Kênh lãi suất: LSCB đ ã được ahj dần từ đỉnh 14% xuống 13% (từ 21/10/2008),
12% (từ 05/11/2008) và lien tiếp được điều chỉnh trong vòng 1 tháng cuối năm 2008 (11% từ
21/11/2008, 10% từ 05/12/2008, 8,5% từ 22/12/2008) trước khi ổn định ở mức 7% (từ
01/02/2009) và duy trì cho hết tháng 11/2009; lãi suất tái chiết khấu điều chỉnh giảm từ
12%/năm xuống còn 5%/năm (10/4/2009); giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối v ới tiền gửi b ằng
VND từ 11%/năm xuống con 3%/năm.
Trong tháng 12/2009, để kiểm soát chặt chẽ quy mô và chất lượng tín dụng, phù hợp
với các mục tiêu kinh tế vĩ mô theo nghị quyết của Quốc hội và chủ trương của Chính phủ,
đồng thời tạo điều kiện cho các TCTD huy động các nguồn vốn từ nền kinh tế để mở rộng
kinh doanh và đáp ứng các nhu cầu vốn sản xuất-kinh doanh có hiệu quả, NHnn điều chỉnh
tăng lãi suất cơ bản từ 7%/năm lên 8%/năm, lãi suất chiết kh ấu từ 5%/năm lên 6%/năm.
- Nghiệp vụ thị trường mở và hoán đổi ngoại tệ: nghiệp vụ thị trường mở được
điều hành linh hoạt, bám sát diễn biến cung cầu của các TCTD với lãi suất được điều chỉnh
theo mục tiêu quản lý của các TCTD với lãi suất được điều chỉnh theo mục tiêu quản lý của
NHNN. Nửa đầu năm 2009, NHNN thực hiện các phiên chào mua kỳ hạn 14 ngày, lãi suất
chào mua giảm dần từ 9%/năm xuống 7%/năm để cung ứng vốn ngắn hạn cho nền kinh tế, tạo
điều kiện cho các TCTD đáp ứng nhu cầu vốn cho các chương trình kích thích tăng trưởng
kinh tế. Tuy nhiên chương trình kích thích tăng trưởng kinh tế đang ở giai đoạn đầu, nhu cầu
vốn của nền kinh tế chưa cao, nguồn vốn của các TCTD vẫn có dư thừa nên nhu cầu tham gia
các phiên chào mua trên nghiệp vụ thị trường mở không cao với doanh số trúng th ầu chỉ đạt
75% so với lượng tiền chào mua của NHNN. Khối lượng trúng thầu bình quân mỗi phiên đ ạt
khoảng 1000 tỉ dồng/phiên. Nửa cuối năm 2009, nhằm đáp ứng nhu cầu vốn của các TCTD có
xu hướng tăng cao theo các chương trình kích cầu của Chính phủ,
27 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2391 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Các công cụ tài chính mà Chính phủ sử dụng sau khủng hoảng tài chính 2008, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sóng kinh tế của Trung Quốc. Khi kinh tế toàn cầu phát triển
chậm lại, điều đó dường như trở thành một điệp khúc quen thuộc - và kết quả là những người
cho vay đang ngày càng xem xét kĩ lưỡng các tờ quyết toán cũng như các báo cáo lưu chuyển
tiền của khách hàng để tìm những dấu hiệu căng thẳng có thể dẫn tới sự vỡ nợ.
Một nữ doanh nhân Hồng Kông, người yêu cầu không được nêu tên vì sợ gây hoang
mang cho chủ nợ vốn đã dễ bị kích động, tiết lộ các chủ ngân hàng của bà mới đây đã tới văn
phòng của bà để kiểm tra sổ sách kế toán.
"Năm tới sẽ là một cuộc sát hạch thực sự đối với nhiều công ty. Nếu không có thêm
tiền mặt mới thì sẽ không còn lựa chọn nào khác là thu hẹp quy mô kinh doanh. Nếu điều đó
xảy ra, sẽ có rất nhiều người mất việc làm", bà dự đoán.
New Delhi, Ấn Độ
Giấc mơ tan vỡ
[CÁC CÔNG Cụ TÀI CHÍNH MÀ CHÍNH PHủ Sử DụNG SAU KHủNG HOảNG TÀI CHÍNH 2008] April 11, 2013
Tài chính Công- Nhóm 6 Page 9
Sandeep Goyal, một kĩ sư phần mềm ở New Delhi thì thầm: "Không ai dám đề cập tới
từ cổ phiếu trong ngôi nhà của chúng tôi hiện giờ, đặc biệt khi cha đang quanh quẩn đâu đây".
Điều đó nhanh chóng được chứng minh tại sao.
Cha của Goyal, một giám đốc ngân hàng về hưu, đang theo dõi một bài thuyết pháp
tôn giáo trên truyền hình qua một chiếc TV màn hình phẳng hiệu Sony, đặt bên cạnh một máy
tính xách tay HP mới, sáng bóng của anh.
Đây là một dấu hiệu dễ thấy về sự giàu có sung túc mới trong phòng khách ngôi nhà
khiêm tốn của gia đình Goyal. Cựu giám đốc ngân hàng nói một cách buồn bã: "Tôi đã cảnh
báo con rằng không bao giờ được đặt cược mọi thứ vào một kế hoạch. Nó đáng lẽ phải đầu tư
vào trái phiếu chính phủ và các tài khoản tiết kiệm ngoài cổ phiếu".Giống như hàng triệu
người Ấn Độ khác được nền kinh tế đang phát triển mạnh mẽ tiếp thêm sự gan dạ, Goyal, 28
tuổi, đã đầu tư vào cổ phiếu và tin tưởng rằng các khoản lợi nhuận có vẻ chắc chắn sẽ giúp
mang tới một phong cách sống sung túc. Anh cảm thấy rất khó khăn để chấp nhận sự sụp đổ
trong các thị trường tài chính toàn cầu.
Chỉ số Sensex của Ấn Độ đã giảm 45% từ đỉnh điểm hồi tháng 1, giá trị tài sản ròng
của gia đình Goyal, vốn được gây dựng qua nhiều năm, đã bị hao hụt trong vài tuần. Từ
12.000 USD, danh mục đầu tư của họ đã giảm xuống tới 4.000 USD - tổng cộng tổn thất cao
hơn một nửa số lương hàng năm mà Goyal nhận được từ công việc của anh cho một công ty
có trụ sở ở Mỹ. Trước khi rời phòng khách, cha của Sandeep đưa ra một câu bình luận đanh
thép: "Tham lam chẳng tốt một chút nào".
Lại có thêm nhiều tin tức tồi tệ đổ dồn về qua chiếc Sony của gia đình Goyal suốt mấy
tuần vừa qua: tỉ lệ tăng trưởng của nền kinh tế Ấn Độ dự kiến sẽ giảm từ 9% xuống còn 8%
hoặc thấp hơn nữa; những lời đồn đại vô căn cứ rằng ngân hàng tư nhân lớn nhất nước này -
ICICI, đã bị mắc kẹt trong sự rối loạn của thị trường cho vay dưới tiêu chuẩn, gần như đã gây
ra một vụ rất tiền ồ ạt của các khách hàng; Jet Airways, hãng hàng không nội địa lớn nhất,
đang sa thải hàng trăm nhân viên. Không có bầu không khí vui vẻ nhất của một đám cưới.
Goyal sẽ cưới vợ trong hai tháng nữa.
Anh nói vẻ đầy nuối tiếc: "Tôi từng muốn đi Singapore hưởng tuần trăng mật và mua
một chiếc xe ôtô mới nhưng bây giờ khó có thể thực hiện những giấc mơ như vậy. Chúng tôi
đã chứng kiến một vài năm thật tuyệt vời. Chúng khiến bạn tin rằng nếu bạn làm việc chăm
chỉ bạn có thể lớn mạnh nhanh chóng".
[CÁC CÔNG Cụ TÀI CHÍNH MÀ CHÍNH PHủ Sử DụNG SAU KHủNG HOảNG TÀI CHÍNH 2008] April 11, 2013
Tài chính Công- Nhóm 6 Page 10
Tuy nhiên, niềm tin của Goyal về tương lai đã bị chao đảo. "Tôi cảm thấy lo sợ rằng
nếu mọi việc cứ tiến triển theo cách này, tôi có thể mất việc. Dẫu vậy, có một điều mà tôi chắc
chắn là: tôi sẽ không bao giờ mua cổ phiếu một lần nào nữa".
Reykjavík, Iceland
Tài sản đóng băng
Trong tiếng Iceland, các từ tiền bạc và con cừu là giống nhau. Tuy nhiên, trong những
điều kiện kinh tế hiện tại của Iceland thì đùa cợt là một cách quan tâm, chỉ một người sẽ đặt
thức ăn lên bàn và đặt áo lên lưng bạn (khi bạn ăn thịt cừu và mặc đồ len làm từ lông cừu).
Với sự sụt giảm của tiền tệ và sự khốn đốn của ngành công nghiệp ngân hàng thì người dân
Iceland đang nhanh chóng mất đi việc làm, các khoản tiết kiệm và công việc làm ăn.
