượng xuất đáng kể trong năm nay, như Ấn Độ giảm 0,8 triệu tấn... Còn Indonesia, sản lượng lúa đã giảm khoảng 30% do hạn hán gia tăng. Trong khi đó, nhu cầu nhập khẩu gạo của các nước châu Phi vẫn đang rất lớn do tổng sản lượng gạo năm nay của khu vực này chỉ đáp ứng khoảng 45% nhu cầu.
Thái Lan bắt đầu thu hoạch vụ lúa chính 2006/07 – trong đó Chính phủ dự kiến mua tới 9 triệu tấn lúa của vụ 2006/07 sẽ bắt đầu vào ngày 1/11/2006 và kéo dài đến hết tháng 2/2007. Gạo 100% loại B được chào bán ở mức 307 – 308 USD/tấn, FOB Băng cốc; gạo 5% tấm cũng không đổi ở mức 297 – 300 USD/tấn. Dự trữ gạo khổng lồ của Thái Lan, khoảng 3,7 triệu tấn là kết quả thu được từ Chương trình can thiệp giá nhằm cải thiện thu nhập cho người nông dân. Theo các chương trình này, Chính phủ cũ đã mua lúa của nông dân với giá trợ cấp cao hơn so với giá thị trường. Được biết, Chính phủ lâm thời đang tiến hành cắt giảm 10% giá thu mua lúa của nông dân.
Giới chức Nga cho biết thời gian gần đây các nhà cung ứng gạo đã vi phạm các qui định về vệ sinh khá phổ biến, do đó Nga buộc phải thu hồi giấy phép nhập khẩu đã cấp trước đây và tạm ngừng việc cấp mới. Gạo của Pakistan, Ấn Độ, Thái Lan, Ai Cập bị đánh giá là mốc và hôi. Gạo của Trung Quốc lẫn quá nhiều cám và ngả vàng trong khi một số lô gạo nhập từ Tây Ban Nha, Uruguay và Thái Lan có dư lượng thuốc trừ sâu cao... Gạo từ VN được cho là có mọt và chứa chất chlorpyrifos cao.
9.2. Tình hình thị trường trong nước
Diện tích lúa hè thu đạt 2.322,3 nghìn ha, giảm 27 nghìn ha so với vụ hè thu năm 2005. Năng suất lúa hè thu đạt 41,8 tạ/ha, giảm 2,6%. Sản lượng lúa hè thu ước đạt 9,72 triệu tấn, giảm 6,9% (717,7 nghìn tấn) so với năm 2005. Diện tích lúa mùa cả nước đạt 2.011 nghìn ha, giảm 26 nghìn ha so với năm 2005, trong đó miền bắc gieo cấy 1.205 nghìn ha, giảm 11,6 nghìn ha chủ yếu do đồng bằng sông Hồng chuyển sang đất chuyên dùng và nuôi thủy sản (giảm 8,2 nghìn ha).
Tình hình dịch rầy nâu và lùn xoắn lá diện ra tại ĐBSCL có ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất, giá cả và xuất khẩu lúa gạo. Đến cuối vụ hè thu và thu đông, diện tích lúa bị dịch bệnh phá hại đã lên tới trên 100.000ha, để lại hậu quả nặng nề. Sản lượng lúa hè thu, thu đông của ĐBSCL chỉ đạt gần 18,6 triệu tấn, giảm khoảng 700.000 tấn so với năm 2005. Với giá lúa 2.500 đ/kg, bà con nông dân bị thiệt hại trên 1.500 tỷ đồng. Đó là chưa kể tới chi phí thuốc bảo vệ thực vật, công nhà nông, các địa phương bỏ ra trên 46 tỷ đồng cho công tác dập dịch. Điều nguy hại ở chỗ, bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá là bệnh do vi rút gây ra, được lây lan bởi vật trung gian là rầy nâu, hiện chưa có thuốc đặc trị. Vì vậy, “dịch hoạ” đang là mối đe doạ trực tiếp vụ đông-xuân 2006-2007, vụ sản xuất chính ở ĐBSCL.
Do nguồn lúa gạo trong dân hiện nay còn ít, phần lớn lượng lúa hàng hoá vụ hè - thu đã được các doanh nghiệp thu mua trong thời điểm thu hoạch rộ để thực hiện các hợp đồng xuất khẩu. Chính vì vậy, giá lúa gạo trong hai tháng gần đây liên tục biến động tăng, cao nhất là vào đầu tháng 11. Tại thời điểm đó giá gạo các loại tăng thêm từ 500-2.000 đồng/kg so với hồi cuối tháng 10. Giá các loại gạo thường đạt từ 4.000-4.800 đồng/kg, gạo thơm từ 6.000-8.000 đồng/kg..
