MỤC LỤC:
I. Giới thiệu chung về các định chế tài chính phi ngân hàng
II. Một số định chế tài chính chi ngân hàng ở Việt Nam
II.1. Công ty tài chính
II.1.1. Khái niệm
II.1.2. Hình thức thành lập
II.1.3. Các hình thức huy động vốn
II.1.4. Các hình thức cho vay
II.1.5. Mở tài khoản và dịch vụ ngân quỹ
II.1.6. Các hoạt động khác của Công ty Tài chính
II.1.7. Các hạn chế để đảm bảo an toàn trong hoạt động của Công ty Tài chính
II.1.8. Điều kiện cấp giấy phép và một số quy định khác về Công ty Tài chính
II.1.9. Vai trò của Công ty Tài chính
II.1.9. Một số Công ty Tài chính ở Việt Nam
II.1.9.1. Công ty Tài chính Bưu Điện
II.1.9.2. Công ty Tài chính cổ phần sông Đà
II.1.9.3. Công ty Tài chính Cổ phần HANDICO
II.1.9.4. Công ty Tài chính Cổ phần Dầu khí Việt Nam
II.2. Công ty cho thuê tài chính
II.2.1. Khái niệm về cho thuê tài chính
II.2.2. Các loại hình Công ty Cho thuê tài chính
II.2.3. Điều kiện cấp giấy phép và một số quy định khác về Công ty cho thuê tài chính
II.2.3. Các hoạt động của Công ty Cho thuê tài chính
II.2.3.1. Huy động vốn
II.2.3.2. Thực hiện các nghiệp vụ cho thuê
II.2.3.3. Tư vấn khách hàng
II.2.3.4. Dịch vụ ủy thác
II.2.3.5. Thực hiện các dịch vụ quản lý tài sản liên quan cho thuê tài chính
II.2.3.6. Thực hiện các dịch vụ bảo lãnh:
II.2.3.7. Bán các khỏa phải thu
II.2.3.8. Các hoạt động khác khi được Ngân hàng Nhà nước cho phép
II.2.4. Những trường hợp Công ty Cho thuê tài chính không được cho thuê
II.2.5. Những hạn chế của cho thuê tài chính
II.2.6. Lợi ích của việc cho thuê tài chính:
II.2.7. Một vài Công ty Cho thuê tài chính ở Việt Nam
II.2.7.1.Công ty Cho thuê Tài chính NH Đầu tư và Phát triển Việt Nam
II.2.7.2. Công ty Cho thuê Tài chính ngân hàng Á Châu (ACBL)
II.3. Sơ lược vài nét về các định chế tài chính phi ngân hàng khác
II.3.1. Quỹ đầu tư
II.3.1.1. Khái niệm
II.3.1.2. Các lợi ích của việc đầu tư gây quỹ
II.3.1.3. Các bên tham gia
II.3.1.3.1. Công ty quản lý quỹ
II.3.1.3.2. Ngân hàng giám sát:
II.3.1.3.3. Người đầu tư
II.3.1.4. Phân loại quỹ đâu tư
II.3.1.4.1. Căn cứ vào quy mô, cách thức và tính chất góp vốn
II.3.1.4.1.1. Quỹ đầu tư dạng đóng
II.3.1.4.1.2. Quỹ đầu tư dạng mở
II.3.1.4.2. Căn cứ vào cơ cấu tổ chức – điều hành
II.3.1.4.2.1. Quỹ đầu tư dạng công ty
II.3.1.4.2.2. Quỹ đầu tư dạng tín thác
II.3.1.4.3. Căn cứ vào nguồn vốn huy động
II.3 4.3.1. Quỹ đầu tư tập thể (Quỹ công chúng)
II.3.1.4.3.2. Quỹ đầu tư tư nhân ( Quỹ thành viên)
II.3.2. Công ty bảo hiểm
II.3.2.1. Khái niệm về kinh doanh bảo hiểm và các loại hình doanh nghiệp bảo hiểm
II.3.2.2. Mức vốn pháp định và nội dung hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm
II.3.2.3. Điều kiện để được cấp giấy phép thành lập và hoạt động
II.3.2.4. Các dịch vụ bảo hiểm
II.3 5. Đầu tư vốn của doanh nghiệp bảo hiểm
II.3.2.6. Hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm
II.3.2.7. Các hoạt động khác của doanh nghiệp bảo hiểm
II.3.2.8. Một số công ty bảo hiểm tại Việt Nam
III.Thực trạng và biện pháp củng cố nhằm nâng cao hiệu quả của các định chế tài chính phi ngân hàng
IV. Tài liệu tham khao
I.Giới thiệu chung về các định chế tài chính phi ngân hàng:
Tuy các ngân hàng là tổ chức tài chính mà chúng ta thường giao dịch nhất, nhưng không phải tất cả các tổ chức tài chính đều chỉ là các ngân hàng. Giả sử bạn mua bảo hiểm của một công ty bảo hiểm, vay một món trả dần của một công ty tài chính để mua một xe hơi mới, hoặc mua một số cổ phiếu qua sự giúp đỡ của một người môi giới. Trong mỗi vụ giao dịch này bạn đang giao tiếp với một tổ chức tài chính phi ngân hàng. Trong nền kinh tế của chúng ta, các tổ chức tài chính phi ngân hàng đóng một vai trò quan trọng trong việc khơi các nguồn vốn từ những người cho vay – từ người tiết kiệm tới người vay – những người chi tiêu y như một ngân hàng. Hơn thế, quá trình đổi mới tài chính (ở Mỹ) đã tăng tính quan trọng của các tổ chức tài chính phi ngân hàng. Qua đổi mới, các tổ chức tài chính phi ngân hàng cạnh tranh trực tiếp hơn với các ngân hàng qua các dịch vụ tương tự như hoạt động ngân hàng. Theo luật các tổ chức tín dụng số 07/1997/QHX nêu rõ : “ Tổ chức tín dụng phi ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện một số hoạt động ngân hàng như là nội dung kinh doanh thường xuyên, nhưng không được nhận tiền gửi không kỳ hạn, không làm dịch vụ thanh toán. Tổ chức tín dụng phi ngân hàng gồm công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng khác.”
Do khả năng và nhu cầu tài chính ngày càng tăng, việc sử dụng khả năng tài chính và nhu cầu tài chính ngày một đa dạng hơn, các ngân hàng thương mại không đáp ứng đủ nhu cầu vì vậy từ rất sớm trên thế giới các Công ty Tài chính (CTTC) đã ra đời. Trên thế giới sự xuất hiện và phát triển các CTTC diễn ra ngày càng nhiều. Ở các tập đoàn sản xuất lớn như hãng General Motors ở Hoa Kỳ CTTC do hãng thành lập ngoài chức năng huy động cho công ty mẹ còn liên kết với đại lý bán lẻ và cung ứng vốn cho họ để họ bán hàng trả chậm cho các xí nghiệp nhỏ và vừa vay vốn với lãi xuất vừa phải hơn để mua sắm thiết bị máy móc do chính công ty mẹ là General Motors sản xuất. Đây là chính sách kinh doanh hai chiều thường thấy ở các công ty hoặc tập đoàn sản xuất lớn. Năm 80 các CTTC ở Hoa Kỳ có tổng vốn lên tới 200 tỷ USD. Ở Thụy Điển, các CTTC được thành lập từ giữa những năm 60 và phát triển mạnh vào những năm 70. Ở Nhật, các CTTC được thành lập từ những năm 50. Ở Việt Nam, các CTTC mới được thành lập vào những năm 1997, do mới bước đầu đi vào hoạt động cho nên nhìn chung phạm vi hoạt động đang còn bó hẹp, hiệu quả chưa cao.
35 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 6468 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Các định chế tài chính phi ngân hàng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iền tệ của các định chế phi tài chính này làm phong phú thêm thị trường tài chính, làm sôi động thị trường tài chính tạo ra nguồn vốn lớn làm cho các doanh nghiệp để mở rộng và phát triển sản xuất kinh doanh.
- Hai là, thúc đẩy hoạt động các ngân hàng thương mại mở rộng và hiện đại hoá hệ thống ngân hàng. Khi có nhiều định chế khác cùng hoạt động kinh doanh tiền tệ, hệ thống ngân hàng thương mại sẽ mở rộng các dịch vụ thanh toán cho các định chế đó (vì đây là hoạt động độc quyền của ngân hàng thương mại). Cũng như cho các chủ thể khác đặc biệt là tổ chức thanh toán cho cá nhân. Hoạt động thanh toán phát triển là điều kiện tiền đề để hiện đại hoá hệ thống ngân hàng. Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại cũng sẽ trở lại với hoạt động truyền thống của nó là cấp tín dụng ngắn hạn bằng các nguồn vốn rẻ nhất, nguồn vốn từ tổ chức thanh toán cho nền kinh tế. Ở đó ngân hàng thương mại sẽ là chủ thể có vị trí hàng đầu trong chiết khấu các giấy tờ có giá.
