Nhà nước cần có cơ chế, chính sách cụ thể khuyến khích các công ty XNK ký kết hợp 
đồng theo điều kiện xuất khẩu CIF, nhập khẩu FOB hoặc C&F như: giảm thuếXNK cho 
chủhàng nào tham gia bảo hiểm tại Việt Nam, hoặc giảm thuếdoanh thu hay thuếgiá trị
gia tăng, giảm thủ tục hải quan, hoặc chủ hàng được giao hạn ngạch XNK cao hơn so với 
những chủhàng không tham gia bảo hiểm tại Việt Nam Nhưtrên đã phân tích, điều 
kiện giao hàng có tác dụng chủyếu đến phân định trách nhiệm giữa các bên trong quá 
trình thực hiện hợp đồng thương mại, còn ý nghĩa kinh tế không rõ ràng. Với các chính 
sách ưu đãi trên, các công ty XNK sẽ chủ động hơn trong đàm phán ký kết, thực hiện 
phương thức xuất khẩu theo điều kiện CIF, nhập khẩu theo điều kiện FOB hoặc C&F tạo 
cơ sở nâng cao tỷ trọng hàng hóa XNK tham gia bảo hiểm trong nước, đồng thời thúc đẩy 
ngành bảo hiểm Việt Nam phát triển.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
54 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3844 | Lượt tải: 1
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Các điều kiện bảo hiểm vận tải quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 như người được bảo hiểm về 
việc đòi bồi thường tổn thất. Thế quyền là nguyên tắc cơ bản thứ tư của bảo hiểm hàng 
hải, nó là kết quả tất yếu của nguyên tắc bồi thường vì nó ngăn ngừa một người có thể đòi 
 28
bồi thường từ hai nguồn về cùng một tổn thất và như thế là kiếm lời. Với nguyên tắc thế 
quyền này, người bảo hiểm có quyền thay thế quyền hạn người được bảo hiểm để đòi bên 
có trách nhiệm bồi hoàn trong giới hạn số tiền bồi thường đã trả mà không cần có quyền 
sở hữu được chuyển qua cho họ. Tuy nhiên, trước khi thực hiện việc thế quyền, người bảo 
hiểm phải trả tiền bồi thường cho người được bảo hiểm. 
2.4.3. GIÁ TRỊ BẢO HIỂM VÀ SỐ TIỀN BẢO HIỂM (Insured Value – Sum 
Insured) 
Do việc xác định giá trị hàng hóa được bảo hiểm thực tế không thể thực hiện được vào 
thời gian và địa điểm xảy ra tổn thất trong quá trình vận chuyển, nên giữa người bảo hiểm 
và người được bảo hiểm có sự thỏa thuận về việc đánh giá hàng hóa trước khi ký kết hợp 
đồng bảo hiểm. Trị giá hàng hóa được xác định như vậy gọi là “ trị giá bảo hiểm thỏa 
thuận” (Agreed Insured Value). Đơn bảo hiểm có giá trị bảo hiểm thỏa thuận được gọi là 
“đơn bảo hiểm có định giá” (Valued Policy). Về nguyên tắc hầu như tất cả các đơn bảo 
hiểm hàng hóa vận chuyển đường biển đều là đơn bảo hiểm có định giá. Trị giá bảo hiểm 
thỏa thuận như trên bị giới hạn bởi mức trị giá có thể bảo hiểm quy định tại điều 16 của 
MIA 1906. Theo đó, trong bảo hiểm hàng hóa, nó bao gồm giá thành của hàng hóa, các 
phí tổn chuyên chở và phí bảo hiểm. 
Theo tập quán quốc tế về phí bảo hiểm ngoài phí bảo hiểm chính còn phụ phí tàu già 
thu thêm khi hàng hóa được chuyên chở trên những chiếc tàu có độ tuổi cao hơn một mức 
quy định nào đó (hiện nay quy định là 15 tuổi). Khi hàng hóa được chuyên chở trên những 
chiếc tàu như vậy thì người thuê tàu hạ giảm được một phần cước phí vận tải nhưng họ lại 
tự làm tăng khả năng bị rủi ro cho hàng hóa của mình , như vậy làm tăng rủi ro đối với 
người bảo hiểm và họ phải nộp thêm phí bảo hiểm cho khả năng gia tăng rủi ro đó. Vấn đề 
là phụ phí tàu già có được tính vào giá trị bảo hiểm hay không còn tùy thuộc vào từng 
trường hợp cụ thể. 
Về nguyên tắc nếu phụ phí này làm tăng giá thành hàng hóa thì nó được coi là một 
phần của giá trị bảo hiểm, ví dụ đối với các hợp đồng nhập khẩu FOB khi người mua hàng 
phải thuê tàu và mua bảo hiểm lúc này phụ phí tàu già (nếu có) do người mua bảo hiểm 
 29
trả và chi phí được cộng vào giá thành. Ngược lại đối với các hợp đồng nhập khẩu CF hay 
CIF thì trị giá hóa đơn bao gồm chi phí thuê tàu, lúc này phụ phí tàu già do người bán trả 
và nó không làm tăng giá thành nên không được tính vào giá trị bảo hiểm. 
Số tiền bảo hiểm là giới hạn trách nhiệm của người bảo hiểm đối với mỗi tai nạn và phí 
bảo hiểm được tính trên cơ sở đó. Theo tập quán thông thường thì số tiền bảo hiểm ấn 
định bằng giá trị bảo hiểm và một hợp đồng bảo hiểm như vật gọi là “bảo hiểm đúng giá 
trị” (Full Insurance). Nếu số tiền bảo hiểm vượt quá giá trị bảo hiểm gọi là “bảo hiểm trên 
giá trị” (Over Insurance), trong bảo hiểm hàng hóa số tiền bảo hiểm trội ra đó chỉ được 
chấp nhận khi coi nó là số lãi có thể của công việc buôn bán và nó không lớn hơn 10%, số 
trội hơn nữa sẽ không có hiệu lực. Nếu số tiền bảo hiểm nhỏ hơn giá trị bảo hiểm thì gọi 
là “bảo hiểm dưới giá trị” (Under Insurance) và người được bảo hiểm sẽ tự chịu lấy số 
tiền tổn thất ở phần giá trị không được bảo hiểm. 
2.4.4. THỜI GIAN ĐƯỢC BẢO HIỂM (Duration o Policy) 
Trước kia, bảo hiểm chỉ bắt đầu khi hàng hóa được bốc lên tàu, không có bảo hiểm cho 
khâu vận chuyển đến cảng bốc hàng cũng như trong thời gian bốc hàng và cả trên xà lan 
tại cảng bốc hàng. Bảo hiểm kết thúc khi hàng hóa được đưa xuống bờ an toàn, khi dỡ 
hàng tại bến hay tại cầu tàu, bảo hiểm kết thúc ngay khi hàng hóa được dõ khỏi cần trục 
và nằm trên cầu cảng. Nếu việc dỡ hàng theo tập quán ở cảng đến là bằng xà lan lõng 
hàng ngoài biển để chuyển vào cảng thì hàng hóa trên xà lan được bảo hiểm các rủi roc ho 
đến khi đến cảng đích (cảng đến). 
+ Điều khỏan “từ kho đến kho” được đưa vào từ khoảng cuối thế kỉ 19 và được để 
trong điều khoản bảo hiểm hàng hóa của Hiệp hội khi được viết lần thứ nhất năm 1912. 
Đơn bảo hiểm SG (Ship – Goods) không ấn định thời gian nên theo tập quán đó điều 
khoản này cũng không ấn định thời gian cho chuyến hải trình và cũng không ap dụng thời 
gian cho giai đoạn trước khi bốc hàng lên tàu biển. Để động viên người được bảo hiểm rút 
hàng nhanh khi dỡ thì nên có một giới hạn thời gian sau khi dỡ hàng. Giới hạn này được 
thấy từ thực tế trong chiến tranh thế giới 1939 – 1945 và được nâng lên 60 ngày bởi điều 
khoản “mở rộng thời chiến”. Người bảo hiểm đã thỏa thuận giữ giới hạn này sau thời 
 30
chiến bằng điều khoản “đảm bảo mở rộng” (Extended cover) và rồi được đưa vào ICC 
như là một tiêu chuẩn. Trong ICC 1963 “điều khoản vận chuyển” được đưa vào để thay 
thế điều khoản từ “kho đến kho” và điều khoản “đmả bảo mở rộng”, nó được sửa đổi đôi 
chút cho rõ ràng hơn trong điều 9 – ICC 1982 “Điều khoản vận chuyển”: Bảo hiểm này 
bắt đầu có hiệu lực kể từ khi hàng rời khỏi kho hay nơi chứa hàng tại địa điểm có ghi tên 
trong bảo hiểm để bắt đầu vận chuyển, tiếp tục trong quá trình vận chuyển bình thường 
và kết thúc hoặc vào……” 
Tuy nhiên trong điều khoản này còn rất nhiều vấn đề tranh chấp về thế nào là kho đi 
(kho người bán) và kho đến (kho người mua). 
