Bảo vệ quyền chủ quyền trên các vùng biển Việt Nam – Những vẫn đề còn tồn tại và hướng khắc phục

ĐẶT VẤN ĐỀ Biển Đông được nhân dân Việt Nam gọi theo thói quen của một danh từ riêng. Biển Đông là một biển nửa kín, có diện tích khoảng 3.5 triệu km2. Ngoài Việt Nam, Biển Đông được bao bọc bởi 8 nước khác: Trung Quốc, Philippin, Indonesia, Bruney, Malaysia, Singapore, Thái Lan và Campuchia. Theo nghiên cứu sơ bộ, Biển Đông có ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc sống của khoảng 300 triệu người dân các nước này. Biển Đông không chỉ là địa bàn chiến lược quan trọng đối với các nước trong khu vực mà còn cả của Châu Á- Thái Bình Dương và các nước lớn. Hơn nữa, Biển Đông còn là một vùng biển có nhiều tiềm năng về kinh tế, đặc biệt là nguồn tài nguyên sinh vật, khoáng sản, du lịch và cũng là một vùng biển bận rộn với các thông thương của tàu thuyền trên thế giới. Việt Nam với tư cách một quốc gia được bao bọc phần lớn lãnh thổ bởi Biển Đông, đã và đang làm gì để khai thác những tiềm năng này cũng như bảo vệ quyền chủ quyền của Việt Nam trên các vùng biển này, là một câu hỏi, một vấn đề cần được nghiên cứu. Chính vì vậy, nhóm đã chọn đề tài “Bảo vệ quyền chủ quyền trên các vùng biển Việt Nam – Những vẫn đề còn tồn tại và hướng khắc phục” và được nghiên cứu theo hướng tiếp

doc7 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3017 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bảo vệ quyền chủ quyền trên các vùng biển Việt Nam – Những vẫn đề còn tồn tại và hướng khắc phục, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẶT VẤN ĐỀ Biển Đông được nhân dân Việt Nam gọi theo thói quen của một danh từ riêng. Biển Đông là một biển nửa kín, có diện tích khoảng 3.5 triệu km2. Ngoài Việt Nam, Biển Đông được bao bọc bởi 8 nước khác: Trung Quốc, Philippin, Indonesia, Bruney, Malaysia, Singapore, Thái Lan và Campuchia. Theo nghiên cứu sơ bộ, Biển Đông có ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc sống của khoảng 300 triệu người dân các nước này. Biển Đông không chỉ là địa bàn chiến lược quan trọng đối với các nước trong khu vực mà còn cả của Châu Á- Thái Bình Dương và các nước lớn. Hơn nữa, Biển Đông còn là một vùng biển có nhiều tiềm năng về kinh tế, đặc biệt là nguồn tài nguyên sinh vật, khoáng sản, du lịch và cũng là một vùng biển bận rộn với các thông thương của tàu thuyền trên thế giới. Việt Nam với tư cách một quốc gia được bao bọc phần lớn lãnh thổ bởi Biển Đông, đã và đang làm gì để khai thác những tiềm năng này cũng như bảo vệ quyền chủ quyền của Việt Nam trên các vùng biển này, là một câu hỏi, một vấn đề cần được nghiên cứu. Chính vì vậy, nhóm đã chọn đề tài “Bảo vệ quyền chủ quyền trên các vùng biển Việt Nam – Những vẫn đề còn tồn tại và hướng khắc phục” và được nghiên cứu theo hướng tiếp cận các hành động, các biện pháp đấu tranh bảo vệ quyền chủ quyền trên các vùng biển này. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ Bảo vệ chủ quyền trên các vùng biển Việt Nam là bảo vệ các vùng biển mà Việt Nam có quyền chủ quyền bao gồm: Vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, vùng thềm lục địa (theo CƯLB 1982), có đối tượng chủ yếu là các quyền về kinh tế và quyền về kiểm soát. Đây là trách nhiệm, nhiệm vụ hết sức quan trọng của các lực lượng quản lý Nhà nước. Để thực hiện nhiệm vụ này Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều hành động và biện pháp đấu tranh về pháp lý, chính trị, kinh tế, hoạch định chính sách, ngoại giao… trong đó công