- Ba là, tạo điều kiện cho việc điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương:
Chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương luôn hướng về việc làm thế nào tạo ra một thị trường tiền tệ hoàn hảo hơn, trong đó có nhiều chủ thể cung ứng vốn cho nền kinh tế trên cơ sở khai thác các nguồn vốn có sẵn trong nền kinh tế, để cuối cùng có được một chính sách lãi suất hợp lý nhất. (Lãi suất hợp lý là lãi suất ở đó, cung cầu gặp nhau ở mức độ hoàn hảo nhất quyết định, không có độc quyền, hoặc cạnh tranh thiếu hoàn hảo).
- Bốn là, đáp ứng đủ và kịp thời nhu cầu vốn với chi phí thấp nhất.
- Năm là, khai thác được mọi nguồn vốn phục vụ cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh.
- Sáu là, kinh dẫn các nguồn vốn đầu tư quốc tế cho các dự án đầu tư.
II.1.9. Một số Công ty Tài chính ở Việt Nam:
II.1.9.1. Công ty Tài chính Bưu Điện:
Tên giao dịch quốc tế : Post and Telecommunication Finance Company
Tên viết tắt : PTF
Vốn điều lệ: 500.000.000.000 VND ( Năm trăm tỷ đồng ).
Địa chỉ: Tầng 15 -19 Tòa nhà Ocean Park, 01 Đào Duy Anh, Hà Nội
Điện thoai: 04.35771096
Fax: 04.35771097
Email:ptf@hn.vnn.vn,contact@ptfinance.com.vn Website: www.ptfinance.com.vn
Công ty Tài chính Bưu Điện là doanh nghiệp nhà nước hạch toán độc lập, thành viên của Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT); là tổ chức tín dụng phi ngân hàng hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng, Luật Doanh nghiệp nhà nước và các Luật có liên quan khác.
Công ty Tài chính Bưu Điện được thành lập theo Quyết định số 415/1998/QĐ -TCCB ngày 08/07/1998 của Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu Điện và hoạt động theo Giấy phép số 03/GP-NHNN do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cấp ngày 10/10/1998 và Đăng ký kinh doanh số 0106000490 đăng ký lần đầu ngày 12/06/1999.
Hoạt động của Công ty Tài chính Bưu Điện: Đầu tư tài chính, Kinh doanh chứng khoán, Tín dụng - Bảo lãnh, Kinh doanh tiền tệ, Nhận uỷ thác đầu tư, Tư vấn thẩm định, Tư vấn quản lý và cổ phần hóa doanh nghiệp.
II.1.9.2. Công ty Tài chính cổ phần sông Đà:
Địa chỉ: Số 121 phố Chùa Láng, phường Láng Thượng, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.
Công ty Tài chính cổ phần Sông Đà là một tổ chức tín dụng phi ngân hàng, được thành lập bởi ba cổ đông sáng lập là: Tổng công ty Sông Đà, Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội, Tổng công ty cổ phần Bảo Minh. Đây là những Tổng công ty hàng đầu và ngân hàng giàu tiềm lực, uy tín tại Việt Nam.
Mục tiêu của Công ty Tài chính cổ phần Sông Đà là xây dựng Công ty trở thành một định chế tài chính mạnh cả về quy mô vốn, công nghệ ngân hàng, năng lực quản trị tiên tiến; có khả năng hợp tác và hội nhập thành công với hệ thống các định chế tài chính trong nước và quốc tế; cung cấp các dịch vụ tài chính đồng bộ chất lượng cao cho khách hàng, là xương sống trong các định chế tài chính của Tập đoàn Sông Đà.
Để thực hiện thành công những mục tiêu nêu trên, Công ty Tài chính cổ phần Sông Đà chú trọng phát triển nguồn nhân lực, xây dựng văn hoá công ty để đưa ra thị trường những sản phẩm dịch vụ tài chính đa dạng, tin cậy đáp ứng nhu cầu của khách hàng và lấy công nghệ thông tin làm cơ sở để phát triển mô hình tài chính ngân hàng hiện đại.
II.1.9.3. Công ty Tài chính Cổ phần HANDICO:
Công ty Tài chính Cổ phần HANDICO (HAFIC) được thành lập ngày 16/11/2005, tiền thân là một doanh nghiệp Nhà nước thuộc Tổng Công ty Đầu tư và Phát triển Nhà Hà Nội.
Trong suốt quá trình xây dựng và phát triển, HAFIC luôn mang theo sứ mệnh là trung gian tài chính, thu xếp nguồn vốn cho Tổng công ty và các đơn vị thành viên. Bên cạnh đó, Công ty không ngừng mở rộng hoạt động, nhằm cung cấp những dịch vụ tài chính chất lượng cao nhất đến mọi đối tượng khách hàng.
Với lợi thế là một thành viên trực thuộc Tổng Công ty Đầu tư và Phát triển Nhà Hà Nội; có đội ngũ nhân viên trẻ, năng động, sáng tạo và đầy nhiệt huyết; có hệ thống cơ sở vật chất đầy đủ, hiện đại, Công ty Tài chính cổ phần HANDICO đang từng bước phát huy nội lực và tận dụng sức mạnh ngoại lực để trở thành một thương hiệu lớn có tiếng trên thị trường Tài chính. Ngày 01/07/2008, Công ty chính thức chuyển đổi mô hình từ Doanh nghiệp Nhà nước sang Công ty cổ phần. Cùng với đó, Công ty quyết định tăng vốn điều lệ từ 50 tỷ lên 350 tỷ đồng. Trên lộ trình phát triển của mình, HAFIC cam kết sẽ luôn sát cánh và chia sẻ lợi ích với khách hàng thông qua việc đa dạng hóa hoạt động kinh doanh, tập trung phát triển các sản phẩm trọn gói trên tất cả các mảng dịch vụ: Tín dụng, Đầu tư, Huy động vốn và các Dịch vụ tài chính. Bên cạnh đó, Công ty cũng không ngừng mở rộng mạng lưới hoạt động, củng cố bộ máy vững mạnh, đào tạo đội ngũ nhân viên năng động và chuyên nghiệp.
Lĩnh vực hoạt động:
- Huy động vốn: Nhận tiền gửi có kỳ hạn từ một năm trở lên của các tổ chức, cá nhân
- Hoạt động tín dụng: Cho vay; Chiết khấu, tái chiết khấu, cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá khác; bảo lãnh, bao thanh toán
- Mở tài khoản và dịch vụ ngân quỹ, phát hành thẻ tín dụng.
- Các hoạt động đầu tư tài chính khác: góp vốn mua cổ phần, góp vốn thành lập doanh nghiệp, tham gia thị trường tiền tệ, làm đại lý phát hành trái phiếu cổ phiếu và các giấy tờ có giá khác…
- Nhận uỷ thác, làm đại lý trong các lĩnh vực liên quan đến tài chính, ngân hàng, bảo hiểm và đầu tư, kể cả việc quản lý tài sản, vốn đầu tư của các tổ chức, cá nhân theo hợp đồng .
Kinh doanh ngoại tệ.
II.1.9.4. Công ty Tài chính Cổ phần Dầu khí Việt Nam:
Tổng Công ty Tài chính Cổ phần Dầu khí Việt Nam (PVFC) là một tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tiền thân là Công ty Tài chính Dầu khí, thành lập ngày 19/6/2000 với phương châm hoạt động “Vì sự phát triển vững mạnh của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam”.
Qua 10 năm xây dựng và phát triển, đến nay, PVFC đã trở thành một định chế tài chính mạnh của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PVN) và là một trong những tổ chức tín dụng có tốc độ phát triển nhanh. Thương hiệu Tài chính Dầu khí Việt Nam được khẳng định trên thị trường tài chính trong nước và bước đầu vươn ra thế giới.
Năm 2008, PVFC chính thức chuyển thành Tổng công ty Tài chính Cổ phần Dầu khí Việt Nam. Đây là bước chuyển mình từ công ty 100% vốn Nhà nước lên Tổng Công ty cổ phần. Theo mô hình công ty đại chúng, PVFC có vốn điều lệ 5.000 tỷ đồng, trong đó, PVN nắm giữ 78% cổ phần, cổ đông chiến lược nước ngoài là Morgan Stanley (MSIHI) nắm giữ 10% cổ phần, còn lại là các cổ đông pháp nhân và thể nhân trong nước. Với việc tham gia của cổ đông MSIHI, PVFC là tổ chức tín dụng đầu tiên của Việt Nam sau khi cổ phần hoá đã lựa chọn được cổ đông chiến lược nước ngoài. Đây là một thành công khẳng định sự tín nhiệm của thương hiệu Tài chính Dầu khí.