Chính phủ e ngại rằng một số người thậm chí sẽ đánh mất lý trí: cách đây vài ngày, Bộ
Y tế Iceland đã thành lập một trung tâm sức cấp cứu sức khoẻ tâm thần ở trung tâm Reykjavík
nhằm giúp các công dân bị khủng hoảng vì cuộc khủng hoảng kinh tế trong nước. Nằm trên
tầng hai của một trạm y tế cũ, trung tâm sẵn sàng điều trị cho một số lượng lớn những người
dân Icelander bị đau ốm về mặt tinh thần.
Dẫu vậy, công việc cũng tiến triển rất chậm chạp. Tiến sĩ Ragnar Ólafsson, một trong
hai chuyên gia tâm lý làm việc toàn thời gian cho trạm xá, đang nhấm nháp một chiếc
sandwich một mình trong văn phòng của ông lúc 1:30 giờ chiều ngày 13/10. "Cho tới thời
điểm hiện tại, chẳng có mấy người tìm đến đây", ông nói.
Thoáng nhìn, có rất nhiều dấu hiệu của một cuộc sống tốt đẹp đã trở nên thân thuộc
đối với một đất nước có 320.000 người này. Bãi đỗ xe của trung tâm mua sắm Kringlan thuộc
Reykjavík tràn ngập những loại xe láng bóng như Audis, Range Rovers và Mercedes. Tuy
nhiên, bên trong khu mua sắm, những người Iceland tóc vàng đang rảo bước với vẻ mệt mỏi.
"Tôi có thể thư giãn như thế nào đây khi dễ dàng nhận thấy rằng mọi thứ mà tôi tích
cóp cả đời đã mất hết", một nhà tư vấn quảng cáo mắt đỏ hoe diện áo len và dép lê nói khi
ngồi trong một quán ăn. Vào tuổi 61, ông đã bị mất hầu hết các khoản tiết kiệm lương hưu
trong cuộc suy thoái của ngành ngân hàng. "Đó là niềm hãnh diện của một con người, một
người dân Iceland. Tôi đã bị tước đoạt nó".
Bộ trưởng Y tế Gudlaugar Thór Thórdarson đồng ý rằng Iceland đang phải chống chịu
một cú sốc tinh thần, "đặc biệt khi Gordon Brown áp dụng luật chống khủng bố chống lại
Iceland", ông Thórdarson nói, ám chỉ tới động thái mới đây của Thủ tướng Anh nhằm viện
[CÁC CÔNG Cụ TÀI CHÍNH MÀ CHÍNH PHủ Sử DụNG SAU KHủNG HOảNG TÀI CHÍNH 2008] April 11, 2013
Tài chính Công- Nhóm 6 Page 11
dẫn luật chống khủng bố để đóng băng các tài sản của các công ty Iceland tại đảo quốc sương
mù.
"Người dân đất nước tôi không chủ hứng chịu cơn bão tài chính mà điều đó còn khiến
chúng tôi cảm thấy tồi tệ. Người Iceland luôn tự coi mình là một dân tộc độc lập và hiện tại
chúng tôi đơn giản không thể độc lập".
Các doanh nghiệp địa phương đang cố gắng động viên người dân bằng những hành
động hào phóng. Một nhà hàng ở Reykjavík - Á naestum grösum, đã biến mình thành một bếp
nấu súp, miễn phí cho người dân Iceland một bát súp lúa mạch kèm rau và một lát bánh mỳ,
trong khi ở cuối con phố đó, một số ít quán bar đã bán "bia thời suy thoái" với gián 2,60 USD/
1 cốc thay vì với giá thông thường là khoảng 6 USD.
Tuy nhiên, trước việc có nhiều cuộc cắt giảm nhân công hơn và tình trạng lộn xộn
ngày càng nghiêm trọng thì đất nước này cần hơn một cử chỉ hảo tâm và một vại bia giá rẻ để
được giải cứu khỏi sự tuyệt vọng về kinh tế.
Hitachi, Nhật
Trung tâm buôn bán lớn đóng cửa
Đối với Taira Kamoshida, người sáng lập và chỉ sở hữu chuỗi dịch vụ giặt khô ở thành
phố nhỏ Hitachi (có khoảng 195.000 dân) thì tin tức tồi tệ xuất hiện như một tia sét giáng
xuống từ trời xanh. Ngày 26/9, văn phòng quản lý báo với Kamoshida rằng trung tâm buôn
bán chính của Hitachi đang đóng cửa và một trong những cửa hàng giặt khô tại đây đã ngay
lập tức ngưng hoạt động. "Không hề có dấu hiệu nào về sự đóng cửa. Ngược lại, cửa hàng của
tôi cuối cùng đã bắt đầu bứt phá và thậm chí bắt đầu hướng tới thời kỳ làm ăn dư giả. Tôi đã
thực sự trông đợi điều đó".
Kamoshida không phải là người duy nhất bị bất ngờ khi Nhật phải đối phó với những
tác động dây chuyền của cuộc khủng hoảng. Trung tâm buôn bán lớn, Sakura City, khai
trương hồi cuối năm 2006 với sự khuyếch trương ầm ĩ và ban đầu thu hút khoảng 60 gian
hàng, kể cả một siêu thị duy nhất trong khu vực.
Theo Tadayasu Yamamoto, Chủ tịch Hội đồng Thương mại và Công nghiệp của thành
phố Hitachi, việc trung tâm này đóng cửa đã làm khoảng 400 người mất việc và hậu quả thì
vượt ra khỏi cộng đồng. "Các chủ cửa hàng của những khu vực mua sắm lân cận cũng như
khách hàng của họ đang gặp rắc rối. Chúng tôi không thể để niềm hy vọng của thành phố bị
dập tắt", ông Yamamoto cho biết.
[CÁC CÔNG Cụ TÀI CHÍNH MÀ CHÍNH PHủ Sử DụNG SAU KHủNG HOảNG TÀI CHÍNH 2008] April 11, 2013
Tài chính Công- Nhóm 6 Page 12
Tuy nhiên, ông Yamamoto không thể làm gì để duy trì các tia hy vọng. Những người
điều hành trung tâm mua sắm đã phải trả các khoản chi phí hàng ngày thông qua nguồn vốn
vay của một chi nhánh của Lehman Brothers, một ngân hàng đầu tư Mỹ hiện đã phá sản.
Sau sự sụp đổ gây tác động lớn của ngân hàng Lehman, trung tâm đã mấy đi nguồn
cung cấp tài chính, không thể chi trả các chi phí hoạt động và buộc phải đóng cửa. Những
người thuê gian hàng phải rời khỏi trung tâm trong vòng vài ngày. Họ được thông báo rằng họ
sẽ không được nhận lại tiền đặt cọc. Kamoshida không thể vượt qua cảm giác hoàn toàn bị tấn
công bất ngờ. Ông bộc bạch: "Tôi không biết ngân hàng Lehman Brothers đã làm điều gì với
nó. Khi tôi nghe thấy ngân hàng Lehman sụp đổ, tôi đã nghĩ rằng đó là một vấn đề của ai đó ở
một nơi rất xa xôi. Tuy nhiên, rốt cuộc, tôi phải lo lắng về mọi thứ, phải không?".
Paris, Pháp
Thực đơn phá sản
Quấn quanh mình bằng một cái tạp dề màu nâu khi đón khách bằng một chất giọng hồ
hởi, trầm ấm, François Bonduel sở hữu một nhà hàng ở Paris thuộc loại được du khách và
người dân địa phương ưa chuộng. Dẫu vậy, những ngày này, khi đồng euro vẫn còn mạnh và
các nền kinh tế đột ngột ngừng trệ khắp toàn cầu thì các du khách ngoại quốc vốn chiếm 1/3
số thực khách thường xuyên của Bonduel đang ngày càng ít đi và chi tiêu ít hơn.
Vấn đề càng tồi tệ hơn khi nhiều du khách Pháp tới nhà hàng của ông, Au Bon Saint-
Pourçain, cách không xa nhà thờ Saint-Sulpice ở quận thứ 6 của thành phố Paris hoa lệ - cũng
đang ăn ít hơn và uống ít hơn thường lệ. "Tôi đã kiểm tra sổ sách và tôi nhận thấy mình chẳng
có đồng lãi nào trong tháng này", ông Bonduel nói.
Với 20 năm làm việc và tích luỹ, ông Bonduel, 57 tuổi, cảm thấy ông sẽ có thể thoát
khỏi cơn bĩ cực này. Tuy nhiên, ông thừa nhận rằng việc chi tiêu ngày càng khiêm tốn hơn
của các thực khách đã buộc ông phải có một số thay đổi. "Lần đầu tiên, tôi đã đóng cửa nhà
hàng hồi tháng 8 và đi nghỉ vì không ai tới ăn. Tôi tự mình làm việc giặt giũ. Chúng tôi đã
ngừng gửi các khăn trải bàn tới hiệu giặt là và buộc phải tiết kiệm tiền. Tôi cũng buộc phải để
một trong các đầu bếp ra đi... Chúng tôi sẽ ổn nhưng chúng tôi đang phải siết chặt tiền công".