Để đảm bảo an ninh lương thực cho quốc gia và nhằm ổn định giá cả thị trường, ngày 12/11/2006 Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu ngừng ngay việc xuất khẩu gạo. Bên cạnh đó, khối lượng xuất khẩu gạo cũng được điều hành giảm chỉ tiêu xuống mức 4,7-4,8 triệu tấn, tương ứng với nguồn hàng sẵn có chứ không theo đuổi mục tiêu 5 triệu tấn như đã đề ra, đồng thời cho phép nhập khẩu lúa gạo từ Campuchia với thuế suất 0% để bình ổn thị trường trong nước.
Những quyết định trên có ảnh hưởng tức thời đến thị trường, giá lúa gạo trên thị trường đã chững lại và giảm dần. Vào đầu tháng 12/2006, các tỉnh phía Bắc giá thóc tẻ hiện phổ biến từ 2.700-3.200 đồng/kg; gạo tẻ từ 4.300-5.500 đồng/kg và tại các tỉnh phía Nam, giá lúa hè thu ở mức 3.100 đồng/kg, lúa đông xuân 3.200 đồng/kg và giảm xuống ổn định ở mức 2.700-2800 đồng/kg.
Tính đến tháng 12/2006, cả nước đã xuất khẩu tổng cộng 4,36 triệu tấn gạo, giảm 400.000 tấn so với cùng kỳ năm 2005, đạt kim ngạch khoảng 1,2 tỷ USD. Hiện tại, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam loại 25% tấm đang ở mức trên 255 USD/tấn, còn loại 5% tấm đã 178 - 180 USD/tấn. Dự báo giá gạo vẫn đứng ở mức cao, thậm chí có thể tiếp tục tăng.
9.3. Nhận định và dự báo
Giá gạo thời gian tới sẽ rất khó lường nhưng chắc chắn sẽ tăng, do sự tác động từ thị trường đang khan hiếm lúa gạo khu vực ĐBSCL là nguyên nhân đẩy giá gạo tăng cao. Sự thất thu của vụ hè - thu (nguyên nhân chính là do dịch rầy nâu, bệnh vàng lùn và lùn xoắn lá) khiến sản lượng lúa giảm. Đồng thời, vụ Đông - Xuân 2006 - 2007 bị chậm 1 - 2 tháng so với mọi năm nên thời kỳ “giáp hạt” sẽ kéo dài, rất có thể sẽ đẩy giá gạo cao hơn nữa, nhất là vào dịp cuối năm - khi hầu hết các mặt hàng tiêu dùng đều tăng giá.
Dường như dịch vàng lùn - lùn xoắn lá - rầy nâu là thủ phạm chính, bởi nó không chỉ gây thất thu trên diện rộng trong vụ lúa vừa qua, mà còn đe doạ cả vụ tới. Tuy nhiên, thực chất của tình hình lại chưa hẳn như vậy.
+Thứ nhất: và nguyên nhân sâu xa là đến nay vẫn chưa khống chế được dịch chính là do tác động của cơn sốt giá gạo thế giới đối với hạt gạo của nước ta.
Diễn biến thị trường gạo thế giới là "cơ hội vàng" cho hoạt động xuất khẩu gạo của nước ta trong gần 3 năm qua. Cụ thể, năm 2003 xuất khẩu được 3,8 triệu tấn gạo với giá bình quân 189 USD/tấn; 2004 xuất được hơn chừng ấy một ít nhưng giá đạt tới 230 USD/tấn, tăng 23%.
Đây là động lực chủ yếu để chúng ta đạt kỷ lục xuất khẩu 5,3 triệu tấn gạo năm 2005 với giá gần 270 USD/tấn, tăng 15% so với năm 2004; còn trong 11 tháng đầu năm 2006, xuất khẩu đã đạt 4,6 triệu tấn, giá bình quân cũng tăng 2,5% và thu về đến gần 1,3 tỉ USD.
Như vậy, trong gần 3 năm qua, giá xuất khẩu lúa gạo tăng tổng cộng 45%. Nguồn lợi quá hấp dẫn đã khiến cả nông dân lẫn các chi cục bảo vệ thực vật và các cấp chính quyền địa phương bỏ ngoài tai các khuyến cáo chuyên môn về giống và nguy cơ dịch bệnh.