Quy mô phát triển của PVFC ngày càng lớn, đội ngũ CBNV được đào tạo bài bản về chuyên môn nghiệp vụ; năng động, sáng tạo và nhiệt huyết trong công việc. Mạng lưới hoạt động của PVFC từng bước được củng cố và mở rộng; PVFC hiện có 10 chi nhánh và 15 phòng giao dịch tại các tỉnh, thành phố lớn trong cả nước, 5 công ty thành viên hoạt động trong lĩnh vực tư vấn và đầu tư tài chính, quản lý quỹ, kinh doanh chứng khoán, du lịch...
Thực hiện sứ mệnh quan trọng là thu xếp nguồn vốn cho PVN, PVFC đã chủ động hợp tác với các tổ chức tín dụng, định chế tài chính lớn trong và ngoài nước; xây dựng và triển khai kế hoạch, thu xếp vốn kịp thời, đáp ứng nhu cầu về vốn cho các PVN và các đơn vị thành viên triển khai các dự án đầu tư đúng tiến độ, bảo đảm yêu cầu tăng trưởng của ngành Dầu khí.
Một trong những dịch vụ được các đối tác, khách hàng tín nhiệm lựa chọn PVFC, là tư vấn cổ phần hoá doanh nghiệp. Thời gian qua, PVFC đã tham gia với tư cách là đơn vị tư vấn cổ phần hóa thành công cho các đơn vị lớn trong và ngoài ngành Dầu khí. Bên cạnh đó, nhiều sản phẩm mang tính sáng tạo của PVFC đã lần lượt ra đời, trở thành những sản phẩm đặc trưng, góp phần tạo nên nét riêng của PVFC trên thị trường như: đồng tài trợ, uỷ thác cho vay, uỷ thác đầu tư, tư vấn và môi giới đầu tư... PVFC tập trung phát triển các sản phẩm trọn gói cho khách hàng về tín dụng, đầu tư và các dịch vụ tài chính. Hai sản phẩm mũi nhọn mà PVFC chú trọng sau cổ phần hoá là đầu tư tài chính và tư vấn tài chính.
II.2. Công ty cho thuê tài chính:
II.2.1. Khái niệm về cho thuê tài chính:
- Khi nền kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước thì các doanh nghiệp phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt. Cộng với sự biến động, ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực, các doanh nghiệp ngày càng gặp nhiều khó khăn, vướng mắc mới. Các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ phá sản hàng loạt, những doanh nghiệp ngấp nghé đứng bên bờ vực phá sản cũng không ít. Con đường để tồn tại lúc này là phải nhanh chóng đổi mới máy móc thiết bị, đổi mới công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm.
- Xuất phát từ thực trạng nền kinh tế nước ta còn kém phát triển, kỹ thuật công nghệ lạc hậu với vốn đầu tư thấp, các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, manh mún, chưa tạo lập được cho mình một cơ sở vật chất kĩ thuật đầy đủ, vững chắc nhất định để nắm bắt những cơ hội phát triển kinh tế.
- Thực tế đó đã đặt ra nhu cầu cấp bách về việc giải quyết vấn đề vốn cho các doanh nghiệp. Trong điều kiện các nguồn vốn đầu tư còn hạn chế, cho thuê tài chính ra đời với những ưu điểm vốn có đã trở thành giải pháp kịp thời và đúng đắn góp phần tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế. Tuy buổi đầu hoạt động cho thuê tài chính ở Việt nam đã có những thành công nhất định. Vậy cho thuê tài chính là gì?
“ Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê với bên thuê. Bên cho thuê cam kết mua máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với các tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thoả thuận.”
Thời hạn cho thuê một loại tài sản ít nhất phải bằng 60% thời gian cần thiết để khấu hao tài sản thuê. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền lựa chọn mua lại tài sản thuê hoặc tiếp tục thuê theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng cho thuê tài chính. Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng cho thuê tài chính, ít nhất phải tương đương với giá trị của tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng.
Vốn pháp định và thời gian hoạt động:
+ Vốn pháp định của Công ty cho thuê tài chính được Chính phủ quy định. Việc thay đổi mức vốn pháp định của Công ty Tài chính do Chính phủ quyết định. Theo Nghị định số 141/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 11 năm 2006 của Chính phủ quy định mức vốn pháp định của Công ty cho thuê tài chinh năm 2008 là 100 tỷ đồng, năm 2010 là 150 tỷ đồng.
+ Thời hạn hoạt động của công ty cho thuê tài chính tại Việt Nam tối đa là 50 năm. Trường hợp cần gia hạn thời hạn hoạt động phải được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận. Mỗi lần gia hạn không quá 50 năm.
II.2.2. Các loại hình Công ty Cho thuê tài chính:
Công ty cho thuê tài chính là một tổ chức tín dụng phi ngân hàng, là pháp nhân Việt Nam. Công ty cho thuê tài chính được thành lập và hoạt động tại Việt Nam dưới các hình thức sau:
- Công ty Cho thuê tài chính Nhà nước
- Công ty Cho thuê tài chính cổ phần
- Công ty Cho thuê tài chính trực thuộc tổ chức tín dụng
- Công ty Cho thuê tài chính liên doanh:
- Công ty Cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài:
II.2.3. Điều kiện cấp giấy phép và một số quy định khác về Công ty cho thuê tài chính:
- Điều kiện để được cấp Giấy phép thành lập và hoạt động đối với công ty cho thuê tài chính:
a) Có nhu cầu hoạt động cho thuê tài chính trên địa bàn xin hoạt động;
b) Có đủ vốn pháp định theo quy định của Chính phủ tại Nghị định số 82/1998/NĐ-CP ngày 03 tháng 10 năm 1998;
c) Thành viên sáng lập là các tổ chức, cá nhân có uy tín và năng lực tài chính;
d) Người quản trị, điều hành có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và trình độ chuyên môn phù hợp với hoạt động của công ty cho thuê tài chính;
đ) Có dự thảo điều lệ về tổ chức, hoạt động phù hợp với quy định của Luật các tổ chức tín dụng và các quy định khác của pháp luật;
e) Có phương án kinh doanh khả thi.
- Ngoài các điều kiện nêu trên, bên nước ngoài trong công ty liên doanh hoặc công ty 100% vốn nước ngoài, phải được tổ chức có thẩm quyền theo quy định của pháp luật nước ngoài cho phép liên doanh, cho phép hoạt động cho thuê tài chính tại Việt Nam. Có tổng tài sản có trên 10 tỷ đô la Mỹ vào cuối năm trước thời điểm nộp đơn, trừ trường hợp Hiệp định đầu tư song phương giữa Việt Nam và nước nguyên xứ có quy định khác.
II.2.3. Các hoạt động của Công ty Cho thuê tài chính:
II.2.3.1. Huy động vốn: Công ty Cho thuê tài chính huy động vốn từ các nguồn sau:
- Được nhận tiền gửi có kỳ hạn từ một năm trở lên của tổ chức, cá nhân theo các quy định của Ngân hàng Nhà nước;
- Được phát hành trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi và giấy tờ có giá khác có kỳ hạn trên một năm để huy động vốn của tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước khi được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước chấp thuận;
- Được vay vốn của các tổ chức tài chính, tín dụng trong và ngoài nước;
- Được nhận các nguồn vốn khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
II.2.3.2. Thực hiện các nghiệp vụ cho thuê:
Công ty Cho thuê tài chính được thực hiện các nghiệp vụ cho thuê bao gồm: cho thuê tài chính, cho thuê vận hành, mua và cho thuê lại theo hình thức cho thuê tài chính ( Theo hình thức này, công ty cho thuê tài chính mua lại máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản thuộc sở hữu của bên thuê và cho bên thuê thuê lại chính các tài sản đó để tiếp tục sử dụng phục vụ cho hoạt động của mình.)
II.2.3.3. Tư vấn khách hàng:
Tư vấn cho khách hàng về những vấn đề có liên quan đến nghiệp vụ cho thuê tài chính.
II.2.3.4. Dịch vụ ủy thác:
Công ty cho thuê tài chính cho khách hang thuê theo chỉ định của bên ủy thác và được hưởng phí ủy thác cho thuê. Mọi rủi ro trong quá trình cho thuê do bên ủy thác chịu. Công ty cho thuê tài chính được thực hiện các dịch vụ ủy thác sau:
- Nhận ủy thác bằng máy móc, thiết bị để cho thuê tài chính đối với khách hàng.
- Nhận ủy thác bằng tiền từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước để nhập máy móc, thiết bị cho thuê tài chính đối với khách hàng.
- Các dịch vụ ủy thác khác liên quan để hoạt động cho thuê tài chính.
II.2.3.5. Thực hiện các dịch vụ quản lý tài sản liên quan cho thuê tài chính:
Làm các dịch vụ quản lý tài sản cho thuê tài chính của các công ty cho thuê tài chính khác hoặc các dịch vụ quản lý tài sản khác liên quan cho thuê tài chính.