Không phải mọi người đều may mắn như vậy. Nghiên cứu mới đây cho thấy khả năng
mua hàng giảm và nỗi sợ hãi của người tiêu dùng về sự suy sụp ngày càng tăng của nền kinh
tế đã khiến việc chi tiêu cho các quán cà phê và nhà hàng ở Pháp đã sụt giảm khoảng 20%
trong năm nay. Gần 3.000 nhà hàng ở nước này đã phải đóng cửa hoặc phá sản chỉ trong nửa
đầu năm 2008.
[CÁC CÔNG Cụ TÀI CHÍNH MÀ CHÍNH PHủ Sử DụNG SAU KHủNG HOảNG TÀI CHÍNH 2008] April 11, 2013
Tài chính Công- Nhóm 6 Page 13
Làn sóng thất bại đó có thể lan rộng khi những người mới trong lĩnh vực kinh doanh
này, vốn dựa vào các khoản vay ngân hàng để khởi nghiệp bắt đầu cảm thấy họ bị kéo căng ra
để trả nợ khi việc kinh doanh ế ẩm. "Nếu tôi 30 tuổi và bắt đầu với các khoản vay phải hoàn
trả thì tôi đang gặp rắc rối lớn", Bonduel, người cảm thấy bớt căng thẳng vì phần lớn các
khách hàng của ông là cư dân ở khu giàu có lân cận, thổ lộ. "Tôi thật may mắn. Mọi thứ đối
với tôi chỉ khó khăn chứ không phải là không thể bảo vệ được".
La Sagra, Tây Ban Nha
Khủng hoảng gạch
Người Tây Ban Nha ví sự sụp đổ của các ngành công nghiệp xây dựng và bất động
sản một thời bùng nổ của họ là "một cuộc khủng hoảng gạch". Tại La Sagra, người ta hiểu
cụm từ đó theo nghĩa đen. Toạ lạc ở khu vực cách Madrid khoảng 65km về phía nam, hạt giàu
tài nguyên đất sét này sản xuất ra gần 30% lượng gạch ở Tây Ban Nha và tự hào về việc tập
trung các công trình bằng gạch đồ sộ nhất ở châu Âu.
Tuy nhiên, hiện giờ, các nhà máy của La Sagra không sản xuất ra nhiều thứ gì nữa.
"Các kho hàng đều đầy ắp. Họ không biết bán gạch cho ai", Carlos Duque, tổng thư kí chi
nhánh của công đoàn thợ xây dựng MCA-UGT ở Castilla-La Mancha cho hay.
Cư dân của hạt này không phải tìm kiếm nguyên nhân ở đâu xa. Sự đổ vỡ của bong
bóng phát triển trong ngành bất động sản Tây Ban Nha đã đẩy rất nhiều nhà kinh doanh bất
động sản lớn vào tình cảnh phá sản và ngưng hoạt động xây dựng trên khắp cả nước.
Số các ngôi nhà được xây dựng năm 2008 dự kiến sẽ giảm 70% so với năm 2007.
Điều đó đã nuôi dưỡng nạn thất nghiệp, vốn đã tăng vọt thêm gần 1/3 trong tháng 9, đạt mức
11,3%, tỉ lệ thất nghiệp cao nhất ở Tây Ban Nha kể từ năm 1997.
La Sagra đã cảm nhận được tình thế cam go cách đây vài tháng. "Hoạt động xây dựng
bắt đầu thực sự xuống dốc hồi tháng 2 hợc tháng 3 cùng với cuộc khủng hoảng thị trường cho
vay dưới tiêu chuẩn Mỹ và đó là thời điểm mà các kho chứa gạch bắt đầu đầy lên", ông
Duque tiết lộ. Rất nhiều công trình xây bằng gạch trong vùng đã bị đóng cửa trong nhiều
tháng qua mùa hè.
Phần lớn các công trình ở La Sagra đã tạm thời ngừng thuê công nhân theo một
chương trình đã đàm phán với các công đoàn, cho phép người lao động nhận các khoản trợ
cấp thất nghiệp trong 3 tháng, và sau đó bảo đảm việc họ được trở lại làm việc.
[CÁC CÔNG Cụ TÀI CHÍNH MÀ CHÍNH PHủ Sử DụNG SAU KHủNG HOảNG TÀI CHÍNH 2008] April 11, 2013
Tài chính Công- Nhóm 6 Page 14
Khi cơn suy thoái ngày càng lan rộng, ông Duque tỏ ra lo lắng về những lời nói dối
phía trước. "Đó là khi chúng tôi sẽ bắt đầu chứng kiến các nhà máy đóng cửa mãi mãi. Và khi
đó, chúng tôi sẽ phải đối mặt với những vấn đề nghiêm trọng".
Rafael Martín, thị trưởng thị trấn Alameda de la Sagra, tuyên bố ông rất quan tâm tới
tác động của cuộc suy thoái tới những người hàng xóm. Một vài người trong số đó đã lâm vào
những tình cảnh khó khăn vì số tiền thế chấp đã tăng vọt trong khi các nguồn tài chính của họ
thì giảm xuống.
"Nó không chỉ ảnh hưởng tới những người làm việc trong các nhà máy gạch mà tác
động đến cả những tài xế xe tải chuyên chuyên chở gạch và thợ cơ khí chuyên bảo dưỡng các
xe tải và cuối cùng là cả những quán bar, nơi công nhân thường xuyên tới uống rượu. Nó
giống như việc con cá đã cắn vào đuôi của nó".
Tóm lại khủng khoảng kinh tế thế giới năm 2008 là cuộc khủng khoảng kinh tế đầu
tiên của thế kỷ 21 nhưng không giống các cuộc khủng khoảng kinh tế trước nó. Có thể gọi
đây là cuộc khủng khoảng của các nhà băng, khủng khoảng tín dụng hay cuộc khủng khoảng
"phi vật chất"...Có những ngày, những tuần, hàng loạt ngân hàng tuyên bố phá sản, bị mua lại
hoặc bị kiểm soát đặc biệt. Thế giới đã thực sự chao đảo, nghiêng ngả bởi làn sóng sụp đổ của
các nhà băng. Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã và sẽ ảnh hưởng
đến một số hoạt động của kinh tế nước ta, nhưng mức độ tác động không lớn như các nước
đang phát triển khác.
3. Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính đối với nền kinh tế Việt Nam
Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã và sẽ ảnh hưởng đến một
số hoạt động của kinh tế nước ta, nhưng mức độ tác động không lớn như các nước đang phát
triển khác.
Về thương mại
Cuộc khủng hoảng đã và đang gây ảnh hưởng trực tiếp đến xuất khẩu Việt Nam sang
thị trường Mỹ, Nhật Bản và châu Âu. Đây là những thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt
Nam.
Ngay từ những tháng đầu năm 2008, đã xuất hiện xu hướng giảm tốc độ xuất khẩu
sang Mỹ, thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Do cầu tiêu dùng tại Mỹ đang trên đà
suy giảm mạnh bởi tác động của khủng hoảng tài chính, trong 9 tháng đầu năm, tốc độ tăng
kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ chỉ đạt 16,7%, thấp hơn khá nhiều so với mức 26,7% của năm
[CÁC CÔNG Cụ TÀI CHÍNH MÀ CHÍNH PHủ Sử DụNG SAU KHủNG HOảNG TÀI CHÍNH 2008] April 11, 2013
Tài chính Công- Nhóm 6 Page 15
2007. Tỷ trọng của thị trường Mỹ trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đã giảm, từ
20,7% của năm 2007 xuống còn 17,7% trong 9 tháng đầu năm nay. Các mặt hàng xuất khẩu
của Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng nhất là may mặc, giày da, gạo, cá basa, cà phê...
Cuộc khủng hoảng cũng tác động đến tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam sang EU
và Nhật Bản - hai thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt Nam. Phân tích của các chuyên
gia kinh tế cho thấy, do bị tác động mạnh từ cuộc khủng hoảng, người tiêu dùng của các thị
trường này cũng phải cắt giảm chi tiêu, nên nhu cầu nhập khẩu đối với hàng hóa xuất khẩu
của Việt Nam cũng sẽ có xu hướng giảm. Tỷ trọng của thị trường EU trong tổng kim ngạch
xuất khẩu của Việt Nam cũng đã giảm, chỉ còn 16,5%, trong khi năm 2007 là 18%.
Xuất khẩu cả năm 2008 dự kiến chỉ đạt khoảng 64 tỉ USD, tăng 31,8% so với thực
hiện năm 2007, thấp hơn so với dự báo của Chính phủ vào đầu tháng 10-2008 cả về kim
ngạch và tốc độ tăng (tương ứng là 65 tỉ USD và 33,9%) do xuất khẩu giảm không chỉ về số
lượng các đơn hàng, mà cả về giá bán của hàng hóa xuất khẩu. Năm 2009, dự kiến kim ngạch
xuất khẩu là 64 tỉ USD, giảm cả về kim ngạch và tốc độ tăng kim ngạch so với con số đã được
trình Quốc hội đầu tháng 10-2008 (số trình Quốc hội tháng 10-2008 tương ứng là 67,7 tỉ USD
và 18%).