Việc mở rộng thêm không gian bảo hiểm “từ kho đến kho” đương nhiên làm tăng phí 
bảo hiểm, hay nói cách khác đã tạo ra khả năng thỏa thuận hạ giảm phí bảo hiểm cho 
người được bảo hiểm trong trường hợp họ muốn co hẹp không gian này lại. Trong thực tế 
người bảo hiểm đã chấp những không gian hẹp hơn theo yêu cầu của người được bảo 
hiểm tùy theo từng loại mặt hàng hay các đặc điểm trong giao nhận và trong các giao dịch 
thương mại để người bảo hiểm có thể giảm đến mức nhỏ nhất các chi phí của mình. 
+ Từ “cảng đến cảng”: xuất phát từ nhu cầu hạ giảm các chi phí trong đó có chi phí 
bảo hiểm, căn cứ vào những quy định về trách nhiệm đối với các chi phí của người bán và 
người mua tại INCOTERM (ví dụ với hợp đồng nhập CIF người bán chỉ chịu chi phí cho 
đến cảng đến), người ta đã đưa ra phạm vi bảo hiểm này. Theo đó trách nhiệm của người 
bảo hiểm chỉ bắt đầu khi hàng hóa rời khỏi kho cảng đi bắt đầu được chuyển lên tàu và 
kết thúc khi hàng hóa được giao vào kho cảng đến có ghi tên trên đơn bảo hiểm. Như 
vậy, thời gian hàng hóa lưu kho tại các cảng nói trên không được bảo hiểm và thời hạn 60 
ngày sau khi dỡ hàng, về nguyên tắc củng chỉ giới hạn đến kho cảng. Tuy nhiên, phạm vi 
bảo hiểm này cũng làm phát sinh những vấn đề gây tranh cãi ví dụ như đối với container 
thì nó sẽ được xếp ở bãi container thay vì kho cảng và có thể được chuyển từ bãi này qua 
bãi khác như vậy thì phạm vi bảo hiểm sẽ kết thúc ở đâu. Cho đến nay vẫn chưa có luật 
hay án lệ nào quy định về điều này và nó chỉ được sử dụng như một tập quán. 
 31
+ “Trách nhiệm qua lan can tàu”: Trong thực tế kinh doanh thương mại có nhiều khi 
hàng đang trên đường vận chuyển đã được chuyển tay qua rất nhiều chủ hoặc khi tàu về 
tới cảng thì hàng đã được bán toàn bộ cho chủ hàng khác và giao cho chủ mới này ngay 
tại cầu cảng. Như vậy trong trường hợp này phạm vi bảo hiểm đến kho cảng cũng không 
cần thiết nữa mà người được bảo hiểm chỉ cần đảm bảo cho những tổn thất xảy ra trong 
quá trình vận chuyển mà thôi. Trách nhiệm của người bảo hiểm chấm dứt khi hàng được 
chuyển qua lan can tàu tại cảng đến ghi trên đơn bảo hiểm. Cũng giống như trên phạm vi 
được thực hiện như một tập quán hoặc tuân theo các điều khoản phụ đính kèm với đơn 
bảo hiểm chứ chưa có một văn bản luật nào quy định nó. 
2.4.5. THỰC HIỆN BẢO HIỂM 
2.4.5.1. Khai báo của người được bảo hiểm (Declaration of Insured) 
Như đã đề cập đến ở trên vào lúc hợp đồng bảo hiểm được ký kết thì đối tượng bảo 
hiểm (hàng hóa) ở cách xa người bảo hiểm và người được bảo hiểm hàng ngàn dặm cho 
nên việc giám định trước khi nhận bảo hiểm là không thể thực hiện được. Vì thế người 
được bảo hiểm phải cung cấp các thông tin mà người bảo hiểm yêu cầu trước khi kết lập 
hợp đồng, các thông tin này phải được kê khai thành văn bản theo mẫu sẵn của người bảo 
hiểm gọi là “Giấy yêu cầu bảo hiểm” (Insurance Application). Giấy yêu cầu bảo hiểm có 
yêu cầu như sau: 
- Ghi nhận các thông tin mà người được bảo hiểm cung cấp đó là bằng chứng về tính 
trung thực của người được bảo hiểm trong khai báo. 
- Thể hiện ý chí , mục đích của người được bảo hiểm trong việc tham gia bảo hiểm – là 
bằng chứng về việc chấp nhận trả tiền phí bảo hiểm. 
- Thể hiện sự lựa chọn của người được bảo hiểm về mức độ và phạm vi tham gia bảo 
hiểm căn cứ vào điều kiện, điều khoản bảo hiểm, thể hiện tính chấp thuận các điều kiện 
điều khoản đó và là cơ sở để giải quyết bồi thường sau này. 
 32
Như vậy giấy yêu cầu bảo hiểm là một chứng cứ pháp lý rất quan trọng, là thủ tục tiên 
quyết của việc kết lập hợp đồng bảo hiểm hay cấp đơn bảo hiểm. Nội dung của nó có thể 
phụ thuộc vào yêu cầu của người bảo hiểm nhưng nhìn chung nó là những sự kiện hay 
tình huống mà nó ảnh hưởng đến phán đoán của một người bảo hiểm thận trọng khi quyết 
định có chấp nhận bảo hiểm hay không và quyết định phí bảo hiểm là bao nhiêu. Tất 
nhiên khi đơn bảo hiểm hay hợp đồng bảo hiểm của người bảo hiểm cấp ra không giống 
như giấy yêu cầu của người được bảo hiểm và dẫn tới phương hại đến quyền của họ thì 
người này có thể bị kiện ra toà , nhưng tốt nhất là họ nên kiểm tra thật kỹ vì trước hết nó 
chính là tài sản của họ. 
2. Bảo hiểm trước (Advanced Insurance) 
Người được bảo hiểm có thể tiến hành mua bảo hiểm ngay sau khi ký hợp đồng ngoại 
thương hay mở L/C của lô hàng, khi đó người bảo hiểm vẫn phát hành đơn bảo hiểm, thừa 
nhận các thông tin còn thiếu sẽ thông báo sau. Khi có đầy đủ thông tin người bảo hiểm sẽ 
phát hành bổ sung. Việc thực hiện bảo hiểm trước tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người 
được bảo hiểm trong việc nhanh chóng hoàn thiện bộ chứng từ, tránh được những trường 
hợp quên không mua bảo hiểm hoặc tương tự. 
3. Đơn bảo hiểm chuyến và hợp đồng bảo hiểm bao (Policy and Open Policy) 
3.1. Đơn bảo hiểm chuyến 
Là đơn bảo hiểm cấp cho một chuyến hàng đi từ địa điểm này đến địa điểm khác trên 
một hành trình của con tàu chuyên chở hàng hóa đó. 
3.2. Hợp đồng bảo hiểm bao 
Việc bảo hiểm cho những chuyến hàng riêng biệt không những rất phiền phức cho 
người được bảo hiểm mà đôi khi họ quên và bỏ qua không mua bảo hiểm cho hàng hóa 
trong một vài chuyến . Để khắc phục tình trạng này, hoạt động thương mại quốc tế thường 
dùng hợp đồng bảo hiểm bao (Open Policy) đặc biệt với những nhà nhập khẩu thường 
 33
xuyên một số lượng hàng hóa lớn từ nhiều cảng, nhiều nơi trên thế giới hay với những lô 
hàng lớn, vận chuyển giao hàng nhiều lần. 
Một đơn bảo hiểm bao là một đơn bảo hiểm thông thường được thể hiện một cách tổng 
quát về bảo hiểm cho nhiều lô hàng sẽ được khai báo hay nhiều tàu mà các chi tiết sản 
phẩm sẽ ấn định sau. Chi phối bởi nội dung và điều kiện bảo hiểm, số tiền bảo hiểm bao 
gồm tất cả các lô hàng của người được bảo hiểm cho đến khi số tiến này trả hết. Đơn bảo 
hiểm giống như một thỏa thuận danh dự từ đó mới cấp đơn bảo hiểm cụ thể theo thông lệ. 
Các khai báo tiếp sau sẽ được làm theo thứ tự gửi hàng hoặc trình tự thực hiện các hợp 
đồng ngoại thương. Người được bảo hiểm có nghĩa vụ khai báo tất cả các chuyến hàng đã 
gửi thuộc phạm vi đơn bảo hiểm bao, tuy nhiên một khai báo sót hay nhầm vẫn có thể tu 
chỉnh lại dù sau khi tổn thất hay khi đã tới nơi an toàn nếu như thiếu sót hay khai báo phải 
trung thực, man trá trong khai báo sẽ đưa đến vô hiệu hóa đơn bảo hiểm. 