II.2.3.6. Thực hiện các dịch vụ bảo lãnh:
Liên quan đến cho thuê tài chính theo hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước.
II.2.3.7. Bán các khỏa phải thu:
Từ hợp đồng cho thuê tài chính cho các tổ chức cá nhân
II.2.3.8. Các hoạt động khác khi được Ngân hàng Nhà nước cho phép.
II.2.4. Những trường hợp Công ty Cho thuê tài chính không được cho thuê:
- Công ty cho thuê tài chính không được cho thuê tài chính đối với những đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 77 Luật các Tổ chức tín dụng.
- Công ty cho thuê tài chính không được cho thuê tài chính với các điều kiện ưu đãi cho những đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 78 Luật các Tổ chức tín dụng.
- Tổng giá trị tài sản cho thuê đối với các đối tượng quy định tại khoản 1 Điều này không được vượt quá 5% vốn tự có của công ty cho thuê tài chính.
- Công ty cho thuê tài chính phải duy trì tỷ lệ bảo đảm an toàn quy định tại Điều 81 Luật Các tổ chức tín dụng và các văn bản hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước.
- Giới hạn cho thuê tài chính đối với một khách hàng:
+ Tổng mức cho thuê tài chính đối với một khách hàng không được vượt quá 30% vốn tự có của công ty cho thuê tài chính, trừ trường hợp đối với những khoản cho thuê tài chính từ các nguồn vốn ủy thác của Chính phủ, của các tổ chức, cá nhân hoặc khách hàng thuê là tổ chức tín dụng;
+ Trường hợp nhu cầu thuê của một khách hàng vượt quá 30% vốn tự có của công ty cho thuê tài chính hoặc khách hàng có nhu cầu thuê từ nhiều nguồn thì các công ty cho thuê tài chính được cho thuê hợp vốn theo quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Trong trường hợp đặc biệt, thực hiện theo quy định tại điểm c khoản 1 điều 79 của Luật Các tổ chức tín dụng.
II.2.5. Những hạn chế của cho thuê tài chính:
Thứ nhất, mặc dù đã xuất hiện hơn 10 năm trên thị trường Việt Nam nhưng sự quảng bá, giới thiệu để cộng đồng doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ về lĩnh vực cho thuê tài chính còn hạn chế.
Thứ hai, mạng lưới hoạt động của các công ty cho thuê tài chính mới chỉ có mặt tại một vài trung tâm kinh tế lớn, chưa trải rộng trong cả nước cũng như chưa có sự phối hợp với các ngân hàng thương mại để có thể quảng bá hoặc bán trọn gói sản phẩm.
Thứ ba, trình độ của cán bộ kinh doanh trong các Công ty cho thuê tài chính chưa chuyên nghiệp, không năng động trong việc tiếp cận và tư vấn cho doanh nghiệp về cơ cấu nguồn vốn.
Thứ tư, quy định về đối tượng cho thuê tài chính tại Việt Nam chỉ bó hẹp trong động sản, đối với dây chuyền sản xuất lại yêu cầu tỷ lệ tham gia vốn lớn.
Thứ năm, các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam phần lớn còn yếu kém về năng lực sản xuất, trình độ quản lý, tính khả thi của dự án thiếu thuyết phục (do đa số là doanh nghiệp hộ gia đình, tình hình tài chính không rõ ràng, doanh nghiệp mới thành lập...). Đây là thế yếu khi họ có nhu cầu tìm nguồn vốn cho dự án. các doanh nghiệp nhỏ và vừa thường hạn chế về năng lực, trình độ quản lý, ý thức chấp hành luật pháp, chế độ tài chính kế toán chưa cao gây khó khăn cho các Công ty cho thuê tài chính trong việc đánh giá thẩm định tính khả thi của dự án cũng như nhân thân của khách hàng. Về phía các công ty cho thuê tài chính chưa tạo cho khách hàng hiểu rõ hiệu quả, lợi ích của cho thuê tài chính mang lại và một khó khăn nữa là đối tượng cho thuê còn quá đơn điệu (máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất, một số động sản khác).
II.2.6. Lợi ích của việc cho thuê tài chính:
- Thực tế cho thấy việc đổi mới công nghệ, máy móc thiết bị ở các doanh nghiệp sản xuất là một đòi hỏi bức thiết trong bối cảnh hội nhập để nâng cao chất lượng sản phẩm cũng như năng suất lao động, giảm chi phí, tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Phần lớn các trang thiết bị của nhiều doanh nghiệp đã lạc hậu từ 2-3 thế hệ so với các nước tiên tiến. Song muôn thuở nan giải vẫn là câu hỏi: lấy vốn ở đâu? Hiện nay lượng vốn dài hạn đầu tư cho các dự án này ở các doanh nghiệp Việt Nam là hết sức khiêm tốn. Kênh tài trợ quen thuộc vẫn là đi vay ở các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp mới ra đời không có đủ tài sản đảm bảo cũng như uy tín thì việc tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng quả là khó khăn. Trong những trường hợp như vậy, đi thuê tài chính có thể là một giải pháp tối ưu.
- Thông thường đối với các khoản vốn vay trung và dài hạn, các ngân hàng thương mại luôn đòi hỏi tài sản đảm bảo ( thế chấp hoặc cầm cố) và chỉ cho vay tối đa là 80% tổng chi phí thực hiện dự án, nhưng với kênh cho thuê tài chính, doanh nghiệp chẳng những không cần ký quỹ đảm bảo hay tài sản thế chấp mà còn có thể được tài trợ đến 100% vốn đầu tư. Lãi suất hoàn toàn dựa trên sự thỏa thuận của 2 bên.
- Kênh tín dụng này cũng cho phép doanh nghiệp được hoàn toàn chủ động trong việc lựa chọn máy móc thiết bị, nhà cung cấp, cũng như mẫu mã chủng loại phù hợp với yêu cầu của doanh nghiệp mình.
- Ngoài ra nếu doanh nghiệp đã lỡ đầu tư mua tài sản mà thiếu vốn lưu động thì vẫn có thể bán lại cho công ty cho thuê tài chính và sau đó công ty sẽ cho doanh nghiệp thuê lại. Như vậy doanh nghiệp vừa có vốn lưu động cho hoạt động sản xuất kinh doanh mà vẫn được sử dụng tài sản.
- Kết thúc thời hạn thuê, doanh nghiệp được quyền ưu tiên mua lại tài sản với giá trị danh nghĩa thấp hơn giá trị thực tế của tài sản tại thời điểm mua lại.
- Bên cạnh đó một ưu điểm vô cùng quan trọng nữa của hình thức cho thuê tài chính đó là lợi ích được hưởng từ tấm chắn thuế. Tài sản cho thuê tài chính vẫn thuộc quyền sở hữu của bên cho thuê nên bên cho thuê được phép khấu hao tài sản đó, làm giảm thuế thu nhập phải nộp. Mặt khác, bên đi thuê phải trả chi phí thuê, chi phí đó được khấu trừ trước thuế nên cũng làm giảm thuế thu nhập mà doanh nghiệp phải nộp. Như vậy cả hai doanh nghiệp đều nhận được lợi ích từ tấm chắn thuế.
II.2.7. Một vài Công ty Cho thuê tài chính ở Việt Nam
II.2.7.1.Công ty Cho thuê Tài chính NH Đầu tư và Phát triển Việt Nam:
Ngành nghề:
- Huy động vốn
- Cho thuê tài chính
- Mua và cho thuê lại theo hình thức cho thuê tài chính
- Các hoạt động khác
- Công ty được phép thực hiện hoạt động ngoại hối theo các nội dung ghi trong Giấy phép hoạt động ngoại hối do Ngân hàng Nhà nước cấp.
Một số thông tin về công ty:
- Quyết định thành lập doanh nghiệp số 305/1998/QĐ- NHNN5 do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ký ngày 4-9-1998.
- Giấy phép hoạt động số 08/GP- CTCTTC do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cấp ngày 27-10-1998.
- Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 0106000246 do Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội cấp ngày 18-01-2007 (Đăng ký thay đổi lần thứ 6).
- Tên gọi: CÔNG TY CHO THUÊ TÀI CHÍNH- NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
- Tên giao dịch quốc tế bằng Tiếng Anh: BIDV FINANCIAL LEASING COMPANY
- Tên gọi tắt: BLC
- Vốn điều lệ: 200.000.000.000 VND (Hai trăm tỷ đồng Việt Nam)
- Trụ sở chính: Tầng 12 - Tháp A - Toà nhà Vincom - 191 Bà Triệu, quận Hai Bà Trưng - TP Hà Nội.
