Tiêu chuẩn hiệu quả nhập khẩu là tiết kiệm lao động xã hội hay tăng
năng suất lao động xã hội. Nó không chỉ đơn thuần là tiết kiệm chi phí xã
hội cần thiết về lao động và lao động vật hoá cho sản xuất đơn vị sản phẩm
mà còn bao hàm cả ý nghĩa phát triển sản xuất. Tiêu chuẩn hiệu quả kinh tế
nhập khẩu được biểu hiện gián tiếp thông qua một hệ thống chỉ tiêu.
35 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2333 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Biện pháp hoàn thiện hoạt động nhập khẩu vật tư, máy móc, thiết bị giao thông vận tải, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mại Quốc tế là tất yếu khách quan tạo ra hiệu quả
kinh tế cao nhất trong nền sản xuất của mỗi quốc gia cũng như trên toàn thế
giới.
2. Vai trò của nhập khẩu hàng hoá nói chung và nhập khẩu máy
móc, thiết bị nói riêng trong nền kinh tế nước ta hiện nay.
Xuất nhập khẩu nói chung và nhập khẩu nói riêng là hoạt động kinh
doanh buôn bán ở phạm vi quốc tế. Nó không phải là những hành vi mua
bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán trong một nền
thương mại có tổ chức cả bên trong và bên ngoài nhằm mục đích đẩy mạnh
sản xuất hàng hoá phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong nước, ổn định
và từng bước nâng cao mức sống của nhân dân. Do đó xuất nhập khẩu nói
chung và nhập khẩu nói riêng là hoạt động kinh tế đối ngoại dễ đem lại
những hiệu quả đột biến rất cao, hoặc có thể gây thiệt hại vì nó phải đương
đầu với một hệ thống kinh tế khác từ bên ngoài mà các chủ thể tham gia
nhập khẩu không dễ dàng khống chế được.
Nhập khẩu là một hoạt động quan trọng của ngoại thương. Nhập khẩu
tác động một cách trực tiếp và quyết định đến sản xuất và đời sống trong
nước. Nhập khẩu để bổ sung các hàng hoá mà trong nước không sản xuất
được, hoặc sản xuất không đáp ứng được nhu cầu. Nhập khẩu còn để thay
thế, nghĩa là để nhập về hàng hoá mà nếu sản xuất trong nước sẽ không có
lợi bằng nhập khẩu.
Hai mặt nhập khẩu bổ sung và nhập khẩu thay thế nếu được thực hiện
tốt sẽ tác động tích cực đến sự phát triển nền kinh tế trong nước, trong đó
cân đối trực tiếp ba yếu tố sản xuất: Công cụ lao động, đối tượng lao động
và lao động đóng vai trò quan trọng nhất.
* Trong điều kiện nền kinh tế hiện nay của nước ta vai trò quan trọng
của nhập khẩu được thể hiện ở các khía cạnh sau:
- Nhập khẩu tạo điều kiện thúc đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ sở
vật chất kỹ thuật, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng từng bước công
nghiệp hoá đất nước.
- Nhập khẩu bổ sung kịp thời những mặt mất cân đối của nền kinh tế
đảm bảo phát triển nền kinh tế cân đối và ổn định.
- Nhập khẩu góp phần cải thiện và nâng cao mức sống của nhân dân.
Nhập khẩu vừa thoả mãn nhu cầu trực tiếp của nhân dân về hàng tiêu dùng,
vừa đảm bảo đầu vào cho sản xuất, tạo việc làm ổn định cho người lao
động.
- Nhập khẩu có vai trò tích cực thúc đẩy sản xuất, thể hiện ở chỗ nhập
khẩu tạo đầu vào cho hàng xuất khẩu, tạo môi trường thuận lợi cho việc
xuất khẩu hàng Việt Nam ra nước ngoài.
Nhập khẩu tăng khả năng tiêu dùng, đa dạng hoá mặt hàng, chủng
loại, qui cách, cho phép thoả mãn tốt hơn nhu cầu trong nước. Nhập khẩu
tăng cường sự chuyển giao công nghệ, tạo ra sự phát triển vượt bậc của sản
xuất xã hội, tiết kiệm được chi phí và thời gian. Đồng thời nhập khẩu cũng
tạo ra sự cạnh tranh giữa hàng nội và hàng ngoại tức là tạo ra động lực
buộc các nhà sản xuất trong nước phải không ngừng vươn lên, thúc đẩy sản
xuất trong nước.
* Ngày nay, nhập khẩu có những chức năng sau:
- Tạo vốn và kỹ thuật từ bên ngoài cho quá trình tái sản xuất trong
nước.
- Thay đổi cơ cấu vật chất của sản phẩm có lợi cho quá trình sản xuất
- Tăng hiệu quả của nền kinh tế thông qua lợi thế so sánh và tiếp thu
áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trên thế giới.
* Tính hiệu quả kinh tế của hoạt động nhập khẩu được thể hiện ở chỗ:
- Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, nâng cao thu nhập bình quân.
- Sử dụng tốt mọi khả năng, tiềm năng sản xuất.
- Ổn định giá cả chống lạm phát.
Nhà nước ta khuyến khích nhập khẩu các mặt hàng trong nước không
sản xuất được. Trong tình hình đó, các doanh nghiệp tronn nước muốn tồn
tại và phát triển được phải quan tâm hơn tới chất lượng và hạ giá thành sản
phẩm. Hàng hoá nhập khẩu không những mở rộng khả năng sản xuất tiêu
dùng trong nước mà còn góp phần không nhỏ vào việc nâng cao đời sống
tinh thần, nâng cao tầm hiểu biết của nhân dân về sự phát triển không
ngừng của thế giới.
Việt Nam là một nước nghèo và thiếu ngoại tệ để nhập khẩu máy móc,
thiết bị nhằm mục đích công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Theo số liệu của
Bộ Thương mại, xuất khẩu của Việt Nam hiện nay có thể bù đắp được 70 -
80% chỉ tiêu nhập khẩu. Trong tổng kim ngạch nhl hiện nay thì có đến 80 -
90% là nhập khẩu tư kiệu sản xuất, nhập khẩu hàng hoá tiêu dùng chỉ
chiếm một tỉ lệ không đáng kể.
Tuy nhiên, để phát huy được hết vai trò của hoạt động nhập khẩu thì
điều đó còn phụ thuộc rất nhiều vào đường lối, quan điểm của Đảng. Ở
nước ta trong cơ chế quan liêu, bao cấp tự cung, tự cấp, quan hệ chỉ bó hẹp
trong phạm vi một vài nước xã hội chủ nghĩa hoạt động nhập khẩu chỉ dựa
trên các khoản viện trợ và mua bán theo nghị định thư là chính, sự quản lý
quá cứng nhắccủa Nhà nước đã làm mất đi tính linh hoạt uyển chuyển và
tính hiệu quả của hoạt động nhập khẩu, không phát huy được vai trò của
hoạt động nhập khẩu trong nền kinh tế. Bên cạnh đó, chủ thể của hoạt động
nhập khẩu là những doanh nghiệp Nhà nước, độc quyền, thụ động, cơ cấu
cồng kềnh, trình độ cán bộ hạn chế, do vậy việc nhập khẩu đã mang lại
hiệu quả không cao, đặc biệt là nhập khẩu các máy móc thiết bị. Tất nhiên
những cái cũ không phù hợp với xu thế phát triển của thời đại sẽ bị diệt
vong và thay vào đó những cái mới tiến bộ hơn, đó là nền kinh tế thị trường
với cơ chế mở. Đấy chính là một bước ngoặt lớn cho nền kinh tế nói chung
và hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng. Tuy chỉ mới một thời gian ngắn
nhưng hoạt động nhập khẩu đã phát huy được vai trò quan trọng của nó,
nhập khẩu đã tạo ra thị trường trong nước sôi động, tràn ngập hàng hoá với
đủ các qui cách, chất lượng, chủng loại, mẫu mã đa dạng và phong phú, đáp
ứng được phần nào nhu cầu tiêu dùng trong nước. Bên cạnh đó nhập khẩu
cũng tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ, sự phá sản và sự cố gắng vươn lên của
các doanh nghiệp đủ các thành phần kinh tế, giúp nền kinh tế nước ta lúc
đầu còn bỡ ngỡ đã dần tạo thế chủ động bước vào thị trường thế giới. Thực
tế thời gian qua đã chứng minh sự ưu việt của nền kinh tế thị trường cũng
như khẳng định lại vai trò của nhập khẩu trong cơ chế mới.