Về hoạt động ngân hàng và thị trường tiền tệ
Tuy cuộc khủng hoảng chưa có ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ thống ngân hàng,
nhưng một số tác động gián tiếp là đáng kể. Trước hết, đó là diễn biến của tỷ giá và lãi suất
USD. Tỷ giá USD với đồng Việt Nam trên thị trường có nhiều biến động do tâm lý của người
dân. Trước tình hình đó, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có các biện pháp,
chính sách để điều hành, ổn định tỷ giá, hạ lãi suất cơ bản, giúp doanh nghiệp tiếp cận nguồn
vốn để sản xuất kinh doanh, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất - nhập khẩu, rà soát và kiểm
soát nợ xấu của các ngân hàng thương mại.
Về thị trường chứng khoán, luồng tiền đầu tư gián tiếp vào Việt Nam suy giảm và đã
có hiện tượng các nhà đầu tư nước ngoài rút vốn khỏi thị trường. Mặc dù tình hình kinh tế vĩ
mô của Việt Nam trong những tháng gần đây có những chuyển biến tích cực, nhưng thị
trường chứng khoán Việt Nam tiếp tục sụt giảm. VN-index giảm liên tục và lập đáy mới
xuống dưới 350 điểm. Việc nhà đầu tư nước ngoài có biểu hiện rút khỏi thị trường chứng
khoán Việt Nam đã gây tâm lý hoang mang cho các nhà đầu tư trong nước.
Về đầu tư nước ngoài
[CÁC CÔNG Cụ TÀI CHÍNH MÀ CHÍNH PHủ Sử DụNG SAU KHủNG HOảNG TÀI CHÍNH 2008] April 11, 2013
Tài chính Công- Nhóm 6 Page 16
Cuộc khủng hoảng đã bước đầu có ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
và viện trợ phát triển chính thức (ODA). Số dự án FDI đăng ký mới có xu hướng chững lại,
trong tháng 10-2008, tổng số dự án đăng ký mới là 68 dự án với tổng vốn đăng ký là 2,02 tỉ
USD, thấp hơn nhiều so với các tháng đầu năm (9 tháng đầu năm có 885 dự án đăng ký với
tổng số vốn đăng ký là 56,27 tỉ USD).
Khả năng giải ngân vốn FDI và ODA trong năm 2008 cũng đang chịu ảnh hưởng của
cuộc khủng hoảng. Tổng vốn FDI thực hiện trong 10 tháng năm 2008 so với tổng số vốn đăng
ký mới và tăng thêm chỉ đạt khoảng 15%. Số vốn ODA giải ngân năm 2008 có thể không đạt
được như dự báo trước là 2,3 tỉ USD. Trong những năm tới, khủng hoảng tài chính thế giới có
thể khiến dòng đầu tư nước ngoài cả trực tiếp và gián tiếp vào Việt Nam suy giảm vì những lo
ngại về bất ổn kinh tế và sự suy thoái kinh tế toàn cầu. Tác động lớn nhất của cuộc khủng
hoảng này là làm thay đổi hoàn toàn và sâu sắc ngành công nghiệp tài chính Mỹ và hệ thống
tài chính toàn cầu. Trong những năm tới, dòng vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp và gián tiếp
vào Việt Nam sẽ suy giảm, vì do bất ổn kinh tế và sự suy thoái kinh tế toàn cầu.
Về ngắn hạn, khủng hoảng ở Mỹ chưa có tác động lớn đến Việt Nam do dòng vốn đầu
tư vào Việt Nam hầu hết bắt nguồn từ các nước và vùng lãnh thổ trong khu vực như Xin-ga-
po, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan,... Mỹ chỉ đứng thứ 11 trong hơn 80 quốc gia và vùng
lãnh thổ có hoạt động đầu tư trực tiếp tại Việt Nam với 419 dự án còn hiệu lực, tổng số vốn
đăng ký 4,1 tỉ USD.
Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng tài chính đã không chỉ dừng lại ở Mỹ mà đã lan sang
các nước phát triển khác, trong đó có Nhật Bản, Hàn Quốc và các quốc gia có đầu tư trực tiếp
nước ngoài tại Việt Nam. Các nước châu Á, nơi chiếm tới 80% dòng vốn đầu tư vào Việt
Nam, cũng đang chịu tác động lớn của cuộc khủng hoảng. Việc huy động vốn trên thế giới sẽ
gặp nhiều khó khăn do chi phí vốn trở nên đắt đỏ hơn. Hậu quả là các nhà đầu tư sẽ hạn chế
tăng thêm đầu tư mới và thực hiện các dự án đã cam kết. Đã có xu hướng một số công ty mẹ ở
chính quốc yêu cầu các chi nhánh tại Việt Nam phải giảm đầu tư để rút vốn về để tháo gỡ khó
khăn cho các công ty mẹ. Do vậy, trong dài hạn, nếu khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh
tế thế giới không bị chặn lại thì chắc chắn nó sẽ tác động tới đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
Việt Nam.
Giải ngân vốn FDI cũng có thể sẽ giảm, khi mà trong tình hình khó khăn hiện nay, các
công ty đầu tư vào Việt Nam sẽ thận trọng hơn trong kế hoạch tài chính và đầu tư. Thêm vào
[CÁC CÔNG Cụ TÀI CHÍNH MÀ CHÍNH PHủ Sử DụNG SAU KHủNG HOảNG TÀI CHÍNH 2008] April 11, 2013
Tài chính Công- Nhóm 6 Page 17
đó, hầu hết các dự án đầu tư nói chung, dự án FDI nói riêng, phần nợ vay thường chiếm một
tỷ phần rất lớn trong tổng vốn đầu tư, nên khi các tổ chức tài chính đang gặp khó khăn sẽ làm
cho nhiều hợp đồng vay vốn sẽ không được ký kết hoặc không thể giải ngân. Ngay cả các dự
án FDI đang triển khai cũng có thể bị chững lại, vì rất có thể, các công ty sẽ phải cân đối lại
nguồn vốn, bảo đảm tài chính an toàn trong khủng hoảng. Riêng các dự án mới cấp phép, nếu
chủ đầu tư bị tổn thương lớn từ cuộc khủng hoảng này, thì có thể bị tạm dừng triển khai, thậm
chí rút bỏ. Do vậy, năm 2009 - 2010, tốc độ giải ngân vốn FDI được dự báo là sẽ theo xu
hướng chậm lại.
Những dự báo ban đầu cho thấy, số vốn ODA cam kết và giải ngân tại Việt Nam trong
những năm tới sẽ có xu hướng giảm do nguồn vốn đầu tư của các tổ chức tài chính, tiền tệ
quốc tế và dự trữ cho vay của các nước phát triển được cân đối lại để bình ổn thị trường tài
chính.
Năm 2010 và các năm tiếp theo, kinh tế thế giới nói chung và kinh tế châu Á nói riêng
được dự báo khả quan hơn, điều này sẽ tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế của Việt
Nam.
Huy động vốn gián tiếp vào thị trường cổ phiếu Việt Nam trong thời gian tới sẽ rất
khó khăn do các nhà đầu tư sẽ hướng tới các kênh đầu tư an toàn. Việc bán tháo chứng khoán
khỏi thị trường Việt Nam là có thể, mặc dù xác suất không cao, do tính thanh khoản và quy
mô của thị trường. Điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường chứng khoán và quá trình
cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước lớn trong các năm tới. Việc huy động vốn thông qua
thị trường vốn khó khăn trong khi thị trường tín dụng thắt chặt sẽ chặn dòng vốn và đẩy chi
phí tài chính của các doanh nghiệp lên cao.
Một khía cạnh khác của đầu tư gián tiếp là các giao dịch chênh lệch lãi suất nhằm
hưởng chênh lệch lãi suất giữa 2 đồng tiền trong khi tỷ giá ổn định. Các giao dịch này thường
mang tính đầu cơ ngắn hạn cao. Với lãi suất toàn cầu sụt giảm và chính sách tỷ giá neo VND
vào USD của Việt Nam trong khi lãi suất VND vẫn ở mức cao, có thể dòng vốn này sẽ chảy
vào trong một số giai đoạn nhất định nhằm khai thác cơ hội chênh lệch. Trong những trường
hợp thoái vốn, dòng vốn này có thể tạo áp lực tỷ giá cho VND. Việc phát hành chứng khoán
huy động vốn trên thị trường quốc tế cũng sẽ khó khăn và chi phí tăng cao. Chính phủ Việt
Nam hiện có kế hoạch phát hành 1 tỉ USD và Vinashin có kế hoạch huy động 400 triệu USD
[CÁC CÔNG Cụ TÀI CHÍNH MÀ CHÍNH PHủ Sử DụNG SAU KHủNG HOảNG TÀI CHÍNH 2008] April 11, 2013
Tài chính Công- Nhóm 6 Page 18
trên thị trường quốc tế vào năm 2009. Tuy nhiên, trong bối cảnh của khủng hoảng tài chính,
việc thực hiện kế hoạch nêu trên sẽ gặp phải những trở ngại đáng kể trong thời gian tới.