- Điện thoại: 04.2200599 - 04.2200601 - 04.2200602 - 04.2200603 - 04.2200604 - 04.2200605 - 04.2200606
- Fax: 04.2200600
- Email: leasingbidvhanoi@vnn.vn
II.2.7.2. Công ty Cho thuê Tài chính ngân hàng Á Châu (ACBL)
ACB Leasing được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp giấy phép thành lập số 06/GP-NHNN vào ngày 22/05/2007, có vốn điều lệ là 100 tỷ đồng, có trụ sở tại Citilight Tower, lầu 2, 45 Võ Thị Sáu, P.Đa Kao, Q.1, Tp.HCM.
Các hoạt động chủ yếu của ACB Leasing:
- Huy động vốn:
+ Nhận tiền gửi có kỳ hạn từ 01 năm trở lên của tổ chức, cá nhân+ Vay vốn ngắn, trung và dài hạn của tổ chức tín dụng trong và ngoài nước+ Phát hành các loại giấy tờ có giá:
. Phát hành các loại giấy tờ có giá (kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu,...) có thời hạn trên 01 năm để huy động vốn của tổ chức và cá nhân trong nước theo quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng để huy động vốn trong nước.
. Phát hành trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các giấy tờ có giá khác có thời hạn trên 01 năm để huy động vốn của tổ chức và cá nhân nước ngoài khi được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận.
+ Tiếp nhận các nguồn vốn khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
- Thực hiện các nghiệp vụ sau:
+ Cho thuê tài chính dưới dạng động sản thiết bị máy móc như:
Thiết bị ngành nhựa, bao bì các loại
Thiết bị ngành y tế, giao thông vận tải
Thiết bị ngành xây dựng
Thiết bị ngành dệt may
Thiết bị ngành thủy sản, ngành in
Và các loại động sản khác
+ vấn cho khách hàng về những vấn đề có liên quan đến nghiệp vụ cho thuê tài chính.
+ ch vụ ủy thác:
. Nhận ủy thác bằng máy móc, thiết bị để cho thuê tài chính đối với khách hàng.
. Nhận ủy thác bằng tiền mặt từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước để nhập máy móc, thiết bị cho thuê tài chính đối với khách hàng.
. Các dịch vụ ủy thác khác liên quan đến hoạt động cho thuê tài chính
+ Thực hiện các dịch vụ quản lý tài sản liên quan cho thuê tài chính:
. Làm dịch vụ quản lý tài sản cho thuê tài chính của các Công ty cho thuê tài chính khác.
. Các dịch vụ quản lý tài sản khác liên quan đến hoạt động cho thuê tài chính.
- Thực hiện các dịch vụ bảo lãnh liên quan đến cho thuê tài chính theo hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước.
- Cho thuê vận hành
- Mua và cho thuê lại theo hình thức cho thuê tài chính - Bán các khoản phải thu từ hợp đồng cho thuê tài chính cho các tổ chức, cá nhân.
II.3. Sơ lược vài nét về các định chế tài chính phi ngân hàng khác:
II.3.1. Quỹ đầu tư:
II.3.1.1. Khái niệm:
Quỹ đầu tư là 1 tổ chức chuyên nghiệp do các nhà đầu tư cùng góp vốn. Từ những khoản tiền tiết kiệm, nhàn rỗi phân tán trong dân chúng được tập trung lại thành các nguồn vốn lớn cho các nhà chuyên nghiệp trong lĩnh vực đầu tư kiếm lời và phân chia cổ tức cho các cổ đông góp vốn. Các khoản tiền tiết kiệm này thay vì được các nhà đầu tư đưa cho môi giới chứng khoán để trực tiếp mua chứng khoán trên thị trường thì lại được góp vào quỹ đầu tư để thực hiện việc đầu tư tập thể.
II.3.1.2. Các lợi ích của việc đầu tư gây quỹ:
- Đa dạng hóa danh mục đầu tư, giảm thiểu rủi ro.
- Quản lý đầu tư chuyên nghiệp.
- Chi phí hoạt động thấp.
II.3.1.3. Các bên tham gia:
II.3.1.3.1. Công ty quản lý quỹ:
Công ty quản lý quỹ thực hiện việc quản lý quỹ đầu tư chứng khoán. Công ty quản lý quỹ được thành lập theo giấy phép hoạt động do Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cấp và được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần hoặc trách niệm hữu hạn với vốn pháp lệnh 5 tỷ đồng. Trong quá trình hoạt động, công ty quản lý quỹ có thể thành lập và quản lý đồng thời nhiều quỹ đầu tư.
II.3.1.3.2. Ngân hàng giám sát:
Ngân hàng giám sát thực hiện việc bảo quản, lưu ký tài sản của quỹ đầu tư chứng khoán và giám sát công ty quản lý quỹ trong việc bảo vệ lợi ích của người đầu tư.
Điều kiện để được làm ngân hàng giám sát phải là ngân hàng thương mại đang hoạt động hợp pháp tại Việt Nam và được Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cấp giấy phép hoạt động lưu ký.
II.3.1.3.3. Người đầu tư:
Người đầu tư có nghĩa vụ góp vốn vào quý đầu tư chứng khoán qua việc mua chứng chỉ quỹ đầu tư và được hưởng lợi từ việc đầu tư của quỹ đầu tư chứng khoán.
II.3.1.4. Phân loại quỹ đâu tư:
II.3.1.4.1. Căn cứ vào quy mô, cách thức và tính chất góp vốn:
II.3.1.4.1.1. Quỹ đầu tư dạng đóng:
Đây là quỹ đầu tư mà theo điều lệ quy định thường chỉ tạo vốn qua một lần bán chứng khoán cho công chúng. Quỹ đầu tư dạng đóng góp có thể phát hành cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi hoặc trái phiếu. Quỹ không được phát hành thêm bất kỳ một loại cổ phiếu nào để huy động thêm vốn và cũng không mua lại các cổ phiếu đã phát hành. Những người tham gia góp vốn đầu tư không được phép góp vốn bằng cách bán lại chứng chỉ quỹ đầu tư cho chính quỹ đầu tư.
II.3.1.4.1.2. Quỹ đầu tư dạng mở:
Quỹ đầu tư dạng mở còn được gọi là quỹ tương hỗ. Khác với quỹ đầu tư dạng đóng, các quỹ này luôn phát hành thêm những cổ phiếu mới để tăng vốn và cũng sẵn sàng chuộc lại những cổ phiếu đã phát hành. Các cổ phiếu của quỹ được bán trực tiếp cho công chúng không qua thị trường chứng khoán. Muốn mua cổ phiếu của quỹ đầu tư dạng mở chúng ta không qua môi giới, không phải trả tiền hoa hồng và có thể viết thư hoặc điện thoại trực tiếp cho quỹ xin các giấy tờ cần thiết, do đó tạo cơ hội cho bất kỳ ai cũng có thể tham gia và trở thành chủ sở hữu của quỹ. Tất cả các cổ phiếu phát hành của quỹ này đều là cổ phiếu thường, so với quỹ đầu tư dạng đóng, quỹ đầu tư dạng mở có lợi thế rõ ràng về khả năng huy động, mở rộng quy mô vốn, do đó nó linh hoạt hơn trong việc lựa chọn các dự án đầu tư.
II.3.1.4.2. Căn cứ vào cơ cấu tổ chức – điều hành:
II.3.1.4.2.1. Quỹ đầu tư dạng công ty:
Theo mô hình công ty, quỹ đầu tư được xem là một pháp nhân đầy đủ, những người góp vốn vào quỹ trở thành các cổ đông và có quyền bầu ra Hội đồng quản trị quỹ. Đây là tổ chức cao nhất trong quỹ đứng ra cho thuê công ty quản lý quỹ, ngân hàng bảo quản tài sản quỹ và giám sát việc tuân thủ hoạt động của hai tổ chức này. Trong đó, ngân hàng giám sát đóng vai trò bảo quản các tài sản quỹ, nhận hoặc giao chứng khoán cho quỹ khi thực hiện giao dịch. Còn công ty quản lý quỹ có trách nhiệm cử người điều hành và sử dụng vốn của quỹ để đầu tư vào các chứng khoán hay các tài sản sinh lợi khác. Mô hình quỹ đầu tư tổ chức dưới dạng công ty thường được sử dụng ở các nước có thị trường chứng khoán phát triển, tiêu biểu lad thị trường Mỹ và Anh.