Đơn bảo hiểm bao là một đơn bảo hiểm mà hành trình của tàu biển, thời gian của nó 
phụ thuộc vào số lượng, quy mô các kê khai và quá trình thực hiện nó. Đơn bảo hiểm như 
thế bao giờ cũng nhận biết được bằng câu “sau đó phải khai và định giá”, điều này nói lên 
đơn bảo hiểm bao là một đơn bảo hiểm có trị giá. 
Người được bảo hiểm có nhiều thuận lợi khi sử dụng hợp đồng bảo hiểm bao: 
- Trước hết họ được hưởng bảo hiểm một cách tự động và nếu vô ý bỏ qua một chuyến 
hàng không thông báo cho bảo hiểm thì sự việc đó vẫn không làm cho bảo hiểm vô hiệul. 
- Người được bảo hiểm biết trước mức phí bảo hiểm phải trả do vậy biết chắc về chi 
phí bảo hiểm, nên họ chủ động hơn trong công việc. 
- Hệ thống bảo hiểm bao cho phép người bảo hiểm quản lý công việc của họ hữu hiệu 
hơn. Thông thường người được bảo hiểm sẽ trả phí bảo hiểm theo định kỳ. 
- Cuối cùng hệ thống bảo hiểm bao tạo nên mối quan hệ kinh doanh tốt giữa người bảo 
hiểm và người được bảo hiểm. 
4. Bảo hiểm trùng (Double Insurance) 
 34
Ta nhận thấy rằng để thực hiện một hợp đồng bảo hiểm hàng hải chỉ cần người được 
bảo hiểm có một quyền lợi có thể bảo hiểm trên đối tượng bảo hiểm, do vậy có một số 
người có thể có quyền lợi có thể bảo hiểm trên cùng một chiếc tàu như: chủ tàu, người cho 
vay, người thuê tàu …cũng như có một số người có thể có quyền lợi có thể bảo hiểm trên 
cùng một lô hàng hóa như: người nhập khẩu, người xuất khẩu, đại lý thương mại … bảo 
hiểm trùng xảy ra khi co hai hay nhiều hơn số đơn bảo hiểm được phát hành cho một 
quyền lợi có thể bảo hiểm và tổng số tiền vượt quá mức cho phép (MIA 1906 – điều 32). 
Thực tế nó có thể xảy ra theo hai cách: 
- Cố ý: Trường hợp này là rất hiếm song có khi ngân hàng chỉ chấp nhận đơn bảo hiểm 
của những nhà bảo hiểm nào đó, hoặc là từ chối một lọai đảm bảo nào đó. Như thế cần 
một đơn bảo hiểm khác nữa. 
- Sơ xuất: Trường hợp này thông thường hơn, người bán mua bảo hiểm cho người mua, 
người mua không biết có sự sắp xếp như thế cũng mua bảo hiểm cho quyền lợi của mình. 
Trong hai trường hợp vị trí đều giống nhau, thủ tục nhận bồi thường (nếu có) cũng 
giống nhau chỉ khác nhau là trong trường hợp thứ nhất không được hoàn phí bảo hiểm về 
số tiền bảo hiểm dư ra. Theo quy định của luật (điều 32) thì người được bảo hiểm có 
quyền đòi bồi thường theo bất kỳ thứ tự nào phù hợp cho họ miễn là không vượt quá số 
tiền bảo hiểm còn việc đóng góp phân chia là việc của các nhà bảo hiểm. Thông thường 
bảo hiểm trùng xảy ra do so xuất và thông lệ của người bảo hiểm là giảm 50% trên mỗi 
đơn bảo hiểm. Mặc dù quy định của luật là cả hai người bảo hiểm đều hoàn một nửa phí 
và trả một nửa tổn thất, song nếu một đơn bảo hiểm nào đã từng phải gánh chịu toàn bộ 
trách nhiệm về rủi ro hay nếu đơn bảo hiểm nào đã trả tổn thất trên đầy đủ só tiền bảo 
hiểm thì đơn bảo hiểm ấy không phải hoàn hồi phí bảo hiểm. 
Phạm vi bảo hiểm (hàng hải) 
Trước khi đưa điều khoản "từ kho đến kho" vào, đơn bảo hiểm hàng hoá có hiệu lực và 
kết thúc theo qui định của mẫu đơn SG. Không có bảo hiểm trong khâu chuyên chở đến 
cảng bốc hàng cũng như trong thời gian bốc hàng và cả khi ở trên thuyền bè ở cảng bốc 
hàng. Bảo hiểm chỉ bắt đầu khi hàng hoá được bốc lên tàu biển. Bảo hiểm kết thúc khi 
 35
hàng hoá được dỡ xuống cầu nơi cảng dỡ hàng, không bảo hiểm khâu chuyên chở bộ ở 
cảng đến nhưng có bảo hiểm khi còn nằm trên thuyền bè tại cảng đến, sau khi dỡ khỏi tàu 
biển. 
Điều khoản "từ kho đến kho" được đưa vào từ khoảng cuối thế kỷ 19 và được đưa vào 
các điều khoản hàng hoá của Hiệp hội khi được soạn thảo lần thứ nhất vào năm 1912. Đơn 
bảo hiểm SG không ấn định thời hạn, có thể là vì không thể dự kiến được thời gian của 
một hành trình vào thời điểm đưa đơn bảo hiểm SG vào sử dụng. Theo tập quán đó trong 
điều khoản "từ kho đến kho" cũng không ấn định thời hạn cho chuyến hải trình, và cũng 
không áp dụng thời hạn cho giai đoạn trước khi bốc hàng lên tàu biển. Để động viên 
người được bảo hiểm rút hàng nhanh sau khi dỡ nên có một thời hạn sau khi dỡ hàng. 
Giới hạn này được thấy là không thực tế trong thời gian chiến tranh 1939/45, và đã được 
nâng lên là 60 ngày bởi một điều khoản được gọi là điều khoản "mở rộng thời gian chiến 
tranh". Người bảo hiểm đã thoả thuận giữa giới hạn 60 ngày này sau thời chiến, bằng điều 
khoản "bảo hiểm mở rộng"(extended cover), và rồi cuối cùng được đưa vào ICC như là 
một tiêu chuẩn. Năm 1963 điều khoản "vận chuyển" được đưa vào ICC để thay thế điều 
khoản "từ kho đến kho" và "bảo hiểm mở rộng". Điều khoản "vận chuyển" được sửa đổi 
đôi chút cho thêm rõ ràng khi được đưa vào ICC 1982, nhưng nội dung cụ thể vẫn giữ 
nguyên như những điều khoản cũ. Điều khoản được soạn thảo lại như dưới đây, có trong 
cả ba bộ ICC 1982, và theo sau nội là phần bình luận: 
8. Điều khoản vận chuyển 
8.1 Bảo hiểm này có hiệu lực kể từ khi hàng hoá rời khỏi kho hay nơi chứa hàng tại 
địa điểm có tên ghi trong bảo hiểm để bắt đầu vận chuyển, tiếp tục trong quá trình vận 
chuyển bình thường và kết thúc hoặc 
8.1.1 Khi giao hàng vào kho người nhận hàng hay kho hoặc nơi chứa hàng cuối cùng 
khác tại nơi nhận có tên ghi trong bảo hiểm.8.1.2 Khi giao hàng cho bất kỳ một kho hay 
nơi chứa nào khác, dù trước khi tới hay tại nơi nhận hàng có ghi trong đơn bảo hiểm, mà 
người được bảo hiểm chọn hoặc 
8.1.2.1 Để chứa hàng ngoài quá trình vận chuyển bình thường 
 36
8.1.2.2 Để chia hay phân phối hàng, hoặc 
8.1.3 Khi hết hạn 60 ngày sau khi hoàn thành dỡ hàng hoá bảo hiểm khỏi tàu biển tại 
cảng dỡ hàng cuối cùng, tuỳ theo trường hợp nào hàng hoá đến trước. 
8.2 Nếu sau khi dỡ hàng khỏi tàu biển tại cảng dỡ hàng cuối cùng, nhưng trước khi kết 
thúc bảo hiểm, hàng được gửi tới một nơi nhận hàng không đúng nơi nhận hàng ghi trong 
bảo hiểm này thì bảo hiểm này trong khi giữ nguyên hiệu lực theo qui định kết thúc nói 
trên, sẽ không mở rộng giới hạn quá lúc bắt đầu vận chuyển tới nơi khác ấy.8.3 Bảo hiểm 
này giữ nguyên hiệu lực (phụ thuộc qui định kết thúc nói trên và qui định trong điều 9 
dươí đây) trong khi bị chậm trễ ngoài khả năng kiểm soát của người được bảo hiểm, khi 
tàu chạy lệch hướng kỳ, khi dỡ hàng bắt buộc, xếp lại hàng hoặc chuyển tải và trong khi 
có bất kỳ thay đổi nào về hành trình xuất phát từ việc thực hiện quyền tự do mà hợp đồng 
chuyên chở đã dành cho chủ tàu hoặc người thuê tàu. 