Dòng kiều hối từ trước đến nay vẫn là một dòng ngoại tệ tương đối ổn định, ngay cả
trong thời kỳ kinh tế toàn cầu có khó khăn. Trong một vài năm trở lại đây, dòng kiều hối về
Việt Nam tăng mạnh, với mức doanh số 8 tỉ - 10 tỉ USD/năm. Ngoài mục đích hỗ trợ thân
nhân và đầu tư vào kinh doanh, một phần không nhỏ của dòng kiều hối này được đầu tư vào
chứng khoán và bất động sản - những lĩnh vực hiện nay không còn "nóng" như trước. Hơn
nữa, một phần lớn nguồn kiều hối về Việt Nam lại từ nước Mỹ, nơi tăng trưởng kinh tế đang
sa sút và tình trạng thất nghiệp gia tăng. Điều này khiến cho dòng kiều hối trong các năm tới
có thể cũng sẽ suy giảm.
Tuy đầu tư nước ngoài được dự báo là sẽ khó khăn hơn trong những năm tới, nhưng
Việt Nam có thể có những cơ hội nhất định qua cuộc khủng hoảng tài chính thế giới. Dòng
vốn trên thế giới sẽ tập trung vào những nơi có môi trường chính trị và kinh doanh ổn định,
mà Việt Nam lại đang có những lợi thế trong hai nhân tố này.
Hiện tại, hầu hết các nhà đầu tư vẫn cam kết nhiều vì họ tin tưởng vào tương lai và
triển vọng đi lên của nền kinh tế nước ta. Nhiều nhà đầu tư cho rằng, tác động của cuộc khủng
hoảng tới nền kinh tế Việt Nam chỉ ở mức độ nhất định và sẽ được khắc phục trong thời gian
tới.
Một điểm thuận lợi nữa của chúng ta là các nhà đầu tư lớn như Nhật Bản, EU đã
hướng vào khu vực Đông - Nam Á và có chiến lược đầu tư dài hạn trong 10 năm tới. Tại khu
vực Đông - Nam Á, Nhật Bản hướng nhiều nhất vào Việt Nam với chiến lược đầu tư nhất
quán từ Chính phủ cho đến các tập đoàn lớn. Các động thái gần đây của Nhật Bản đã rất rõ
ràng và kiên quyết, cho dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, Việt Nam vẫn sẽ là nơi Nhật Bản phân
bố lại sản xuất của họ. Nhật Bản cũng đã sáp nhập JICA và JBIC thành một quỹ viện trợ
ODA khổng lồ. Mục tiêu của quỹ này cũng hướng vào Đông - Nam Á, trong đó có Việt Nam.
Về tăng trưởng kinh tế
Những tác động trực tiếp và gián tiếp nêu trên của khủng hoảng tài chính thế giới đang
và sẽ ảnh hưởng đến việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế của nước ta trong năm 2008.
Dự kiến tốc độ tăng trưởng GDP trong năm 2008 chỉ đạt khoảng 6,7%, thấp hơn chỉ tiêu đã
được Quốc hội thông qua là 7%. Với những tác động ban đầu của khủng hoảng tài chính thế
giới đến đầu tư nước ngoài, thương mại, tài chính tiền tệ,... trong thời gian vừa qua, cũng như
[CÁC CÔNG Cụ TÀI CHÍNH MÀ CHÍNH PHủ Sử DụNG SAU KHủNG HOảNG TÀI CHÍNH 2008] April 11, 2013
Tài chính Công- Nhóm 6 Page 19
phạm vi ảnh hưởng của khủng hoảng đến kinh tế thế giới như đã phân tích ở trên, nền kinh tế
nước ta cũng sẽ còn gặp khó khăn trong năm 2009 và các năm tiếp theo.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, biến động của kinh tế toàn cầu sẽ ảnh hưởng
đến tốc độ tăng GDP của Việt Nam. Khi kinh tế toàn cầu suy giảm trong năm 2009, những thị
trường xuất khẩu lớn của chúng ta như Mỹ, Nhật Bản, EU và một số khu vực có nguy cơ bị
thu hẹp, đồng thời thu hút đầu tư, cả gián tiếp và trực tiếp của chúng ta cũng sẽ bị giảm sút.
Kim ngạch xuất khẩu năm 2009 dự báo sẽ tăng 13%, mức tăng thấp nhất trong nhiều năm trở
lại đây. Tổng mức đầu tư toàn xã hội năm 2009 dự báo bằng 39,5% GDP, thấp hơn so với dự
báo trước đây là 40% GDP. Nhiều doanh nghiệp trong nước, nhất là các doanh nghiệp vừa và
nhỏ sẽ gặp khó khăn do tiêu thụ hàng hóa giảm và thiếu vốn đầu tư. Do ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng tài chính thế giới, kinh tế của Việt Nam năm 2009, theo dự báo, sẽ đạt mức tăng
trưởng thấp hơn so với năm 2008, với tốc tăng trưởng khoảng 6,5%. Giá trị gia tăng ngành
công nghiệp và xây dựng dự kiến sẽ tăng trưởng khoảng 7,4%, ngành nông, lâm nghiệp và
thủy sản dự kiến sẽ tăng khoảng 2,8%, thấp hơn so với tốc độ tăng trưởng trong năm 2008.
Ngành dịch vụ sẽ đạt mức tăng trưởng xấp xỉ năm 2008.
Năm 2010 và các năm tiếp theo, kinh tế thế giới và khu vực châu Á được dự báo khả
quan hơn. Điều này sẽ tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Dự báo tăng
trưởng kinh tế của nước ta sẽ phục hồi sau năm 2009, với tốc độ tăng trưởng xấp xỉ và cao
hơn năm 2008.
4. Các công cụ tài chính chính phủ sử dụng sau khủng hoảng
4.1. Chính sách tiền tệ (bao gồm: lãi suất, tỷ giá, dự trữ bắt buộc…)
Trước những tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu, ngay từ quý I/2008 Chính
phủ Việt Nam đưa ra một loạt giải pháp để ngăn chặn, phòng ngừa những hậu quả khôn lường
của “cơn bão tài chính”. Rất may là Việt Nam đã kịp thời áp dụng các biện pháp hợp lý để
phòng vệ, chống bão ngay từ đầu năm. Các biện pháp ổn định kinh tế vĩ mô đã phát huy tác
dụng, lạm phát giảm, tính thanh khoản giữa các ngân hàng được tăng cường, thanh khoản của
thị trường được đảm bảo, thu hẹp cán cân thương mại, tăng cường ngân sách nhà nước, thắt
chặt chi tiêu công, tăng dự trữ ngoại tệ.
Nhìn chung NHNN điều hành CSTT thận trọng, linh hoạt tùy vào diễn biến thị
trường, có lúc thắt chặt có lúc mở rộng.
[CÁC CÔNG Cụ TÀI CHÍNH MÀ CHÍNH PHủ Sử DụNG SAU KHủNG HOảNG TÀI CHÍNH 2008] April 11, 2013
Tài chính Công- Nhóm 6 Page 20
Giai đoạn thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt (2007-2008):
Giai đoạn 2007-2008 đánh dấu thời điểm lạm phát phi mã sau nhiều năm lạm phát ở
mức vừa phải. Nguyên nhân của lạm phát có thể do cầu kéo (tổng cầu của nền kinh tế gia
tăng), chi phí đẩy (giá các yếu tố đầu vào tăng), nguồn cung thiếu hụt (khi nền kinh tế đạt
mức sản lượng tiềm năng hoặc vượt sản lượng tiềm năng), cung tiền tăng quá mức (việc tăng
tổng lượng phương tiện thanh toán- m2) và yếu tố tâm lý (lạm phát kỳ vọng). Tuy nhiên, năm
2008 nước ta được coi là “nhập khẩu lạm phát”, tức là nguyên nhân gây ra lạm phát năm 2008
chủ yếu là do chi phí đẩy. Ngoài việc giá các yếu tố đầu vào trên thị trường thế giới tăng cao
kỉ lục (dầu thô vượt ngưỡng 147USD/thùng, giá phôi thép, thép 830USD/tấn, gạo hơn
1000USD/tấn, phân bón, vải sợi…đều tăng cao) còn do yếu tố nội sinh của nước ta. Đó là
mức tăng trưởng tín dụng cũng bị đẩy lên mức cao, giá điện, nước sinh hoạt cũng tăng, chính
phủ thực hiện cải cách tiền lương làm cho thu nhập dân cư tăng và chi phí doanh nghiệp tăng
cao đã càng làm trầm trọng thêm áp lực lạm phát. Trong điều hành chính sách tiền tệ, việc sử
dụng công cụ thì trường mở và tỉ giá hối đoái đôi khi có những sai lầm không đáng có, làm
cho mức độ lạm phát lại có xu hướng tăng. Đặc biệt là trong năm 2008, do tỉ giá giữa VND và
USD xuống thấp kỉ lục bởi đồng USD giảm giá do ảnh hưởng suy thoái kinh tế Mỹ và việc
FED cắt giảm mức lãi suất đồng USD xuống thấp nhất trong vòng nhiều năm qua (có lúc
xuống 0,25%) khiến cho việc xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam gặp nhiều khó khăn.