cụ pháp luật có một vai trò quan trọng. Tuy nhiên vẫn còn đó những tồn tại cần được sớm khắc phục trong thời gian tới. I. Bảo vệ quyền chủ quyền trên các vùng biển Việt Nam. Quyền chủ quyền trên các vùng biển nếu hiểu một cách “nôm na” thì đó là những quyền xuất phát từ chủ quyền quốc gia mà chỉ có các quốc gia ven biển mới có. Để nghiên cứu về vấn đề này, nhóm đã đưa ra và tiếp cận việc bảo vệ quyền chủ quyền trên các vùng biển Việt Nam bằng các hành động, biện pháp đấu tranh sau: 1. Tiếp cận vấn đề thông qua việc gia nhập, kí kết các điều ước quốc tế song phương và đa phương có liên quan đến vấn đề. Việt Nam là một trong những nước đầu tiên ký và phê chuẩn Công ước LHQ về Luật biển năm 1982 (bản hiến pháp về biển của cộng đồng quốc tế) vào ngày 23/06/1994, nộp và lưu chiểu LHQ ngày 25/07/1994. Đó là cơ sở pháp lý quốc tế xác nhận và khẳng định chủ quyền và quyền chủ quyền của Việt Nam đối với các vùng biển và thềm lục địa. Nhờ Công ước này mà phạm vi các vùng biển nước ta được mở rộng từ vài chục nghìn km2 đến cả triệu km2. Hơn nữa, Công ước còn là cơ sở để Nhà nước ta đấu tranh với các hành vi vi phạm của các nước cũng là thành viên CƯLB 1982 đối với các vùng biển Việt Nam. Ngoài ra, Việt Nam cũng là thành viên của Tuyên bố về cách ứng xử trên Biển Đông (DOC) được ký kết ngày 4/11/2002 tại Phnôm Phênh, giữa các nước ASEAN và Trung Quốc. Mục đích của văn bản này là nhằm thúc đẩy một môi trường hòa bình, ổn định và hữu nghị giữa các quốc gia trong khu vực Biển Đông và tạo điều kiện cho việc giải quyết các tranh chấp lãnh thổ trong khu vực này một cách hòa bình và lâu dài. Theo đó, Việt Nam có thể vận dụng những nội dung DOC để đấu tranh bảo vệ quyền chủ quyền cho các vùng biển mà Việt Nam có quyền chủ quyền. Ngoài ra Việt Nam còn là thành viên của các Công ước: RAMSAR, CBD, MARPOL về đa dạng sinh học và kiểm soát chất ô nhiễm trên các vùng biển. Bên cạnh đó, Việt cũng tiến hành đàm phán và ký kết một loạt các Hiệp định về phân định và hợp tác trên biển với các nước láng giềng có chung Biển Đông, nhằm tạo ra một sự “ràng buộc” pháp lý để bảo vệ quyền chủ quyền của Tổ quốc đối với các vùng biển này. Cho đến nay, Việt Nam đã ký kết 5 Hiệp định và thỏa thuận với các nước láng giềng có bờ biển liền kề hoặc kế cận. Đó là các nước: Trung Quốc, Malaysia, Indonesia, Thái Lan và Campuchia. - Thỏa thuận về hợp tác thăm dò khai thác chung vùng chồng lấn Việt Nam – Malaysia diễn ra ngày 05/6/1992 tại Kuala Lampur. Ngày 6 tháng 5 vừa qua Việt Nam và Malaysia trình cho Ủy ban LHQ về phân ranh thềm lục địa bản Báo cáo chung về khu vực thềm lục địa liên quan đến hai nước là thêm một bằng chứng rằng, với thiện chí, các nước trong khu vực có thể hợp tác giải quyết hòa bình mọi bất đồng về chủ quyền lãnh thổ tại Biển Đông và Vịnh Thái Lan. - Hiệp định về phân định ranh giới trên biển Việt Nam - Thái Lan. Việt Nam và Thái Lan trước đây còn có bất đồng trong việc phân định biên giới biển giữa hai nước trong vịnh Thái Lan. Bất đồng này đã được giải quyết ngày 9/8/1997 bằng Hiệp định về biên giới biển Việt Nam - Thái Lan được ký kết. Hiệp định này đã xác định đường biên giới biển đồng thời phân định vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa hai nước. - Hiệp định về vùng nước lịch sử Việt Nam- Campuchia. Việt Nam và Campuchia là hai nước láng giềng có vùng biển kế cận nhau. Trong lịch sử, hai bên có vấn đề tranh chấp chủ quyền một số đảo ven bờ và chưa tiến hành đàm phán phân định ranh giới lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Ngày 07/7/1982, hai bên đã ký Hiệp định về vùng nước lịch sử, trong đó xác định rõ chủ quyền đảo của mỗi bên, thiết lập một vùng nước lịch sử chung hai bên cùng nhau kiểm soát và quản lý; các hoạt động đánh bắt hải sản được thực hiện theo tập quán cũ. - Hiệp định phân đinh Vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam- Trung Quốc. Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng, có chung đường biên giới. Giữa hai nước tồn tại một số vấn đề biên giới cả trên đất liền lẫn trên biển đang trong quá trình giải quyết. Tiếp theo việc hai nước ký Hiệp ước về biên giới trên đất liền năm 1999, trong năm 2000 hai nước cũng đã hoàn tất quá trình đàm phán kéo dài 27 năm từ năm 1974 và ký kết Hiệp định về phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa trong Vịnh Bắc Bộ. Nội dung chính của Hiệp định này là nhằm xác định đường biên giới lãnh hải và ranh giới đơn nhất cho cả vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa hai nước trong vịnh Bắc Bộ. Việt Nam và Trung Quốc cùng có thẩm quyền khai thác đối với vùng đánh cá chung rộng 30.5 hải lý tính từ đường phân định. - Hiệp định phân định thềm lục địa giữa hai nước Việt Nam – Indonesia. Trước khi tiến hành đàm phán phân định, giữa hai nước tồn tại một vùng chồng lấn khoảng 98.000 km2. Qua nhiều vòng đàm phán, vùng chồng lấn này đã dần được thu hẹp lại. Kết quả cuối cùng là việc ký kết Hiệp định ngày 26/6/2003 đã thiết lập thành công đường ranh giới thềm lục địa Việt Nam - Indonesia. Như vậy, những thành quả trên đây là kết quả của một quá trình hội nhập và đấu tranh ngoại giao lâu dài kéo dài hơn 27 năm của Đảng, Nhà nước ta để bảo vệ các quyền chủ quyền trên các vùng biển Việt Nam. 2. Tiếp cận vấn đề thông qua việc hoạch định các vùng biển Việt Nam có quyền chủ quyền trên cơ sở CƯLB 1982 và tuyên bố đơn phương của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, cũng như xây dựng và thực thi pháp luật trong nước. 2.1. Tuyên bố đơn phương về các vùng biển và quyền chủ quyền trên các vùng biển Việt Nam. Đây cũng là một biện pháp hết sức quan trọng trong việc khẳng định những vùng biển mà Việt Nam có quyền chủ quyền và là một công cụ hữu hiệu để bảo vệ quyền chủ quyền trên các vùng biển của nước ta. Việc hoạch định được thực hiện trên cơ sở tôn trọng CƯLB 1982 mà Việt Nam là thành viên, cũng như các điều ước (Hiệp định) đã kí với các quốc gia có liên quan và đưa ra những tuyên bố đơn phương về vấn đề này. Cụ thể: Tuyên bố ngày 12/05/1977 của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam; Tuyên bố ngày 12/11/1982 của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải. Theo Tuyên bố ngày 12/05/1977 đã nêu rõ: “Vùng tiếp giáp lãnh hải của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là vùng tiếp liền phía ngoài của lãnh hải Việt Nam có chiều rộng là 12 hải lý với lãnh hải Việt Nam thành một vùng biển rộng 24 hải lý từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của Việt Nam” (Điểm 2). Tuyên bố này, cũng khẳng định: Vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở, gộp trong nó cả vùng tiếp giáp lãnh hải (trong đó vùng đặc quyền kinh tế rộng 188 hải lý), Việt Nam có thẩm quyền riêng biệt nhằm mục đích kinh tế. Ngoài ra, Tuyên bố 12/05/1977 cũng tái khẳng định những quyền của Việt Nam và quyền, nghĩa vụ của quốc gia khác trong vùng này theo đúng các quy định của CƯLB 1982. Đối với thềm lục địa, Tuyên bố ngày 12/05/1977 của Việt Nam nêu rõ: “Thềm lục