Xuất nhập khẩu hàng hoá là một vấn đề hết sức quan trọng trong
Thương mại Quốc tế, đó là sự phát triển tất yếu của sản xuất và lưu thông
hàng hoá để tạo ra hiệu quả kinh tế cao nhất, cùng với xuất khẩu, nhập
khẩu có một vai trò không nhỏ trong quá trình phát triển nền kinh tế đất
nước. Thương mại Quốc tế chỉ ra và xác định rõ cho một nước biết đâu là
lợi thế của mình, chỉ ra hướng đi đúng đắn nên đầu tư vào đâu và lĩnh vực
nào là có lợi nhất. Nhập khẩu máy móc thiết bị hiện đại sẽ là nhân tố giúp
chúng ta giải quyết những vướng mắc mà các nước nghèo thường gặp phải.
Phương châm đó là vay mượn công nghệ nước ngoài trong thời kỳ đầu
công nghiệp hoá. Từng bước một chúng ta sẽ học tập và tìm cách cải tiến
những máy móc thiết bị kỹ thuật đã có vào sản xuất với hiêụ quả cao hơn.
Thực hiện nhập khẩu máy móc thiết bị công nghệ sẽ tạo cơ sở để tận
dụng nguồn lao động dư thừa trong nước, nâng cao trình độ kỹ năng của
người lao động. Mặt khác hàng hoá sản xuất ra từ máy móc thiết bị nhập
khẩu có chất lượng tốt hơn, mẫu mã đẹp hơn. Đó là một kích thích lớn đối
với sự cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp trong nước, đòi hỏi họ
phải phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, phân công lao động có hiệu
quả, tạo ra động lực cho sự phát triển của nền kinh tế trong nước. Như vậy
nhập khẩu là cầu nối tiêu dùng và sản xuất của ta với thế giới. Bên cạnh đó
việc nhập khẩumáy móc thiết bị công nghệ cần thiết cho nền kinh tế có thể
đem đến cho chúng ta cơ hội phát triển những ngành tiềm năng, là động lực
ban đầu để nâng cao xuất khẩu hàng hoá với chất lượng cao, mẫu mã phong
phú, dần dần hội nhập vào thị trường quốc tế.
3. Các chính sách nhập khẩu ở nước ta hiện nay.
Nhận thức được vai trò quan trọng của nhập khẩu, Đảng và Nhà nước
ta rất quan tâm đến đổi mới các chính sách nhập khẩu sao cho phù hợp với
tình hình hiện tại. với mục tiêu đó, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta đối
với hoạt động nhập khẩu nói riêng và các hoạt động ngoại thương, kinh tế
đối ngoại nói chung là:
- Quán triệt bài học kết hợp sức mạnh của dân tộc và sức mạnh thời
đại trong hoạt động.
- Mở rộng sự tham gia của các thành phần kinh tế và hoạt động dưới
sự quản lý thống nhất của Nhà nước.
- Coi trọng hiệu quả kinh tế xã hội trong hoạt động nhập khẩu tức là
không chỉ chạy theo mục đích lợi nhuận mà bất chấp, bỏ qua những lợi ích
xã hội mà ngược lại phải kết hợp một cách hài hoà các lợi ích. Ví dụ như
thu lợi nhuận nhưng cũng phải tạo ra công ăn việc làm, nâng cao uy tín và
địa vị của đất nước trên thương trường quốc tế.
Những quan điểm này được cụ thể hoá trong các nguyên tắc cơ bản
của chính sách nhập khẩu sau:
a. Sử dụng vốn nhập khẩu tiết kiệm, đem lại hiệu quả kinh tế cao:
Thực hiện nguyên tắc này có nghĩa là đòi hỏi các cơ quan quản lý
cũng như mỗi doanh nghiệp phải:
- Xác định mặt hàng nhập khẩu phù hợp với kế hoạch phát triển kinh
tế xã hội, khoa học kỹ thuật của đất nước.
- Sử dụng vốn tiết kiệm, dành ngoại tệ nhập vật tư, thiết bị sản xuất và
đời sống, khuyến khích sản xuất trong nước thay thế hàng xuất khẩu.
- Nghiên cứu thị trường để nhập được hàng hoá thích hợp với giá cả
có lợi, nhanh chóng phát huy tác dụng, đẩy mạnh sản xuất và nâng cao đời
sống nhân dân.
b. Nhập khẩu thiết bị kỹ thuật tiên tiến hiện đại:
c. Bảo vệ và thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, tăng nhanh xuất
khẩu.
Đây chính là những nguyên tắc cơ bản của chính sách nhập khẩu mà
Đảng và Nhà nước ta đề ra. Đây cũng được hiểu như là cách xử sự hay
đúng hơn là những quy tắc thực hiện trong hoạt động nhập khẩu sao cho
phù hợp với lợi ích của xã hội cũng như của các doanh nghiệp.
* Chính sách nhập khẩu của Việt Nam trong những năm tới:
Căn cứ vào mục tiêu của chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã
hội của nước ta đến năm 2000 và những nguyên tác cơ bản của chính sách
nhập khẩu. Chính sách nhập khẩu của nước ta trong những năm tới là:
- Nhập khẩu chủ yếu là vật tư phục vụ cho sản xuất (xăng dầu, phân
bón, sắt thép, bông, dụng cụ phụ tùng), hàng tiêu dùng thiết yếu mà trong
nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất chưa đáp ứng được nhu cầu. Hạn
chế nhập khẩu hàng tiêu dùng xa xỉ.
- Nhập khẩu thiết bị toàn bộ, dây chuyền sản xuất máy móc tiên tiến,
hiện đại, đổi mới công nghệ. Ưu tiên nhập khẩu kỹ thuật, công nghệ để chế
biến hàng xuất khẩu.
4. Tổng quát về tình hình nhập khẩu của nước ta trong những
năm qua.
Mở rộng thương mại quốc tế và các mối quan hệ kinh tế đối ngoại
khác là vận dụng một trong những bài học kinh nghiệm quí báu rút ra từ
thực tiễn nước ta trong những năm qua. Tại đại hội VI Ban chấp hành
Trung ươngĐảng đã nhấn mạnh "Nhiệm vụ ổn định và phát triển kinh tế
trong chặng đường đầu tiên cũng như sự phát triển khoa học kỹ thuật và
công nghiệp hoá XHCN của nước ta tiến hành nhanh hay chậm, đều đó phụ
thuộc một phần quan trọng vào việc mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế
đối ngoại".
Nền sản xuất xã hội nước ta hướng ra ngoài và được các nước bầu bạn
quốc tế hướng vào nước ta vừa làm kinh tế, vừa hỗ trợ giúp đỡ thì ta sẽ có
điều kiện cân đối được xuất nhập khẩu, tiến lên có "xuất siêu" và như vậy
là có được tích luỹ cho sản xuất mở rộng. Kinh tế quốc dân vững mạnh thì
uy tín chính trị cao và có điều kiện góp phần thúc đẩy sự tiến bộ của nhân
loaị. Trong điều kiện của thế giới hiện đại khi quá trình quốc tế hoá đời
sống kinh tế thế giới trở nên sâu rộng hơn bao giờ hết và khi cuộc cách
mạng khoa học kỹ thuật đã phát triển đến một trình độ cao, trở thành một
yếu tố không thể thiếu được cho sự phát triển của nền kinh tế, cho phép có
thể phân chia các giai đoạn của quá trình sản xuất thành những khâu khác
nhau và phân bố ở những vị trí cách nhau hợp lý thì không một nước nàocó
thể đóng cửa nền kinh tế, tự mình thực hiện một chính sách biệt lập tách
khỏi mối quan hệ cũng co lợi với thế giới bên ngoài. Nhận thức được điều
đó, Đảng và Nhà nước ta đã có những hướng đi mới trong đường lối chính
sách của mình. Trong nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, VIII,
Đảng đã nhấn mạnh tầm quan trọng của kinh tế đối ngoại đối với nhiệm vụ
ổn định và phát triển kinh tế của đất nước cũng như phát triển khoa học kỹ
thuật và công nghiệp.