Để khuyến khích xuất khẩu, NHNN đã quyết định mua vào hơn 7 tỉ USD, tương
đương việc bơm khoảng 112.000 tỉ vào nền kinh tế làm cho lạm phát càng them trầm trọng.
Biện pháp mua vào hơn 7 tỉ USD có những mặt tích cực là làm tăng dự trữ ngoại hối quốc gia
(vốn còn ở mức rất thấp so với các nước trong khu vực), đồng thời tăng giá trị đồng USD để
khuyến khích xuất khẩu qua đó tạo điều kiện phát triển sản xuất trong nước góp phần giảm
bội chi cán cân thương mại. Mặc dù sau đó NHNN đã thực hiện nghiệp vụ thị trường mở để
hút tiền trở lại nhưng chỉ thu lại được khoảng 82.000 tỉ. Tuy niên, việc làm này vẫn làm gia
tăng áp lực lớn về lạm phát vì với một lượng tiền quá lớn đã được NHNN cung vào nền kinh
tế. Thời kỳ này, NHNN thực hiện một loạt các biện pháp quyết liệt phối hợp cùng chính sách
tài khóa của chính phủ nhằm kiềm chế lạm phát. Thủ tướng chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã
thể hiện quyết tâm của Chính phủ chống lạm phát bằng câu nói nổi tiếng “hy sinh tăng trưởng
để kiềm chế lạm phát”. NHNN đã sử dụng đồng bộ các chính sách tiền tệ như: lãi suất cơ bản
(LSCB) VND được tăng cao nhất trong nhiều năm qua, được điều chỉnh tăng lên 8,75%/năm
từ ngày 01/02/2008 so với mức 8.25%/năm ổn định trong 2 năm trước đó và nhảy vọt lên mức
[CÁC CÔNG Cụ TÀI CHÍNH MÀ CHÍNH PHủ Sử DụNG SAU KHủNG HOảNG TÀI CHÍNH 2008] April 11, 2013
Tài chính Công- Nhóm 6 Page 21
12%/năm từ ngày 19/5/2008. Chưa đầy một thắng sau đó, từ ngày 11/6/2008, LSCB đã lên
đến đỉnh điểm 14%/năm. Cùng với LSCB, lãi suất chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn cũng được
điều chỉnh tăng với đỉnh tương ứng là 13% và 15% áp dụng trong khoảng thời gian từ
11/6/2008 đến 20/10/2008. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc được điều chỉnh tăng len 11%/năm trong khi
lãi suất dự trữ bắt buộc bị điều chỉnh giảm. Bên cạnh đó, NHNN còn buộc các TCTD giảm
hạn mức cho vay đầu tư bất động sản và chứng khoán ở mức không quá 20% vốn điều lệ hoặc
không vượt quá 3% tổng dư nợ tín dụng, bắt các TCTD mua 20.300 tỉ tín phiếu bắt buộc có
kỳ hạn 12 tháng với mức lãi suất chỉ có 7.58%/năm và không được sử dụng để tái chiết khấu
tại NHNN, thực hiện các phiên giao dịch thị trường mở để hút tiền về.
Chính sách tiền tệ thắt chặt cùng hang loạt động thái quyết liệt trên đã tạo ra một lực
hút mạnh thu hút tiền từ lưu thong đồng thời làm giảm mạnh việc cấp tín dụng của các NHTM
ra thị trường. Và kết quả là lạm phát đã được chặn đứng và bị đẩy lùi từ đỉnh điểm
3.91%/tháng (tương đương 25,2%/năm) trong tháng 5/2008 xuống các mức thấp hơn trong
quý 3 và thậm chí âm trong các tháng cuối năm. Tỷ lệ lạm phát năm 2008 chỉ còn 19,89%.
Đồng thời Chính phủ cũng thực hiện chính sách tài khóa “ thắt lưng buộc bụng” nhằm
hạn chế lượng tiền trong lưu thong như tạm hoãn, giãn tiến độ các dự án đầu tư xây dựng cơ
bản kém hiệu quả (tiết kiệm hơn 40.000 tỉ VND). Dồn vốn cho các dự án đầu tư mang lại hiệu
quả tức thời cho nền kinh tế như các dự án nhà máy lọc dầu, nhà máy điện, xi măng…Chính
phủ còn giao cho các đơn vị hành chính sự nghiệp và doanh nghiệp nhà nước phải tiết kiệm
cho thường xuyên 10%, tăng cường chống thất thu thuế và nuôi dưỡng nguồn thu, cơ cấu lại
các khoản nợ và rà soát lại các khoản vay của các doanh nghiệp nhà nước, tổ chức đánh giá
hiệu quả hoạt động của các tập đoàn, tổng công ty thuộc sở hữu nhà nước.
Giai đoạn thực thi chính sách tiền tệ mở rộng (từ cuối năm 2008-2009)
CSTT bao giờ cũng có độ trễ thời gian nhất định. Việc “thắt chặt” tiền tệ mạnh tay của
Chính phủ đã có tác dụng làm giảm lạm phát nhanh nhưng cũng làm cho tốc độ tăng trưởng
kinh tế chậm lại vì luồng tiền dành cho nhu cầu đầu tư, tiêu dung giảm, lãi suất vay vốn quá
cao làm cho các doanh nghiệp không thể tiếp cận với nguồn vốn của ngân hàng, hàng loạt
doanh nghiệp vừa và nhỏ rơi vào tình trạng khó khăn, thậm chí phá sản. Nền kinh tế thế giới
rơi vào suy thoái, nhu cầu nhập hang hóa giảm, chu chuyển vốn đầu tư FDI giảm gây khó
khăn cho việc xuất nhập khẩu và nguồn vốn đầu tư vào Việt Nam đã càng làm cho kinh tế
nước ta rơi vào suy thoái trầm trọng hơn. Vì vậy, cuối năm 2008 khi lạm phát có xu hướng
[CÁC CÔNG Cụ TÀI CHÍNH MÀ CHÍNH PHủ Sử DụNG SAU KHủNG HOảNG TÀI CHÍNH 2008] April 11, 2013
Tài chính Công- Nhóm 6 Page 22
“hãm phanh” thì cũng là lúc NHNN quay lại thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Từ tháng
10/2008, khi mà lạm phát đã được kiềm chế thì NHNN đã chuyển hướng điều hành chính
sách tiền tệ từ “thắt chặt” sang “nới lỏng” một cách thận trọng bằng các biện pháp.
- Kênh lãi suất: LSCB đã được ahj dần từ đỉnh 14% xuống 13% (từ 21/10/2008),
12% (từ 05/11/2008) và lien tiếp được điều chỉnh trong vòng 1 tháng cuối năm 2008 (11% từ
21/11/2008, 10% từ 05/12/2008, 8,5% từ 22/12/2008) trước khi ổn định ở mức 7% (từ
01/02/2009) và duy trì cho hết tháng 11/2009; lãi suất tái chiết khấu điều chỉnh giảm từ
12%/năm xuống còn 5%/năm (10/4/2009); giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng
VND từ 11%/năm xuống con 3%/năm.
Trong tháng 12/2009, để kiểm soát chặt chẽ quy mô và chất lượng tín dụng, phù hợp
với các mục tiêu kinh tế vĩ mô theo nghị quyết của Quốc hội và chủ trương của Chính phủ,
đồng thời tạo điều kiện cho các TCTD huy động các nguồn vốn từ nền kinh tế để mở rộng
kinh doanh và đáp ứng các nhu cầu vốn sản xuất-kinh doanh có hiệu quả, NHnn điều chỉnh
tăng lãi suất cơ bản từ 7%/năm lên 8%/năm, lãi suất chiết khấu từ 5%/năm lên 6%/năm.