II.3.1.4.2.2. Quỹ đầu tư dạng tín thác:
Theo mô hình tín thác, quỹ đầu tư không được xem là một pháp nhân đầy đủ, mà chỉ là quỹ chung vốn giữa những người đầu tư để thuê các chuyên gia quan lý quỹ chuyên nghiệp đầu tư sinh lợi. Theo mô hình này, vai trò của công ty quản lý quỹ khá nổi bật. Đó là tổ chức đứng ra thành lập và sử dụng vốn thu được thông qua việc phát hành các chứng chỉ đầu tư để đầu tư vào những nơi có hiệu quả nhất. Còn ngân hàng giám sát dóng vai trò là người bảo quản an toàn vốn và tài sản của người đầu tư, giám sát các hoạt động của công ty quản lý quỹ trong việc tuân thủ điều lệ quỹ đầu tư. Mô hình quỹ đầu tư tổ chức dưới dạng tín thác thường được sử dụng ở các thị trường chứng khoán mới nổi đặc biệt là các thị trường chứng khoán đang phát triển ở Châu Á.
II.3.1.4.3. Căn cứ vào nguồn vốn huy động:
II.3.1.4.3.1. Quỹ đầu tư tập thể (Quỹ công chúng):
Quỹ đầu tư tập thể là quỹ huy động vốn bằng cách phát hành rộng rãi qua công chúng. Những người đầu tư vào quỹ có thể là các thể nhân hoặc cá tổ chức kinh tế nhưng đa phần là các nhà đầu tư riêng lẻ, ít ham hiểu về thị trường chứng khoán. Quỹ đầu tư tập thể cung cấp cho các nhà đầu tư nhỏ phương tiện đầu tư đảm bảo đa dạng hóa đầu tư, giảm thiểu rủi ro, chi phí đầu tư thấp với hiệu quả đầu tư cao do tính chuyên nghiệp của đầu tư mang lại.
II.3.1.4.3.2. Quỹ đầu tư tư nhân ( Quỹ thành viên)
Khác với quỹ đầu tư tập thể, quỹ đầu tư tư nhân huy động vốn bằng phương thức phát hành riêng lẻ cho một số nhóm nhỏ các nhà đầu tư, có thể được lựa chọn trước, là các thể nhân và các định chế tài chính hoặc các tập đoàn kinh tế lớn. Các nhà đầu tư vào các quỹ đầu tư nhân thường đầu tư lượng vốn tương đối lớn và đổi lại, họ đòi hỏi các yêu cầu về quản lý quỹ rất cao. Họ sẵn sang chấp thuận các khả năng thanh khoản thấp hơn so với các nhà đầu tư nhỏ - những người đầu tư vào các quỹ tập thể - và vì thế, họ khống chế việc đầu tư trong các quỹ tư nhân.
Một đặc đểm khác của các quỹ tư nhân là các nhà quản lý quỹ thường tham gia kiểm soát hoạt động của các công ty nhận đầu tư. Việc kiểm soát này có thể dưới hình thức là thành viên Hội đồng quản trị, cung cấp tư vấn hoặc có ảnh hưởng đáng kể tới các thành viên của Hội đồng quản trị của công ty nhân đầu tư.
II.3.2. Công ty bảo hiểm:
II.3.2.1. Khái niệm về kinh doanh bảo hiểm và các loại hình doanh nghiệp bảo hiểm:
- Khái niệm:
Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích sinh lợi, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.
- Theo quy định của luật kinh doanh bảo hiểm số 24/2000/QH10 ngày 09 tháng 12 năm 2000 của Quốc Hội quy định các loại hình doanh nghiệp bảo hiểm gồm:
Doanh nghiệp bảo hiểm nhà nước;
Công ty cổ phần bảo hiểm;
Tổ chức bảo hiểm tương hỗ;
Doanh nghiệp bảo hiểm liên doanh;
Doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn đầu tư nước ngoài.
II.3.2.2. Mức vốn pháp định và nội dung hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm:
- Theo điều 4 khoản 1 Nghị định của Chính Phủ số 46/2007/NĐ-CP ngày 27 tháng 03 năm 2007 quy định mức vốn pháp định của doanh nghiệp bảo hiểm:
+ Kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ: 300.000.000.000 đồng Việt Nam.
+ Kinh doanh bảo hiểm nhân thọ: 600.000.000.000 đồng Việt Nam.
- Nội dung hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm theo Luật kinh doanh bảo hiểm bao gồm:
+ Kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh tái bảo hiểm;
+ Đề phòng, hạn chế rủi ro, tổn thất;
+ Giám định tổn thất;
+ Đại lý giám định tổn thất, xét giải quyết bồi thường, yêu cầu người thứ ba bồi hoàn;
+ Quản lý quỹ và đầu tư vốn;
+ Các hoạt động khác theo quy định của pháp luật.
+ Doanh nghiệp bảo hiểm không được phép đồng thời kinh doanh bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ, trừ trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm sức khoẻ và bảo hiểm tai nạn con người bổ trợ cho bảo hiểm nhân thọ.
II.3.2.3. Điều kiện để được cấp giấy phép thành lập và hoạt động :
- Có số vốn điều lệ đã góp không thấp hơn mức vốn pháp định theo quy định của Chính phủ;
- Có hồ sơ xin cấp giấy phép thành lập và hoạt động. Hồ sơ xin cấp giấy phép thành lập và hoạt động bao gồm:
+ Đơn xin cấp giấy phép thành lập và hoạt động;
+ Dự thảo điều lệ doanh nghiệp;
+ Phương án hoạt động năm năm đầu, trong đó nêu rõ phương thức trích lập dự phòng nghiệp vụ, chương trình tái bảo hiểm, đầu tư vốn, hiệu quả kinh doanh, khả năng thanh toán của doanh nghiệp bảo hiểm và lợi ích kinh tế của việc thành lập doanh nghiệp;
+ Danh sách, lý lịch, các văn bằng chứng minh năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của người quản trị, người điều hành doanh nghiệp;
+ Mức vốn góp và phương thức góp vốn, danh sách những tổ chức, cá nhân chiếm 10% số vốn điều lệ trở lên; tình hình tài chính và những thông tin khác có liên quan đến các tổ chức, cá nhân đó;
+ Quy tắc, điều khoản, biểu phí, hoa hồng bảo hiểm của loại sản phẩm bảo hiểm dự kiến tiến hành.
- Có loại hình doanh nghiệp và điều lệ phù hợp với quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật;
- Người quản trị, người điều hành có năng lực quản lý, chuyên môn, nghiệp vụ về bảo hiểm.
II.3.2.4. Các dịch vụ bảo hiểm:
- Căn cứ vào tình hình pháp lí:
+ bảo hiểm bắt buộc
+bảo hiểm tự nguyện
- Căn cứ vào phương diện kĩ thuật bảo hiểm
+bảo hiểm nhân thọ
+bảo hiểm phi nhân tho
- Căn cứ vào đối tượng bảo hiểm
+ Bảo hiểm tài sản
+ bảo hiểm con người
+ bảo hiểm trách nhiệm dân sự
II.3.2.5. Đầu tư vốn của doanh nghiệp bảo hiểm: Nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm bao gồm:
- Nguồn vốn chủ sở hữu: Việc đầu tư từ nguồn vốn chủ sở hữu phải bảo đảm an toàn, hiệu quả và tính thanh khoản theo hướng dẫn của Bộ Tài chính.
- Doanh nghiệp bảo hiểm được phép đầu tư ra nước ngoài theo quy định của pháp luật đối với phần vốn chủ sở hữu vượt quá mức vốn pháp định hoặc biên khả năng thanh toán tối thiểu, tùy theo số nào lớn hơn.
- Nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm: Đầu tư vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm (Nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm là tổng dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm trừ các khoản tiền mà doanh nghiệp bảo hiểm dùng để bồi thường bảo hiểm thường xuyên trong kỳ đối với bảo hiểm phi nhân thọ, trả tiền bảo hiểm thường xuyên trong kỳ đối với bảo hiểm nhân thọ)được thực hiện trực tiếp bởi doanh nghiệp bảo hiểm hoặc thông qua uỷ thác đầu tư và chỉ được đầu tư tại Việt Nam trong các lĩnh vực sau:
+ Đối với doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ:
. Mua trái phiếu Chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp có bảo lãnh, gửi tiền tại các tổ chức tín dụng không hạn chế;
. Mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp không có bảo lãnh, góp vốn vào các doanh nghiệp khác tối đa 35% vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm;
. Kinh doanh bất động sản, cho vay tối đa 20% vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm.
+ Đối với doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ:
. Mua trái phiếu Chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp có bảo lãnh, gửi tiền tại các tổ chức tín dụng không hạn chế;
. Mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp không có bảo lãnh, góp vốn vào các doanh nghiệp khác tối đa 50% vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm;
. Kinh doanh bất động sản, cho vay tối đa 40% vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm.
- Các nguồn hợp pháp khác theo quy định của pháp luật.
II.3.2.6. Hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm:
- Nhượng tái bảo hiểm
Doanh nghiệp bảo hiểm có thể chuyển một phần trách nhiệm đã nhận bảo hiểm cho một hoặc nhiều doanh nghiệp bảo hiểm khác nhưng không được nhượng toàn bộ trách nhiệm bảo hiểm đã nhận trong một hợp đồng bảo hiểm cho doanh nghiệp bảo hiểm khác để hưởng hoa hồng tái bảo hiểm theo hướng dẫn của Bộ Tài chính.