Bắt đầu vận chuyển - (commencement of transit (ĐK .1)) 
Khi bảo hiểm hàng hoá được đăng ký mua bảo hiểm tạm thời (placed facultatively) rủi 
ro phải bắt đầu trong một thời gian hợp lý sau khi người bảo hiểm nhận rủi ro này, nếu 
không người bảo hiểm có thể từ chối hợp đồng này (MIA 1906 tiết 4.2). Khi hàng hoá 
được bảo hiểm theo mẫu hợp đồng bao (open cover) rủi ro có thể bắt đầu bất cứ lúc nào 
trong thời hạn hợp đồng bao và được bảo hiểm bởi hợp đồng bảo hiểm này, phù hợp với 
điều khoản vận chuyển cho đến khi giao hàng vào kho nơi đến, cho dù nhận hàng sau khi 
hợp đồng bao mãn hạn. Theo điều khoản vận chuyển bảo hiểm chỉ có hiệu lực kể từ khi 
hàng hoá rời kho bãi (premises) để bắt đầu vận chuyển. Vì thế trừ khi có qui định đặc biệt 
trong đơn bảo hiểm, không có bảo hiểm trong khi bốc hàng lên phương tiện vận chuyển 
tại kho hay trong bất cứ thời gian nào trước khi vận chuyển thật sự bắt đầu, chẳng hạn như 
vận chuyển tới vào nơi đóng gói. Vận chuyển tới bến container để xếp hàng vào container 
được coi là một phần của vận chuyển biển, 
Quá trình chuyên chở thông thường ( C l 8.1) 
(ORDINARY COURCE OF TRANSIT) (CL 8.1) 
 37
Theo các điều khoản của điều khoản vận chuyển bảo hiểm chỉ tiếp tục khi hàng hoá 
vẫn nằm trong quá trình vận chuyển "thông thường". Mọi sự tách khỏi quá trình chuyên 
chở bình thường đưa đến kết thúc bảo hiểm. Từ "thông thường" được coi là bao gồm 
phương thức chuyên chở theo tập quán phù hợp với loại hàng hoá và tuyến đường trực 
tiếp nhất dẫn tới nơi đến. Nó bao gồm cả chậm trễ thời gian hàng chờ hải quan hoặc các 
cơ quan tương tự kiểm tra, và thời gian chờ phương tiện hay tàu chở tiếp, nhưng không 
gồm mọi chậm chễ mà người được bảo hiểm có thể tránh được hoặc thời gian lưu kho 
nằm trong sự kiểm soát của người được bảo hiểm. Vì vậy, nếu người được bảo hiểm chọn 
một kho cảng để chứa hàng, thì coi như là nằm ngoài quá trình chuyên chở thông thường 
(xin xem giải thích dưới đây về thay đổi hành trình, tàu đi chệch hướng và chậm trễ trong 
chuyên chở) 
Chậm trễ trong chuyên chở (ĐK 8.3) 
Luật Bảo hiểm Hàng hải 1906- tiết 46- qui định là hành trình phải được tiếp tục không 
chậm trễ bất hợp lý, và người bảo hiểm được miễn giải trách nhiệm từ thời điểm việc 
chậm trễ là bất hợp lý. Trên thực tế, bộ luật này chỉ qui định cho hành trình ngoài biển do 
đó ICC 1982 đưa vào điều khoản dưới đây, do vậy đảm bảo là điều kiện này được áp dụng 
trong suốt thời gian chuyên chở. Điều khoản 18 có trong cả ba bộ điều khoản 1982. 
18. điều khoản khẩn trương hợp lý. 
 Bảo hiểm này đặt điều kiện người được bảo hiểm phải khẩn trương hợp lý trong mọi 
tình huống trong phạm vi kiểm soát được của họ.Tuy nhiên, với điều kiện là chậm trễ phải 
là ngoài khả năng kiểm soát của người được bảo hiểm, thì người bảo hiểm vẫn tiếp tục 
bảo hiểm theo như theo điều khoản 8.3( được trích dẫn như là một phần của điều khoản 
"vận chuyển" nói trên). Tuy nhiên cần nhấn mạnh là tổn thất trực tiếp gây ra bởi chậm trễ 
không được bảo hiểm. Loại trừ này đã được nêu trong MIA 1906 - tiết 55 - và trong điều 
khoản 4.5 của cả ba bộ điều khoản của ICC 1982. Xin xem giải thích dưới tiêu đề "những 
loại trừ chung trong ICC 1982" 
Đi chệch hướng (deviation) 
 38
Có "chệch hướng" khi tuyến đường chuyên chở bị thay đổi khác với tuyến trực tiếp dự 
kiến trong đơn bảo hiểm, nhưng phải với ý định quay trở về tuyến trực tiếp và hoàn tất 
chuyên chở tới nơi đến ghi trên đơn bảo hiểm. MIA 1906- tiết 46- miễn trách cho người 
bảo hiểm kể từ thời điểm tàu đi chệch khỏi tuyến hành trình dự định không vì lý do luật 
pháp. Luật đã qui định những lý do "luật pháp" được chấp nhận cho cả hai trường hợp đi 
chệch hướng và chậm trễ trong hành trình ở trong mục 49. Một trong số các lý do này 
là"khi được quyền bởi các điều kiện đặc biệt trong đơn bảo hiểm". Điều khoản 8.3 trong 
cả ba bộ ICC 1982 qui định là bảo hiểm này vẫn tiếp tục trong khi tàu đi chệch hướng mà 
không đòi phải người được bảo hiểm phải thông báo hay nộp thêm phí. Không có yêu cầu 
nào buộc việc tàu đi chệch hướng phải nằm ngoài sự kiểm soát của người được bảo hiểm, 
song phải nhớ rằng là việc tàu đi chệch hướng này mà người được bảo hiểm có thể tránh 
được sẽ có thể được coi là nằm ngoài "quá trình chuyên chở bình thường". 
Thay đổi hành trình (đk 10) (CHANCE OF VOYAGE) 
Một "thay đổi hành trình" được MIA định nghĩa: 
Thay đổi hành trình. 
45. (1) Khi mà, sau khi bảo hiểm bắt đầu, nơi đến của tàu được tự ý thay đổi khác với 
nơi đến dự liệu bởi đơn bảo hiểm thì được gọi là thay đổi hành trình. 
(2) Trừ khi một đơn bảo hiểm qui định khác, khi có một thay đổi hành trình thì người 
bảo hiểm được miễn giải trách nhiệm kể từ thời điểm có thay đổi, nghĩa là kể từ lúc quyết 
định thay đổi được biểu hiện, và bất kể là tàu có thể đã không thật sự tách rời tuyến đường 
dự liệu bởi đơn bảo hiểm khi tổn thất xảy ra. 
Điều khoản 10 (trong A, B và C) duy trì bảo hiểm cho người được bảo hiểm trong 
trường hợp thay đổi hành trình. 
10. Điều khoản thay đổi tuyến đường 
 39
Nếu sau khi bảo hiểm này có hiệu lực mà người được bảo hiểm lại thay đổi nơi nhận 
hàng thì vẫn được bảo hiểm với phí bảo hiểm và điều kiện sẽ được thoả thuận với điều 
kiện phải báo ngay cho người bảo hiểm. 
Cần lưu ý là bảo hiểm này phụ thuộc vào việc thông báo của người được bảo hiểm cho 
người bảo hiểm ngay khi anh ta biết về việc thay đổi hành trình xẩy ra, không thể chờ đến 
khi phát sinh khiếu nại mới thông báo cho người bảo hiểm. Nhận được thông báo từ người 
được bảo hiểm, người bảo hiểm sẽ quyết định việc gia tăng rủi ro dẫn đến phải thay đổi 
điều kiện bảo hiểm và phí bổ sung hợp lý. (Những người có kinh nghiệm khi so sánh bộ 
điều khoản 1982 với 1963 sẽ nhận thấy là không có qui định nào trong những điểu khoản 
mới mà bảo vệ người được bảo hiểm người mà nhầm lẫn trong việc mô tả quyền lợi bảo 
hiểm, tàu hay hành trình (in the description of interest, vessel or voyage). Bảo vệ này có 
trong điều khoản "thay đổi hành trình" trong điều khoản 1963). Xem điều khoản 8.2 liên 
quan đến thay đổi nơi đến sau khi dỡ. 
Chuyển tải/ xếp lại hàng lên tàu (ĐK8.3) (TRANSHIPMENT/RESHIPMENT) 
MIA (1906) qui định như sau: 
ảnh hưởng của chuyển tải v.v... 
Khi vì một hiểm hoạ được bảo hiểm mà hành trình bị gián đoạn tại một cảng hay nơi 
chốn trung điểm, và với tình trạng này chứ không phải do một qui định đặc biệt nào khác 
trong hợp đồng chuyên chở, đã biện minh được việc thuyền trưởng cho dỡ hàng hoá hay 
các động sản khác xuống bờ và bốc lại lên tàu, hay việc chuyển tải các hàng hoá đó và gửi 
tới nơi đến thì trách nhiệm của người bảo hiểm vẫn tiếp nối mặc dù có dỡ hàng lên bờ 
hoặc có chuyển tải. 