Cho đến nay, tuy chưa lâu và cũng chưa phải là nhiều song chúng ta
cũng thấy được những kết quả đáng mừng từ chính sách mở rộng thương
mại, giao lưu kinh tế với bên ngoài. Nước ta đang từng bước chuyển mình
với nhịp độ sản xuất mới bằng những công nghệ, khoa học tiên tiến, kim
ngạch xuất nhập khẩu hàng năm ngày một tăng.
Bảng 1: Kim ngạch XNK Việt Nam từ năm 1991
Năm
Chỉ tiêu
1994 1995 1996 1997 1998 1999
Xuất khẩu 2.087 2.581 2.989 3.600 5.300 7.800
Nhập khẩu 2.338 2.541 2.879 4.500 7.500 8.150
Cán cân XNK -251 40 -890 -900 -2.200 -950
Tổng kim ngạch 4.425 5.122 5.868 8.100 18.800 15.350
Chú thích: Qua bảng trên ta thấy kim ngạch XNK nói chung và nhập
khẩu nói riêng tăng nhanh bình quân trên 20% môic năm thời kỳ từ 1994
tới nay. Cũng trong thời kỳ này tỷ trọng nhập khẩu hàng tiêu dùng tăng
chiếm trung bình 16%, nhập máy móc thiết bị giảm, nhưng tỉ trọng nguyên
vật liệu vẫn còn quá lớn, trung bình là 60% đặc biệt là xăng dầu, và vật liệu
xây dựng thị trường nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam vẫn là các nước châu
Á - Thái Bình Dương. Cho đến nay tuy vẫn là nước "nhập siêu" nhưng
chênh lệch xuất nhập khẩu ngày càng được thu hẹp.
5. Các hình thức nhập khẩu ở nước ta hiện nay:
Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu chỉ được tiến hành ở các doanh
nghiệp xuất khẩu trực tiếp nhưng trong thực tế, do tác động của điều kiện
kinh doanh và sự năng động sáng tạo của người kinh doanh mà đã tạo ra
nhiều hình thức nhập khẩu đa dạng khác nhau. Có thể kể ra ở đây một vài
hình thức nhập khẩu thông dụng đang được áp dụng tại các doanh nghiệp
nước ta hiện nay.
a. Nhập khẩu tư doanh:
Hoạt động nhập khẩu tư doanh là hoạt động nhập khẩu độc lập của
một doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp, doanh nghiệp phải nghiên cứu
thị trường trong và ngoài nước, tính toán chi phí đảm bảo kinh doanh nhập
khẩu có lãi, đúng phương hướng, chính sách, luật pháp quốc gia cũng như
quốc tế.
b. Nhập khẩu đổi hàng:
- Nhập khẩu đổi hàng: Nhập khẩu đổi hàng cùng với trao đổi bù trừ là
hai loại nghiệp vụ chủi yếu của buôn bán đối lưu. nó là một hình thức nhập
khẩu gắn liền với xuất khẩu, thanh toán không dùng tiền mà là hàng hoá, ở
đây, mục đích của nhập hàng không phải chỉ để thu lãi từ hoạt động nhập
mà còn nhằm để xuất được hàng, thu lãi từ hoạt động xuất.
c. Nhập uỷ thác:
- Nhập khẩu uỷ thác là hoạt động nhập khẩu hình thành giữa một
doanh nghiệp trong nước có vốn ngoại tệ riêng và có nhu cầu nhập khẩu
một số loại hàng hoá nhưng không có quyền tham gia quan hệ xuất nhập
khẩu trực tiếp đã uỷ thác cho doanh nghiệp có chức năng trực tiếp giao dịch
ngoại thương tiến hành nhập hàng theo yêu cầu của mình. Bên nhận uỷ thác
phải tiến hành đàm phán với nước ngoài để làm thủ tục nhập khẩu hàng hoá
theo yêu cầu của been uỷ thác và được hưởng một phần thù lao gọi là phí
uỷ thác.
d. Nhập khẩu liên doanh:
- Nhập khẩu liên doanh: là hoạt động nhập khẩu hàng hoá trên cơ sở
liên kết kinh tế một cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp trong đó có ít
nhấtmột doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp, nhằm phối hợp kỹ năng để
cùng giao dịch và đề ra các chủ trương biện pháp có liên quan đến hoạt
động nhập khẩu, thúc đẩy hoạt động này phát triển theo hướng có lợi nhất
cho cả hai bên cùng chia lãi hay cùng chịu lỗ.
e. Nhập khẩu tái xuất:
- Nhập khẩu tái xuất: là hoạt động nhập hàng nhưng không phải để
tiêu thụ trong nước mà để xuất khẩu sang một nước thứ ba nào đó nhằm
thoả mãn nhu cầu và thu lợi nhuận. Những hàng nhập khẩu này không
được qua chế biến ở nước tái xuất. Vậy kinh doanh theo phương thức tạm
nhập tái xuất là mua hàng của một nước (nước xuất khẩu ) để bán cho một
nước khác (nước nhập khẩu ) nhằm mục đích kiếm lời, có làm thủ tục nhập
khẩu hàng hoá vào Việt Nam trong một thời gian nhất định rồi tái xuất mà
không qua gia công chế biến.
Trên đây là các hình thức nhập khẩu phổ biến ở nước ta, căn cứ vào
tình hình của mỗi doanh nghiệp mà các doanh nghiệp lựa chọn hình thức
phù hợp.
II. NỘI DUNG CỦA HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ
TRONG DOANH NGHIỆP KINH DOANH XUẤT NHẬP KHẨU
Nhập khẩu là việc mua hàng hoá của nước ngoài nhằm phát triển sản
xuất kinh doanh và đời sống. Song việc mua hàng ở đây có những nét riêng
phức tạp hơn mua bán trong nước: như giao dịch với những người có quốc
tịch khác nhau, thị trường rộng lớn khó kiểm soát, mua bán qua trung gian
chiếm tỷ trọng lớn, đồng tiền thanh toán là ngoại tệ mạnh, hàng hoá phải
vận chuyển qua biên giới, cửa khẩu các quốc gia khác nhau, phải tuân thủ
các tập quán, thông lệ quốc tế cũng như của địa phương. Hoạt động nhập
khẩu được tổ chức thực hiện với nhiều nghiệp vụ nhiều khâu từ điều tra
nghiên cứu thị trường nước ngoài, lựa chọn hàng hoá nhập khẩu, đối tác,
tiến hành giao dịch đàm phán, ký két hợp đồng và tổ chức thực hiện hợp
đồng. Mỗi khâu, mỗi nghiệp vụ phải được nghiên cứu thực hiện đầy đủ, kỹ
lưỡng và đặt trong mối quan hệ lẫn nhau, tranh thủ nắm bắt được những lợi
thế đảm bảo cho hoạt động kinh doanh nhập khẩu đạt hiệu quả cao nhất.
Như vậy cho dù nhập khẩu hình thức nào đi nữa thì các bước tiến hành
nhập khẩu ở các doanh nghiệp xuất khẩu đều bao gồm các trình tự sau:
1. Nghiên cứu thị trường nhập khẩu, lựa chọn bạn hàng giao dịch.
Nghiên cứu thị trường bao gồm những bước sau:
a. Nghiên cứu mặt hàng nhập khẩu:
Mục đích của nghiên cứu mặt hàng nhập khẩu để tiến hành nhập đúng
chủng loại mà thị trường trong nước cần, kinh doanh có hiệu quả, đạt được
mục tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp. Việc nhận biết các mặt hàng nhập
khẩu trước hết căn cứ vào nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước về số
lượng, chất lượng, tính thời vụ, thị hiếu cũng như tập quán tiêu dùng của
từng vùng, từng lĩnh vực sản xuất. Từ đó tiến hành xem xét các khía cạnh
của hàng hoá cần nhập khẩu như: công cụ, đặc tính quy cách, phẩm chất
mẫu mã, giá cả, điều kiện mua bán, khả năng sản xuất, các dịch vụ kèm
theo v.v…
Để lựa chọn được mặt hàng kinh doanh, một nhân tố nữa phải được
tính đến, đó là tỷ suất ngoại tệ của các mặt hàng. trong nhập khẩu, tỷ suất
ngoại tệ là tổng số tiền bản tệ có thể thu được khi chỉ ra một đơn vị ngoại tệ
để nhập khẩu. Nếu tỷ suất ngoại tệ mặt hàng đó (VND/USD) lớn hơn tỷ giá
hối đoái trên thị trường thì việc chọn mặt hàng nhập khẩu là hiệu quả.