- Nhận tái bảo hiểm
Doanh nghiệp bảo hiểm có thể nhận tái bảo hiểm trách nhiệm mà doanh nghiệp bảo hiểm khác đã nhận bảo hiểm. Khi nhận tái bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải đánh giá rủi ro để bảo đảm phù hợp với khả năng tài chính của doanh nghiệp.
II.3.2.7. Các hoạt động khác của doanh nghiệp bảo hiểm:
- Đề phòng, hạn chế tổn thất
+ Doanh nghiệp bảo hiểm có thể áp dụng các biện pháp phòng ngừa để bảo đảm an toàn cho đối tượng bảo hiểm khi được sự đồng ý của bên mua bảo hiểm hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
+ Các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất bao gồm:
. Tổ chức tuyên truyền, giáo dục;
. Tài trợ, hỗ trợ các phương tiện, vật chất để đề phòng hạn chế rủi ro;
. Hỗ trợ xây dựng các công trình nhằm mục đích đề phòng, giảm nhẹ mức độ rủi ro cho các đối tượng bảo hiểm;
. Thuê các tổ chức, cá nhân khác giám sát, đề phòng, hạn chế tổn thất.
+ Chi phí đề phòng hạn chế tổn thất được tính theo tỷ lệ trên phí bảo hiểm thu được theo hướng dẫn của Bộ Tài chính.
- Giám định tổn thất
+ Việc giám định tổn thất thực hiện theo quy định tại Điều 48 của Luật kinh doanh bảo hiểm. Cơ quan giám định chịu trách nhiệm về kết quả giám định của mình.
+ Việc giám định tổn thất phải bảo đảm trung thực, khách quan, khoa học, kịp thời, chính xác.
+ Kết quả giám định tổn thất phải được thể hiện trong biên bản giám định.
- Chuyển giao hợp đồng bảo hiểm
+ Việc chuyển giao hợp đồng bảo hiểm thực hiện theo quy định tại các Điều 74, 75 và 76 của Luật Kinh doanh bảo hiểm và theo hướng dẫn của Bộ Tài chính.
+ Trong trường hợp chuyển giao toàn bộ hợp đồng bảo hiểm của một hoặc một số nghiệp vụ bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải có văn bản đề nghị Bộ Tài chính sửa đổi, bổ sung Giấy phép thành lập và hoạt động.
II.3.2.8. Một số công ty bảo hiểm tại Việt Nam:
Công ty bảo hiểm Bảo Việt
Công ty TNHH Bảo Hiểm Nhân Thọ AIA
Công ty bảo hiểm Prudetial
Công ty TNHH Bảo hiểm Chinfon Manulife
Công ty Cổ phần Bảo hiểm Petrolimex
III.Thực trạng và biện pháp củng cố nhằm nâng cao hiệu quả của các định chế tài chính phi ngân hàng:
Tín dụng cá nhân từ lâu không còn là mảnh đất “màu mỡ” của riêng ngân hàng khai thác mà đã có sự tham gia của các công ty tài chính (CTTC). Điều này đã tạo ra cuộc cạnh tranh ngày càng sôi động, đang là mối lo lớn của các ngân hàng.
Hiện nay, cả nước có khoảng 17 CTTC do các tập đoàn, tổng công ty và doanh nghiệp có vốn nước ngoài thành lập. Ban đầu nhiệm vụ chủ yếu của các CTTC là thu xếp vốn cho các dự án của công ty mẹ, sau đó nhiều đơn vị mở rộng hoạt động dịch vụ tín dụng cá nhân với mục tiêu trở thành nhà bán lẻ dịch vụ cho khách hàng cá nhân.
Ở nước ta, cho thuê tài chính là một lĩnh vực hoàn toàn mới mẻ, nhưng đây là một phương thức tài trợ vốn thích hợp, góp phần đa dạng hoá các loại hình tín dụng, đặc biệt tín dụng trung, dài hạn, góp phần tháo gỡ những khó khăn về vốn đối với các doanh nghiệp, thúc đẩy nhanh quá trình đổi mới máy móc, thiết bị và công nghệ, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Trước đây, ở nước ta một số thiết bị với số vốn lớn mà trong nước không thể sản xuất được như máy bay, tàu thuỷ có trọng tải lớn, chúng ta đã áp dụng phương thức này với các nhà sản xuất hoặc nhà cho thuê nước ngoài. Trước tình hình đó, tháng 5/1995 NHNN Việt Nam ban hành thể lệ tín dụng thuê mua kèm theo quyết định số 149-QĐ/NHNN quyết định nghiệp vụ thuê - mua ở Việt Nam. Trong quá trình thực hiện nghiệp vụ này nảy sinh nhiều vấn đề bất cập, đến tháng 10/1995 Chính phủ chính thức ban hành Nghị định 64/CP quy chế tạm thời về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính Việt Nam, cho đến nay đã có hàng chục công ty cho thuê tài chính ra đời và hoạt động.
Qua thời gian thực hiện nghiệp vụ cho thuê tài chính ở Việt Nam cho thấy những lợi ích mà nghiệp vụ cho thuê tài chính mang lại là rất lớn, nó làm giảm những khó khăn về nguồn vốn đầu tư dài hạn vào máy móc, thiết bị của doanh nghiệp, tạo điều kiện để các doanh nghiệp tiếp cận với thiết bị và công nghệ hiện đại; cho thuê tài chính tỏ ra rất thích hợp đối với các doanh nghiệp đang trong giai đoạn tái cấu trúc và cơ cấu lại dây chuyền công nghệ sản xuất các doanh nghiệp mới thành lập. Có thể nói, cho thuê tài chính là một thị trường đầy tiềm năng ở nước ta. Song một sự thật là nghiệp vụ cho thuê tài chính chưa phát triển ngang tầm với những ưu thế vốn có của nó. Còn nhiều bất cập trong cơ chế chính sách và điều hành thực tiễn, còn bế tắc trong thị trường đầu ra.
* Nguyên nhân của những tồn tại đó là:
- Nghiệp vụ cho thuê tài chính còn mới mẻ ngay cả đối với người bán chứ chưa kể đến người tiêu dùng. Do vậy nó chưa được xã hội chấp nhận rộng rãi;
- Phí cho thuê tài chính quá cao, bởi nó dựa trên lãi suất vay trung dài hạn và một tỷ lệ % phí hoạt động của các công ty cho thuê tài chính;
- Đối tượng phục vụ của cho thuê tài chính chủ yếu là các doanh nghiệp tư nhân, các công ty TNHH và người thuê vẫn coi phương thức tài trợ thuê tài chính là phương thức cuối cùng trong việc lựa chọn nguồn tài trợ kinh doanh;
- Việc quảng bá hoạt động cho thuê tài chính cũng như tiện ích các dịch vụ chưa sâu rộng, nhiều doanh nghiệp vẫn chưa biết đến loại hình dịch vụ này.
- Cơ chế cho thuê tài chính coi trọng lịch sử tiền thân của người thuê hơn là tương lai của dự án thuê.
- Một điểm khó khăn lớn nữa đã được đề cập là việc các khách hàng chưa thực sự hiểu đúng được tiện ích mà hợp đồng thuê mua đem lại, hay chưa thực sự hiểu được hợp đồng thuê mua. Không thể phủ nhận điều này do tính chất mới mẻ của hoạt động CTTC. Nhưng cũng phải khẳng định rằng, một phần nguyên nhân là do hình thức thuê mua mà các công ty tài chính hiện đang cung cấp không đủ khả năng thích ứng với điều kiện hiện tại của các công ty Việt Nam.
- Việc huy động vốn cũng rất khó khăn, hiện các công ty cho thuê tài chính vốn chủ yếu nhờ vào việc cung ứng của các ngân hàng mẹ, chưa có công ty tự huy động vốn (trừ một vài công ty tự huy động nhưng với tỷ lệ rất nhỏ).
- Và nữa, cho thuê tài chính trên thế giới có bề dày hơn 60 năm, trong khi các doanh nghiệp này tại Việt Nam hoạt động chưa đầy 10 năm, đó cũng là một bất lợi.
Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty cho thêu tài chính:
- Phát triển nghiệp vụ cho thuê tài chính phải trên cơ sở đa dạng hoá các nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ và phát triển đồng bộ các loại thị trường, đặc biệt là thị trường vốn và thị trường chứng khoán.
- Phát triển nghiệp vụ cho thuê tài chính dựa trên cơ sở sự hình thành và phát triển của các doanh nghiệp theo hướng đa dạng hoá loại hình sở hữu, đa năng hoá nội dung hoạt động.