Cần lưu ý là MIA tiếp tục bảo hiểm chỉ đối với việc chuyển tải/ xếp lại hàng lên tàu sau 
khi có tác động của một hiểm hoạ được bảo hiểm, còn điều khoản 8.3 của ICC 1982 (A, B 
và C) thì tiếp tục bảo hiểm trong bất kỳ chuyển tải hay bốc lại hàng lên tàu hoặc mọi thay 
đổi hành trình khác bởi chủ tàu/ người thuê tàu mà được các điều khoản của hợp đồng 
chuyên chở cho phép họ làm như vậy. Cần nhận định rằng cả MIA lẫn ICC đều không qui 
 40
định cho những trường hợp hàng hoá từ phương tiện này sang phương tiện khác, (thí dụ 
tàu bay), không phải là tàu (other than a ship). Dĩ nhiên, mọi thay đổi trong vòng kiểm 
soát được của người được bảo hiểm sẽ bị coi là "ngoài quá trình chuyên chở bình thường", 
trong khi mọi chuyển tải từ phương tiện này sang phương tiện khác theo tập quán (thí dụ 
bộ sang đường sắt, thuyền sang tàu.v.v...) sẽ được coi là trong quá trình chuyên chở bình 
thường. Điều quan trọng cần ghi nhớ là người được bảo hiểm biết là có chuyển tải, mà 
không phải là chuyên chở thông thường sẽ được xem như là vi phạm quy tắc trung thực 
tuyệt đối nếu anh ta không khai báo cho người bảo hiểm khi ký hợp đồng bảo hiểm. Vi 
phạm kam kết trung thực tuyệt đối cho phép người bảo hiểm khước từ hoàn toàn hợp 
đồng. Điều khoản 8.3 cũng qui định tiếp tục bảo hiểm trong trường hợp dỡ hàng "bắt 
buộc". Điều này liên quan đến những trường hợp mà người chuyên chở không thể hoàn tất 
hành trình và dỡ hàng trước khi tới nơi đến (discharges the cargo short of destination). 
Bảo hiểm trong trường hợp này được chi phối bởi qui định của "điều khoản kết thúc hợp 
đồng" (đk 9). 
Rủi ro về tàu thuyền nhỏ (xà lan) (CRAFL RISK) 
ICC 1963 kết hợp điều khoản "thuyền nhỏ", nhưng nhận thấy điều khoản này không 
cần thiết trong ICC 1982 vì mọi phương tiện chuyên chở thường được sử dụng để chuyên 
chở hàng hoá nằm trong từ "quá trình chuyên chở bình thường". Nó bao gồm thuyền (xà 
lan) dùng để chuyển hàng hoá giữa tàu và bờ và thuyền được sử dụng để vận chuyển hàng 
hoá trên sông ngòi, kinh lạch.v.v...Nó không bao gồm thuyền dùng để chứa chất hàng hoá, 
ngoài quá trình chuyên chở bình thường. 
NHỮNG NÉT CHÍNH về bảo hiểm tại cảng dỡ hàng (ĐK 8.1) 
(OUTLINE OF COVER TO PORT OF DISCHARGE) 
Bảo hiểm đã có hiệu lực kể từ khi hàng hoá bắt đầu được chuyên chở, tiếp tục cho đến 
khi hàng hoá được dỡ xuống cảng để chở tiếp trên bộ tới nơi đến cuối cùng. Hình thức này 
bao gồm mọi hình thức chuyên chở thông thường và những chậm trễ thường xẩy ra bao 
gồm cả việc bốc và dỡ hàng, dù rằng tổn thất hay tổn hại do công tác này gây ra chỉ được 
bồi thường theo điều kiện A, hoặc theo điều kiện B khi là tổn thất nguyên kiện vì giây cột 
 41
hàng (sling loss), nhưng C không bảo hiểm cho tổn thất này (xem điều khoản 1.3), hoặc 
khi tổn thất được qui cho là vì dỡ hàng tại cảng lánh nạn.Hình vẽ dưới đây biểu thị phạm 
vi bảo hiểm cho đến lúc dỡ hàng từ tàu biển: quyền lựa chọn lưu kho của người được bảo 
hiểm sau khi dỡ hàng 
Nếu sau khi dỡ hàng người được bảo hiểm chọn cách xếp hàng vào trong một kho tại 
một nơi trước khi đến kho đích hoặc nơi chứa hàng cuối cùng, vị trí lưu kho sớm này 
được hiểu là đích cuối cùng thậm chí cho dù chưa hết thời hạn hiệu lực 60 ngày. 
 Phân phối sau khi dỡ hàng khỏi tàu biển (ĐK 8.I.2.2) 
Nhiều khi hàng hoá dự định gửi tới nhiều nơi đến lại vận chuyển dưới dạng một chuyến 
hàng tới một nơi tập trung khi dỡ. Từ đây số hàng này sẽ được phân bổ tới các nơi riêng 
biệt, lô hàng được phân tán và hàng hoá được phân phối tới từng nơi cuối cùng. Nếu 
không thu xếp trước với người bảo hiểm để tiếp tục bảo hiểm cho đến nơi đến cuối cùng 
của từng phần của lô hàng hoá được bảo hiểm thì bảo hiểm được coi như chấm dứt khi 
hàng hoá giao vào nơi phân phối hoặc phân chia. Không có bảo hiểm khi hàng hoá đang 
được phân chia hay vận chuyển tiếp. Trong những trường hợp này cần chứng minh tổn 
thất xảy ra trước khi giao hàng vào nơi phân chia/ phân phối, trong trường hợp có khiếu 
nại đòi bồi thường theo đơn bảo hiểm này. Việc chứng minh hàng hoá đã bị tổn thất trước 
khi giao vào kho cuối cùng chưa đủ.v Hình vẽ dưới đây biểu thị đảm bảo sau khi dỡ: 
Thay đổi nơi đến sau khi dỡ (ĐK 8.2) 
(CHANGE OF DESTINATION AFTER DISCHARGE) 
Bình luận ở trên là đối với trường hợp hàng hoá được dỡ từ tàu biển và được chuyên 
chở tiếp đến nơi qui định trên đơn bảo hiểm. Khi hàng hoá không được gửi đến nơi đến 
ghi trên đơn bảo hiểm, nhưng được dỡ theo cách thông thường tại cảng dỡ dự định, điều 
khoản 8.2 bắt đầu có hiệu lực. Vẫn áp dụng thời hạn 60 ngày cũng như các giới hạn về lưu 
kho và phân chia hay phân phối, song, thêm nữa, bảo hiểm còn giới hạn trong khoảng thời 
gian trước khi bát đầu vận chuyển đến địa điểm đích mới. Trên thực tế, người được bảo 
hiểm có thể sẽ yêu cầu người bảo hiểm tiếp tục bảo hiểm, nhưng không một qui định nào 
 42
trong ICC 1982 duy trì bảo hiểm cho chuyến chuyên chở tiếp nối đến địa điểm đích mới. 
Khi hàng hoá được gửi trả người gửi hàng sau khi đã dỡ hàng tại cảng dỡ hàng do đơn bảo 
hiểm qui định, nơi hàng gửi trả về được coi là nơi đến "mới", và trừ khi người bảo hiểm 
đồng ý bảo hiểm tiếp, bảo hiểm kết thúc theo điều 8.2. Nếu nơi đến thay đổi trước khi 
hàng hoá được dỡ hàng khỏi tàu biển, thì đây là "thay đổi hành trình" và được bảo hiểm 
bởi điều khoản 10. 