địa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển thuộc phần kéo dài tự nhiên của lục địa Việt Nam mở rộng ra ngoài lãnh hải Việt Nam cho đến bờ ngoài của rìa lục địa; nơi nào bờ ngoài của rìa lục địa cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lãnh hải Việt Nam không đến 200 hải lý thì thềm lục địa nơi ấy mở rộng ra 200 hải lý kể từ đường cơ sở đó” (điểm 4). Ngoài ra, Tuyên bố cũng tái khẳng định những quyền của Việt Nam và quyền, nghĩa vụ của các quốc gia khác theo đúng những quy định của CƯLB 1982. Như vậy, việc Việt Nam tiến hành hoạch định trên thực tiễn và đưa ra những tuyên bố đơn phương về các vùng biển mà nước ta có quyền chủ quyền theo đúng những quy định của CƯLB 1982 mà Việt Nam là thành viên cũng là một hành động nhằm bảo vệ quyền chủ quyền trên các vùng biển này, đặc biệt là khi có những tranh chấp xảy ra. 2.1. Tiếp cận vấn đề thông qua việc xây dựng và thực thi pháp luật trong nước. Trong hơn 10 gia nhập và thực hiện các ĐƯQT về biển nói trên, Nhà nước Việt Nam đã đơn phương ban hành nhiều VBQPPL để thực hiện. Đến nay chúng ta đã có một hệ thống pháp luật quốc gia tương đối đầy đủ phù hợp với luật quốc tế để thực hiện bảo vệ các vùng biển mà Việt Nam có quyên chủ quyền: Pháp luật về bảo vệ chủ quyền và an ninh trên biển (Ví dụ: Tuyên bố ngày 12/5/1977 của Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam về lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục dịa Việt Nam; Luật Biên giới quốc gia – 2003, Quyết định số 373/QĐ-TTG ngày 23/03/2010 phê duyệt Đề án đẩy mạnh công tác tuyên truyền về quản lý, bảo vệ và phát triển bền vững biển và hải đảo Việt Nam...). Pháp luật về khai thác tài nguyên thiên nhiên trên biển (Luật Thủy sản, Luật Dầu khí 1993. . .). Pháp luật về nghiên cứu khoa học biển (Nghị định 242 HĐBT/ ngày 5/8/1991...) Pháp luật về du lịch biển, đảo Việt Nam(Luật Du lịch...) Pháp luật về giao thông, vận tải biển (Bộ Luật Hàng hả 1990...) Pháp luật về đảm bảo trật tự, an toàn trên biển (Pháp lệnh lực lượng cảnh sát biển 1998...). Pháp luật về bảo vệ môi trường biển (Luật Bảo vệ môi trường – 2005...). Tình hình thực thi pháp luật bảo vệ biển. Việt Nam đã thực hiện thi đồng thời pháp luật quốc tế, pháp luật Việt Nam trên các vùng biển. Xác định đúng đắn vai trò của thực thi pháp luật là nhằm khẳng định quyền chủ quyền, tránh đối đầu và trừng trị, răn đe những hành vi vi phạm pháp luật trên biển bằng các biện pháp xử phạt hành chính hoặc hình sự (có thể phạt tiền tối đa lên tới 500 triệu VNĐ và các hình phạt bổ sung) nhằm bảo vệ quyền chủ quyền trên các vùng biền này. 4. Ngoài ra, trong thời gian qua Đảng và Nhà nước ta cũng đã thực hiện một loạt các biện pháp về: Chính trị, kinh tế, ngoại giao… Để đấu tranh và bảo vệ quyền chủ quyền trên các vùng biển Việt Nam. Có thể đến: Phong trào vận động đấu tranh của thanh viên và những người dùng mạng xã hội Yahoo bảo vệ Hoàng Sa, Trường sa trước những hành động của Trung Quốc. Bên cạnh đó là những biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước trên các vùng biển, sử dụng những chứng cứ lịch sử để đấu tranh bảo vệ các vùng biển Việt Nam…. II. Những tồn tại và hướng giải quyết. 