Ngoài ra, việc lựa chọn hàng hoá nhập khẩu còn phải dựa vào kinh ngiệm
của người nghiên cứu thị trường để dự đoán xu hướng biến động của giá cả
thị trường trong nước cũng như ngoài nước, khả năng thương lượng để đạt
tới điều kiện mua bán ưu thế hơn.
b. Nghiên cứu dung lượng thị trường và các nhân tố ảnh hưởng:
Dung lượng thị trường là khối lượng hàng hoá được giao dịch trên
một phạm vi thị trường nhất định, trong một thời gian nhất định (thường là
một năm). Nghiên cứu dung lượng thị trường phải xác định nhu cầu thật
của khách hàng và khả năng cung cấp của nhà sản xuất.
Nghiên cứu thị trường nhằm hiểu rõ hơn về quy luật vận động của thị
trường, được thể hiện qua sự biến động của nhu cầu và khả năng sản xuất
hàng hoá. Từ đó, người nhập khẩu có thể giải quyết hàng loạt vấn đề có
liên quan đến thị trường. Đối với người nhập khẩu tìm hiểu dung lượng thị
trường là rất quan trọng.
Dung lượng thị trường không cố định, nó thay đổi tuỳ theo tình hình
do tác động tổng hợp của nhiều nhân tố trong thời gian nhất định. Các nhân
tố ảnh hưởng đến dung lượng thị trường có thể chia làm 3 nhóm, căn cứ
vào thời gian ảnh hưởng của chúng với thị trường.
* Các nhân tố làm cho dung lượng thị trường biến động có tính chu
kỳ:
Đó là sự vận động của tình hình kinh tế các nước trên thế giới đặc biệt
là các tư bản chủ nghĩa và tính chất thời vụ trong sản xuất, lưu thông và
phân phối hàng hoá. Sự vận động của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa là nhân
tố quan trọng ảnh hưởng tói tất cả các thị trường, đặc biệt là thị trường tư
liệu sản xuất. Sự ảnh hưởng này có thể phạm vi thế giới hoặc khu vực. Khi
nền kinh tế tư bản chủ nghĩa rơi vào khủng hoảng thì dung lượng thị trường
bị co hẹp còn ngược lại thì dung lượng thị trường mở rộng.
Như đã nói ở trên một nhân tố nữa làm dung lượng thị trường thay đổi
có tính chất vhu kỳ là tính thời vụ của sản xuất. Nhân tố này ảnh hưởng tới
dung lượng thị trường hàng hoá trong khâu sản xuất và lưu thông hàng hoá
ở phạm vi, mức độ khác nhau.
* Các nhân tố ảnh hưởng lâu dài đến dung lượng thị trường: Các nhân
tố thuộc nhóm này tương đối nhiều dưới đây là một số nhân tố cơ bản:
- Tiến bộ khoa học kỹ thuật: Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật,
sản xuất và nhu cầu về hàng hoá cũng được mở rộng, có nghĩa là dung
lượng thị trường cũng thay đổi. Đặc biệt đối với máy móc thiết bị, nhu cầu
nhập khẩu ở các nước kém phát triển không ngừng tăng lên, làm ảnh hưởng
tới dung lượng thị trường.
- Các chính sách của Nhà nước và tập đoàn lũng đoạn (Tập đoàn sản
xuất lớn) .
- Thị hiếu tập quán của người tiêu dùng, khả năng sản xuất hàng thay
thế.
* Các nhân tố ảnh hưởng tạm thời đến dung lượng thị trường: bao
gồm các hiện tượng đầu cơ gây ra những đột biến về cung và cầu, các yếu
tố tự nhiên như thiên tai, động đất, bão lũ, hạn hán… Các yếu tố về chính
trị xã hội như đình công v.v…
Trên đây là những nhân tố ảnh hưởng đến sự biến động của dung
lượng thị trường. Khi nghiên cứu phải thấy rõ nhân tố nào có ý nghĩa quyết
định đến xu hướng vận động của thị trường trong giai đoạn hiện nay và
tương lai. Điều đó có ý nghĩa quan trọng trong kinh doanh xuất nhập khẩu
hàng hoá, giúp cho nhà kinh doanh xuất nhậpddeef ra các quyết định kịp
thời, nhanh chóng đạt hiệu quả cao nhất.
c. Lựa chọn đối tượng giao dịch
trong Thương mại Quốc tế, bạn hàng hay khách hàng là những người
hoặc những tổ chức có quan hệ giao dịch với ta nhằm thực hiện các quan hệ
hợp đồng mua bán hàng hoá, dịch vụ, các hoạt động hợp tác kinh tế hay
khoa học kỹ thuật liên quan đến việc cung cấp hàng hoá, dịch vụ, các hoạt
động hợp tác kinh tế hay khoa học kỹ thuật liên quan đến việc cung cấp
hàng hoá. Lựa chọn đối tượng giao dịch bao gồm vẫn đề lựa chọn nước để
giao dịch và lựa chọn thương giao dịch.
- Khi chọn nước để nhập khẩu hàng hoá nhằm đáp ứng nhu cầu trong
nước chúng ta cần phải nghiên cứu tình hình sản xuất của nước đó, khả
năng và chất lượng hàng xuất khẩu, chính sách và tập quán thương mại của
nước đó.
- Chọn thương nhân để giao, trong điều kiện cho phép, hiệu quả nhất
là nên chọn những người xuất nhập khẩu trực tiếp. Nội dung cần thiết để
nghiên cứu lựa chọn thương nhân bao gồm: quan điểm kinh doanh của
thương nhân đó, lĩnh vực kinh doanh của họ, khả năng vốn và cơ sở vật
chất, uy tín và mối quan hệ trong kinh doanh của họ.
d. Nghiên cứu giá cả hàng hoá nhập khẩu:
Giá cả biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá, đồng thời biểu hiện
một cách tổng hợp các hoạt động kinh tế, các mối quan hệ kinh tế trong nền
kinh tế quốc dân. Giá cả luôn luôn gắn liền với thị trường và là một yếu tố
cấu thành thị trường.
Trong buôn bán quốc tế, giá cả lại càng phức tạp càng phức tạp do
việc mua bán diễn ra giữa các khu vực khác nhau, trong một thời gian dài
và các chính sách thuế khác nhau. Nghiên cứu giá cả thị trường là một bộ
phận của nghiên cứu thị trường và bao gồm công việc như: nghiên cứu mức
giá từng mặt hàng tại từng điểm trên thị trường, xu hướng biến động và các
nhân tố ảnh hưởng tới nó, các loại giá.
Giá quốc tế có tính chất đại diện đối với loại hàng hoá nhất định trên
thị trường thế giới và là giá của những giao dịch thương mại thông thường,
không kèm theo một điều kiện đặc biệt nào và thanh toán bằng ngoại tệ tự
do chuyển đổi.
Xu hướng biến động giá cả các loại hàng hoá trên thị trường thế giới
rất phức tạp nhưng nói chung có tính tạm thời. Giá cả trên thị trường thế
giới luôn biến động do các nguyên nhân sau:
+ Nhân tố chu kỳ: là sự vận động có quy luật của nền kinh tế, là nhân
tố cơ bản ảnh hưởng đến sự biến động giá cả của tất cả các loại hàng hoá.
+ Nhân tố lũng đoạn: Làm xuất hiện nhiều mức giá của cùng một loại
hàng trên các thị trường khác nhau thậm chí trên cùng một thị trường.
+ Nhân tố cạnh tranh: Làm cho giá cả biến động theo xu hướng khác
nhau tuỳ thuộc đối tượng tham gia cạnh tranh là người mua hay người bán.
+ Nhân tố cung cầu: ảnh hưởng trực tiếp tới giá cả hàng hoá.
+ Nhân tố thời vụ: Giá cả biến động theo từng mùa vụ.
Ngoài ra còn các nhân tố ảnh hưởng tới sự biến động của giá cả hàng
hoá như lạm phát, các chính sách của Nhà nước, tình hình chính trị xã hội.
Qua trên khi định giá nhập khẩu cho một loại hàng hoá, chúng ta cần
phải tham khảo giá xuất khẩu mặt hàng đó đi các thị trường khác, cước phí
vận tải… và với mức giá đó cộng với các chi phí có liên quan liệu có phù
hợp với thị trường trong nước hay không.