Kết thúc hợp đồng chuyên chở (ĐK 9) 
(TERMINATION OF CONTRACT OF CARRIAGE) 
Chủ tàu ký một hợp đồng vận tải với người gửi hàng, theo đó chủ tàu thoả thuận thực 
hiện một cách khẩn trương hợp lý để cung ứng một tàu có đủ khả năng đi biển với điều 
kiện thích hợp để chuyên chở hàng hoá mà anh ta đã ký hợp đồng chuyên chở, và để bốc, 
chuyển dịch, sắp xếp, chuyên chở, chăm sóc, và dỡ hàng hoá một cách đúng mức và cận 
thận. Hợp đồng này miễn cho người chuyên chở trách nhiệm về tổn thất hay tổn hại của 
hàng hoá khi không có lỗi thực tế hay lỗi cố tình của anh ta và cho phép người chuyên chở 
được dỡ hàng tại cảng hay nơi chốn dọc đường nếu anh ta không thể tiếp tục hành trình và 
dỡ hàng tại cảng hay địa điểm nơi mà anh ta đã ký hợp đồng để dở hàng. Một thí dụ cho 
trường hợp này là khi có đình công tại cảng đến buộc người chuyên chở phải dỡ hàng tại 
một cảng hoặc địa điểm lựa chọn khác và kết thúc hợp đồng chuyên chở tại cảng giữa 
đường này. Trong khi điều khoản 8.3 tiếp tục bảo hiểm khi người chuyên chở sử dụng 
quyền thay đổi hành trình, nếu người chuyên chở kết thúc hợp đồng chuyên chở tại một 
cảng hay địa điểm giữa đường, trong tình huống ngoài kiểm soát của người được bảo 
hiểm, thì điều khoản 9 trở nên có hiệu lực. Điều khoản này có trong cả ba bộ ICC 1983: 
Điều khoản kết thúc hợp đồng vận chuyển 
Nếu do tình huống ngoài kiểm soát của người được bảo hiểm thì hợp đồng vận chuyển 
kết thúc tại một cảng hay một nơi không phải nơi nhận có tên ghi trên đơn bảo hiểm hoặc 
việc vận chuyển được kết thúc cách nào khác trước khi giao hàng như qui định của điều 8 
trên thì bảo hiểm này cũng sẽ kết thúc trừ khi có thông báo gửi ngay cho người bảo hiểm 
và yêu cầu tiếp tục bảo hiểm khi đó bảo hiểm vẫn còn hiệu lực, với điều kiện trả thêm phí 
 43
bảo hiểm nếu người bảo hiểm yêu cầu, hoặc 9.1 Cho tới khi hàng được đem đi bán và 
giao tại cảng này, nơi chốn đó, hoặc trừ khi có thoả thuận riêng khác, cho tới khi hết hạn 
60 ngày sau khi hàng bảo hiểm tới cảng hay nơi chốn đó, tuỳ theo trường hợp nào đến 
trước, hoặc 9.2 Nếu hàng hoá được gửi đi trong phạm vi 60 ngày đó (hoặc bất kỳ 
phạm vi mở rộng nào được thoả thuận) để tới nơi nhận hàng có tên ghi trên đơn bảo hiểm 
hay tới bất kỳ nơi nhận nào khác, thì cho tới khi kết thúc bảo hiểm theo những qui định 
của điều 8 kể trên. 
Có quan niệm sai lầm cho rằng điều khoản này có ý tiếp tục bảo hiểm trong các tình 
huống như vậy, trong khi nghiên cứu kỹ càng hơn điều khoản này cho thấy là bảo hiểm 
kết thúc một cách tự động, trừ khi người được bảo hiểm có hành động tích cực yêu cầu 
tiếp tục bảo hiểm. Hành động này phải được thực hiện ngay khi người được bảo hiểm biết 
được vự việc này, khi đó người được bảo hiểm phải yêu cầu bảo hiểm tiếp tục nếu muốn 
tránh bảo hiểm kết thúc vào thời điểm hợp đồng chuyên chở kết thúc. Với điều kiện là 
phải thông báo ngay lập tực và đóng phí bổ sung, người bảo hiểm sẽ đồng ý tiếp tục bảo 
hiểm. Khi đã có thoả thuận tiếp tục bảo hiểm, thì người được bảo hiểm có 60 ngày để có 
hành động giải quyết hàng hoá, nếu không bảo hiểm sẽ chấm dứt khi vượt quá thời hạn 
hiệu lực đó. Khi so sánh với thời hạn hiệu lực trong điều khoản "vận chuyển" cho thấy là 
thời hạn này (trong đk 9) bắt đầu từ lúc hàng hoá "đến" cảng hay địa điểm giữa đường, 
trong khi thời hạn hiệu lực trong điều khoản 8 bắt đầu từ lúc "dỡ hàng xong". Các điều 
khoản không nói rõ tại sao lại có sự khác biệt ấy cũng như không có dấu hiệu giải thích ý 
nghĩa của từ "đến". Tàu có thể tới cảng giữa đường và không thể dỡ hàng được bảo hiểm, 
và trong trường hợp này có thể xem xét thực tế để áp dụng định nghĩa của từ "đến" trong 
điều khoản 5 của điều khoản chiến tranh của học hội (Hàng hoá): 
"Đến" được hiểu là tàu đã thả neo, trằng cột hay làm cách nào khác để đậu an toàn tại 
bến hay nơi chốn trong phạm vi khu vực cơ quan cảng. Nếu không có được bến hay nơi 
chốn như thế thì tàu được coi là đến khi trước hết đã thả neo, rằng cột hay cách nào khác 
để đậu an toàn tại tàu ngoài cảng hay nơi chốn dự tính dỡ hàng. 
Tuy nhiên, cần phải nhớ rằng trên thực tế ICC 1982 không đưa vào định nghĩa này, do 
vậy trong trường hợp có tranh chấp, định nghĩa trên có thể không được toà án chấp nhận. 
 44
Nếu người được bảo hiểm quyết định bán hàng hoá tại cảng giữa đường, bảo hiểm kết 
thúc khi hàng hoá được giao cho người mua tại cảng hay nơi chốn ấy, với điều kiện là 
việc giao hàng cho người mua phải diễn ra trong thời hạn hiệu lực 60 ngày (điều khoản 
9.1). Nếu hàng hoá được bán cho người mua để giao tại một cảng hay một địa điểm khác, 
điều khoản 9.2 sẽ có hiệu lực. 
Điều khoản 9.2 đề cập đến những trường hợp người được bảo hiểm quyết định chuyển 
tiếp hàng đến địa điểm địch dự định ban đầu hay một địa điểm lựa chọn khác. Cần phải 
nhớ là điều này chỉ áp dụng cho việc dỡ hàng xuất phát từ việc người chuyên chở kết thúc 
hợp đồng mà thôi, và không được nhầm lẫm với trường hợp người được bảo hiểm tự ý gửi 
hàng đến một nơi đến khác sau khi dỡ hàng tại cảng dỡ hàng qui định (trường hợp sau 
được chi phối bởi điều khoản 8.2). Với điều kiện người được bảo hiểm đã có thoả thuận 
với người bảo hiểm để tiếp tục bảo hiểm và chuyên chở đến địa điểm khác này với thời 
hạn hiệu lực được quy định trong điều khoản 8 (điều khoản "vận chuyển") khi hàng được 
giao tại địa điểm khác. 
Cần lưu ý là, trừ khi lý do phải chọn phương án dở hàng tại cảng dọc đường là hậu quả 
của một rủi ro được bảo hiểm, khi hợp đồng vận tải bị chấm dứt, người bảo hiểm không 
chịu trách nhiệm cho các chi phí chuyển tiếp. 
2.5.CÁC LUẬT BẢO HIỂM ÁP DỤNG 
2.5.1 LUẬT BẢO HIỂM HÀNG HẢI 1960 
Theo Marine Insurance Act 1960(viết tắt là MIA):đây là đạo luật để hệ thống hóa pháp 
luật liên quan đến bảo hiểm hàng hải do hoàng gia Anh ban hành (21/12/1960).bộ luật này 
thể hiện pham vi, trách nhiệm và nghĩa vụ có liên quan của người bảo hiểm nhằm giải 
quyết những tranh chấp có liên quan đến bảo hiểm hàng hóa bằng đường biển giữa người 
bảo hiểm và người được bảo hiểm.luật bảo hiểm 1960 gồm có 94 điều khoản.tuy nhiên 
trong mỗi đơn bảo hiểm chỉ đưa ra một số điều có tính chất cơ bản cần thiết,thường xuyên 
nhất và trở thành quy tắc.do đó nếu có rủi ro xảy ra không nằm trong đơn bảo hiểm thì 
phải áp dụng luật bảo hiểm này.nếu có rủi ro xảy rằm ngoài 94 điều khoản đã quy định 
 45
trong luật thì hai bên bảo hiểm và được bảo hiểm, nhất là bên bảo hiểm có chấp nhận bồi 
thường bảo hiểm hay không,phụ thuộc vào án lệ 
2.5.2 CÔNG ƯỚC BRUSSELS,1924 
Đây là công ước quốc tế để thống nhất về một số quy tắc về đơn vận tải,ký kết taị 
Brussel ngày 25/8/1924 gồm 16 điều khoản,và được bổ sung bằng một nghị định thư-
Visby Rules, 1968 gồm 17 điều khoản. Các công ước này nhằm thể hiện phạm vi trách 
nhiệm và nghĩa vụ của người chuyên chở cunhx như người gửi hàng.qua đó giả quyết 
tranh chấp giữa người chuyên chở và người gửi hàng.cũng như giữa người chuyên chở và 
người bảo hiểm (khi người gửi hàng mua bảo hiểm và có tổn thất xảy ra thuộc phạm vi 
bồi thường của người bảo hiểm mà do lỗi của tàu gây ra) 
2.5.3 QUY TẮC YORK-ANTWERP 1974 VÀ 1994 VỀ TỔN THẤT CHUNG 
Đây là quy tắc thuộc hội hàng hải quốc tế chuẩn y tại hội nghị Hamboug tháng 4/1974 
về tổn thất chung xoay quanh vấn đề hành vi tổn thất chung và các chi phí tổn thất chung 
để làm cơ sở giải quyết khi tàu có sự cố tổn thất chung,được sửa đổi và bổ sung năm 1994 
2.6. CẢNG NỘI ĐỊA ( ICD - Inland Container Depot ) 
 ICD là điểm tập kết hàng container xuất để chuyển ra cảng và ngược lại nhận 
container nhập từ cảng để rút hàng lẻ giao cho chủ hàng 
Sự hình thành ICD là để tập kết hàng từ các khu công nghiệp, giảm áp lực đóng rút 
hàng tại cảng, dành diện tích mạn tầu trong cảng tối đa cho nhu cầu giải phóng tầu nhanh. 