1. Những tồn tại. Mặc dù đã có những hành động cụ thể để bảo về quyền chủ quyền trên các vùng biển Việt Nam và đã đạt được những kết quả nhất định, nhưng vẫn còn đó những tồn tại đến cả từ nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan: Tồn tại thứ nhất, việc phân định và cắm mốc các vùng biển Việt Nam còn chưa đúng theo những quy định của CƯLB 1982. Đó là đường cơ sở được đưa ra ở Tuyên bố tháng 11/1982 không phù hợp với CƯLB 1982. Trong vòng 2 năm sau khi Việt Nam đưa ra Tuyên bố này thì Hoa Kì, CHLB Đức, Thái Lan, Trung Quốc đã đưa ra những phản đối với lý do là với đường cơ sở này sẽ mở rộng các vùng biển mà Việt Nam có quyền chủ quyền và ảnh hưởng đến quyền chủ quyền của quốc gia láng giềng (đặc biệt là các nước ASEAN). Chính những phản đối này làm cho sự ủng hộ của quốc tế giảm đi đối với Việt Nam. Tồn tại thứ hai, Hệ thống pháp luật trong nước và việc thực thi pháp luật còn chưa đầy đủ và chưa hiệu quả. Đã hơn 10 năm từ khi Việt Nam từ khi Việt Nam là thành viên của CƯLB 1982 nhưng Việt Nam vẫn chưa ban hành Luật Biển Việt Nam – Luật chung, điều chỉnh các quan hệ phát sinh trên biển nhằm thực hiện quyền chủ quyền và bảo vệ quyền chủ quyền trên các vùng biển và hải đảo. Lực lượng thực thi pháp luật trên biển của Việt Nam còn mỏng, phương tiện cũ kĩ, lục hậu và thiếu trong khi các vùng biển Việt Nam lại rộng. Hơn nữa, các cơ chế quản lý biển còn thiếu. 2. Giải pháp khắc phục. Từ những tồn tại trên nhóm xin đưa ra một số phương hướng để khắc phục: - Giải quyết triệt để việc phân định các vùng biển mà Việt Nam có quyền chủ quyền trên cơ sở tôn trọng các CƯLB 1982 và các điều ước song phương và đa phương đã ký kết với các nước hữu quan. Thiện chí và sẵn sàng đám phán, ký kết những Hiệp định phân định biển với các quốc gia láng giềng còn lại. - Xây dựng và hoàn thiện pháp luật bảo vệ các vùng biển theo hướng đồng bộ (việc làm cần thiết trước tiên là ban hành Luật Biển Việt Nam- công cụ pháp luật hữu hiệu để quản lý và bảo vệ biển). Xây dựng môt cơ chế quản lý biển phù hợp với tình hình thực tế. Tăng cưởng và nâng cao hơn nữa hoạt động thực thi pháp luật quốc tế, pháp luật Việt Nam trên biển Việt Nam nhằm tạo ra một hành lang pháp lý vững chắc cho hoạt động tuần tra, kiểm soát và bảo vệ quyền chủ quyền. Đây là giải pháp có nhiều lợi thế nhất. - Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế- xã hội với bảo đảm quốc phòng- an ninh. Tăng cường ngân sách cho an ninh, quốc phòng trên biển để có thêm kinh phí đào tạo lực lượng (thành lập Vùng để bảo vệ thềm lục địa phía Nam) và mua sắm thêm thiết bị phương tiện để bảo vệ biển (đây cũng là ý kiến của nhiều Đại biểu Quốc hội trong các kì họp Quốc hội năm 2009). - Tích cực mở cửa, phát huy nội lực, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ và hợp tác quốc tế theo những nguyên tắc nhất định để bảo vệ vững chắc chủ quyền và quyền chủ quyền của tổ quốc. Tiếp tục đấu tranh bằng tất cả các biện pháp nhằm bào vệ vùng biển quyền chủ quyền còn đang tranh chấp với các nước láng giềng. Nâng cao ý thức bảo vệ biển của nhân dân, đặc biệt là những người dân sinh sống bằng khai thác các lợi thế của biển. KẾT THÚC VẤN ĐỀ Trong Hội nghị lần thứ 4 ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) đã thông qua Nghị quyết số 09- NQ/TW ngày 9/2/2007 “Về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020” trong đó nhấn mạnh “Thế kỷ XXI được thế giới xem là thế kỷ của đại dương”. Với tư cách là những công dân của quốc gia ven biển, thiết nghĩ, nhiệm vụ bảo vệ và phát triển các vùng biển Việt Nam không chỉ là nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước mà còn là trách nhiệm của mỗi công dân yêu nước./.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBảo vệ quyền chủ quyền trên các vùng biển Việt Nam – Những vẫn đề còn tồn tại và hướng khắc phục.doc