Tóm lại qua nghiên cứu những nhân tố trên đây cho phép chúng ta
biết rõ về thị trường và quy luật vận động của nó. Điều cần lưu ý trong quá
trình nghiên cứu thị trường và phân tích thông tin thị trường chúng ta nên
lựa chọn cho mình thị trường trọng điểm và lựa chọn kinh doanh mặt hàng
có hiệu quả nhất. Đồng thời chúng ta sắp xếp thứ tự ưu tiên cho từng thị
trường đối với từng mặt hàng cụ thể để sau này chúng ta có lựa chọn đối
tác giao dịch phù hợp với mình và lựa chọn mặt hàng kinh doanh đảm bảo
thực hiện được mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận.
2. Đàm phán, ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu hàng hoá
a. Đặt hàng và hỏi hàng trong thương mại quốc tế:
- Đặt hàng là lời đề nghị của nhà nhập khẩu gửi cho nhà xuất khẩu
biểu thị muốn mua hàng hoá hoặc dịch vụ nhất định theo những điều kiện
nhất định về giá cả, thời gian giao hàng, phương thức thanh toán.
- Chào hàng là lời đề nghị của nhà xuất khẩu gửi cho nhà nhập khẩu
thể hiện ý định muốn bán theo những điều kiện nhất định về giá cả, thời
gian giao hàng và phương thức thanh toán. Đây là các lời đề nghị ký kết
hợp đồng, hai bên chưa có gì ràng buộc với nhau.
b. Đàm phán và ký kết hợp đồng
Sau khi nhận được thủ tục chào hàng hay đặt hàng và có sự trả lời từ
phía bên kia, hai bên tổ chức đàm phán, thương lượng để đi đến một thoả
thuận chung về điều mua bán và tiến hành ký kết hợp đồng.
b1. Đàm phán: là việc bàn bạc trao đổi với nhau các điều kiện mua
bán giữa các nhà kinh doanh để đi đến thống nhất ký hợp đồng. Trong
Thương mại Quốc tế thường có 3 hình thức đàm phán sau:
- Đàm phán qua thư tín
- Đàm phán qua điện thoại.
- Đàm phán bằng cách gặp gỡ trực tiếp.
Mỗi hình thức đàm phán đều có ưu nhược điểm nhất định, tuỳ từng
trường hợp cụ thể mà lựa chọn hình thức đàm phán cho phù hợp. Chẳng
hạn trong trường hợp nhập khẩu máy móc thiết bị đòi hỏi phải có kinh
nghiệm về kỹ thuật và nên áp dụng hình thức đàm phán trực tiếp là tốt nhất.
b2. Các bước đàm phán trong nhập khẩu bao gồm:
- Hỏi giá
- Chào hàng (phát giá)
- Hoàn giá (mặc cả)
- Chấp nhận
- Xác nhận
b3. Hợp đồng kinh tế về nhập khẩu hàng hoá (hau hợp đồng nhập
khẩu)
Hợp đồng kỹ thuật ngoại thương là sự thoả thuận của đương sự có
quốc tịch khác nhau trong đó một bên gọi là bên bán (hay bên xuất khẩu )
có nghĩa vụ phải chuyển vào quyền sở hữu của bên kia gọi là bên mua (hay
bên nhập khẩu) một tài sản nhất định gọi là hàng hoá. Bên mua có trách
nhiệm trả tiền và nhận hàng.
Hình thức hợp đồng bằng văn bản là một hình thức bắt buộc đối với
các đơn vị xuất nhập khẩu ở nước ta. Các điều khoản trong hợp đồng do
bên mua và bên bán thoả thuận chi tiết, mặc dù trước đó đơn đặt hàng và
chào hàng, nhưng vẫn phải thiết lập văn bản hợp đồng sao cho có cơ sở
pháp lý cụ thể để tạo điều kiện cho các hoạt động trao đổi hàng hoá từ quốc
gia nàysang quốc gia khác và làm căn cứ cho việc xác định lỗi (trách
nhiệm) khi có tranh chấp xảy ra.
* Hợp đồng kinh tế ngoại thương có vai trò rất quan trọng vì:
+ Đây là bằng chứng để bảo vệ quyền lợi của các bên tham gia ký kết.
+ Đây là bằng chứng để quy trách nhiệm cho bên vi phạm hợp đồng.
+ Hợp đồng kinh tế ngoại thương tạo điều kiện thuận lợi cho việc
thống kê, theo dõi và kiểm tra việc thực hiện hợp đồng.
* Đặc điểm của hợp đồng kinh tế ngoại thương:
+ Chủ thể của hợp đồng mua bán ngoại thương là các pháp nhân có
quốc tịch khác nhau.
+ Hàng được chuyển từ nước này sang nước khác
+ Đồng tiền thanh toán trong hợp đồng là ngoại tệ hay có nguồn gốc
ngoại lệ đối với một trong hai bên ký kết hợp đồng.
* Trong buôn bán quốc tế có thể có nhiều phương thức ký kết hợp
đồng khác nhau:
+ Hai bên cũng ký kết vào một hợp đồng mua bán (một văn bản)
+ Người mua xác nhận (bằng văn bản) là người mua đã đồng ý với các
điều kiện và điều khoản của một chủ chào hàng tự do nếu người mua viết
dùng thủ tục cần thiết và trong thời hạn hiệu lực của thư chào hàng.
+ Người bán xác nhận (bằng văn bản) đơn đặt hàng của người mua
trong thời hạn hiệu lực của đơn đặt hàng.
+ Trao đổi bằng thư xác nhận đạt được những điều thoả thuận trong
đơn đặt hàng trước đây của hai bên (nêu rõ những điều kiện đã được thoả
thuận).
Hợp đồng chỉ có thể coi như đã ký kết chỉ trong trường hợp các bên đã
ký vào hợp đồng. Các bên tham gia ký kết hợp đồng phải có đủ năng lực
hành vi và năng lực pháp luật và có đủ thẩm quyền.
* Nội dung của hợp đồng mua bán ngoại thương bao gồm những diều
khoản chính sau:
+ Tên hàng
+ Số lượng và cách xác định. Đặc biệt lưu ý tới từng loại hàng, để xác
định số lượng cho chuẩn xác (thành phần, mức hao hụt tự nhiên…)
+ Qui cách, phẩm chất và cách xác định.
+ Đóng gói, bao bì mã ký hiệu phải phù hợp với hàng hoá.
+ Thời hạn, phương tiện và địa điểm giao hàng.
+ Giá cả, giá trị, điều kiện giao hàng.
+ Phương thức thanh toán và chứng từ thanh toán.
+ Bảo hiểm.
+ Phạt và bồi thường thiệt hại
+ Tranh chấp và giải quyết tranh chấp.
+ Bảo hành, khiếu nại.
+ Kiểm tra và giám định hàng hoá, xuất khẩu
+ Trường hợp bất khả kháng.
+ Các điều khoản khác.
c. Tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu.
Việc tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu bao gồm các bước sau:
c1. Xin giấy phép nhập khẩu:
Xin giấy phép nhập khẩu là vấn đề quan trọng đầu tiên về mặt pháp lý
để tiến hành các khâu tiếp theo trong quá trình nhập khẩu hàng hoá, nếu
hàng hoá có trong nghị định thư thì không cần phải xin phép. Hiện nay,
việc cấp giấy phép xuất nhập khẩu được qui định như sau:
- Bộ thương mại cấp giấy phép xuất nhập khẩu từng chuyến hàng mậu
dịch.
- Tổng cục Hải quan cấp giấy phép hàng phi mậu dịch.
* Hồ sơ xin cấp giấy phép bao gồm:
+ Đơn xin phép
+ Phiếu hạn ngạch
+ Bản sao hợp đồng đã ký kết với nước ngoài hoặc bản sao L/Cư
Mỗi giấy phép chỉ cấp cho một chủ hàng kinh doanh để xuất nhập
khẩu một hoặc một số mặt hàng với một nước nhất định, chuyên trở bằng
phương thức vận tải và giao nhận tại một địa điểm nhất định.
c2. Mở L/C: Nừu là phương thức thanh toán tín dụng chứng từ, bên
mua phải làm thủ tục mở L/C khi bên bán yêu cầu. L/C là một văn bản
pháp lý trong đó ngân hàng mở L/C cam kết trả tiền cho người xuất khẩu
nếu họ trình được bộ chứng từ thanh toán phù hợp với nội dung của L/C.