- Nghiệp vụ thị trường mở và hoán đổi ngoại tệ: nghiệp vụ thị trường mở được
điều hành linh hoạt, bám sát diễn biến cung cầu của các TCTD với lãi suất được điều chỉnh
theo mục tiêu quản lý của các TCTD với lãi suất được điều chỉnh theo mục tiêu quản lý của
NHNN. Nửa đầu năm 2009, NHNN thực hiện các phiên chào mua kỳ hạn 14 ngày, lãi suất
chào mua giảm dần từ 9%/năm xuống 7%/năm để cung ứng vốn ngắn hạn cho nền kinh tế, tạo
điều kiện cho các TCTD đáp ứng nhu cầu vốn cho các chương trình kích thích tăng trưởng
kinh tế. Tuy nhiên chương trình kích thích tăng trưởng kinh tế đang ở giai đoạn đầu, nhu cầu
vốn của nền kinh tế chưa cao, nguồn vốn của các TCTD vẫn có dư thừa nên nhu cầu tham gia
các phiên chào mua trên nghiệp vụ thị trường mở không cao với doanh số trúng thầu chỉ đạt
75% so với lượng tiền chào mua của NHNN. Khối lượng trúng thầu bình quân mỗi phiên đạt
khoảng 1000 tỉ dồng/phiên. Nửa cuối năm 2009, nhằm đáp ứng nhu cầu vốn của các TCTD có
xu hướng tăng cao theo các chương trình kích cầu của Chính phủ, NHNN đã tăng khối lượng
chào mua qua nghiệp vụ thị trường mở, khối lượng trúng thầu binh quân các phiên tăng mạnh,
đạt 95% khối lượng chào mua của NHNN và đạt khoảng 6000 tỉ đồng/ phiên, gấp 6 lần so với
mức 6 tháng đầu năm. Đặc biệt trong tháng 12, NHNN đã chào mua qua kênh nghiệp vụ thị
trường mở với khối lượng xấp xỉ 15.000 tỉ đồng/phiên để hỗ trợ thanh khoản cho các TCTD
do nhu cầu thanh toán tăng cao trong dịp tết dương lịch. Kỳ hạn chào mua được thực hiện linh
hoạt 7 ngày và 14 ngày với lãi suất chào mua tương ứng là 7%/năm và 7%-8%/năm. Đồng
[CÁC CÔNG Cụ TÀI CHÍNH MÀ CHÍNH PHủ Sử DụNG SAU KHủNG HOảNG TÀI CHÍNH 2008] April 11, 2013
Tài chính Công- Nhóm 6 Page 23
thời để chủ động kiemr soát lạm phát và điều tiết linh hoạt vốn khả dụng của các TCTD trong
hệ thống, NHNN đã thực hiện chào bán tín phiếu NHNN với định kỳ 3 phiên/ tuần, kỳ hạn 3
và 6 tháng, phương thức đấu thầu lãi suất, xét thầu thống nhất, nhưng trong số 68 phiên đấu
thầu bán tín phiếu NHNN có 2 phiên trúng thầu với doanh số đạt 102 tỉ đồng; mặt khác,
NHNN thực hiện hoán đổi ngoại tệ với các TCTD gặp khó khăn tam thời về nguồn vốn bằng
VND, tạo điều kiện cho các TCTD cân đối giữa nguồn vốn và sử dụng vốn VND và ngoại tệ,
góp phần ổn định thị trường tiền tệ và tăng dự trữ ngoại hối nhà nước. Kỳ hạn giao dịch hoán
đổi ngoại tệ được thực hiện là 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng với lãi suất tương ứng là 6%/năm,
6.25%/năm, 6.5%/năm. Đến cuối năm 2009, NHNN chỉ thực hiện giao dịch đối với các kỳ
hạn 3 tháng và 6 tháng với lãi suất được điều chỉnh tăng tương ứng lên mức 7.75%/năm và
8%/năm. Bên cạnh đó NHNN còn cho phép các TCTD xin chiết khấu, tái chiết khấu và thanh
toán trước hạn 20.300 tỉ tín phiếu bắt buộc đã mua trước hạn.
- Về tỷ giá: Diễn biến tỷ giá ngoại tệ của Việt Nam từ đầu năm 2008 là hết sức
phức tạp. Trong quý I/2008, có những lúc tỷ giá USD lien ngân hang xuống dưới 16.000 và tỷ
giá thị trường tự do thậm chí còn thấp hơn trong ngân hang. Nhưng chỉ qua đầu quý II, tỷ giá
lại tăng đến chóng mặt, có lúc đã lên tới 19.500. NHNN đã quyết định nới biên độ dao động
từ + 1% lên + 2% (từ ngày 26/6/2008) đồng thời triển khai hang loạt các biện pháp khác:
kiểm soát chặt các đại lý thu đổi ngoại tệ, tăng cường truyền thong. Công bố dự trữ ngoại hối
của Việt Nam (điều chưa hề có tiền lệ tại Việt Nam),… Nhờ đó, tỷ giá đã dần dịu lại và duy
trì ở mức ~16.500 cho đến hết quý III/2008.
- Hỗ trợ lãi suất: Đầu năm 2009, Chính phủ đã đưa ra gói kích cầu bao gồm các
nhóm giải pháp cơ bản:
i. Với doanh nghiệp: giảm, giãn thuế TNDN, hỗ trợ lãi suất ở mức 4%.
ii. Với dân cư: trợ cấp người nghèo, giãn/miễn thuế TNCN, giảm VAT, đào tạo
lao động
iii. Về phía Chính phủ: tăng đầu tư cơ sở hạ tầng, tăng chi tiêu công, đẩy mạnh
xúc tiến thương mại để tăng xuất khẩu.
Nổi bật và có tác động rõ rệt nhất là chính sách hỗ trợ lãi suất mà ở đó vai trò của hệ
thống ngân hang và các công cụ chính sách tiền tệ một lần nữa lại được phát huy mạnh mẽ.
Đến hết tháng 7/2009, tổng dư nợ cho vay hỗ trợ lãi suất của toàn hệ thống ngân hang đã đạt
389.107 tỉ đồng, trong đó dư nợ đối với các doanh nghiệp nhà nước là 61.048 tỉ đồng, doanh
nghiệp ngoài quốc doanh là 259.454 tỉ đồng và với hộ kinh doanh là 68.605 tỉ đồng. Để đối
[CÁC CÔNG Cụ TÀI CHÍNH MÀ CHÍNH PHủ Sử DụNG SAU KHủNG HOảNG TÀI CHÍNH 2008] April 11, 2013
Tài chính Công- Nhóm 6 Page 24
phó với suy thoái, Chính phủ đã đưa ra các gói hỗ trợ lên đến trên 17.000 tỉ đồng. Phần lớn
tiền hỗ trợ không được chi trực tiếp mà được hỗ trợ gián tiếp thong qua hỗ trợ lãi suất. Bằng
cách này chúng ta đã kích thích tăng trưởng mạnh tín dụng, giúp các doanh nghiệp có được
nguồn vốn giá rẻ nên giảm được giá thành sản phẩm, duy trì ổn định sản xuất, kích thích được
nhu cầu trong nước,… Cũng đã có nhiều ý kiến trái chiều về chính sách hỗ trợ lãi suất của
Chính phủ rằng can thiệp như vậy sẽ làm méo mó hoạt động của các NHTM, làm như vậy
thực chất là kích cung chứ không phải kích cầu, nên hạ lãi suất thay vì trợ giá qua lãi suất, nên
hỗ trợ trực tiếp cho doanh nghiệp và người dân, … Và công bằng mà nói, chính sách này cũng
đã gây ra một số tác động không mong muốn như: làm thay đổi cung cầu vốn ngoại tệ và
VND (nhu cầu vay vốn VND tăng mạnh, một số khách hang trả nợ trước hạn, trả nợ vay
ngoại tệ chuyển sang vay bằng VND,…); tạo sức ép cho tỷ giá,… Tuy nhiên, sau hơn nửa
năm thực hiện hỗ trợ lãi suất, thực tế ngày càng chứng minh cho tính đúng đắn của công cụ
này. Thứ nhất, số tiền hỗ trợ của Chính phủ không lớn, sẽ không có tác dụng đáng kể nếu chi
hỗ trợ trực tiếp cho doanh nghiệp và dân cư, chưa kể quá trình thực hiện có thể phát sinh
nhiều tiêu cực. Thứ hai, nếu hạ lãi suất chúng ta có thể bị rơi vào bẫy thanh khaonr, các
NHTM không huy động được và cũng không cho vay được, và rõ rang là nếu không tăng
được tín dụng cho nền kinh tế thì việc kích cầu chẳng có ý nghĩa gì. Thứ ba, hỗ trợ lãi suất
qua tín dụng sẽ khuyến khích thúc đảy sản xuất, kích thích tiêu dung và vẫn đảm bảo các
NHTM vẫn huy động được nguồn vốn. Thứ tư, số tiền hỗ trợ qua tín dụng được khuyeechs
đại lên nhiều lần tạo ra nguồn vốn lớn cho đầu tư và tiêu dung xã hội.
4.2. Đánh giá những tác động và kết quả đạt được sau khi thực hiện các chính
sách trên:
Với việc thực hiện CSTT nới lỏng và chương trình kích thích kinh tế của
Chính phủ đã làm cho mức tăng trưởng tín dụng tăng cao (tăng trưởng tín dụng đến hết tháng
10/2009 đã đạt 33.29%, tháng 11/2009 là 36,86% so với cuối năm 2008). Vì vậy, việc thực
hiện tăng lãi suất cơ bản và điều chỉnh tỷ giá là việc cần thiết để tác động vào mức tăng
trưởng tín dụng, kiểm soát chặt chẽ quy mô và chất lượng tín dụng, phù hợp với mục tiêu kinh
tế vĩ mô theo nghị quyết của Quốc hội và chủ trương của Chính phủ, đồng thời tạo điều kiện
cho các NHTM huy động được vốn từ nền kinh tế và ngăn chặn ngay từ đầu trạng thái lạm
phát cao có thể xảy ra khi nền kinh tế phục hồi.