ICD cũng cung cấp các dịch vụ phụ trợ cho khách hàng và thường có cả dịch vụ sửa chữa, 
tân trang, làm vệ sinh container cho phù hợp với nhu cầu của khách hàng. 
các ICD đã đáp ứng được yêu cầu giải tỏa lượng hàng hóa ùn tắc tại các cửa khẩu 
cảng biển, nhất là tình hình ứ đọng hàng hóa 
thuận tiện trong việc nhận hàng nhập chuyển cửa khẩu, chuyển cảng từ cửa khẩu về 
các ICD, sau đó vận chuyển đến hải quan …; tiếp nhận hàng xuất khẩu, chuyển cửa khẩu, 
chuyển cảng từ hải quan các tỉnh lân cận về các ICD, sau đó vận chuyển bằng đường sông 
 46
ra các cửa khẩu cảng biển để XK, giảm ùn tắc giao thông trên tuyến đường bộ đến các cảng. 
Từ đó giảm giá thành sản phẩm hàng hóa và giảm ô nhiễm môi trường xung quanh, góp phần tạo lợi thế 
cạnh tranh cho các doanh nghiệp. 
 47
PHẦN IV:PHỤ LỤC 
A. THỦ TỤC BẢO HIỂM 
1. HÀNG XUẤT KHẨU 
Thường bảo hiểm chuyến (voyage policy) 
Xuất khẩu theo điều kiện CIF or CIP.Sau khi hàng giao xong cho người vận tải,Insured 
phải làm “Insurance request on cargo-Giaays yêu cầu bảo hiểm”gửi ngay cho Insurer 
chậm nhất 8 ngày kể từ ngày hàng hoá được xếp xuống tàu.IOC có mẫu sẵn 
Nếu Insurer chấp thuận,sẽ cấp “Insurance policy” hoặc “Certificate Of Insurance”. 
Nếu thanh toán bằng L/C thì phải lấy được chứng từ mà UCP 500 của ICC(ICC 
uniform customs and practice for documentary credits). 
 Ngày ghi trên chứng từ bảo hiểm không đuwocj muộn hơn ngày xếp hàng,ngày 
giao hàng hoặc ngày người vận tải nhận trách nhiệm về hàng hóa (taking in charge of 
goods) ghi trong B/C 
 Số tiền bảo hiểm phải bằng CIF hoặc CIF +A.CIF hoặc 110%CIF (nếu A=10%) 
 Đồng tiền trên chứng từ bảo hiểm phải giống đồng tiền trên L/C 
2. HÀNG NHẬP KHẨU 
Theo các điều kiện FCA-FOB-CFR-CPT-….thường bảo hiểm theo “Open policy”. 
Ngay khi nhận được NOD(Notice of delivery) của người bán,chậm nhất trong vòng 8 
ngày, phải làm “giấy báo bắt đầu vận chuyển”gửi cho Insurer,nội dung “giấy báo” có mẫu 
in sẵn:tên hàng,số B/L,trọng lượng,số kiện,số tiền bảo hiểm, tỉ lệ phí bảo hiểm,phí bảo 
hiểm …. Và Insurer sẽ cấp COI (Certificate of Insurance) cho Insured. 
B. CHỨNG TỪ BẢO HIỂM 
 48
Chứng từ bảo hiểm do tổ chức bảo hiểm cấp nhằm hợp thức hóa hợp đồng bảo hiểm và 
được dùng để điều tiết quan hệ giữa tổ chức bảo hiểm với người được bảo hiểm. trong 
mối quan hệ này, tổ chức bảo hiểm nhận bồi thường cho những tổn thất xảy ra vì những 
rủi ro nhất định đến với người mua bảo hiểm, còn người được bảo hiểm phải nộp cho tổ 
chức bảo hiểm một số tiền nhất định gọi là phí bảo hiểm. 
Chứng từ bảo hiểm thường được dùng là đơn bảo hiểm và giấy chứng nhận bảo hiểm: 
• Giấy yêu cầu bảo hiểm hàng hóa (Insurance Request on Cargo). 
• Đơn bảo hiểm (Insurance Policy). 
Là chứng từ do tổ chức bảo hiểm cấp, bao gồm những điều khoản chủ yếu của hợp 
đồng bảo hiểm và nhằm hợp thức hóa hợp đồng này. 
Đơn bảo hiểm gồm: 
• Các điều khoản chung có tính chất thường xuyên, trong đó, người ta quy định rõ 
trách nhiệm của tổ chức bảo hiểm và người được bảo hiểm. 
• Các điều khoản riêng biệt về đối tượng bảo hiểm (như tên hàng, số lượng, ký mã 
hiệu, tên phương tiện chuyên chở…) và về việc tính toán phí bảo hiểm (như giá trị bảo 
hiểm, số tiền bảo hiểm. điều kiện bảo hiểm đã được thỏa thuận…) 
Giấy chứng nhận bảo hiểm (Insurance Certificate). 
Là chứng từ do tổ chức bảo hiểm cấp cho người được bảo hiểm để xác nhận một lô 
hàng nào đó đã được bảo hiểm, các chi tiết cần thiết cho việc tính toán bảo hiểm và điều 
kiện bảo hiểm đã thỏa thuận. 
THỰC TRẠNG BẢO HIỂM HÀNG HÓA XUẤT NHẬP KHẨU TẠI VIỆT NAM 
Lịch sử bảo hiểm hàng hóa XNK của Việt Nam đã có từ lâu. Ngay từ khi thành lập, 
ngày 15/1/1965, Công ty bảo hiểm Việt Nam nay là Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam đã 
 49
được giao nhiệm vụ bảo hiểm cho hàng hóa xuất nhập khẩu của nước ta với các nước xã 
hội chủ nghĩa. Tuy nhiên cho đến nay, hoạt động bảo hiểm cho hàng hóa XNK do các 
công ty bảo hiểm Việt Nam tiến hành vẫn còn ở mức rất hạn chế, tốc độ tăng trưởng 
không cao, có giai đoạn theo chiều hướng giảm xuống. Tính đến cuối năm 2000, các nhà 
bảo hiểm Việt Nam mới chỉ bảo hiểm được 4,7% kim ngạch hàng xuất khẩu và 23,26% 
kim ngạch hàng nhập khẩu. Đây là con số nhỏ bé không phản ánh đúng tiềm năng XNK 
của nước ta. Thực trạng trên là do một số nguyên nhân sau: 
Thứ nhất: Hoạt động XNK của nước ta chủ yếu áp dụng phương thức xuất khẩu theo 
điều kiện giao hàng FOB và nhập khẩu theo điều kiện giao hàng CIF. Với các phương 
thức XNK trên đã hạn chế khả năng ký kết của các công ty bảo hiểm Việt Nam. 
Theo Incoterms 2000 có tất thảy 13 điều kiện mua bán được quốc tế hoá bằng tiếng 
Anh, áp dụng chung cho hoạt động thương mại quốc tế, trong đó hai điều kiện giao hàng 
FOB và CIF thường được các bên tham gia sử dụng. Điều kiện giao hàng FOB quy trình 
người mua chịu mọi phí tổn và để đảm bảo an toàn cho tài sản của mình, bên nhập khẩu sẽ 
mua bảo hiểm, đồng thời có nghĩa vụ thuê tàu và trả cước phí vận chuyển. Điều kiện giao 
hàng CIF cũng quy định trách nhiệm của người bán kết thúc khi hàng đã qua khỏi lan can 
tàu tại cảng gửi, nhưng xác định cụ thể người bán phải trả cước vận chuyển và ký hợp 
đồng bảo hiểm hàng hải tránh cho bên mua những rủi ro đối với hàng hóa có thể xảy ra 
trong quá trình vận chuyển. Đơn bảo hiểm này được phía xuất khẩu ký hậu và chuyển 
giao cho phía nhập khẩu. 
Như vậy, đối với hoạt động nhập khẩu nếu nhập theo điều kiện CIF, quyền vận tải và 
quyền bảo hiểm thuộc phía nước ngoài. Với các quyền đó, đối tác nước ngoài tùy ý thuê 
tàu và mua bảo hiểm. Theo lẽ thường họ ký hợp đồng với các công ty của nước mình. Các 
công ty bảo hiểm nước ngoài vì thế có điều kiện phát triển hơn. 