Các đặc điểm của L/C xin trình bày thêm ở phần thanh toán.
c3. Thuê tầu chỏ hàng (Hoặc uỷ thác thuê tàu)
Trong trường hợp nhập khẩu FOB chúng ta phải tiến hành thuê tàu
dựa vào các căn cứ sau đây:
+ Những điều khoản của hợp đồng
+ Đặc điểm của hàng hoá mua bán
+ Điều kiện vận tải.
Tuỳ vào khối lượng và đặc điểm hàng hoá cần chuyên chở mà lựa
chọn thuê tàu cho phù hợp, đảm bảo thuận lợi và nhanh chóng. Chẳng hạn
đối với hàng hoá có khối lượng nhỏ thường thuê tàu chợ, hàng có khối
lượng lớn, phức tạp phải thuê tầu chuyến. Hiện nay do điều kiện về tàu của
chúng ta rất hạn chế và việc thuê tàu nước ngoài đối với doanh nghiệp Việt
Nam không dễ lắm nên chúng ta thường nhập khẩu theo điều kiện CIF.
c4. Mua bảo hiểm:
Chuyên chở hàng hoá bằng đường biển thường gặp rủi ro và tổn thất.
Bởi vậy, trong kinh doanh Thương mại Quốc tế, bảo hiểm đường biển là
loại hình bảo hiểm phổ biến nhất. Các đơn vị kinh doanh khi mua bảo hiểm
phải làm một hợp đồng bảo hiểm với Công ty bảo hiểm. Tuỳ thuộc vào đặc
điểm và tính chất của hàng hoá, điều kiện vận chuyển mà mua bảo hiểm
chuyến hay bảo hiểm bao(một khoảng thời gian nhất định).
c5. Làm thủ tục hải quan
Hàng hoá vận chuyển qua biên giới quốc gia để nhập khẩu hay xuất
khẩu đều phải làm thủ tục hải quan. Thủ tục hải quan là một công cụ quản
lý hành vi mua - bán theo pháp luật của Nhà nước để ngăn chặn buôn lậu:
Việc làm thủ tục hải quan bao gồm 3 bước chủ yếu sau:
+ Khai báo hải quan: chủ hàng phải kê khai chi tiết về hàng hoá lên tờ
khai hải quan để cơ quan hải quan kiểm tra các thủ tục giấy tờ (giấy phép
xuất nhập khẩu, hợp đồng mua bán…)
+ Xuất trình hàng hoá: Hàng hoá phải được xếp trật tự, thuận tiện cho
việc kiểm soát. Hải quan đối chiếu hàng hoá trong tờ khai với thực tế để
quyết định có cho hàng qua biên giới hay không.
+ Thực hiện các qui định của hải quan: Sau khi kiểm tra giấy tờ, hàng
hoá, hải quan quyết định có cho hàng hoá qua biên giới hay không, hoặc
cho qua với các điều kiện mà chủ hàng phải thực hiện nghiêm chỉnh. Nếu
vi phạm các quyết định của hải quan sẽ bị xử phạt tuỳ theo mức độ nặng
nhẹ.
c6. Nhận hàng nhập khẩu: Theo nghị định 200/CP ngày 31/12/93 của
Nhà nước thì mọi việc giao nhận hàng hoá đều phải uỷ thác qua cảng. Khi
hàng về, cảng báo cho chủ hàng biết và chủ hàng sẽ làm các thủ tục nhận
hàng.
c7. Kiểm tra hàng hoá.
Sau khi nhận hàng, bên nhập khẩu làm thủ tục kiểm tra qui cách phẩm
chất hàng nhập. Thông thường hai bên lựa chọn một cơ quan giám định
chẳng hạn như Vinacotrol.
c8. Thanh toán tiền hàng nhập khẩu.
Nghiệp vụ thanh toán là sự vận dụng tổng hợp các điều kiện thanh
toán quốc tế, là nghiệp vụ quan trọng và cuối cùng trong việc thực hiện hợp
đồng xuất nhập khẩu. Trong kinh doanh Thương mại Quốc tế hiện nay có
rất nhiều phương thức thanh toán khác nhau như: phương thức nhờ thu,
phương thức chuyển tiền, phương thức tín dụng chứng từ và phương thức
chuyển tiền được sử dụng phổ biến nhất.
* Phương thức tín dụng hứng từ (thanh toán bằng thư tín dụng L/C:
Letter ò credit)
Phương thức tín dụng chứng từ là một sự thoả thuận trong đó một ngâ
hàng (ngân hàng mở L/C) theo yêu cầu của khách hàng (người nhập khẩu)
trả tiền cho người thứ 3 hoặc bất cứ người nào theo lệnh của người thứ 3 đó
(người hưởng lợi) hoặc sẽ trả, chấp nhận, mua hối phiếu do người hưởng
lợi phát hành hoặc cho phép một ngân hàng khác trả tiền, chấp nhận, hay
mua hối phiếu khi xuất trình đầy đủ các bộ chứng từ đã qui định và mọi
điều kiện đặt ra đều được thực hiện đầy đủ.
* Phương thức chuyển tiền
Là phương thức trong đó người mua (người nhập khẩu ) yêu cầu ngân
hàng của mình chuyển một số tiền nhất định cho người xuất khẩu (người
hưởng lợi) tại một địa điểm nhất định.
III. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU
HÀNG HOÁ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG .
Sự biến động của tất cả các sự vật hiện tượng đều có những nguyên
nhân trực tiếp hay gián tiếp trong mối quan hệ hữu cơ với nhau. Hoạt động
nhập khẩu cũng vậy, luôn luôn thay đổi tuỳ theo diễn biến của rình hình do
tác động tổng hợp của nhiều nhân tố trong những giai đoạn nhất định.
1. Chế độ, chính sách, luật pháp trong nước cũng như quốc tế
Đây là yếu tố mà các doanh nghiệp xuất nhập khẩu buộc phải nắm
chắc và tuân theo một cách vô điều kiện bởi vì nó có thể hiện ý chí của giai
cấp cầm quyền ở mỗi nước, sự thống nhất của quốc tế, nó bảo vệ lợi ích
chung của các tầng lớp trong xã hội cũng như lợi ích chung của nước trên
thương trường quốc tế. Hoạt động nhập khẩu được tiến hành giữa các chủ
thể ở các quốc gia khác nhau, bởi vậy nó chịu sự tác động của chính sách,
chế độ luật pháp ở các quốc gia đó, đồng thời hoạt động nhập khẩu cũng
phải tuân theo những qui định, luật pháp quốc tế chung. Luật pháp quốc tế
buộc các nước vì lợi ích chung phải thực hiện đầy đủ trách nhiệm và nghĩa
vụ của mình trong hoạt động nhập khẩu, do đó tạo nên sự tin tưởng cũng
như hiệu quả cao trong hoạt động này.
2. Ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái và tỷ suất ngoại tệ hàng nhập
khẩu:
Nhân tố này quyết định việc mặt hàng, bạn hàng, phương án kinh
doanh, quan hệ kinh doanh của không chỉ một doanh nghiệp xuất nhập
khẩu mà tới tất cả các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nói chung.
Sự biến đổi lớn trong tỉ trọng xuất khẩu và nhập khẩu, chẳng hạn, khi
tỉ giá hối đoái của đồng tiền thuận lợi cho việc nhập khẩu thì nó lại bất lợi
cho việc xuất khẩu và ngược lại. Tương tự tỉ suất ngoại tệ thay đổi giữa các
mặt hàng cũng như phương án kinh doanh của các doanh nghiệp xuất khẩu.
3. Ảnh hưởng của biến động thị trường trong nước và ngoài nước
Có thể hình dung hoạt động nhập khẩu như là một chiếc cầu nối thông
thương giữa thị trường hai nước, tạo ra sự phù hợp, gắn bó cũng như phản
ánh sự tác động qua lại giữa chúng, phản ánh sự biến động của mỗi thị
trường. Cụ thể như sự tồn đọng hàng hoá, giá cả, giảm nhu cầu về một mặt
ở thị trường trong nước sẽ làm ngay lập tức lượng hàng nhập khẩu. Cũng
như vậy, thị trường ngoài nước quyết định tới sự thoả mãn các nhu cầu trên
thị trường trong nước, sự biến động củ nó về khả năng cung cấp, về sản
phẩm mới về sự đa dạng của hàng hoá dịch vụ cũng được phản ánh qua
chiếc cầu nhập khẩu để tác động vào thị trường nội địa.