Khi tiến hành hỗ trợ lãi suất vay VND trong trương trình hỗ trợ kinh tế của
Chính phủ đã đưa lãi suất vay VND thực tế của các doanh nghiệp và người dân xuống 5%-
[CÁC CÔNG Cụ TÀI CHÍNH MÀ CHÍNH PHủ Sử DụNG SAU KHủNG HOảNG TÀI CHÍNH 2008] April 11, 2013
Tài chính Công- Nhóm 6 Page 25
6%. Điều này khuyến khích các doanh nghiệp có nhu cầu ngoại tệ để nhập khẩu hàng hóa và
dịch vụ tiến hành vay vốn bằng VND để mua ngoại tệ của các NHTM thay vì vay vốn bằng
ngoại tệ. Thậm chí nhiều doanh nghiệp đang có số dư vay vốn ngân hang bằng ngaoij tệ cúng
tìm mọi cách vay VND mua ngoại tệ để trả nợ trước hạn vốn vay ngoại tệ cho ngân hang. Do
đó, gây áp lực về ngoại tệ đối với các ngân hàng cũng như đẩy tỷ giá tự do có xu hướng tăng
lên, tạo ra sự chênh lệch lớn giữa tỷ giá giao dịch trong ngân hàng và tỷ giá giao dịch ngoài
thị trường tự do.
Trong 11 tháng đầu năm 2009 tốc độ tăng trưởng tín dụng luôn tăng cao hơn
tốc độ huy động tiền gửi gây áp lực đến lãi suất của thị trường. tính đến cuối tháng 11 tín
dụng đối với nền kinh tế tăng 36.86%, trong khi huy động vốn chỉ tăng 26.45% (so với
31/12/2008). Do đó, việc nâng lãi suất cơ bản đã tạo ra sự ổn định, đưa lãi suất thị trường trở
lại theo quy luật cung-cầu, tránh sức ép, tiêu cực cho hệ thống tài chính - ngân hàng và nền
kinh tế.
Thực tế cho thấy lạm phát của Việt Nam trong ba năm 2007, 2008, 2009 là
trên 40%, trong khi lạm phát của Mỹ chỉ bằng khoảng 20% cùng kỳ, nhưng tỷ giá chính thức
USD/VND dường như thay đổi không đáng kể trong thời gian đó, khiến VND bị định giá cao
trong tương quan tỷ giá với USD. Theo lý thuyết ngang giá về lãi suất, đồng tiền của một
quốc gia nào đó có lãi suất thấp hơn thì nhất định sẽ là bù kỳ hạn cho hợp đồng kỳ hạn đối với
đồng tiền của một quốc gia có lãi suất cao hơn. Nói cách khác, trừ kỳ hạn hoặc bù kỳ hạn trên
giá kỳ hạn là xấp xỉ tương đương với chênh lệch lãi suất giữa hai đồng tiền. Ngược lại, hiệu
ứng Fisher quốc tế chú trọng đến việc tỷ giá giao ngay của một đồng tiền sẽ thay đổi theo thời
gian, khẳng định rằng tỷ giá giao ngay sẽ thay đổi theo chênh lệch lãi suất giữa hai nước. Như
vậy, việc NHNN đã điều chỉnh tăng lãi suất, đồng thời tăng tỷ giá của đồng USD lên gần tỷ
giá thị trường và thu hẹp biên độ tỷ giá giao dịch ngoại hối từ + 5% xuống + 3% là hoàn toàn
hợp lý.
5. Kết luận.
Mặc dù gần đây kinh tế thế giới nói chung và kinh tế Việt Nam nói riêng đã có những
dấu hiệu phục hồi, nhưng khó khăn ở phía trước còn rất lớn. Để ngăn chặn đà suy giảm kinh
tế, duy trì tăng trưởng kinh tế trong thời gian tới, chúng ta vẫn cần tập trung thực hiện tốt một
số giải pháp sau đây:
[CÁC CÔNG Cụ TÀI CHÍNH MÀ CHÍNH PHủ Sử DụNG SAU KHủNG HOảNG TÀI CHÍNH 2008] April 11, 2013
Tài chính Công- Nhóm 6 Page 26
1. Tiếp tục thực hiện quyết liệt Nghị quyết 30/2008/NĐ-CP ngày 11/12/2008 của
Chính phủ về các giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng,
bảo đảm an sinh xã hội.
2. Tiếp tục thực hiện 09 nhóm giải pháp về tài chính theo Nghị quyết 30/2008/NĐ-CP
của Chính phủ, đồng thời tích cực chủ động triển khai các biện pháp tài chính bổ sung theo
tình hình mới gồm: Rà soát lại nhiệm vụ chi và sắp xếp lại cho phù hợp. Có phương án tìm
nguồn bù đắp thâm hụt ngân sách, tăng cường các biện pháp chống thất thu. Chủ động phối
hợp với các Bộ, ngành, địa phương đẩy nhanh chủ trương xây nhà ở xã hội. Cần chuẩn bị các
phương án kích cầu dự phòng trong trường hợp các giải pháp hiện nay chưa đủ liều lượng để
kích thích quá trình phục hồi kinh tế.
3. Chính sách tiền tệ hiện nay về cơ bản là đúng hướng. Tuy nhiên, do khủng hoảng
tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu chưa có hồi kết, tình hình sẽ biến động liên tục nên về
mặt liều lượng, phải bám sát diễn biến của thị trường. Trong trường hợp cần thiết phải hạ lãi
suất cơ bản, lãi suất tái chiết khấu cho phù hợp với tình hình lạm phát để thúc đẩy sản xuất
trong nước. Bám sát tình hình thị trường để điều chỉnh dần tỷ giá theo hướng có lợi cho xuất
khẩu. Triển khai kịp thời hướng dẫn thực hiện Quyết định số 443/QĐ-TTg ngày 04/4/2009
của Thủ tướng Chính phủ. Nâng cao khả năng giám sát hệ thống để tránh rủi ro trong hoạt
động tín dụng. NHNN chủ động giám sát các NHTM, tăng cường kiểm tra, kiểm toán nội bộ,
khuyến khích các NHTM tăng vốn để đảm bảo an toàn hệ thống.
4. Tăng cường chỉ đạo, giám sát chặt chẽ tình hình thực hiện các giải pháp kích cầu
bù lãi suất, đảm bảo yêu cầu: đúng mục đích, thủ tục cho vay nhanh, có sự kiểm tra, kiểm soát
thường xuyên, liên tục các dự án cho vay.
5. Đẩy mạnh giải ngân vốn xây dựng cơ bản, đặc biệt là vốn năm 2009, đồng thời xem
xét ngay các điều kiện để ứng vốn năm 2010. Năm 2009, nguồn vốn đầu tư rất lớn và rất
nhiều nguồn khác nhau, việc kiểm tra, đôn đốc giải ngân tốt sẽ là nhiệm vụ quan trọng góp
phần tăng trưởng hiệu quả của đầu tư. Thắt chặt chi tiêu và đầu tư công, nghiên cứu chuyển
đầu tư công sang cho khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoặc vay nước ngoài. Đây cần
xem như là chiến lược để khuyến khích các doanh nghiệp tập trung cho sản xuất và thị
trường.
6. Nghiên cứu mở rộng thị trường xuất khẩu sang các thị trường mới. Kích thích phát
triển thị trường trong nước. Đẩy mạnh việc chống buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại.
[CÁC CÔNG Cụ TÀI CHÍNH MÀ CHÍNH PHủ Sử DụNG SAU KHủNG HOảNG TÀI CHÍNH 2008] April 11, 2013
Tài chính Công- Nhóm 6 Page 27
Đổi mới cơ cấu mặt hàng xuất khẩu và thị trường xuất khẩu: Tập trung vào xuất khẩu những
mặt hàng Việt Nam có lợi thế.
7. Chọn lọc nhập khẩu: Đây cũng là cơ hội để Việt Nam tranh thủ nhập khẩu các mặt
hàng, công nghệ hiện đại mà các nước phát triển phải bán đi do kinh tế của họ khó khăn.
8. Tận dụng cơ hội để thu hút vốn đầu tư. Dòng vốn trên thế giới sẽ tập trung vào
những nơi có môi trường chính trị và kinh doanh ổn định. Việt Nam đang có lợi thế này và vì
vậy cần tận dụng tốt cơ hội.
9. Có phương án cơ cấu lại nền kinh tế, đặc biệt là đổi mới và hoàn thiện thể chế,
chuyển đổi cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư, đào tạo nguồn nhân lực. Đẩy mạnh tiến trình cổ
phần hoá và cải cách khu vực DNNN.
10. Thành lập cơ quan giám sát hỗn hợp liên ngành để tăng cường giám sát các gói
kích cầu, trong đó có gói kích cầu bằng hỗ trợ lãi suất đảm bảo hiệu quả, công khai, minh
bạch.
11. Đẩy mạnh tiến trình cải cách hành chính, đặc biệt là cải cách thủ tục hành chính
theo hướng đơn giản, hiệu quả, minh bạch.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- btt_nhom_tcc_nhom_6_final_233.pdf