- Bản thân những công ty cho thuê tài chính trong nước phải hoàn thiện hơn cả về năng lực tài chính, yếu tố con người và phải biết nắm lấy những cơ hội. Đó là khả năng tiếp cận được những kinh nghiệm quản lý và công nghệ của doanh nghiệp nước ngoài.
* Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty bảo hiểm trong nước:
- Thị trường bảo hiểm ở nước ta trong những năm gần đây đã rất sôi động, đa dạng. Số lượng công ty hoạt động kinh doanh bảo hiểm ngày càng tăng; các loại hình sở hữu đa dạng ở cả bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ, thuộc cả ba lĩnh vực bảo hiểm con người, bảo hiểm tài sản và bảo hiểm trách nhiệm dân sự; tính cạnh tranh của các công ty đã và đang từng bước thoả mãn tốt hơn nhu cầu của các khách hàng.
- Trên thị trường bảo hiểm đã xuất hiện nhiều sản phẩm mới và khá độc đáo trên cơ sở kết hợp giữa các yếu tố tiết kiệm – đầu tư bảo vệ, được công luận đánh giá cao như sản phẩm bảo hiểm tai nạn cá nhân cho người sử dụng thẻ ATM, bảo hiểm trách nhiệm sản phẩm của người chăn nuôi và sản xuất thức ăn gia cầm, bảo hiểm bệnh hiểm nghèo… Tốc độ tăng doanh thu phí của bảo hiểm Việt Nam ở mức khá cao so với thế giới và khu vực. Một số công ty bảo hiểm tuy mới đi vào hoạt động nhưng cũng đã đạt được tốc độ tăng trưởng cao như Bảo Minh, Prudential, PJICO… Vốn đầu tư cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm tăng lên và theo đó khả năng giữ lại phí bảo hiểm trong nước cũng được nâng lên tương ứng.
- Tuy nhiên, cũng cần phải nhận thấy rằng, thị trường bảo hiểm Việt Nam vẫn chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của quá trình phát triển kinh tế – xã hội. Năng lực hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm và môi giới bảo hiểm còn khá nhiều hạn chế. Việc cạnh tranh không lành mạnh giữa các DN bảo hiểm đang ở tình trạnh báo động. Do cạnh tranh gay gắt, các DN bảo hiểm đã hạ phí bảo hiểm, tăng phần trợ cấp cho các đại lý, làm giảm hiệu quả kinh doanh. Công tác giải quyết bồi thường chưa được thực hiện tốt, chưa đảm bảo tối đa quyền lợi của khách hàng khi gặp thiệt hại. Các sản phẩm bảo hiểm tuy đã đa dạng hơn trước, nhưng vẫn còn hạn chế, chưa phát triển trong nhiều lĩnh vực quan trọng như thiên tai, nông nghiệp, tín dụng và rủi ro tài chính, hoạt động hành nghề y dược, luật sư, dịch vụ kế toán, kiểm toán… Bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt chưa thực sự được đẩy mạnh trong khi hàng năm, ở nước ta, tai nạn do cháy nổ vẫn gia tăng với tốc độ cao một cách đáng báo động. Bên cạnh yếu tố chủ quan từ các công ty, có thể thấy sự thiếu hoàn thiện của hệ thống văn bản pháp luật và công tác quản lý Nhà nước cũng đang ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển lành mạnh của ngành bảo hiểm.
- Việc mở cửa thị trường sẽ vừa tạo ra cơ hội và thách thức đối với sự phát triển của ngành bảo hiểm Việt Nam nói chung và bản thân các công ty bảo hiểm trong nước nói riêng. Bắt đầu từ ngày 1/1/2008, theo cam kết WTO, thị trường bảo hiểm của Việt Nam sẽ thực sự mở cửa hoàn toàn, với việc cho phép công ty bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài được cung cấp dịch vụ bảo hiểm bắt buộc. Lúc đó, các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước sẽ phải chịu áp lực cạnh tranh lớn hơn, khi sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường bảo hiểm Việt Nam nhiều hơn, sâu hơn và rộng hơn.
- Đối với một công ty bảo hiểm, năng lực về vốn, công nghệ, trình độ quản lý, kinh doanh… là những yếu tố rất quan trọng tạo nên sức mạnh. Nếu không tự hoàn thiện và nâng cao năng lực, các công ty bảo hiểm trong nước sẽ khó có thể đứng vững và thành công trong điều kiện cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt như hiện nay. Ngay từ bây giờ, các công ty bảo hiểm trong nước cần tự tạo cho mình một vị thế vững chắc, duy trì và mở rộng thị phần, tạo niềm tin ở khách hàng. Các công ty bảo hiểm không chỉ phải đa dạng hoá sản phẩm, nâng cao chất lượng dịch vụ, mà còn phải chú trọng đến việc chăm sóc khách hàng, giải quyết nhanh chóng, hợp lý công tác bồi thường tổn thất trong các trường hợp xảy ra rủi ro được bảo hiểm. Việc tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, phong cách phục vụ, nâng cao đạo đức nghề nghiệp cho các cán bộ kinh doanh, đại lý môi giới bảo hiểm cũng rất cần thiết. Các công ty bảo hiểm cần nhanh chóng nắm bắt và ứng dụng các thành tựu của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin vào quá trình khai thác và quản lý hoạt động kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh, tiết kiệm chi phí quản lý, hạ phí bảo hiểm một cách hợp lý. Hoạt động đầu tư cũng cần được đẩy mạnh một cách có hiệu quả, bằng cách tận dụng tối đa các công cụ đầu tư tài chính, tham gia tích cực vào thị trường chứng khoán. Khi tham gia đầu tư vào các công trình, các dự án có vốn lớn, các công ty cần chú trọng công tác thẩm định để đảm bảo mức độ an toàn, tính thanh khoản cũng như khả năng sinh lời cho đồng vốn.
- Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt, xúc tiến thương mại là một trong những yếu tố cơ bản tạo nên thành công của một doanh nghiệp. Trong lĩnh vực bảo hiểm, yếu tố này có vai trò rất quan trọng, đặc biệt là ở Việt Nam hiện nay, khi mà nhận thức của người dân về sự cần thiết của bảo hiểm đối với nền kinh tế, cũng như đối với đời sống xã hội vẫn còn hạn chế. Đây là một cơ hội tốt để các doanh nghiệp bảo hiểm nâng cao hiểu biết của người dân về bảo hiểm, đồng thời xây dựng được hình ảnh của công ty mình trong những khách hàng tiềm năng.
- Các công ty cũng cần nhanh chóng đa dạng hoá các kênh phân phối thông qua nhiều hình thức khác nhau. Một trong các phương pháp thường gặp hiện nay ở các công ty bảo hiểm là tiến hành qua hệ thống ngân hàng, qua các tổ chức tài chính. Qua đây, các công ty bảo hiểm sẽ có cơ hội tiếp cận với đông đảo các khách hàng giàu tiềm năng với khả năng tài chính cao và nhu cầu lớn.
- Bên cạnh việc phát huy nội lực, các công ty bảo hiểm rất cần hợp tác với nhau trong nhiều mặt. Thông qua Hiệp hội bảo hiểm, các thành viên có thể có những tác động tích cực nhằm mở rộng, định hướng cho thị trường, duy trì sự cạnh tranh lành mạnh, chống trục lợi bảo hiểm… tạo điều kiện phát triển có lợi cho toàn ngành. Không chỉ tăng cường hợp tác trong nước, các công ty bảo hiểm Việt Nam cũng phải đẩy mạnh hợp tác quốc tế.
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO:
“Nghiệp vụ ngân hàng thương mại”- Tác giả: Nguyễn Minh Kiều- Xuất bản năm 2009.
“Thị trường tài chính”- Tác giả: Nguyễn Minh Kiều- Xuất bản năm 2009.
“Lý thuyết tài chính tiền tệ”- Tác giả: Sử Đình Thành- Xuất bản năm 2005 NXB lao động.
--- -
NGHỊ ĐỊNHCỦA CHÍNH PHỦ SỐ 16/2001/NĐ-CP NGÀY 02 THÁNG 5 NĂM2000 VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY CHO THUÊ TÀI CHÍNH
NGHỊ ĐỊNH CỦA CHÍNH PHỦ SỐ 79/2002/NĐ-CP NGÀY 04 THÁNG 10 NĂM 2002 VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH
NGHỊ ĐỊNH SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA NGHỊ ĐỊNH SỐ SỐ 79/2002/NĐ-CP NGÀY 04 THÁNG 10 NĂM 2002 VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH
NGHỊ ĐỊNH SỐ 141/2006/NĐ-CP NGÀY 22 THÁNG 11 NĂM 2006 VỀ BAN HÀNH DANH MỤC MỨC VỐN PHÁP ĐỊNH CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG
LUẬT CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG SỐ 07/2007/QHX
LUẬT DOANH NGHIỆP NĂM 2005
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Các định chế tài chính phi ngân hàng.doc