4. Ảnh hưởng của nền sản xuất trong nước cũng như của các
doanh nghiệp kinh doanh thương mại trong và ngoài nước.
Sự phát triển của nền sản xuất, của những doanh nghiệp sản xuất trong
nước tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ với sản phẩm nhập khẩu, tạo ra sản
phẩm thay thế hàng nhập khẩu, do vậy làm giảm nhu cầu hàng nhập khẩu
và nếu như sản xuất kém phát triển, không thể sản xuất được những mặt
hàng đòi hỏi kỹ thuật sản xuất cao thì nhu cầu về hàng nhập khẩu tăng lên,
do đó ảnh hưởng tới hoạt động nhập khẩu.
Ngược lại sự phát triển của nền sản xuất ở nước ngoài làm tăng khả
năng của sản phẩm nhập khẩu, tạo ra sản phẩm nhập khẩu, tạo ra sản phẩm
mới, hấp dẫn phù hợp với nhu cầu, hiện đại, do vậy thúc đẩy hoạt động
nhập khẩu. Tuy nhiên không phải là lúc nào sản xuất ở trong nước phát
triển thì hoạt động nhập khẩu bị thu hẹp mà nhiều khi để tranh sự độc
quyền, tạo ra sự cạnh tranh hoạt động nhập khẩu lại được khuyến khích
phát triển. Trái lại để bảo vệ sản xuất trong nước khi nền sản xuất nước
ngoài phát triển thì hoạt động nhập khẩu có thể bị thu hẹp và kiểm soát chặt
chẽ.
Cũng như sản xuất, sự phát triển của hoạt động thương mại trong và
ngoài nước của các doanh nghiệp thương mại quyết định đến sự chu
chuyển, lưu thông hàng hoá trong nền kinh tế hay giữa các nền kinh tế các
nước khác, bởi vậy tạo thuận lợi cho đẩy nhanh công tác nhập khẩu. Mặt
khác, do chủ thể của hoạt động nhập khẩu chính là những doanh nghiệp
kinh doanh xuất nhập khẩu nên sự phát triển của những doanh nghiệp này
đồng nghĩa với sự thực hiện một cách có hiệu quả các hoạt động nhập
khẩu. Trong một nước mà các doanh nghiệp không được tự do phát triển, bị
sự can thiệp quá sâu của Nhà nước thì hoạt động nhập khẩu cũng không thể
phát huy được, không thể vươn mạnh ra nước ngoài tạo ra sự tụt hậu của
nền kinh tế.
5. Ảnh hưởng của hệ thống giao thông vận tải - liên lạc
Việc thực hiện hoạt động nhập khẩu không thể tách rời với công việc
vận chuyển và thông tin liên lạc, vì nhờ có thông tin liên lạc hoạt động mà
các nước cách xa nhau vẫn thông tin được với nhau để thoả thuận tiến hành
hợp đồng một cách kịp thời. Do đó việc nghiên cứu áp dụng những phương
tiện thông tin liên lạc vào giao thông vận tải là một nhân tố quyết định rất
lớn đến sự phát triển của hoạt động nhập khẩu.
Thực tế cho thấy rằng sự phát triển của hệ thống thông tin như FAX,
TELEX, DHL, VMS… đã đơn giản hoá các khâu công việc của hoạt động
nhập khẩu rất nhiều, giảm bớt hàng loạt chi phí, nhanh gọn kịp thời, chính
xác. Việc hiện đại hoá các phương tiện vận chuyển bốc rỡ bảo quản… cũng
đã góp phần làm cho quá trình nhập khẩu được nhanh chóng an toàn và
hiệu quả.
6. Ảnh hưởng của hệ thống tài chính, ngân hàng
Hiện nay, hệ thống tài chính ngân hàng đã phát triển hết sức lớn mạnh
và hiện đại, có liên quan chặt chẽ tới các hoạt động của doanh nghiệp trong
nền kinh tế dù lớn hay nhỏ ở bất cứ thành phần kinh tế nào bởi vai trò quan
trọng của nó trong việc quản lý, cung cấp vốn, thanh toán một cách thuận
tiện, nhanh chóng, chính xác. Hoạt động nhập khẩu ngày nay sẽ không
được thực hiện nếu như không có hệ thống ngân hàng. Dựa trên các mối
quan hệ, uy tín, nghiệp vụ của mình, các ngân hàng đã đảm bảo được lợi
ích của các doanh nghiệp tham gia hoạt động nhập khẩu. Đồng thời với
lòng tin của các doanh nghiệp tham gia hoạt động nhập khẩu. Đồng thời
với lòng tin của các ngân hàng, các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập
khẩu cũng có thể được ngân hàng đứng ra bảo lãnh hay cho vay với khối
lượng lớn, kịp thời tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nắm bắt được
những thời cơ hấp dẫn.
7. Các nhân tố thuộc về môi trường kinh doanh.
Mỗi doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường đều có một môi
trường kinh doanh nhất định. Môi trường kinh doanh vừa tạo ra những tiền
đề và điều kiện thuận lợi cho việc kinh doanh vừa có những tác động xấu
đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đặc biệt, với các doanh
nghiệp ngoại thương, môi trường kinh doanh rất quan trọng bởi kinh doanh
thương mại quốc tế phức tạp và phong phú hơn rất nhiều so với kinh doanh
trong nước. Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm hai môi
trường: môi trường vi mô (gồm các yếu tố khách hàng, tiềm năng và mục
tiêu của doanh nghiệp, người cung ứng… hợp thành) và môi trường vĩ mô
(gồm các nhân tố chính trị pháp luật, kinh tế, kỹ thuật và công nghệ, văn
hoá xã hội, môi trường tự nhiên và cơ sở hạ tầng … hợp thành). Như vậy
muốn thành công các doanh nghiệp phải nắm rõ được các nhân tố này.
Hiện nay Nhà nước chủ trương đa dạng hoá các thành phần kinh tế, tự
do buôn bán kinh doanh xuất nhập khẩu trong khuôn khổ pháp luật. Một
doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu phải cạnh tranh với các đơn vị
kinh tế khác thuộc tất cả các thành phần kinh tế. Chính vì thế luôn luôn có
các cuộc cạnh tranh thực sự giữa các doanh nghiệp. Yếu tố này đặt các
doanh nghiệp ngoại thương đứng trước vấn đề sống còn trong kinh doanh.
Yừu tố cạnh tranh này buộc các doanh nghiệp phải nhạy bén linh hoạt với
thị trường, nắm bắt được thời cơ. Khác với cơ chế cũ ngày nay các doanh
nghiệp phải tự giao dịch, tìm nguồn hàng, đàm phán, ký kết và nơi tiêu thụ.
Hơn nữa các nhân tố ngoài nước như cấm vận, hàng rào thuế quan, bảo hộ
mậu dịch cũng như phong tục tập quán ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động
nhập khẩu của các doanh nghiệp.
Sự phát triển của khoa học công nghệ trên thế giới làm đa dạng hoá
các chủng loại hàng hoá, tạo ra nhiều hàng hoá mới cũng như sự hiện đại
hoá của hệ thống thông tin liên lạc cũng ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt
động nhập khẩu. Đây là nhân tố khách quan mà bản thân doanh nghiệp chỉ
có thể nhận thức và có phương hướng kinh doanh phù hợp chứ không thể
tự mình tác động làm biến đổi nhân tố này.
VI.HIỆU QUẢ CỦA HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ
Mọi hoạt động kinh tế đều phải tính toán tới hiệu quả sao cho chi phí
vật chất và lao động ít nhất thu được kết quả cao nhất. Yêu cầu đó là chung
cho mọi chế độ xã hội. Kinh doanh thương mại quốc tế ngày càng cần phải
tính toán hiệu quả vì đó là cơ sở để giải quyết mở rộng hay thu hẹp một
lĩnh vực kinh doanh nào đó. Tính toán hiệu quả để tìm ra những mắt xích
hợp lý, khắc phục nó nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động.