+Thứ hai, cơn sốt giá lúa gạo chưa từng có hiện nay còn do chúng ta đã xuất khẩu "quá đà".
Sản lượng lúa năm 2004 tăng tương đương với gần 1,5 triệu tấn gạo so với năm 2003, nhưng gạo xuất khẩu chỉ tăng gần 1 triệu tấn. Thế mà, khi sản lượng lúa năm 2005 giảm tương đương với khoảng 240 nghìn tấn thì lượng gạo xuất khẩu lại đạt kỷ lục trên 5 triệu tấn! Việc tăng này là do chúng ta đã "vét kho" để đẩy mạnh xuất khẩu trong điều kiện rất được giá.
Như thế cũng có nghĩa là năm nay đâu còn gạo tồn kho đáng kể cho xuất khẩu nữa! Trong khi đó, tổng sản lượng lúa của miền Bắc chỉ tăng được 800 nghìn tấn, còn ĐBSCL lại giảm xấp xỉ 1 triệu tấn, mà lượng gạo xuất khẩu thì vẫn cứ tăng đến 1 triệu tấn so với cả 4 năm trước đó (2001-2004), cho nên rất có thể chúng ta đã lại một lần nữa "vét cạn kho" để xuất khẩu!
Cộng với tác nhân dịch bệnh dai dẳng trong nhiều tháng qua, hành động này tạo nên cơn sốt chưa từng có ở ngay trong vựa lúa lớn nhất nước. Triển vọng giá gạo thế giới vẫn tiếp tục nóng cũng là một phần nguyên nhân gây ra đầu cơ lúa gạo ở thị trường trong nước.
Việc quan trọng và cấp bách bây giờ, là tìm mọi cách dập tắt dịch và nhất là thay đổi cách quản lý, điều hành sản xuất, xuất khẩu gạo của các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực này.
Dự báo giá gạo từ nay đến hết vụ đông xuân năm 2007 vẫn ở mức cao do một số nước như Australia, Ấn Độ mất mùa lúa mì nên phải tăng cường nhập khẩu gạo. Trong khi nguồn cung gạo lại giảm do các nước sản xuất gạo cũng gặp thiên tai. Cung không đủ cầu, chắc chắn giá gạo, kể cả trong nước và xuất khẩu, sẽ ở mức cao.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trung tâm Tin học Nông nghiệp và thống kê (ICARD), Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
Cổng thông tin điện tử của Bộ thương mại: www.mot.gov.vn
Trang web của Trung tâm thông tin (Viện chính sách chiến lược nông nghiệp và Phát triển nông thôn): www.agro.gov.vn
Trang thông tin thương mại xuất nhập khẩu www.tinthuongmai.vn
Bản tin Sản xuất và Thị trường, ICARD
Trang web của Trung tâm thông tin thương mại, Bộ Thương Mại www.vinanet.gov.vn
Trang tin tức Việt Nam www.vnexpress.net
Các hãng thông tấn quốc tế: Reuter, Countryside
Trang web của Báo tuổi trẻ www.tuoitre.com.vn
Các bản tin Vinacas tháng tháng 7-12/2006
Báo cáo “Rà soát quy hoạch phát triển ngành điều Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020” của Viện Quy hoạch Thiết kế nông nghiệp.
Các bản tin của Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam (VPA)
Các bản tin của Cộng đồng Hồ tiêu quốc tế (IPC)
Bản tin Thị trường cây ăn quả. Viện NC cây ăn quả Miền Nam, từ số 86 đến 98.
Hệ thống quan trắc thu thập thông tin thị trường rau quả Nam bộ - Cơ sở Phía Nam- Viện Chính sách Chiến lược PTNN NT.
Số liệu xuất khẩu thanh long , Vụ kế họach – Bộ NN-PTNT
Trang web rau hoa quả Việt Nam của Bộ Thương Mại www.rauhoaquavn.vn
Cổng thông tin điện tử của tỉnh Lào Cai www.laocai.com.vn
Cổng thông tin điện tử của tỉnh Vĩnh Long
Hiệp hội rau quả Việt Nam www.vinafruit.com
Các nguồn báo, tạp chí Trung ương và các địa phương khác
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Báo cáo tổng hợp diễn biến thị trường nông sản việt nam 2006.doc