Hai là: Năng lực hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam còn hạn chế, 
chưa mang tầm quốc tế. Ngoại trừ Bảo Việt thành lập năm 1965 có vốn lớn, các công ty 
bảo hiểm khác đều vừa mới được thành lập sau Nghị định 100/CP ngày 18/12/1993, với 
mức vốn kinh doanh chưa tới 80 tỷ đồng, trong khi đó, nhiều công ty bảo hiểm nước 
 50
ngoài ra đời cách đây hàng trăm năm, vốn kinh doanh hàng tỷ Đôla Mỹ. Thêm vào đó, 
trình độ cán bộ làm công tác bảo hiểm nói chung còn bất cập so với đòi hỏi của thị trường 
mà còn non yếu so với mặt bằng thế giới. Theo đánh giá khách quan, các nhà XNK nước 
ngoài chưa thực sự yên tâm khi mua bảo hiểm của Việt Nam và điều này làm giảm sức 
thuyết phục khi các nhà đàm phán ngoại thương yêu cầu đối tác nước ngoài trao cho ta 
quyền mua bảo hiểm. 
Ba là: Các nhà XNK Việt Nam đã quen với tập quán thương mại xuất khẩu theo điều 
kiện FOB, nhập khẩu theo điều kiện CIF. Việc thay đổi tập quán cũ này khó thực hiện 
trong một sớm một chiều. Tuy nhiên, ở một chừng mực nhất định với phương thức giao 
hàng như trên, phía Việt Nam sẽ tránh được nghĩa vụ thuê tàu và mua bảo hiểm, đôi khi 
công việc này khó thực hiện do phải đáp ứng đầy đủ yêu cầu của đối tác nước ngoài trong 
bối cảnh năng lực hoạt động của các công ty bảo hiểm và đội tàu biển Việt Nam còn hạn 
chế. 
Tại sao lại phải nâng cao tỷ trọng hàng hóa XNK tham gia bảo hiểm trong nước? 
ở tầm vĩ mô, nâng cao tỷ trọng hàng hóa XNK tham gia bảo hiểm trong nước có tác dụng 
góp phần cải thiện cán cân thanh toán quốc gia. Với hoạt động xuất khẩu theo điều kiện 
CIF, hàng hóa được chuyên chở bằng tàu trong nước và được công ty bảo hiểm trong 
nước bảo hiểm sẽ tạo nguồn thu ngoại tệ vì chi phí vận tải và phí bảo hiểm về thực chất 
được tính vào giá hàng và do phía nước ngoài trả. Nhập khẩu theo điều kiện FOB có tác 
dụng giảm chi ngoại tệ, trong trường hợp này chúng ta chỉ phải chi ngoại tệ để nhập khẩu 
hàng hóa, mà không phải chi tiền nhập dịch vụ vận tải đường biển và dịch vụ bảo hiểm 
của nước ngoài như trước đây. Số ngoại tệ chi cho mỗi hợp đồng ngoại thương giảm sẽ 
cải thiện tình trạng thâm hụt tài khoản vãng lai kéo dài trong nhiều năm như hiện nay của 
nước ta. 
Đối với các công ty XNK nếu đơn bảo hiểm được ký kết với các công ty bảo hiểm Việt 
Nam, công ty XNK tránh được những phiền phức về thủ tục pháp lý, ngôn ngữ, địa lý… 
có thể sẽ gặp phải khi sự cố bảo hiểm xảy ra. Trong trường hợp công ty bảo hiểm Việt 
 51
Nam không đủ năng lực bảo hiểm, phía Việt Nam vẫn có lợi do chúng ta có điều kiện lựa 
chọn công ty bảo hiểm uy tín bảo hiểm cho hàng hóa của mình, đồng thời lựa chọn các 
điều khoản bảo hiểm phù hợp với tình hình tài chính cũng như hoạt động kinh doanh của 
công ty. Hơn nữa, tập quán thương mại quốc tế chỉ yêu cầu bên xuất khẩu mua bảo hiểm ở 
mức độ tối thiểu. Nhà nhập khẩu muốn an toàn hơn cho tài sản của mình phải ký các hợp 
đồng bổ sung. Như thế, suy cho cùng, công ty nhập khẩu Việt Nam vẫn phải mua bảo 
hiểm trong trường hợp nhập khẩu CIF. Công ty sẽ chủ động hơn nếu giành được quyền 
mua bảo hiểm thông qua hợp đồng nhập khẩu FOB hoặc C&F. 
Kim ngạch hàng hóa XNK tham gia bảo hiểm trong nước tăng có ý nghĩa quan trọng 
thúc đẩy ngành bảo hiểm phát triển. Theo nguyên lý số đông, lượng khách hàng tham gia 
càng lớn công ty bảo hiểm càng có điều kiện phân chia rủi ro giữa các đối tượng bảo 
hiểm, tranh cho công ty trước những tổn thất lớn ảnh hưởng không tốt đến tình hình tài 
chính công ty. Và điều này càng có ý nghĩa hơn khi mà tỷ lệ bồi thường của nghiệp vụ 
bảo hiểm hàng hóa XNK nước ta trong những năm qua luôn ở mức cao, khoarng 65-70%. 
Mức bồi thường này đặt công ty bảo hiểm trước những nguy cơ tiềm ẩn không lường 
trước được. 
Một số đề xuất nhằm nâng cao kim ngạch hàng hóa XNK tham gia bảo hiểm trong 
nước. 
Để nâng cao tỷ trọng hàng hóa XNK được bảo hiểm trong nước trước tiên cần có sự cố 
gắng nỗ lực của chính các công ty bảo hiểm. Trong những năm qua, ngành bảo hiểm Việt 
Nam đã đạt được nhiều thành công trong việc khai thác khách hàng mới. Chất lượng phục 
vụ được nâng lên rõ rệt. Ngoài việc cung cấp sản phẩm theo yêu cầu của khách hàng, các 
doanh nghiệp bảo hiểm đã chủ động tăng cường tiếp cận khách hàng để tư vấn kỹ thuật 
chuyên môn, giúp khách hàng lựa chọn rủi ro tham gia bảo hiểm cho phù hợp và đạt hiệu 
quả. Tuy vậy, trong thời gian tới, ngành bảo hiểm Việt Nam cần không ngừng hơn nữa 
nâng cao năng lực bảo hiểm lên ngang tầm quốc tế. Phải có chiến lược đào tạo đội ngũ 
cán bộ tinh thông kỹ thuật nghiệp vụ, hiểu luật pháp quốc gia, quốc tế, có nghệ thuật giao 
tiếp, ứng xử trước khách hàng; phải đa dạng hóa sản phẩm, khai thác triệt để thị trường 
trong nước; phải có chiến lwuwocj nâng cao năng lực tài chính của các công ty bảo hiểm 
 52
để các công ty bảo hiểm Việt Nam có khả năng ký các hợp đồng bảo hiểm cho những tài 
sản có giá trị lớn, đối với các công ty bảo hiểm nhỏ cần mạnh bạo sáp nhập lại thành các 
công ty lớn, nhà nước cần tăng cường cung cấp vốn cho công ty Bảo Việt để nâng cao khả 
năng cạnh tranh của công ty này với các công ty bảo hiểm nước ngoài, tạo uy tín với các 
công ty XNK nước ngoài khi họ ký hợp đồng bảo hiểm với ta. 
Nhà nước cần có cơ chế, chính sách cụ thể khuyến khích các công ty XNK ký kết hợp 
đồng theo điều kiện xuất khẩu CIF, nhập khẩu FOB hoặc C&F như: giảm thuế XNK cho 
chủ hàng nào tham gia bảo hiểm tại Việt Nam, hoặc giảm thuế doanh thu hay thuế giá trị 
gia tăng, giảm thủ tục hải quan, hoặc chủ hàng được giao hạn ngạch XNK cao hơn so với 
những chủ hàng không tham gia bảo hiểm tại Việt Nam… Như trên đã phân tích, điều 
kiện giao hàng có tác dụng chủ yếu đến phân định trách nhiệm giữa các bên trong quá 
trình thực hiện hợp đồng thương mại, còn ý nghĩa kinh tế không rõ ràng. Với các chính 
sách ưu đãi trên, các công ty XNK sẽ chủ động hơn trong đàm phán ký kết, thực hiện 
phương thức xuất khẩu theo điều kiện CIF, nhập khẩu theo điều kiện FOB hoặc C&F tạo 
cơ sở nâng cao tỷ trọng hàng hóa XNK tham gia bảo hiểm trong nước, đồng thời thúc đẩy 
ngành bảo hiểm Việt Nam phát triển. 
 53
PHẦN V: TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Vận tải và giao nhận hàng hóa XNK- PGG.TS Hoàng Văn Châu 
2. Vận tải và bảo hiểm ngoại thương- Triệu Hồng Cẩm 
3. vibonline.com.vn/vi-VN 
4. 
dinh-tren-he-thong-phap-luat-VN.html 
5.  
6.  
7.  
8. 
 54
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
tieu_luan_van_tai_bao_hiem_9843.pdf