Đối với nước ta hiện nay vấn đề nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất
nhập khẩu trở thành cấp bách vì đó là nhân tố quyết định để tham gia phân
công lao động quốc tế, xâm nhập thị trường nước ngoài, đồng thời làm tăng
thu nhập quốc dân tạo thêm phần tích luỹ cho tái sản xuất và cải thiện đời
sống nhân dân trong nước.
1. Bản chất của hiệu quả kinh tế trong kinh doanh thương mại
quốc tế.
Hiệu quả kinh tế là tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương hướng của
hoạt động ngoại thương. Vậy hiệu quả đó là gì? Như thế nào là có hiệu
quả?.
Đây là vấn đề chưa được giải quyết triệt để. Thật khó mà đánh giá
mức độ đạt được hiệu quả kinh tế của hoạt động ngoại thương này một
doanh nghiệp xuất nhập khẩu khi mà bản thân phạm trù này chưa rõ bản
chất và những biểu hiện của nó.
2. Các loại hiệu quả kinh tế nhập khẩu
a. Hiệu quả kinh tế cá biệt và hiệu quả kinh tế xã hội của hoạt động
nhập khẩu.
- Hiệu quả kinh tế cá biệt là hiệu quả kinh tế thu được từ hoạt động
nhập khẩu của doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Biểu hiện nội dung của nó là
doanh lợi đạt được.
- Hiệu quả kinh tế xã hội mà hoạt động nhập khẩu đem lại cho nền
kinh tế quốc dân là đóng góp của hoạt động nhập khẩu vào việc phát triển
sản xuất, đổi mới cơ cấu kinh tế, tăng năng suất lao động xã hội, tích luỹ
ngoại tệ, tăng thu cho ngân sách, qg việc làm và cải thiện đời sống nhân
dân…
b. Hiệu quả của chi phí bộ phận và chi phí tổng hợp
Hiệu quả kinh tế nhập khẩu được tạo thành trên cơ sở hiệu quả của các
loại chi phí cấu thành, vì vậy bản thân doanh nghiệp khi nhập khẩu phải
xác định những biện pháp đồng bộ để thu được hiệu quả toàn diện trên các
yếu tố quá trình sản xuất.
c. Hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả so sánh
- Hiệu quả tuyệt đốilà lượng hiệu quả được tính toán cho từng phương
án cụ thể bằng cách xác định mức lợi ích thu được với lượng chi phí bỏ ra.
- Hiệu quả so sánh các chỉ tiêu hiệu quả tuyệt đối của các phương án
với nhau. Nói cách khác nó là mức chênh lệch về hiệu quả tuyệt đối của các
phương án.
3. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá kinh tế nhập khẩu.
a. Tiêu chuẩn hiệu quả kinh tế nhập khẩu:
Cùng cùng với sự biểu hiện về mặt số lượng, hiệu quả kinh tế của bất
kỳ một hoạt động kinh tế nào còn có tính chất lượng. Đó chính là tiêu
chuẩn của hiệu quả.
Tiêu chuẩn hiệu quả nhập khẩu là tiết kiệm lao động xã hội hay tăng
năng suất lao động xã hội. Nó không chỉ đơn thuần là tiết kiệm chi phí xã
hội cần thiết về lao động và lao động vật hoá cho sản xuất đơn vị sản phẩm
mà còn bao hàm cả ý nghĩa phát triển sản xuất. Tiêu chuẩn hiệu quả kinh tế
nhập khẩu được biểu hiện gián tiếp thông qua một hệ thống chỉ tiêu. Nếu
tiêu chuẩn biểu hiện mặt chất lượng của hiệu quả thì hệ thống chỉ tiêu biểu
hiện số lượng của hiệu quả nhập khẩu.
b. Hệ thống chỉ tiêu hiệu quả nhập khẩu.
* Chỉ tiêu lợi nhuận nhập khẩu: Là chỉ tiêu quan trọng nhất.
* Chỉ tiêu so sánh giá nhập khẩu với giá quốc tế.
* Chỉ tiêu so sánh doanh thu bán hàng nhập khẩu trong nước với chi
phí tính ra đồng Việt Nam tỷ giá hiện hành cuả ngân hàng Nhà nước của
từng mặt hàng, nhóm hàng, từng chuyến hàng nhập khẩu hay của từng thời
kỳ nhập khẩu.
* Chỉ tiêu so sánh giá cả nhập khẩu của từng mặt hàng, nhóm hàng
giữa các khu vực thị trường và của các thương nhân khác nhau.
* Chỉ tiêu hiệu quả xuất nhập khẩu kết hợp tính cả nước hay từng
doanh nghiệp đổi hàng riêng lẻ.
Các chỉ tiêu trên thể hiện sự tiết kiệm lao động xã hội được thực hiện
trực tiếp qua nhập khẩu. Phạm trù giá cả đo lường chi phí lao động mang
tính quốc gia và quốc tế trong việc sản xuất ra hàng hoá nhập khẩu được
thể hiện qua các chỉ tiêu đó.
4. Phương pháp tính hiệu quả kinh tế nhập khẩu
a. Chỉ tiêu lợi nhuận
Lợi nhuận là chỉ tiêu hiệu quả kinh tế có tính tổng hợp, phản ánh kết
quả cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tính toán lợi nhuận nhập khẩu có liên quan đến tính doanh thu và chi
phí:
- Doanh thu nhập khẩu của một doanh nghiệp là số tiền mà nó thu
được qua việc bán hàng hoá hoặc dịch vụ nhập khẩu trong một thời gian
nhất định.
- Chi phí của hoạt động nhập khẩu là những phí tổn phải bỏ ra khi
mua hàng hoá nhập khẩu trong thời kỳ đó.
Lợi nhuận nhập khẩu = Doanh thu nhập khẩu - Chi phí nhập khẩu
b. Chỉ tiêu hiệu quả kinh tế nhập khẩu
Hn =
n
s
C
C
Hn: Hiệu quả nhập khẩu
Cs: Chi phí sản xuất sản phẩm nhập khẩu hoặc sản xuất sản phẩm thay
thế nhập khẩu theo giá nội địa.
Cn: Tổng chi phí ngoại tệ cho việc nhập khẩu (theo giá quốc tế).
Hn > 1: Nhập khẩu có hiệu quả
c. Doanh lợi nhập khẩu
Doanh lợi nhập khẩu phản ánh kết quả tài chính của hoạt động nhập
khẩu, nghĩa là nó phản ánh những kết quả bằng tiền thu được và những chi
phí thực tế bỏ ra cho những kết quả đó. Giá tính doanh lợi được tính toán
trên cơ sở giá hiện hành (giá tính toán của kế toán). Vì vậy, về mặt lượng
nó không trùng với chỉ tiêu hiệu quả kinh tế nhập khẩu đã xem xét ở trên.
Dn =
Tn
Cn
Dn: Doanh lợi thu được từ nhập khẩu
Tn: Thu nhập về bán hàng nhập khẩu (trừ mọi chi phí nhập khẩu trong
nước)
Cn: Tổng chi phí ngoại tệ nhập khẩu chuyển ra tiền Việt Nam theo tỷ
lệ giá ngân hàng Nhà nước ban hành.
Trên đây là một số lý luận chung về hoạt động nhập khẩu trong nền
kinh tế thị trường hiện nay. Dựa trên lý luận này sau đây chúng ta đi vào
xem xét cụ thể tình hình nhập khẩu vật tư, máy móc, thiết bị GTVT và biện
pháp hoàn thiện hoạt động nhập khẩu tại Ctu xuất nhập khẩu và hợp tác
đầu tư Giao thông vận tải Hà Nội (Tracimexco - Hà Nội)
Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ BIỆN PHÁP HOÀN THIỆN
HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU MÁY MÓC, THIẾT BỊ GTVT
Ở CÔNG TY TRACIMEXCO HÀ NỘI
I. PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU MÁY
MÓC THIẾT BỊ, VẬT TƯ GTVT CỦA CÔNG TY TRONG GIAI ĐOẠN TỚI
Như Nghị quyết của Trung ương đã chỉ rõ mục tiêukt của đất nước từ
nay đến năm 2003 là công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Ngành giao thông
vận tải cũng đã xây dựng kế hoạch cơ khí hoá và hiện đại hoá
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đề tài Biện pháp hoàn thiện hoạt động nhập khẩu vật tư, máy móc, thiết bị giao thông vận tải .pdf